LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 19

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ TRÍ, phần 11

Tà kiến nơi cõi dục do kiến khổ, tập đoạn trừ có thể duyên nơi khổ và tập trong ba cõi, nhưng không phải là cùng một lúc, nghĩa là sát-na khác duyên nơi cõi dục, sát-na khác duyên nơi cõi sắc, cõi vô sắc.

Hỏi: Vì sao không ở trong khoảng một sát-na duyên tức khắc nơi cả ba cõi, hoặc khổ, hoặc tập?

Đáp: Vì tà kiến kia duyên nơi cõi dục cũng tùy tăng, còn duyên nơi cõi sắc, cõi vô sắc thì không tùy tăng.

Hỏi: Vì sao tà kiến kia duyên nơi cõi dục cũng tùy tăng mà duyên nơi cõi sắc, cõi vô sắc thì không tùy tăng?

Đáp: Vì cõi dục là xứ tùy tăng của tà kiến kia, cõi sắc và Vô sắc không phải là xứ tùy tăng của tà kiến kia.

Lại nữa, cõi dục là nhà ở của tà kiến kia, cõi sắc và Vô sắc không phải là nhà ở của nó.

Lại nữa, cõi dục có quả đẳng lưu, quả dị thục của tà kiến kia, còn cõi sắc và Vô sắc không có quả đẳng lưu, quả dị thục của nó.

Lại nữa, cõi dục có quả thuộc năm bộ biến hành của tà kiến kia, còn cõi sắc và Vô sắc không có quả thuộc năm bộ biến hành của nó.

Lại nữa, cõi dục không có pháp đối trị hoàn toàn tà kiến kia, còn cõi sắc và Vô sắc có pháp đối trị hoàn toàn tà kiến ấy.

Lại nữa, nếu tà kiến kia trong khoảnh một sát-na duyên tức khắc cả ba cõi hoặc khổ, hoặc tập thì làm sao duyên được? Vì như duyên nơi cõi dục, tức tùy tăng, duyên nơi cõi sắc và Vô sắc cũng như thế chăng? Ví như duyên nơi cõi sắc và cõi vô sắc là không tùy tăng, thì duyên nơi cõi dục cũng như thế chăng? Giả sử là thế thì có lỗi gì? Nếu như duyên nơi cõi dục thì tùy tăng, duyên nơi cõi sắc và Vô sắc cũng thế, thì giới thành lẫn lộn. Nếu như duyên nơi cõi sắc và Vô sắc là không tùy tăng, duyên nơi cõi dục cũng thế, thì không hợp lý, vì không có phiền não nào duyên nơi pháp của cõi mình mà không có đủ hai tùy tăng: Đối tượng duyên và sự tương ưng. Nghĩa là duyên nơi pháp của địa mình, tất phải hội đủ duyên là đối tượng duyên và sự tương ưng.

Nếu trong khoảng một sát-na duyên nơi ba cõi hoặc khổ, hoặc tập thì đối với cảnh của đối tượng duyên có thứ tùy tăng, có thứ không tùy tăng, cũng nên đối với pháp tương ưng có thứ tùy tăng, có thứ không tùy tăng, tức là trái với lý của nhân này, cũng hủy hoại pháp tương ưng. Chớ nên mắc lỗi lầm ấy. Do vậy lúc khác duyên nơi tự giới tha giới lý được thành lập là đúng.

Như thế tà kiến nơi tĩnh lự thứ nhất do kiến khổ, tập đoạn trừ có thể duyên nơi khổ, tập của tám địa, nhưng không phải cùng một lúc. Nghĩa là ở sát-na khác duyên nơi tĩnh lự thứ nhất, ở sát-na khác duyên nơi bảy địa trên. Như thế cho đến tà kiến nơi Vô sở hữu xứ do kiến khổ, tập đoạn trừ có thể duyên nơi khổ, tập của hai địa nhưng không phải cùng một lúc. Nghĩa là ở sát-na khác duyên nơi tự địa, ở sát-na khác duyên nơi địa trên. Tà kiến nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ do kiến khổ, tập đoạn trừ chỉ duyên nơi khổ, tập của tự địa.

Tà kiến nơi cõi dục do kiến diệt đoạn trừ chỉ duyên nơi các hành diệt của cõi dục.

