SỐ 1545/200
LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

MỤC LỤC

 

GIỚI THIỆU

Tiếp theo phần A Tỳ Đàm nơi Tập 26 (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, từ N0 1536 đến N0 1544) toàn bộ Tập 27 là nêu dẫn Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). Đây là Bộ Luận đồ sộ nhất hiện có trong Hán tạng. Tác giả của Luận là 500 vị A La Hán. Nói rõ hơn: Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa là một Bộ Luận Thích. 500 vị A La Hán, dưới sự chỉ đạo của Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra), trải qua 12 năm, đã chú giải quảng diễn Bộ Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí của Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử (Kàtyàyaniputra) một Đại Luận sư kiệt xuất của Phái Hữu Bộ, sống vào khoảng 300 năm sau Phật diệt độ (ĐTK/ĐCTT, Tập 26, N0 1544, Pháp sư Huyền Tráng Hán dịch, 20 quyển). Tôn giả Thế Hữu biên tập, tổng duyệt, để thành Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa, được xem là thành quả tiêu biểu của lần kết tập kinh điển thứ tư – theo Phật giáo Bắc truyền, tổ chức tại nước Ca Thấp Di La, do vua Ca Nị Sắc Ca bảo trợ, vào khoảng 400 năm sau Phật diệt độ.

Luận này có 2 bản Hán dịch: * Bản 1 (Dịch trước): Do hai Đại sư Phù Đà Bạt Ma (Budhavarman, thế kỷ 5 TL) và Đạo Thái (Thế kỷ 5 TL) Hán dịch, vào khoảng năm 437 – 439 TL đời Bắc Lương (397439), mang tên Luận A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa, gồm 100 quyển (Hoặc 110 quyển), do binh lửa nên hiện chỉ còn 60 quyển đầu (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1546, trang 1 – 414C).

* Bản 2 (Dịch sau): Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602-664) mang tên Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa, gồm 200 quyển (ĐTK/ ĐCTT, Tập 27, N0 1545, trang 1 – 1004A). Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa này, ngoại trừ chương Mở Đầu (Quyển 1) ghi nhận một số vấn đề tổng quát có tính dẫn nhập (Tác giả Luận bản. Phương thức tạo luận. Đặc điểm của ba Tạng, làm rõ về Tạng A Tỳ Đạt Ma. Nêu tóm tắt về Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí), phần còn lại, tức từ quyển thứ 2 đến quyển thứ 200, là căn cứ theo thứ lớp nơi nội dung của Luận gốc (Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí) gồm 8 uẩn, 44 phẩm để chú giải, bàn rộng.

8 uẩn với 44 phẩm nơi Luận gốc là: (1) Tạp Uẩn: Gồm 8 phẩm: Pháp Thế Đệ Nhất. Trí. Bổ Đặc Già La. Ái Kính. Không Hổ. Tướng. Vô Nghĩa. Tư.

1. Kiết Uẩn: Gồm 4 phẩm: Bất Thiện. Nhất Hành. Hữu Tình. Mười Môn.

2. Trí Uẩn: Gồm 5 phẩm: Học Chi. Năm Chủng. Tha Tâm Trí. Tu Trí. Bảy Thánh.

3. Nghiệp Uẩn: Gồm 5 phẩm: Ác Hành. Tà Ngữ. Hại Sinh. Biểu – Vô Biểu. Tự Nghiệp.

4. Đại Chủng Uẩn: Gồm 4 phẩm: Đại Tạo. Duyên. Thấy Biết Đủ. Chấp Thọ.

5. Căn Uẩn: Gồm 7 phẩm: Căn. Hữu. Xúc. Đẳng Tâm. Nhất Tâm. Ngư. Nhân Duyên.

6. Định Uẩn: Gồm 5 phẩm: Đắc. Duyên. Gồm Thâu. Bất Hoàn. Nhất Hành.

7. Kiến Uẩn: Gồm 6 phẩm: Niệm Trụ. Ba Hữu. Tưởng. Trí. Kiến. Già Tha. (Chỉ chú giải quảng diễn 43 phẩm. Không chú giải phẩm sau cùng là phẩm Già Tha (Kệ) vì cho là ý nghĩa đã hiển bày, dễ lãnh hội).

