LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 32

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ ÁI KÍNH, phần 4

Như thế, trạch diệt cũng gọi là Niết-bàn, cũng gọi là không đồng loại, cũng gọi là không phải tụ, cũng gọi là không phải hiển bày, cũng gọi là tối thắng, cũng gọi là thông đạt, cũng gọi là A-lahán, cũng gọi là không thân cận, cũng gọi là không tu tập, cũng gọi là đáng yêu thích, cũng gọi là gần, cũng gọi là diệu, cũng gọi là xuất ly.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là Niết-bàn?

Đáp: Bàn gọi là nẻo (Thú), Niết là ra khỏi. Vì vĩnh viễn ra khỏi các nẻo, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, Bàn có nghĩa là xú uế, Niết có nghĩa là không. Vì vĩnh viễn không có các nghiệp phiền não xú uế, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, Bàn nghĩa là rừng rậm, Niết là vĩnh viễn lìa bỏ. Vì vĩnh viễn lìa bỏ tất cả ba thứ lửa, ba tướng nơi rừng rậm các uẩn, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, Bàn là dệt, Niết là không, ở đây, vì vĩnh viễn không có tơ của nghiệp phiền não, nên không dệt lụa của quả dị thục sinh tử, nên gọi là Niết-bàn. Phần còn lại như trước đã nói.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là không đồng loại?

Đáp: Vì không có nhân đồng loại, nên cũng không phải là nhân đồng loại. Ngoài ra như trước đã nói.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là không phải tụ?

Đáp: Vì lìa các tụ. Nghĩa là nói pháp hữu vi không có tướng trụ. Thuyết kia nói pháp hữu vi tất có tụ chung của bốn loại, đó là tự Thể và ba tướng. Nếu nói hữu vi có tướng trụ thì thuyết kia nói pháp hữu vi tất có tụ chung của năm loại, đó là tự Thể và bốn tướng. Lại nữa, các cõi, các nẻo, các sinh, các uẩn, các đời và các khổ đều gọi là tụ. Vì trạch diệt khác với các tụ đó, nên gọi là không phải tụ.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là không phải hiển bày?

Đáp: Hiển bày là xưng tán. Công đức, trí tuệ của Niết-bàn là hoàn thành cùng cực, không đợi chờ xưng tán nên gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, công đức của Niết-bàn là không biên vực, nên không thể xưng tán. Như nói nhân nơi kỹ thuật ấy là vô biên, không thể xưng tán, nên gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, hiển bày là chê trách. Công đức của Niết-bàn là hoàn toàn viên mãn. Như ngọc Mạt-ni tròn trịa, sáng tịnh, không thể chê trách, nên gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, công đức của Niết-bàn là an trụ rốt ráo, như thể của ngọc Mạt-ni không thêm bớt, tùy thuận vị trí được đặt để, tức liền an trụ không thể chê trách, nên gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, hiển bày là hiển bày bằng lời nói, Niết-bàn là hiện lượng do bậc Thánh chứng đắc, nên không thể hiển bày bằng lời nói, vì thế gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, các pháp hữu vi đều có nhân, có quả, nên có thể lấy nhân để nói rõ về quả, cũng có thể dùng quả để nói rõ về nhân. Niếtbàn là vô vi không nhân, không quả, không thể nói nêu, hiển bày, nên gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, hiển bày là nêu bày chỉ rõ, Niết-bàn thì tịch tĩnh không có các chủng tánh Bà-la-môn, Sát-đế-lợi v.v… sai biệt để có thể chỉ rõ, cũng không có các tướng xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… có thể dùng để chỉ rõ, nên gọi là không phải hiển bày.

Lại nữa, hiển bày là hiện rõ. Các pháp hữu vi, hoặc Thể là sắc nên tướng của Thể đó hiện rõ, hoặc tuy không phải là sắc nhưng dựa vào sắc mà chuyển biến, cũng có thể hiện rõ. Niết-bàn thì không như vậy, nên gọi là không phải hiển bày.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là tối thắng?

Đáp: Vì tốt đẹp hơn hết. Như các thứ y phục, thức ăn uống, các vật trang điểm ở đời đều là thượng diệu, nên gọi là tối thắng. Niếtbàn cũng như thế.

Tôn giả Diệu Âm nói: Trạch diệt Niết-bàn là pháp tối thắng trong các pháp, là nghĩa hơn hết trong các nghĩa, là sự việc tốt đẹp nhất trong các sự việc, là lý hơn hết trong các lý, là quả tốt đẹp hơn hết trong các quả, vì thế nên gọi là tối thắng.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là thông đạt?

Đáp: Thông đạt là tuệ, Niết-bàn là quả của tuệ nên cũng gọi là thông đạt. Như chín thứ nhận biết khắp là quả của trí, nên cũng gọi là nhận biết khắp. Cũng như sáu xứ là quả của nghiệp, nên gọi là nghiệp cũ. Lại nữa, trạch diệt Niết-bàn là quả của sự thông đạt, nên gọi là thông đạt. Như thiên nhãn, thiên nhĩ là quả của thông, nên cũng gọi là thông. Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là A-la-hán?

Đáp: Vì thọ nhận sự cúng đường. Tức A-la-hán là nói chung về nghĩa ứng. Không có phẩm vật cúng dường tốt đẹp nhất của thế gian nào đối với trạch diệt Niết-bàn lại không nên thọ nhận. Lại nữa, La-hán gọi là ứng, A là không. Vì trạch diệt Niết-bàn đối với các nẻo, các cõi không ứng hợp lưu chuyển, nên gọi là không ứng. Lại nữa, La-hán gọi là giặc, cũng gọi là oán, A là không. Nghĩa là trong Niếtbàn không có giặc oán phiền não, thế nên trạch diệt gọi là A-la-hán. Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là không thân cận?

Đáp: Vì lìa gốc của sự thân cận. Nghĩa là có sự thân cận pháp hữu vi, là do có tham quả hữu vi, như tham thân cận nơi cây che mát, cho hoa, lá, trái v.v… Niết-bàn không có quả để A-la-hán tham, nên gọi là không thân cận.

Hỏi: Vì sao nói người trí nên thân cận Niết-bàn?

Đáp: Người trí nghĩa là Đức Phật và đệ tử Phật. Vì Phật và đệ tử Phật đều hiểu rõ và tạo được sự chứng đắc, nên gọi là thân cận, nhưng không phải tham quả đó nên cũng gọi là không thân cận.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là không tu tập?

Đáp: Vì trạch diệt không ở trong sự nối tiếp. Vì nếu tồn tại trong nối tiếp thì thường thường hiện ở trước, dần dần tăng tiến gọi là có thể tu tập. Niết-bàn thì không vậy, nên cũng gọi là không tu tập.