Hỏi: Vì sao tà kiến nơi cõi dục do kiến khổ, tập đoạn trừ có thể duyên nơi khổ, tập của ba cõi, còn tà kiến nơi cõi dục do kiến diệt đoạn trừ chỉ có thể duyên nơi các hành diệt của cõi dục?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Nếu pháp ái của cõi dục đã vướng mắc nơi thân kiến chấp làm ngã, ngã sở, thì các pháp diệt ấy nên làm đối tượng duyên của tà kiến nơi cõi dục do kiến diệt đoạn trừ, không phải là phiền não kia có thể duyên nơi cõi khác. Đây cũng như thế.

Có thuyết cho: Khổ, tập là pháp hữu vi, tự địa, tha địa lần lượt cùng dẫn phát, nên tà kiến kia có thể duyên nơi tha địa. Vì diệt đế là vô vi, nên tự địa, tha địa không có nghĩa cùng dẫn phát, do đó tà kiến kia không duyên nơi địa khác.

Như thế, tà kiến nơi tĩnh lự thứ nhất do kiến diệt đoạn trừ chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, cho đến tà kiến nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ do kiến diệt đoạn trừ chỉ duyên nơi các hành diệt của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Tà kiến nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ chỉ duyên nơi pháp đối trị các hành của cõi dục.

Hỏi: Vì sao tà kiến nơi cõi dục do kiến khổ, tập đoạn trừ có thể duyên nơi khổ, tập của ba cõi? Còn tà kiến nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ chỉ có thể duyên nơi pháp đối trị các hành của cõi dục?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Nếu pháp ái của cõi dục đã tham đắm nơi thân kiến, chấp làm ngã, ngã sở thì pháp đối trị này nên làm đối tượng duyên của tà kiến nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ, không phải phiền não kia có thể duyên nơi giới khác. Đây cũng như thế.

Có thuyết nêu: Đối tượng duyên của tà kiến nơi cõi dục do kiến khổ, tập đoạn trừ, không phải là pháp đối trị, nên có thể duyên nơi địa khác. Đối tượng duyên của tà kiến nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ, tức là pháp đối trị, nên không thể duyên nơi pháp đối trị của địa khác. Trong đây có thuyết nói: Tà kiến nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ chỉ duyên nơi phẩm đạo pháp trí của định vị chí, chỉ có tà kiến kia là ở đây đối trị đoạn.

Lời bình: Nên nói như vầy: Có thể duyên nơi phẩm đạo pháp trí của sáu địa, vì chủng loại đồng, vì đều là pháp đối trị hủy hoại của cõi dục.

Như thế, tà kiến nơi tĩnh lự thứ nhất do kiến đạo đoạn trừ có thể duyên phẩm đạo loại trí của chín địa, cho đến tà kiến nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ do kiến đạo đoạn trừ có thể duyên nơi phẩm đạo loại trí của chín địa.

Hỏi: Vì sao tà kiến do kiến diệt đoạn trừ chỉ có thể duyên nơi các hành diệt của tự địa? Còn tà kiến do kiến đạo đoạn trừ có thể duyên nơi phẩm đạo pháp trí của sáu địa, hoặc duyên nơi phẩm đạo loại trí của chín địa?

Đáp: Tự địa, tha địa diệt không phải là nhân lần lượt, vì nhiều địa nơi Thánh đạo cùng làm nhân.

Hỏi: Nếu thế phẩm đạo pháp loại cũng cùng làm nhân, vì sao tà kiến do kiến đạo đoạn trừ lại không duyên chung?

Đáp: Có thuyết nói: Tà kiến do kiến đạo đoạn trừ cũng có thể duyên chung nơi phẩm đạo pháp loại, vì cùng làm nhân, phẩm đạo pháp trí cũng có thể đối trị hai cõi trên.

Lời bình: Người kia không nên nói như vậy, vì phẩm đạo loại trí đối với pháp của cõi dục không phải là sự đối trị. Phẩm đạo pháp trí đối với hai cõi trên tuy là sự đối trị, nhưng không phải ban đầu, không phải hiện nay. Lại, pháp loại phẩm và chủng loại phẩm có sai biệt.

Có thuyết cho: Phẩm đạo loại trí của chín địa là đối trị đoạn của tám địa trên, tức đối tượng duyên của tà kiến nơi địa kia do kiến đạo đoạn trừ, không phải là đạo của địa khác.