Không chỉ chủ giải hết sức chi tiết, quảng diễn hết sức bao quát, Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa còn dành nhiều công sức để nêu dẫn, biện chính, đả phá về khá nhiều luận điểm – phần lớn là thuộc lãnh vực nhận thức của các Học phái thuộc Nội đạo, cùng một số luận điểm sai trái của Ngoại đạo. Tất nhiên, những biện chính ở đây đều theo quan điểm của Hữu Bộ. Và như thế là Luận này đã vượt quá nội dung của Luận Thích, trở thành một Bộ Luận tổng hợp mang tính tập đại thành cho giáo lý của Phật giáo Bộ phái ở Ấn Độ diễn tiến qua hàng mấy thế kỷ.

Chúng tôi xin nêu dẫn vắn tắt về nội dung của Uẩn thứ 2 (Kiết Uẩn) để người đọc thấy được phần nào tính chất Đại Tỳ Bà Sa (*) của Luận.

Chương Kiết Uẩn này tuy chỉ có 4 phẩm, là một trong 2 chương có số phẩm ít nhất, nhưng lại là chương được biện giải quảng diễn có số lượng quyển nhiều nhất (Từ quyển 46 đến quyển 92 = 47 quyển. Trong ấy, phẩm 4: Bàn Về Mười Môn, gồm đến 22 phần = 22 quyển, là phẩm dài nhất của Luận).

Phẩm 1: Bàn Về Bất Thiện: Phân làm 10 phần (Từ quyển 46 đến quyển 55): Lần lượt biện giải về: * Vì sao 5 kiết và 98 tùy miên (Bản dịch trước dịch là Sử) không do Khế kinh nói nhưng vẫn được nêu dẫn quảng diễn?

– Biện giải về ba kiết (Kiết hữu thân kiến. Kiết giới cấm thủ. Kiết nghi). * Ba căn bất thiện (Căn bất thiện tham, sân, si). * Ba lậu (Dục lậu. Hữu lậu. Vô minh lậu).

– Bốn bộc lưu (Bộc lưu dục. Bộc lưu hữu. Bộc lưu kiến. Bộc lưu vô minh). * Bốn ách (Ách dục. Ách hữu. Ách kiến. Ách vô minh). Sự sai biệt giữa bộc lưu và ách. * Bốn thủ (Dục thủ. Kiến thủ. Giới cấm thủ. Ngã ngữ thủ). * Bốn sự trói buộc thân (Trói buộc thân do tham, do sân, do giới cấm thủ, do chấp cho đấy là thật).

– Năm cái (Tham dục. Giận dữ. Hôn trầm – thùy miên. Trạo cử – ố tác. Nghi). * Năm kiết (Kiết tham. Sân. Mạn. Tật: Ganh ghét. Xan: Keo kiệt).

– Năm kiết thuận phần dưới (Tham dục. Giận dữ. Hữu thân kiến. Giới cấm thủ. Nghi). * Năm kiết thuận phần trên (Sắc tham. Vô sắc tham. Trạo cử. Mạn. Vô minh).

– Năm kiến (Hữu thân kiến. Biên chấp kiến. Tà kiến. Kiến thủ. Giới cấm thú). * Bảy tùy miên (Dục tham. Giận dữ. Hữu tham. Mạn. Vô minh. Kiến. Nghi). * Chín kiết (Ái. Sân. Mạn. Vô minh. Kiến. Thủ. Nghi. Tật. Xan).

– 98 tùy miên: Căn cứ theo hành tướng, cõi, bộ có khác nhau nên từ bảy tùy miên đã lập thành 98 tùy miên (Cõi Dục: 36. Cõi Sắc: 31. Cõi Vô sắc: 31).

– Ba kiết cho đến 98 tùy miên: Bao nhiêu thứ là bất thiện? Vô ký? Bao nhiêu thứ là có dị thục (Quả báo), không có dị thục? Bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn? Bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn? Cho đến bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn? Bao nhiêu thứ là kiến, không phải là kiến? Bao nhiêu thứ có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ, không tầm không tứ? Bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn, khổ căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn? Bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục, thuộc cõi Sắc, thuộc cõi Vô sắc?…

– Biện giải về năm loại Bổ-đặc-già-la (Tùy tín hành. Tùy pháp hành. Tín thắng giải. Kiến chí. Thân chứng). * Thế nào là Bổ-đặcgià-la tuệ giải thoát, câu giải thoát?