Hỏi: Nếu vậy thì như Tụng nói làm thế nào thông?

Kiều Đáp Ma bên cây

Tĩnh lự không phóng dật

Không lâu hiện đạo tích

Niết-bàn ở trong tâm.

Đáp: Do đạt được Niết-bàn là dựa vào tâm khởi hiện, nên gọi là ở trong tâm, không phải cho Niết-bàn có nghĩa tu tập.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là đáng yêu thích?

Đáp: Vì là chỗ yêu thích của bậc Thánh. Nghĩa là các bậc Thánh sợ hãi các khổ. Niết-bàn lìa đau khổ, nên Thánh giả yêu thích. Lại nữa, Thánh giả nhàm chán sinh tử, Niết-bàn không có sinh tử, nên Thánh giả yêu thích. Nghĩa là trong Niết-bàn vĩnh viễn lìa tất cả sự việc lưu chuyển.

Lại nữa, Thánh giả rất chán ghét sự phá giới, Niết-bàn không có sự phá giới, nên Thánh giả yêu thích. Nghĩa là trong Niết-bàn vĩnh viễn lìa bỏ hết thảy sự việc phá giới. Do Niết-bàn nên Đức Phật nói giới vô lậu, gọi là giới được bậc Thánh yêu thích. Vì giới này có thể chứng đắc diệt, lìa bỏ phá giới, do vậy cũng gọi là thời ái giải thoát, thời chờ đợi yêu thích đạt được Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao trạch diệt cũng gọi là gần?

Đáp: Vì đạt được Thánh đạo hiện chứng đắc. Như Khế kinh nói: Người tinh tấn thành tựu mười lăm pháp được gọi là thành tựu dấu vết tu học và gần Niết-bàn. Lại nữa, vì không chọn lấy sự nối tiếp để chứng đắc nên trạch diệt gọi là gần, nghĩa là các hàng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn có khả năng tu đạo đều chứng đắc Niết-bàn.

Lại nữa, vì không tuyển chọn xứ sở để chứng đắc nên trạch diệt gọi là gần. Nghĩa là ở ngay thành ấp, hoặc chốn A-luyện-nhã, nếu tu tập Thánh đạo đều đạt được Niết-bàn.

Lại nữa, do thắng giải nên trạch diệt gọi là gần. Nghĩa là các Thánh giả lúc diệt nhẫn, diệt trí hiện tiền, do sức của thắng giải nên quan sát sáng suốt, rõ ràng như đối trước mắt.

Lại nữa, vì như sự việc gần, nên trạch diệt gọi là gần. Nghĩa là tùy mỗi nơi đều có thể chứng đắc. Như Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là pháp xa? Nghĩa là pháp quá khứ, vị lai. Thế nào là pháp gần? Là pháp hiện tại và các vô vi.

Lại nữa, vì dựa vào gần mà đạt được, nên trạch diệt gọi là gần. Nghĩa là đời hiện tại nói là gần. Vì dựa vào đời hiện tại, khởi sự lìa bỏ hệ thuộc được chứng đắc, đạt được trạch diệt, nên gọi là gần.

Lại nữa, vì bỏ cái gần mà nhập, nên trạch diệt gọi là gần. Nghĩa là đời hiện tại gọi là pháp gần. Bỏ pháp gần này mà nhập Niết-bàn, thế nên Niết-bàn cũng gọi là gần.

Hiếp Tôn giả nói: Người siêng năng tu đạo đi thẳng đến Niếtbàn, nên gọi là gần.

Lại nữa, chỗ nương dựa của Thánh đạo đều có sai biệt, Niếtbàn không cố định, nên gọi là gần, người có khả năng tu đạo đều chứng đắc.

Hỏi: Thánh đạo cũng là diệu, như Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là pháp diệu? Nghĩa là pháp học, vô học và trạch diệt vô vi. Vì sao Niết-bàn riêng gọi là diệu?

Đáp: Vì Niết-bàn là diệu trong diệu.

Lại nữa, Thánh đạo tuy diệu nhưng xen lẫn vô thường, Niết-bàn không như vậy, nên gọi riêng là diệu.

Lại nữa, Thánh đạo tuy diệu, nhưng còn có thể đối trị sự chán bỏ pháp thiện, nghĩa là không không v.v…, Niết-bàn không như vậy, nên riêng gọi là diệu.

Hỏi: Thánh đạo cũng là pháp xuất ly, như Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là pháp xuất ly? Nghĩa là giới thiện của cõi dục, định thiện ly sinh của cõi sắc, cõi vô sắc và học, vô học, trạch diệt vô vi. Vì sao Niết-bàn riêng gọi là xuất ly?

Đáp: Vì Niết-bàn là xuất ly, không phải là có xuất ly. Thánh đạo là xuất ly, cũng là có xuất ly, vì lúc nhập Niết-bàn là xuất ly khỏi chỗ có xuất ly ấy.

Lại nữa, Niết-bàn là pháp xuất ly chân thật. Nghĩa là pháp hữu lậu có hai thứ xả: 1. Xả do đoạn trừ. 2. Xả do từ bỏ. Hữu vi vô lậu tuy không có xả do đoạn trừ nhưng có xả do từ bỏ. Chỉ có trạch diệt thì hai xả đều không, nên gọi là xuất ly chân thật.

Lại nữa, Niết-bàn là công đức của sự xuất ly rốt ráo, như Khế kinh nói: Do sắc xuất ly dục, do vô sắc xuất ly sắc, do Thánh đạo xuất ly vô sắc, do Niết-bàn xuất ly tất cả pháp hữu vi.

Hỏi: Đã nhận biết Thể của phi trạch diệt không phải là lìa trói buộc, nên nói vì sao gọi là phi trạch diệt?

Đáp: Vì không do tuệ phân biệt lựa chọn mà được diệt này, nên gọi là phi trạch diệt, tức không phải là quả của sự lựa chọn.

Lại nữa, diệt này không do toàn bộ sự cần cù khổ nhọc, toàn bộ gia hạnh, toàn bộ dụng công lựa chọn các pháp mà được, nên gọi là phi trạch diệt.

Lại nữa, vì diệt này không phải là do thường xuyên quyết định lựa chọn khổ v.v… đạt được, nên gọi là phi trạch diệt. Hỏi: Nếu như vậy thì diệt này do đâu mà được?

Đáp: Do duyên thiếu. Như đối với một phương, hết thảy cảnh của sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v… hiện có ở phương khác diệt, qua đó có thể duyên nơi tâm tâm sở pháp. Do duyên thiếu nên hoàn toàn không sinh, do không sinh ấy mà được phi trạch diệt.