Lời bình: Người kia không nên nói như vậy, vì chủ thể đối trị có nhiều thứ. Lại phẩm loại trí lần lượt làm nhân, vì chủng loại đồng.

Hỏi: Trong một sát-na tùy miên không thể duyên khắp tất cả, cũng không có lý tùy tăng khắp, vì sao gọi là biến hành?

Đáp: Vì căn cứ vào chủng loại nối tiếp nhau của tùy miên mà nói, nên không có lỗi. Tuy nhiên, tùy miên biến hành đối với nhân biến hành, nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có tùy miên biến hành không phải là nhân biến hành: Nghĩa là tùy miên biến hành ở vị lai.

2. Có nhân biến hành không phải là tùy miên biến hành: Nghĩa là pháp tương ưng, câu hữu của tùy miên biến hành nơi quá khứ, hiện tại.

3. Có tùy miên biến hành cũng là nhân biến hành: Nghĩa là tùy miên biến hành nơi quá khứ, hiện tại.

4. Có không phải tùy miên biến hành cũng không phải là nhân biến hành. Nếu không căn cứ vào chủng loại của tùy miên kia mà nói, nên nói: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Nếu căn cứ vào chủng loại của tùy miên kia mà nói, nên nói: Nghĩa là pháp tương ưng, câu hữu của tùy miên biến hành trong vị lai.

Hỏi: Hết thảy pháp nhiễm ô đều dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân chăng? Giả sử là như thế thì có lỗi gì? Nếu tất cả pháp nhiễm ô đều dùng pháp do kiến đoạn trừ làm nhân: Nghĩa là pháp chưa đoạn cũng làm nhân, đã đoạn cũng làm nhân, vậy pháp chưa đoạn và đã đoạn có sai biệt gì? Lại, nếu như thế vì sao pháp nhiễm ô của Thánh giả do tu đạo đoạn trừ có khi khởi hiện, có khi không khởi hiện? Nếu không khởi, nghĩa là không có triền, ái, các loại mạn, giận dữ tột độ. Nếu có khởi, nghĩa là tham, giận, mạn, vô minh khác. Lại, nếu như thế thì nơi Luận Thức Thân nói làm sao thông suốt? Như nói: Từng có pháp bất thiện chỉ lấy bất thiện làm nhân chăng? Trả lời: Có. Nghĩa là Thánh giả lúc lìa nhiễm nơi cõi dục thoái chuyển, tư duy về nhiễm ô đầu tiên hiện ở trước. Nếu hết thảy pháp nhiễm ô đều không dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân, thì nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông suốt? Như nói: Thế nào là pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân? Nghĩa là tất cả pháp nhiễm ô và dị thục của pháp do kiến đạo đoạn trừ. Và nếu như thế thì lại mâu thuẫn với Luận kia nói: Thế nào là pháp vô ký làm nhân? Nghĩa là pháp hữu vi vô ký và tất cả pháp bất thiện. Lại, nếu như thế thì lại trái với Luận kia nói: Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân: Nghĩa là trừ do kiến khổ đoạn trừ trong quá khứ, hiện tại, nói rộng cho đến: trừ hữu thân kiến ở vị lai và pháp tương ưng của hữu thân kiến kia sinh, lão, trụ, vô thường, còn lại là các thứ nhiễm ô nơi khổ đế. Lại, nếu như thế thì nơi Luận Thức Thân nói làm sao thông suốt? Như nói: Nhãn thức bất thiện, cho đến ý thức bất thiện đều lấy bất thiện, vô ký làm nhân?

Đáp: Nên nói như vầy: Tất cả pháp nhiễm ô đều dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân?

Hỏi: Nếu thế pháp chưa đoạn, đã đoạn đều có thể làm nhân, có sai biệt gì?

Đáp: Tên gọi là sai biệt. Nghĩa là phần vị trước chưa đoạn, gọi là nhân chưa đoạn. Phần vị sau đã đoạn, gọi là nhân đã đoạn. Lại nữa, phần vị trước chưa bị phá trừ do pháp đối trị. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng đã bị pháp đối trị hủy hoại. Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân có thể gây trở ngại cho Thánh đạo. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân không gây chướng ngại cho Thánh đạo.

Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân có thể dấy khởi như ngọn lửa đạt được. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân không còn có thể dấy khởi như ngọn lửa đạt được. Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân tạo nên sự việc có thể chê trách, nhàm chán và sự việc cấu uế. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân không còn có thể tạo tác sự việc có thể chê trách, nhàm chán và sự việc cấu uế. Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân có thể làm xong công việc nên làm. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân không còn có thể làm xong công việc nên làm.

Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân có thể biện biệt sự việc của nhân đồng loại và nhân biến hành. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân lại không thể biện biệt sự việc của nhân đồng loại và nhân biến hành. Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân có thể biện biệt quả đẳng lưu và quả dị thục. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân không còn có thể biện biệt quả đẳng lưu và quả dị thục. Lại nữa, phần vị trước ở trong tự thân có thể nhận quả cho quả. Phần vị sau tuy cũng làm nhân, nhưng ở trong tự thân không còn có thể nhận quả cho quả.

Đó gọi là chưa đoạn và đã đoạn có sai biệt.

Hỏi: Nếu thế vì sao pháp ô nhiễm của Thánh giả do tu đạo đoạn trừ có khi khởi hiện, có khi không khởi hiện?

Đáp: Pháp do kiến đạo đoạn trừ cùng với pháp kia hoặc làm nhân gần nối tiếp nhau, hoặc làm nhân xa không nối tiếp nhau. Nếu cùng với pháp kia làm nhân gần nối tiếp nhau thì Thánh giả không khởi hiện. Nếu cùng với pháp kia làm nhân xa không nối tiếp nhau thì Thánh giả cũng khởi hiện.

Lại nữa, nếu đã được phi trạch diệt kia thì Thánh giả không khởi, nếu chưa được phi trạch diệt kia thì Thánh giả cũng khởi.

Lại nữa, người kia khởi định là dựa vào tánh phàm phu, Thánh giả không khởi. Nếu không khởi định thì Thánh giả cũng khởi.

Lại nữa, người kia khởi định có thể gây chướng ngại tánh Thánh, Thánh giả không khởi. Nếu không như thế thì Thánh giả cũng khởi.

Hỏi: Vì sao Thánh giả không khởi, là không có ái chăng?

Đáp: Vì ái kia là do đoạn kiến nuôi lớn, kế đó sau đoạn kiến là ái hiện ở trước. Tất cả Thánh giả đã đoạn dứt đoạn kiến nên ái kia không khởi hiện.

Hỏi: Vì sao Thánh giả không khởi các loại mạn?

Đáp: Vì các loại mạn là do thân kiến nuôi lớn, nên kế sau thân kiến là các loại mạn hiện ở trước. Vì tất cả Thánh giả đều đã đoạn dứt thân kiến này, nên các loại mạn không khởi hiện.

Hỏi: Vì sao Thánh giả không khởi triền giận dữ tột độ?

Đáp: Vì triền giận kia là do tà kiến nuôi lớn, nên kế tiếp sau tà kiến là triền giận này hiện ở trước. Vì tất cả Thánh giả đều đã đoạn dứt tà kiến này, nên triền giận kia không khởi hiện.

Hỏi: Nếu thế theo như Luận Thức Thân nói làm sao thông suốt? Như nói: Từng có pháp bất thiện chỉ lấy bất thiện làm nhân chăng? Trả lời: Có, cho đến nói rộng.

Đáp: Vì Luận kia đã dựa vào nhân chưa đoạn để nêu bày nên không mâu thuẫn. Nghĩa là Luận kia nêu đầu tiên là khởi tư duy bất thiện có hai thứ nhân: 1. Nhân đã đoạn. 2. Nhân chưa đoạn. Luận kia chỉ căn cứ vào nhân chưa đoạn để nói.

Lại nữa, Luận kia đã dựa vào nhân bất thiện để nêu bày nên không mâu thuẫn. Nghĩa là Luận kia nêu đầu tiên khởi tư duy bất thiện có hai thứ nhân: 1. Bất thiện. 2. Vô ký. Luận kia chỉ căn cứ vào nhân bất thiện để nói.

Lại nữa, Luận kia đã dựa vào nhân của bộ mình để nói, nên không mâu thuẫn. Nghĩa là Luận kia nêu: Ban đầu khởi tư duy bất thiện có hai thứ nhân: 1. Bộ mình. 2. Bộ khác. Luận kia chỉ căn cứ nơi nhân của bộ mình để nói.