– Hữu thân kiến cùng với hữu thân kiến làm bao nhiêu duyên? Hữu thân kiến cùng với giới cấm thủ, cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn làm bao nhiêu duyên?…

Phẩm 2: Bàn Về Nhất Hành: Phân làm 8 phần (Từ quyển 56 đến hơn ½ quyển 63): Lần lượt biện giải về: * Nêu dẫn năm thứ sự việc. * Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết giận trói buộc chăng? * Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết mạn trói buộc chăng? * Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết vô minh trói buộc chăng? * Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết kiến trói buộc chăng? * Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng? * Nếu đối với sự việc này có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết tật trói buộc chăng? * Đối với tám kiết còn lại trong chín kiết, tùy theo sự liên hệ của chúng, cũng nêu lên các câu hỏi như trước để biện giải.

– Lại biện về kiết ái nơi ba đời trói buộc, liên hệ với các thứ kiết kia, cũng trong ba đời đã trói buộc.

– Ba kiết cho đến 98 tùy miên, ở trong 98 tùy miên, mỗi mỗi kiết gồm thâu bao nhiêu tùy miên? * Ba kiết cho đến 98 tùy miên: Là trước gồm thâu sau hay sau gồm thâu trước? * Ba kiết cho đến 98 tùy miên, có bao nhiêu thứ khiến cho dục hữu nối tiếp nhau? Bao nhiêu thứ khiến cho sắc hữu, vô sắc hữu cùng nối tiếp?

– Nêu dẫn về bảy hữu. Biện giải về hữu.

– Ba kiết cho đến 98 tùy miên dựa vào định nào diệt? Các kiết quá khứ vị lai hiện tại: Các kiết ấy là đã trói buộc, sẽ trói buộc và hiện đang trói buộc chăng?

– Vì phiền não hiện tiền nên thoái chuyển, hay vì thoái chuyển rồi phiền não mới hiện tiền? * Có ba thứ thoái chuyển (Đã được thoái chuyển. Chưa được thoái chuyển. Thọ dụng thoái chuyển). * Ở nơi xứ nào có thoái chuyển?

– Biện giải về sáu hạng A la hán (Pháp thoái. Pháp tư. Pháp hộ. Pháp trụ. Pháp gắng đạt. Pháp bất động). * Biện giải về chín thứ nhận biết khắp. * Chín thứ nhận biết khắp như thế, những vị nào đạt được, đạt được bao nhiêu?

– Nêu dẫn, biện giải về tám loại Bổ đặc già la (Hướng – quả Dự lưu. Hướng – quả Nhất lai. Hướng – quả Bất hoàn. Hướng – quả A la hán). * Tám Bổ đặc già la này đối với chín thứ nhận biết khắp, có bao nhiêu thứ thành tựu, không thành tựu?

Phẩm 3: Bàn Về Hữu Tình: Phân làm 8 phần (Từ non ½ quyển 63 đến quyển 70): Lần lượt nêu dẫn, biện giải về: * Ba cõi, mỗi cõi đều có hai bộ kiết: Là kiết do kiến đạo đoạn và kiết do tu đạo đoạn. * Đối với hai bộ kiết nơi cõi Dục, hai bộ kiết nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc: Từng có bị trói buộc tức khắc chăng? Từng có lìa trói buộc tức khắc chăng? Từng có bị trói buộc dần chăng? Từng có lìa trói buộc dần chăng?

– Phàm phu, Thánh giả, theo thời gian lìa nhiễm nơi chín phẩm, có bao nhiêu đạo vô gián, đạo giải thoát nên được lìa?-

Sinh nơi cõi Dục: Thánh giả có ba sự mạng chung: Hoàn toàn lìa nhiễm. Hoàn toàn thoái chuyển. Lìa nhiễm từng phần. Phàm phu chỉ có hai: Không có lìa nhiễm từng phần mà mạng chung. Sinh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc: Thánh giả có hai sự mạng chung: Hoàn toàn lìa nhiễm và lìa nhiễm từng phần. Phàm phu chỉ có một sự: Hoàn toàn lìa nhiễm mà mạng chung.

– Khi lìa nhiễm của cõi Dục thì chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát đều duyên nơi địa nào? Trong đạo vô gián, đạo giải thoát của thế tục, nơi mỗi mỗi đạo có thể tu bao nhiêu thứ hành tướng.

– Kiết của cõi Dục do kiến đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả nào? Kiết của cõi Dục do tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả nào? * Kiết của cõi Sắc, cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn trừ hết, do tu đạo đoạn trừ hết, là thuộc về quả nào?