Hỏi: Ở nơi đời nào các pháp được phi trạch diệt?

Đáp: Có thuyết nói: Ở nơi ba đời các pháp đều được phi trạch diệt, vì là pháp hữu vi.

Hỏi: Nếu như vậy thì ở đâu không được diệt này? Được với không được lại có gì khác nhau?

Đáp: Có Sư khác cho: Chỉ có các pháp ở quá khứ, vị lai là đạt được phi trạch diệt, không phải ở hiện tại, vì pháp hiện tại ở nơi hành của thân.

Hỏi: Nếu như vậy thì diệt này nên mỗi mỗi niệm được rồi lại bỏ, bỏ rồi lại được. Nghĩa là khi pháp vị lai nhập vào hiện tại thì phi trạch diệt kia được rồi lại bỏ. Lúc các pháp hiện tại đã đi vào quá khứ thì phi trạch diệt kia bỏ rồi lại được. Nhưng phi trạch diệt thì không có nghĩa như thế chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Chỉ ở nơi pháp vị lai mới đạt được phi trạch diệt, không phải là quá khứ, hiện tại. Vì sao? Vì các pháp quá khứ đã ở tại thân hành. Các pháp hiện tại đang ở tại thân hành.

Hỏi: Nếu như vậy thì diệt này được rồi nên bỏ. Nghĩa là khi pháp vị lai nhập nơi hiện tại thì phi trạch diệt kia được rồi lại bỏ. Nhưng phi trạch diệt không có nghĩa như thế.

Lời bình: Phi trạch diệt này chỉ có ở nơi pháp vị lai không sinh mà được. Vì sao? Vì diệt ấy vốn muốn ngăn chận pháp hữu vi khiến vĩnh viễn không sinh. Nếu pháp không sinh thì chỗ đạt được này liền khởi hiện. Như cùng với pháp dục hệ thuộc hữu tình, hiện tại đang làm, quá khứ đã làm, vị lai sẽ làm, đều có nghĩa sinh, nên đối với pháp kia không đạt được diệt này.

Hỏi: Trạch diệt và Phi trạch diệt pháp nào là nhiều?

Đáp: Có thuyết nói: Trạch diệt nhiều, phi trạch diệt ít. Vì sao? Vì trạch diệt chung nơi pháp ba đời mà được, còn phi trạch diệt chỉ ở pháp không sinh nơi vị lai mà được.

Có Sư khác cho: Phi trạch diệt nhiều, trạch diệt ít. Vì sao? Vì phi trạch diệt chung cho pháp hữu lậu, vô lậu mà được, còn trạch diệt chỉ ở nơi pháp hữu lậu mà được.

Lời bình: Nên nói như vầy: Phi trạch diệt nhiều, trạch diệt ít. Vì sao? Vì phi trạch diệt như số lượng của pháp hữu vi, còn trạch diệt chỉ như số lượng của pháp hữu lậu. Nếu không như vậy thì các pháp có thể sinh, nếu không sinh nên không được phi trạch diệt. Tự tánh của hai pháp diệt tuy có nhiều, ít như vậy, nhưng căn cứ vào sự chứng đắc nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp pháp đối với pháp kia được trạch diệt không được phi trạch diệt: Nghĩa là pháp hữu lậu ở quá khứ, hiện tại và vị lai có thể sinh.

2. Có trường hợp pháp đối với pháp kia được phi trạch diệt không được trạch diệt: Nghĩa là pháp vô lậu không sinh nơi vị lai.

3. Có trường hợp pháp đối với pháp kia được trạch diệt cũng được phi trạch diệt: Nghĩa là pháp hữu lậu không sinh nơi vị lai.

4. Có trường hợp pháp đối với pháp kia không được trạch diệt cũng không được phi trạch diệt: Nghĩa là pháp vô lậu ở quá khứ, hiện tại và vị lai có thể sinh.

Hỏi: Các loài hữu tình đối với phi trạch diệt là đều cùng được hay không cùng được?

Đáp: Ở đây không quyết định. Đối với pháp cùng có phi trạch diệt thì chứng đắc chung, đối với pháp không cùng có phi trạch diệt thì mỗi pháp đều chứng đắc riêng. Các loại phàm phu hoặc trụ nơi một nẻo, đối với pháp của nẻo khác thì trong mỗi mỗi sát-na đều được phi trạch diệt, vì cảnh như sắc v.v… lúc niệm niệm diệt, duyên nơi nhãn thức v.v… kia hoàn toàn không sinh. Như trụ nơi một nẻo, thì trụ nơi một cõi, một địa, một xứ cũng như thế.

Hỏi: Do pháp thiện nào các người tu hành được phi trạch diệt đối với các nẻo ác?

Đáp: Hoặc do bố thí, giữ giới, hoặc do văn tuệ, hoặc do tư tuệ, hoặc do tu tuệ, các người tu hành đối với các nẻo ác được phi trạch diệt.

Do bố thí: Nghĩa là có người tuy mở cửa đại thí mười hai năm, nhưng đối với nẻo ác không được phi trạch diệt, như Phệ-la-ma, Quật-lộ-la v.v…, vì những người đó không thể nhàm chán sinh tử. Có người tuy chỉ một lần thí cho một nắm thức ăn, nhưng đối với nẻo ác được phi trạch diệt, vì người đó có khả năng nhàm chán sâu xa về sinh tử.

Do giữ giới: Nghĩa là có người tuy suốt đời giữ giới biệt giải thoát, nhưng đối với nẻo ác không được phi trạch diệt, như trước đã nói. Có người tuy chỉ có thể giữ giới một ngày đêm, nhưng đối với nẻo ác được phi trạch diệt, như trước đã nói.

Do văn tuệ: Nghĩa là có người tuy hiểu đầy đủ, rõ ràng về văn nghĩa của ba Tạng, nhưng đối với nẻo ác không được phi trạch diệt, như trước đã nói. Có người tuy chỉ hiểu rõ một bài tụng bốn câu, nhưng đối với nẻo ác được phi trạch diệt, như trước đã nói.

Do tư tuệ: Nghĩa là có người tuy tư duy đầy đủ về sách luận trong, ngoài, nhưng đối với nẻo ác không được phi trạch diệt, như trước đã nói. Có người tuy chỉ tư duy phần ít pháp quán, nhưng đối với nẻo ác được phi trạch diệt, như trước đã nói, tức pháp quán bất tịnh, quán sổ tức và các niệm trụ.

Do tu tuệ: Nghĩa là có người tuy chứng đắc đủ định thế tục của tám địa, nhưng đối với nẻo ác không được phi trạch diệt, như trước đã nói, tức là ngoại đạo Mãnh Hy Tử v.v… Có người tuy chỉ tu tập phần ít môn quán, nhưng đối với nẻo ác được phi trạch diệt, như trước đã nói, tức noãn, đảnh, nhẫn nơi người căn tánh rất chậm chạp, lúc được nhẫn phẩm hạ, đối với nẻo ác đều được phi trạch diệt.

Đại đức nói: Cần phải dùng tuệ vô lậu để nhận biết pháp duyên khởi thì đối với nẻo ác mới được phi trạch diệt. Vì nếu lìa Thánh đạo thì không thể vượt qua các nẻo ác.

Lời bình: Vị kia không nên nói như thế. Bồ-tát suốt trong chín mươi mốt kiếp không bị rơi vào nẻo ác, há đều do dùng tuệ vô lậu nhận biết duyên khởi. Nên nói như vầy: Hoặc bố thí, hoặc giữ giới, cho đến nhẫn phẩm hạ đều được phi trạch diệt đối với nẻo ác.

Hỏi: Ba nẻo ác được phi trạch diệt trong cùng một lúc hay là riêng khác?

Đáp: Có thuyết nói: Tất là trong cùng một lúc đạt được.

Hỏi: Nếu như vậy thì Đề-bà-đạt-đa vì sao đã được phi trạch diệt nơi hai nẻo ác không phải là địa ngục chăng?

Đáp: Ông ta ở địa ngục, chỉ trừ một đời, tất cả đời khác cùng với hai nẻo ác đều tức khắc được phi trạch diệt.

Hỏi: Đã trừ một đời, há không phải là được phi trạch diệt riêng hay sao?

Đáp: Có Sư khác cho: Thí, giới, văn v.v… nếu đối với nẻo ác được phi trạch diệt, hoặc riêng hay chung, được thuận phần quyết định lựa chọn, tất là được chung.

Hỏi: Đề-bà-đạt-đa há không được thuận phần quyết định lựa chọn chăng?

Lời bình: Nên nói như vầy: Ở vị nhẫn là được chung, phần vị trước thì không nhất định.

Đã nói nơi nẻo ác được phi trạch diệt, sẽ nói nơi nẻo thiện được phi trạch diệt: Lúc nhẫn tăng thượng, chỉ trừ bảy đời nơi người, trời trong cõi dục. Ở cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi mỗi xứ đều có một đời, còn tất cả đời khác đều được phi trạch diệt. Người Dự lưu khi hướng đến quả Nhất lai, người không khởi định, lúc ở đạo gia hạnh, sáu đời nơi cõi dục được phi trạch diệt. Nếu là người khởi định cần phải đến nơi đạo vô gián thứ sáu, sáu đời nơi cõi dục mới được phi trạch diệt. Người Nhất lai lúc hướng đến quả Bất hoàn, người không khởi định, lúc ở đạo gia hạnh, ở cõi dục trong một đời được phi trạch diệt. Nếu là người khởi định cần phải đến nơi đạo vô gián thứ chín, một đời ở cõi dục được phi trạch diệt. Bấy giờ, được trạch diệt trong tất cả đời ở cõi dục.

Pháp không thoái chuyển: Nghĩa là lúc lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, người không khởi định, lúc tại đạo gia hạnh, hai đời ở tĩnh lự thứ nhất được phi trạch diệt. Nếu người đã khởi định, phải đến nơi đạo vô gián thứ chín, hai đời ở tĩnh lự thứ nhất được phi trạch diệt. Bấy giờ, ở tĩnh lự thứ nhất tất cả đời đều được trạch diệt.

Nếu là pháp thoái chuyển: Nghĩa là lúc lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, hoặc khởi định, hoặc không khởi định, đều phải đến lúc đạo vô gián thứ chín, được trạch diệt trong tất cả đời ở tĩnh lự thứ nhất, không được phi trạch diệt, vì có thể thoái chuyển nơi sinh. Cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, nên biết cũng như thế.

Pháp không thoái chuyển: Nghĩa là lúc lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người không khởi định, vào lúc nơi đạo gia hạnh, một đời ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ được phi trạch diệt. Nếu người khởi định, cần phải đến nơi đạo vô gián thứ chín, một đời ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ được phi trạch diệt. Bấy giờ, ở trong tất cả đời đều được trạch diệt.

Nếu là pháp thoái chuyển: Nghĩa là lúc lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người không khởi định, lúc ở đạo gia hạnh, sinh trong tám địa được phi trạch diệt. Nếu là người khởi định, cần phải đến nơi đạo vô gián thứ chín, sinh trong tám địa được phi trạch diệt. Bấy giờ, ở trong tất cả đời đều được trạch diệt.

Đã nói xứ sinh được phi trạch diệt, sẽ nói đối với phiền não được phi trạch diệt: Lúc nhẫn tăng thượng, ở ba cõi, do kiến đạo đoạn trừ phiền não, được phi trạch diệt, đến trong kiến đạo, tùy thuận đạo vô gián, được trạch diệt kia. Thánh ở tu đạo được pháp không thoái chuyển: Nghĩa là lúc lìa nhiễm của cõi dục, người không khởi định khi hành đạo gia hạnh, ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ phiền não, được phi trạch diệt. Nếu người khởi định phải theo đến nơi mỗi mỗi đạo vô gián kia mới được phi trạch diệt, bấy giờ, đạt được trạch diệt nơi phiền não đó. Nếu là pháp thoái chuyển: Nghĩa là khi lìa nhiễm nơi cõi dục, nếu khởi định, hoặc không khởi định, đều tùy thuận đến lúc đạo vô gián kia sẽ được trạch diệt nơi phiền não đó, không được phi trạch diệt, cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ theo chỗ ứng hợp nên nói.

Hỏi: Các pháp thoái chuyển ở nơi tu đạo đoạn trừ phiền não, vào lúc nào mới được phi trạch diệt?

Đáp: Có thuyết nói: Bậc tín thắng giải luyện căn khi được kiến chí, thời giải thoát luyện căn khi được bất động, đã đoạn trừ phiền não do tu đạo đoạn thì được phi trạch diệt.

Lời bình: Nên nói như vầy: Nếu có thể quyết định không còn thoái chuyển nữa, lúc phiền não khởi hiện ở ngay trong phiền não đó đạt được phi trạch diệt.

Hỏi: Nếu lúc ở chỗ đạt được phi trạch diệt, thì cũng ở nơi đó sẽ được trạch diệt chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp pháp trước đã được phi trạch diệt về sau được trạch diệt: Nghĩa là do kiến đạo đoạn phiền não của ba cõi và pháp không thoái chuyển, không khởi định, lìa phiền não của ba cõi do tu đạo đoạn trừ v.v…

2. Có trường hợp pháp trước đã được trạch diệt về sau được phi trạch diệt: Nghĩa là pháp thoái chuyển lìa phiền não của ba cõi do tu đạo đoạn trừ.