– Có năm bộ kiết: Là kiết do kiến khổ đoạn, cho đến kiết do tu đạo đoạn: Các kiết do kiến khổ, kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cùng tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả nào?

– Có chín bộ kiết: Là kiết do khổ pháp trí đoạn, cho đến kiết do tu đạo đoạn: Các kiết do khổ pháp trí, khổ loại trí, tập pháp trí, tập loại trí, diệt pháp trí, diệt loại trí, đạo pháp trí, đạo loại trí cùng tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả nào?

– Có mười lăm bộ kiết: Tức ba cõi, mỗi cõi có năm bộ, là kiết do kiến khổ đoạn cho đến kiết do tu đạo đoạn: Kiết của cõi Dục do kiến khổ, kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cùng tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả nào? Kiết của hai cõi Sắc, Vô sắc do kiến khổ tập diệt đạo cùng tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả nào?

– Ba kiết cho đến 98 tùy miên, mỗi mỗi thứ đoạn dứt hết là thuộc về quả nào?

– Các kiết trong hướng Dự lưu – quả Dự lưu, hướng Nhất lai – quả Nhất lai, hướng Bất hoàn – quả Bất hoàn, hướng A la hán – quả A la hán được đoạn dứt hết là thuộc về quả nào?

– Nêu dẫn và biện giải về bốn quả Sa-môn.

– Các người Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn đã thành tựu pháp học thì các pháp ấy là thuộc về quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn chăng? Các A la hán đã thành tựu pháp vô học thì pháp ấy thuộc về quả A la hán chăng?

– Các vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán thành tựu pháp vô lậu thì các pháp vô lậu ấy là thuộc về bốn quả kia chăng?

– Các pháp do vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán đã thành tựu thì các pháp ấy đã gồm thâu bốn quả kia chăng?

– Nêu dẫn và biện giải về tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí.

– Các người sống – chết ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc đều thọ nhận dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu chăng? Tức là bàn về sinh hữu, tử hữu, trung hữu nơi ba cõi.

– Phàm phu, Thánh giả nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc: Có bao nhiêu tùy miên tùy tăng? Bao nhiêu kiết trói buộc.

– Nêu dẫn và biện về Trung hữu (Trung ấm): Các thuyết thừa nhận có trung hữu. Trụ ở phần vị trung hữu trải qua bao nhiêu thời gian? Hình lượng của trung hữu. Các căn của thân trung hữu. Hành tướng của trung hữu nơi các nẻo? Những tên gọi của trung hữu (Trung hữu. Kiền đạt phược. Cầu hữu. Ý thành). Trung hữu vào thai mẹ ở xứ nào?…

Phẩm 4: Bàn Về Mười Môn: Phân làm 22 phần (Từ quyển 71 đến quyển 92): Lần lượt nêu dẫn biện giải về: * Nói về hai mươi hai căn. * Biện giải về mười tám giới (Biện giải chung. Giải thích từng giới).

– Biện về nhập định thuận nghịch. Về quả của định nơi nhập định. Về mạng chung, thọ sinh.

– Sáu thức thân: Bao nhiêu thứ có phân biệt, không phân biệt.

– Hỏi – Đáp về sự thành tựu các giới có tương quan: Hành giả thành tựu nhãn giới thì cũng thành tựu sắc giới chăng? Hành giả thành tựu nhãn giới thì cũng thành tựu nhãn thức giới chăng? Hành giả thành tựu sắc giới thì cũng thành tựu nhãn thức giới chăng?…

– Biện giải về mười hai xứ: Giải thích chung. Giải thích từng xứ. Vì sao phải kiến lập nội xứ, ngoại xứ?

– Biện về năm uẩn: Giải thích từng uẩn. Biện giải chung. Thứ lớp của năm uẩn.

– Nói về năm thứ uẩn công đức. * Biện về năm thủ uẩn.

– Biện về sáu giới (Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức).

– Nói về hai pháp: Có sắc – không sắc. Có thấy – không thấy.

Có đối – không đối. Pháp hữu lậu – vô lậu. Pháp hữu vi – vô vi.

– Nói về ba pháp: Quá khứ, vị lai, hiện tại.

– Nêu dẫn, biện giải về bốn luận điểm của bốn vị Đại Luận sư thuộc Hữu Bộ (Pháp Cứu. Diệu Âm. Thế Hữu. Giác Thiên), đã giải thích về ba đời có khác nhau.