3. Có trường hợp pháp cùng một lúc đạt được phi trạch diệt và trạch diệt: Nghĩa là pháp không thoái chuyển nếu khởi định, lìa phiền não của ba cõi do tu đạo đoạn trừ v.v… Nếu là pháp thoái chuyển, lìa nhiễm thuộc tám phẩm trước của cõi dục, tùy thuận lúc đạo vô gián hiện tiền, năm thức như nhãn v.v… bị nhiễm ô nơi phẩm phiền não kia và pháp tương ưng v.v… ở đối tượng duyên hiện có được phi trạch diệt và trạch diệt kia. Lìa nhiễm thuộc phẩm thứ chín của cõi dục, lúc ở đạo vô gián, sự nhiễm ô của phẩm đó và thiện vô ký nơi năm thức như nhãn v.v… và pháp tương ưng v.v… ở đối tượng duyên hiện có được phi trạch diệt và trạch diệt kia. Lìa nhiễm thuộc tám phẩm trước của tĩnh lự thứ nhất, lúc tùy thuận đạo vô gián hiện tiền, ba thức như nhãn v.v… bị nhiễm ô nơi phẩm đó và pháp tương ưng v.v… ở đối tượng duyên hiện có được phi trạch diệt và trạch diệt kia. Lìa nhiễm thuộc phẩm thứ chín của tĩnh lự thứ nhất, lúc ở đạo vô gián, ba thức như nhãn v.v… bị nhiễm ô của phẩm đó và thiện vô ký nơi chúng cùng pháp tương ưng v.v… ở đối tượng duyên hiện có được phi trạch diệt và trạch diệt kia.\

4. Có trường hợp pháp hoặc có lúc đối với cả hai diệt đều không đạt được: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Đã nói đối với phiền não được phi trạch diệt, sẽ nói về Thánh đạo đạt được phi trạch diệt.

Vị Tùy tín hành: Nghĩa là ở nơi đạo của tùy pháp hành đạt được phi trạch diệt.

Vị Tùy pháp hành: Nghĩa là ở nơi tùy tín hành lúc đạt tín thắng giải nơi đạo giải thoát đạt được phi trạch diệt.

Vị Tín thắng giải: Nghĩa là nếu quyết định nương nơi đạo của tín thắng giải, đạt được quả vô học, ở nơi đạo của kiến chí đạt được phi trạch diệt.

Vị Kiến chí: Nghĩa là đối với tín thắng giải nơi đạo của thời giải thoát đạt được phi trạch diệt.

Bậc Thời giải thoát: Nghĩa là nếu quyết định dựa vào đạo của thời giải thoát đạt được cứu cánh thì đối với đạo của bất thời giải thoát đạt được phi trạch diệt.

Bậc Bất thời giải thoát: Nghĩa là ở nơi đạo của thời giải thoát đạt được phi trạch diệt.

Chủng tánh Thanh văn: Đối với đạo Thanh văn, lúc đạt quyết định, thì ở nơi đạo của Độc giác, Phật được phi trạch diệt.

Chủng tánh Độc giác: Đối với đạo Độc giác khi được quyết định, thì ở nơi đạo của Thanh văn, Phật đạt được phi trạch diệt.

Chủng tánh Phật: Đối với Phật đạo, khi được quyết định, tức ở nơi đạo của Độc giác, Thanh văn đạt được phi trạch diệt.

Quả A-la-hán có sáu chủng tánh. Chủng tánh thoái pháp, nếu dựa vào đạo thoái chuyển đến mức rốt cùng thì đối với năm đạo trên đạt được phi trạch diệt.

Chủng tánh tư pháp: Nếu dựa vào tư đạo cho đến cứu cánh, thì đối với bốn đạo trên và một đạo dưới đạt được phi trạch diệt. Cho đến chủng tánh gắng đạt, nếu dựa vào đạo có gắng đạt, đạt đến cứu cánh, thì đối với một đạo trên và bốn đạo dưới đạt được phi trạch diệt.

Chủng tánh bất động: Ở nơi năm đạo dưới đạt được phi trạch diệt.

Hỏi: Nếu lúc thắng tấn được phi trạch diệt thì diệt này vì sao không phải là đạo quả?

Đáp: Do không vì diệt này mà tu đạo. Nghĩa là vì Niết-bàn và lìa nhiễm, nên siêng năng tu đạo. Do tu đạo, nên đối với nẻo ác v.v… được phi trạch diệt. Nếu vì diệt này mà tu đạo, đối với nẻo ác v.v… không được diệt ấy, không phải là đối với sinh tử không nhàm chán sâu đậm về các tai họa, nhưng vẫn có thể ở nơi nẻo ác v.v… đạt được phi trạch diệt, nên phi trạch diệt này không gọi là đạo quả. Như Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là pháp có quả? Nghĩa là tất cả pháp hữu vi và trạch diệt. Thế nào là pháp không quả? Nghĩa là hư không, phi trạch diệt.

Hỏi: Phi trạch diệt đạt được là quả của tâm nào?

Đáp: Có thuyết nói: Diệt này đạt được là quả của tâm dẫn chúng đồng phần.

Có Sư khác cho: Diệt này đạt được là quả của tâm nối tiếp sinh.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tùy trụ ở tâm nào đạt được phi trạch diệt, tức nói sự chứng đắc này là quả của tâm kia.

Hỏi: Ở nơi pháp nào đạt được phi trạch diệt?

Đáp: Đối với pháp thuộc ba cõi và không hệ thuộc đạt được phi trạch diệt. Người sinh nơi cõi dục đối với bốn pháp đều đạt được phi trạch diệt. Người sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc nên biết cũng như vậy. Phi trạch diệt đạt được tùy thuộc sinh ở địa nào, tức là thuộc nơi địa đó, chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký, chỉ là đẳng lưu, tùy nơi sức của chỗ dựa khởi hiện sự đạt được này.

Hỏi: Phi trạch diệt đạt được tăng trưởng dần dần trong pháp nào?

Đáp: Nếu sinh nơi cõi dục thì phi trạch diệt được tăng trưởng dần dần trong năm thức thân v.v… thuộc cõi dục. Cũng có khi ý thức quyết định duyên nơi hiện tại, đối với các pháp này phi trạch diệt đạt được cũng lớn dần thêm, nhưng vì khó nhận biết, nên không hiển bày riêng. Ba thức thân thuộc cõi sắc và đối với các pháp như vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… Phi trạch diệt được tăng trưởng dần trong pháp biến xứ của cõi vô sắc.

Nếu sinh nơi cõi sắc, phi trạch diệt được tăng trưởng dần dần nơi năm thức thân thuộc cõi dục. Nơi ba thức thân v.v… thuộc cõi sắc và đối với các pháp như vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… Phi trạch diệt được dần dần tăng trưởng trong pháp biến xứ của cõi vô sắc.

Sinh nơi cõi vô sắc, đối với năm thức thân v.v… thuộc cõi dục, ba thức thân v.v… thuộc cõi sắc và nơi các pháp như vô lương giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… Phi trạch diệt được tăng trưởng dần dần trong pháp biến xứ của cõi vô sắc.

Hỏi: Thánh giả sinh ở cõi sắc, đối với cõi dục, cõi sắc, pháp nào đạt được phi trạch diệt?

Đáp: Nếu từ cõi dục mất sinh lên tĩnh lự thứ nhất, trừ cõi dục, dựa vào địa trên khởi phẩm tâm biến hóa và pháp đã khởi, đối với pháp khác của cõi dục và dựa vào cõi dục khởi pháp của cõi sắc đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ cõi dục mất sinh lên tĩnh lự thứ hai, trừ cõi dục, tĩnh lự thứ nhất, dựa vào địa trên khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của ba tĩnh lự trên cùng pháp đã khởi và tĩnh lự thứ nhất dựa vào địa trên khởi bốn thức thân v.v… đối với pháp khác nơi cõi dục và tĩnh lự thứ nhất cùng dựa nơi cõi dục, tĩnh lự thứ nhất khởi pháp của địa trên thuộc cõi sắc đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ nhất mất sinh lên tĩnh lự thứ hai, trừ tĩnh lự thứ nhất, dựa nơi địa trên khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của ba tĩnh lự trên và pháp đã khởi cùng tĩnh lự thứ nhất dựa nơi địa trên khởi bốn thân thức v.v…, đối với pháp khác nơi tĩnh lự thứ nhất cùng dựa vào đấy để khởi pháp của địa trên dưới đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ cõi dục mất sinh lên tĩnh lự thứ ba, trừ tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, cõi dục, dựa vào địa trên khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của hai tĩnh lự trên và pháp đã khởi cùng tĩnh lự thứ nhất dựa nơi địa trên khởi bốn thức thân v.v…, đối với pháp khác của cõi dục tĩnh lự thứ nhất, thứ hai cùng dựa vào hai tĩnh lự ấy khởi pháp của địa trên nơi cõi sắc đều được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ nhất mất sinh nơi tĩnh lự thứ ba, trừ tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, dựa vào địa trên khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của hai tĩnh lự trên và pháp đã khởi cùng tĩnh lự thứ nhất dựa nơi địa trên khởi bốn thức thân v.v…, đối với pháp khác của hai tĩnh lự thứ nhất, thứ hai cùng dựa vào hai tĩnh lự ấy khởi pháp của địa trên dưới đều đạt phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ hai mất sinh nơi tĩnh lự thứ ba, trừ tĩnh lự thứ hai, dựa vào địa trên khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của hai tĩnh lự trên và pháp đã khởi, đối với pháp khác nơi tĩnh lự thứ hai cùng dựa vào tĩnh lự thứ hai khởi pháp của địa trên dưới đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ cõi dục mất sinh nơi tĩnh lự thứ tư, trừ cõi dục và ba tĩnh lự đầu, dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của tĩnh lự thứ tư và pháp đã khởi cùng tĩnh lự thứ nhất dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi bốn thức thân v.v…, đối với pháp khác nơi cõi dục và ba tĩnh lự đầu và dựa vào cõi dục và ba tĩnh lự ấy khởi pháp của tĩnh lự thứ tư đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ nhất mất sinh nơi tĩnh lự thứ tư, trừ ba tĩnh lự đầu, dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của tĩnh lự thứ tư và pháp đã khởi, cùng tĩnh lự thứ nhất dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi bốn thức thân v.v…, đối với pháp khác của ba tĩnh lự đầu và dựa vào ba tĩnh lự ấy để khởi pháp của địa trên dưới đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ hai mất sinh nơi tĩnh lự thứ tư, trừ tĩnh lự thứ hai, thứ ba, dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của tĩnh lự thứ tư và pháp đã khởi, đối với pháp khác của tĩnh lự thứ hai, thứ ba và dựa vào hai tĩnh lự ấy khởi pháp của địa trên dưới đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ ba mất sinh nơi tĩnh lự thứ tư, trừ tĩnh lự thứ ba, dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi phẩm tâm biến hóa nơi quả của tĩnh lự thứ tư và pháp đã khởi, đối với pháp khác nơi tĩnh lự thứ ba và dựa vào tĩnh lự thứ ba khởi pháp của địa trên dưới đều đạt được phi trạch diệt.

Hỏi: Thánh giả sinh nơi cõi vô sắc, đối với cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, pháp nào đạt được phi trạch diệt?

Đáp: Nếu từ cõi dục mất sinh nơi Không vô biên xứ, đối với pháp của cõi dục, cõi sắc, dựa vào cõi dục, cõi sắc khởi pháp của cõi vô sắc, đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ nhất mất sinh nơi Không vô biên xứ, đối với pháp của bốn tĩnh lự và dựa vào bốn tĩnh lự khởi pháp của cõi trên dưới, đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ hai mất sinh nơi Không vô biên xứ, đối với pháp ba tĩnh lự sau và dựa vào ba tĩnh lự trên khởi pháp của địa trên dưới, đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ ba mất sinh nơi Không vô biên xứ, đối với pháp của hai tĩnh lự sau và dựa vào hai tĩnh lự trên khởi pháp của địa trên dưới, đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ tư mất sinh nơi Không vô biên xứ, đối với pháp của tĩnh lự thứ tư và dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi pháp của địa trên dưới, đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ cõi dục mất cho đến sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đối với pháp của ba vô sắc dưới và cõi dục, cõi sắc, cùng dựa vào ba vô sắc dưới và cõi dục, cõi sắc khởi pháp của cõi Hữu đảnh, đều đạt được phi trạch diệt.

Nếu từ tĩnh lự thứ nhất mất cho đến sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đối với pháp của ba vô sắc dưới và cõi sắc, cùng dựa vào ba vô sắc dưới và cõi sắc khởi pháp của địa trên dưới, đều đạt được phi trạch diệt. Cho đến nếu từ Vô sở hữu xứ mất sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đối với pháp Vô sở hữu xứ cùng dựa vào xứ ấy khởi pháp của cõi Hữu đảnh, đều đạt được phi trạch diệt.

Hỏi: Thánh giả sinh nơi cõi vô sắc rồi có đạt được phi trạch diệt của pháp cõi dục, cõi sắc không?