– Nói về ba pháp: Thiện, bất thiện, vô ký. * Ba pháp: Thuộc cõi Dục, thuộc cõi Sắc, thuộc cõi Vô sắc. * Ba pháp: Học, vô học, phi học phi vô học. * Ba pháp: Do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn, không đoạn.

– Biện về bốn đế. Hai đế (Thế tục, Thắng nghĩa).

– Nêu dẫn, biện giải về mười sáu hành tướng khởi hiện khi duyên nơi bốn Thánh đế.

– Biện giải về bốn tĩnh lự. * Mười tám chi nơi bốn tĩnh lự. * Bốn thứ thiên đạo. * Những đặc điểm của bốn tĩnh lự.

– Biện về bốn vô lượng. * Nói về ba thứ sự việc phước nghiệp. * Đặc điểm của định từ khi tu tập an trụ.

– Biện giải về bi và đại bi. * Biện giải về bốn vô sắc. * Tám giải thoát. * Tám thắng xứ. * Mười biến xứ.-

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, đối với 98 tùy miên, trong ấy nơi mỗi mỗi thứ kia có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn, duyên nơi thức cùng duyên nơi thức duyên, đối với 98 tùy miên, mỗi mỗi thứ kia có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, mỗi mỗi thứ tùy miên đã tùy tăng, nên nói là có tầm có tứ, hay không tầm chỉ có tứ, hoặc không tầm không tứ?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, khi mỗi mỗi thứ đều được nhận biết khắp thì trong số 98 tùy miên, có bao nhiêu thứ tùy miên được nhận biết khắp, và trong chín kiết, có bao nhiêu kiết đã dứt hết?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, mỗi mỗi thứ khi diệt tác chứng thì trong số 98 tùy miên, có bao nhiêu thứ tùy miên diệt tác chứng và trong chín kiết có bao nhiêu kiết được dứt hết?…

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, ở trong 98 tùy miên, mỗi mỗi thứ kia có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, khi duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, ở trong mười lăm bộ tâm của ba cõi, mỗi mỗi cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, khi duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, mỗi mỗi cùng không gián đoạn sinh ra bao nhiêu tâm?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã diệt, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, có tùy miên đã tăng, nên nói là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ hay không tầm không tứ?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, nên nói là tương ưng với lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn chăng?

– Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh của cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, khi được nhận biết khắp, thì ở trong 98 tùy miên có bao nhiêu tùy miên được nhận biết khắp, ở trong chín kiết có bao nhiêu kiết dứt hết?…

Nói chung, nơi các chương (Uẩn) còn lại, tùy theo các chi tiết chính cùng liên hệ nơi nội dung, thảy đều được giải thích quảng diễn hết sức bao quát như thế. Ngoài ra, một số vấn đề phải nói là rất đáng chú ý cũng được luận đề cập đến như: * Nói về nhân vật Đại Thiên cùng năm sự việc của Đại Thiên.

– Nói về Bồ tát và đề cao vị thế của hạnh Bồ tát.

– Nói nhiều về tâm, tâm sở, về tính chất vương của tâm (Tâm vương), tính chất đại địa của tâm (Tâm địa), nói về A lại da….

Những vấn đề này nên được bàn rộng nơi một bài viết khác.

Bản Việt dịch Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma – mahavibhàsà – sàstra). này do Cư sĩ Nguyên Huệ, một thành viên trong Ban phiên dịch ĐTK tiếng Việt của Tuệ Quang Foundation thực hiện, Nguyên bản do Tôn giả Thế Hữu và 500 vị đại A La Hán. Hán dịch Pháp sư Huyền Tráng, trong ĐTK/ĐCTT Tập 27, N0 1545, 200 quyển, sử dụng đĩa Phật Điển điện tử CBETA.

Xin trân trọng giới thiệu dịch phẩm Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa với bạn đọc xa gần.

Chủ tịch Tuệ Quang Foundation Nguyên Hiển.

(*) Tỳ Bà Sa: Phạn ngữ là Vibhàsà, dịch ý là Giải thích rộng, thuyết minh rộng. Đại Tỳ Bà Sa: Tức sự giải thích quảng diễn ở đây là vô cùng chi tiết, vô cùng rộng khắp. Học giả Kimura Taiken, trong sách Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận I đã gọi là “Chư môn phân biệt” nghĩa là đứng trên nhiều lập trường khác nhau để luận cứu về tính chất của vạn pháp (Sđd, Thích Quảng Độ dịch. Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh xb, S, 1970, trang 21 – 51).