Đáp: Không được, vì trước đã được.

Hỏi: Thánh giả sinh nơi địa trên của cõi vô sắc rồi có đạt được phi trạch diệt theo pháp của địa dưới không?

Đáp: Không được, vì trước đã được.

Hỏi: Người nhập Niết-bàn trước đạt được phi trạch diệt nhiều hay là người nhập Niết-bàn sau đạt được phi trạch diệt nhiều?

Đáp: Người nhập Niết-bàn trước đạt được phi trạch diệt nhiều, người nhập Niết-bàn sau đạt được phi trạch diệt ít. Như lúc Phật Ẩm Quang nhập Niết-bàn đạt được phi trạch diệt nhiều, đến khi Phật Năng Tịch nhập Niết-bàn đạt được phi trạch diệt ít. Lúc Phật Năng Tịch nhập Niết-bàn đạt được phi trạch diệt nhiều, đến khi Phật Từ Thị nhập Niết-bàn đạt được phi trạch diệt ít.

Hỏi: Những A-la-hán nào lúc an trụ nơi tâm sau cùng thành tựu phi trạch diệt nhiều nhất là ở cõi dục, cõi sắc, hay cõi vô sắc?

Đáp: Ở cõi vô sắc. A-la-hán lúc an trụ nơi tâm sau cùng thành tựu phi trạch diệt nhiều nhất, vì tất cả sắc pháp đều không hiện hành. Bấy giờ, tuy trước không có, chưa được, nay mới đạt được phi trạch diệt, nhưng có vô lượng phi trạch diệt đạt được cũng hiện tiền, gọi là thành tựu nhiều.

Có những người khác đối với vấn đề này đặt ra hỏi, đáp như sau: Từng có uẩn, giới, xứ không nối tiếp vĩnh viễn diệt, đối với uẩn, giới, xứ đó không đạt được phi trạch diệt chăng? Đáp: Có. Là ở cõi vô sắc, lúc A-la-hán an trụ nơi tâm sau cùng, tuy có vô lượng uẩn, giới, xứ không nối tiếp vĩnh viễn diệt nhưng đối với A-la-hán kia hoàn toàn không đạt được phi trạch diệt.

Lời bình: Không nên nói như thế. Vì sao? Vì không có uẩn, giới, xứ không nối tiếp vĩnh viễn diệt đối với A-la-hán nhưng không đạt được phi trạch diệt.

Hỏi: Ở cõi vô sắc, lúc A-la-hán an trụ nơi tâm sau cùng, đối với uẩn, xứ, giới không nối tiếp vĩnh viễn diệt, há không phải là không đạt được phi trạch diệt chăng?

Đáp: Tuy không phải hôm nay đạt được mới gọi là thành tựu, mà trước đây đã được. Nghĩa là ở cõi vô sắc, nếu A-la-hán lúc quyết định nhập Niết-bàn, trừ chính thức khởi sát-na ở đời vị lai, đối với uẩn, giới, xứ khác đều đạt được phi trạch diệt.

***

* Như Khế kinh nói: Có hai cảnh giới Niết-bàn, đó là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y và cảnh giới Niết-bàn Vô dư y, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm phân biệt rộng nghĩa của kinh. Nghĩa là như Khế kinh nói: Có hai cảnh giới Niết-bàn: 1. Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y. 2. Cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Tuy nói lời này, nhưng Khế kinh không biện luận rộng thế nào là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y và thế nào là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y? Kinh kia là chỗ dựa căn bản của Luận này, những điều Kinh kia không phân biệt, nay đều nên phân biệt. Lại nữa, trước đã nói: Thế nào là trạch diệt? Nghĩa là các diệt lìa hệ thuộc. Lìa hệ thuộc ấy là Niết-bàn. Nhưng Niết-bàn có hai thứ: 1. Hữu dư y. 2. Vô dư y. Nay nhằm phân biệt hai thứ Niết-bàn này có sai khác.

Lại nữa, nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác, chỉ rõ nghĩa chánh. Tức là: Hoặc có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y có tự tánh, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y không có tự tánh. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều có tự tánh.

Hoặc lại có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là hữu lậu, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y là vô lậu. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều là vô lậu.

Hoặc lại có lối chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là hữu vi, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y là vô vi. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều là vô vi.

Hoặc lại có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là thiện, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y là vô ký. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều là tánh thiện.

Hoặc lại có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là đạo không phải là quả của đạo, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y là quả của đạo không phải là đạo. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều là quả của đạo.

Hoặc lại có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là quả của đạo, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y không phải là quả của đạo. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn cùng là quả của đạo.

Hoặc lại có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là thuộc về đế, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y không thuộc về đế. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều là thuộc về đế.

Hoặc lại có người chấp: Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y là vô học, cảnh giới Niết-bàn Vô dư y là phi học phi vô học. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ hai cảnh giới Niết-bàn đều là phi học phi vô học.

Do những nhân duyên vừa kể trên, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y?

Đáp: Nếu A-la-hán đã vĩnh viễn dứt hết các lậu, thọ mạng vẫn còn, sắc do đại chủng tạo vẫn nối tiếp nhau chưa đoạn, dựa nơi năm căn thân, tâm nối tiếp chuyển biến, là Hữu dư y, vì các kiết vĩnh viễn dứt đều được xúc chứng, gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y.

Ở đây: Thọ mạng nghĩa là mạng căn.

Hỏi: Vì sao không nói Chúng đồng phần?

Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn thế, cho đến nói rộng. Lại nữa, nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa ấy nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, vì mạng căn và chúng đồng phần đều là quả của nghiệp dẫn dắt. Mạng căn vì toàn bộ là dị thục, nên ở đây nói riêng. Dựa vào dị thục ấy mà có sắc, tâm v.v… khác chuyển biến, trong đó, đại chủng là chỗ nương dựa đã được nói đến đầu tiên. Dựa vào đại chủng này mà sắc được tạo sinh, dựa vào sắc được tạo tâm tâm sở khởi hiện, vì tâm là chủ.

Trong đây, nói riêng về sắc do đại chủng tạo: Nghĩa là hiển bày chung về sắc thân.

Dựa vào năm căn thân, tâm nối tiếp nhau: Nghĩa là nói rõ về tâm tâm sở. Cũng có bất tương ưng hành như sinh v.v… vì khó nhận biết rõ, vì thuộc về pháp trước, nên không hiển bày riêng. Như thế các pháp nối tiếp nhau chưa đoạn mà được các kiết vĩnh viễn dứt hết, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y.

Có thuyết nói: Sắc do đại chủng tạo là năm căn của thân, là tâm nối tiếp nhau của căn này, là nhận biết thân căn này, nhận biết sự nối tiếp nhau chưa dứt, các kiết vĩnh viễn diệt hết, gọi là cảnh giới Niếtbàn Hữu dư y. Như Khế kinh nói: Sự nhận biết về thân căn chưa dứt nên gọi là Niết-bàn Hữu dư y.

Hữu dư y nghĩa là có hai thứ nương dựa: 1. Dựa vào phiền não. 2. Dựa vào sinh thân. A-la-hán này tuy không có dựa vào phiền não, nhưng còn dựa vào sinh thân. Lại nữa, có hai thứ y (Dựa vào): 1. Dựa vào nhiễm ô. 2. Dựa vào không nhiễm ô. A-la-hán này tuy không còn dựa vào nhiễm ô, nhưng còn có dựa vào không nhiễm ô, mọi kiết hiện có đã được diệt sạch hết, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y, đạt được xúc chứng. Văn tự tuy có khác, nhưng đồng hiển bày một nghĩa.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y?

Đáp: Nếu A-la-hán đã vĩnh viễn dứt hết các lậu, thọ mạng đã diệt, sắc do đại chủng tạo nối tiếp nhau đã đoạn, dựa vào năm căn thân tâm không còn chuyển biến, là Vô dư y, vì các kiết đều vĩnh viễn dứt, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Ở đây, thọ mạng đã diệt: Là chỉ rõ mạng căn và chúng đồng phần đã dứt, vì chúng đều là quả của nghiệp dẫn dắt. Lại nêu mạng căn nên biết cũng tức là nói chúng đồng phần.

Sắc do đại chủng tạo nối tiếp nhau đã đoạn: Là chỉ rõ chung về sắc thân nối tiếp nhau đã đoạn.

Dựa vào năm căn thân tâm không còn chuyển biến: Là chỉ rõ tâm tâm sở không còn nối tiếp nhau. Không nói nghĩa như sinh v.v…: Như trước đã nói.

Có thuyết cho: Sắc do đại chủng tạo: Là làm rõ về thân. Năm căn nơi thân là hiển bày về căn. Tâm nối tiếp nhau: Là làm rõ về sự nhận biết. Như thế là sắc thân, tâm tâm sở pháp, hoặc thân căn nhận biết sự nối tiếp nhau đã đoạn, mọi kiết vĩnh viễn dứt hết, gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Nghĩa là A-la-hán sắp nhập Niết-bàn, gió trong thân nổi lên khiến không điều hợp, không điều hợp nên khiến lửa trong thân yếu kém, vì lửa yếu kém nên thức ăn không tiêu hóa, vì thức ăn không tiêu hóa nên không muốn ăn, do không muốn ăn nên không còn ăn uống, vì không ăn uống nên đại chủng tổn giảm, do đại chủng tổn giảm nên các căn do sắc tạo cũng tổn giảm theo, căn tổn giảm nên tâm tâm sở pháp không có nơi nương dựa, không còn nối tiếp, tâm tâm sở pháp không còn nối tiếp nhau nên mạng căn đoạn, vì mạng căn đã đoạn nên gọi là nhập Niết-bàn.

Vô dư y nghĩa là không có hai thứ nương dựa: 1. Không có phiền não nương dựa. 2. Không có sinh thân nương dựa. Lại nữa: 1. Không có nhiễm ô nương dựa. 2. Không có không nhiễm ô nương dựa. Vì là Vô dư y nên các kiết đều vĩnh viễn dứt hết, gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói đạt được xúc chúng?

Đáp: Vì dựa vào đắc của hiện tại nên nói về đắc v.v… Vì đắc của hiện tại đã đoạn, thế nên không nói. Lại nữa, vì dựa nơi Bổ-đặcgià-la nên thiết lập chỗ đạt được xúc chứng, trong đây không có Bổđặc-già-la, chỉ có pháp tánh, thế nên không nói.

Hỏi: Từng có A-la-hán không an trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y và cảnh giới Niết-bàn Vô dư y chăng?

Đáp: Về lý tuy không có, nhưng dựa vào điều ở đây đã nói thì cũng có. Nghĩa là trong đây nói có đủ ba sự việc, gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y. Vì ba sự việc đều không, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Sinh nơi cõi vô sắc, A-la-hán không có sắc thân, nên không phải trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y. Vì còn có tâm chuyển biến, nên không phải trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Sinh nơi cõi sắc, A-la-hán nhập định diệt tận rồi, vì không có tâm chuyển biến, nên không phải trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y. Vì còn có sắc thân, nên không phải trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Sinh nơi cõi dục, A-la-hán căn không hội đủ, vì không có đủ năm căn, nên không phải trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y. Vì có sắc thân nên không phải trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Có thuyết nói: Đoạn văn trên đây nên nêu bày thế này: Thế nào là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y? Đáp: Nếu thọ mạng của A-la-hán vẫn còn, các kiết vĩnh viễn dứt hết, đạt được xúc chứng.

Thế nào là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y? Đáp: Nếu thọ mạng của A-la-hán đã diệt, các kiết đều vĩnh viễn dứt hết.

Nếu nói như thế, tức A-la-hán sinh ở ba cõi, hoặc có sắc thân, hoặc không có sắc thân, hoặc có tâm chuyển, hoặc không có tâm chuyển, hoặc có đủ năm căn, hoặc không đủ năm căn, chỉ có thọ mạng đều gọi là trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y. Thọ mạng diệt rồi, đều gọi là trụ nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Nên nói như thế, nhưng không nói là vì Luận sư của Bản luận vì muốn tạo lợi ích cho các chúng đệ tử khiến họ dễ hiểu, nên nói như vậy.

Hỏi: Phàm phu hữu học đã lìa được hệ thuộc, sự việc đó thuộc về cảnh giới Niết-bàn nào?

Đáp: Sự việc đó không phải thuộc về hai thứ cảnh giới Niếtbàn. Nghĩa là các phàm phu đã lìa được trói buộc, đó chỉ nên gọi là đoạn, là lìa, là diệt, là đế, không gọi là nhận biết khắp, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y, không gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Nếu các hàng hữu học đã lìa được trói buộc, gọi là đoạn, là lìa, là diệt, là đế, có phần vị, gọi là nhận biết khắp, có phần vị không gọi là nhận biết khắp, có phần vị gọi là quả Sa- môn, có phần vị không gọi là quả Sa-môn, không gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y, không gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y. Nếu các bậc vô học đã lìa được trói buộc thì gọi là đoạn, là lìa, là diệt, là đế, gọi là nhận biết khắp, gọi là quả Sa-môn, có lúc gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y, có khi gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

HẾT – QUYỂN 32