Lại nữa, Luận kia đã dựa vào nhân không phải là biến hành để nói, nên không mâu thuẩn. Nghĩa là Luận kia đầu tiên khởi tư duy bất thiện có hai thứ nhân: 1. Biến hành. 2. Không phải là biến hành. Luận kia chỉ căn cứ vào nhân không phải là biến hành để nói.

Lại nữa, Luận kia đã dựa vào nhân không chung để nói nên không mâu thuẫn. Nghĩa là Luận kia đầu tiên khởi tư duy bất thiện có hai thứ nhân: 1. Chung. 2. Không chung. Luận kia chỉ căn cứ vào nhân không chung để nói.

Hỏi: Thánh giả trước kia lúc chưa lìa nhiễm nơi cõi dục thì tư duy nhiễm ô của Thánh giả cũng lấy bất thiện làm nhân, vì sao Luận kia nói là lúc sau này thoái chuyển?

Đáp: Vì bấy giờ tư duy của Thánh giả kia trước không thành tựu, nay được thành tựu, trước không có ràng buộc, nay có ràng buộc, trước mất, nay sinh, thế nên nói riêng.

Hỏi: Về sau khởi tư duy nhiễm cũng lấy bất thiện làm nhân, vì sao Luận kia chỉ nói phần khởi đầu tiên?

Đáp: Vì bấy giờ Thánh giả kia đã được: Trước gián đoạn, nay liên tục, trước không công dụng, nay có công dụng, trước mất, nay sinh, thế nên nói riêng.

Có thuyết cho: Tất cả pháp nhiễm ô đều không lấy pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân.

Hỏi: Nếu thế theo như nơi Luận Phẩm Loại Túc và Luận Thức Thân nói làm sao thông suốt?

Đáp: Luận kia là theo tướng chung để nói. Nếu nói riêng, nên nói thế này: Có sắc nhiễm ô dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân, không phải là tất cả sắc nhiễm ô, cho đến có thức nhiễm ô dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân, không phải là tất cả thức nhiễm ô.

Lời bình: Người kia không nên nói như vậy, vì Luận kia nói: Tất cả pháp nhiễm ô đều dùng pháp do kiến đạo đoạn trừ làm nhân. Tất cả pháp bất thiện đều dùng vô ký làm nhân. Các khổ đế v.v… nhiễm ô khác đều dùng hữu thân kiến làm nhân. Sáu thức bất thiện đều dùng bất thiện vô ký làm nhân, nên thuyết trước là đúng.

Tôn giả Thiết-ma-đạt-đa phân biệt pháp nhiễm ô có khác. Tôn giả bảo: Có pháp do kiến khổ đoạn trừ chỉ dùng kiến khổ đoạn trừ làm nhân. Có pháp do kiến khổ đoạn trừ chỉ dùng kiến tập đoạn trừ làm nhân, không có hai thứ làm nhân.

Pháp do kiến tập đoạn trừ cũng như thế. Thật ra không có sự việc ấy, vì phân biệt nên nói như vậy. Giả sử Thánh giả hiện quán khổ rồi, chưa hiện quán tập, từ Thánh đạo khởi pháp do kiến tập đoạn trừ chỉ dùng kiến tập đoạn trừ làm nhân là được khởi hiện ở trước. Pháp do kiến tập đoạn trừ dùng kiến khổ đoạn trừ làm nhân, là không khởi hiện ở trước vì nhân đã đoạn.

Có pháp do kiến diệt đoạn trừ chỉ dùng kiến diệt đoạn trừ làm nhân. Có pháp do kiến diệt đoạn trừ chỉ dùng kiến khổ đoạn trừ làm nhân. Có pháp do kiến diệt đoạn trừ chỉ dùng kiến tập đoạn trừ làm nhân. Có pháp do kiến diệt đoạn trừ chỉ dùng kiến khổ, tập đoạn trừ làm nhân, không có ba thứ làm nhân.

Pháp nhiễm ô do kiến đạo đoạn trừ, tu đạo đoạn trừ cũng như thế. Thật ra không có sự việc ấy, vì phân biệt nên nói như vậy. Giả sử Thánh giả hiện quán diệt rồi, chưa hiện quán đạo, từ Thánh đạo khởi pháp do kiến đạo đoạn trừ chỉ dùng kiến đạo đoạn trừ làm nhân, là được khởi hiện ở trước. Pháp do kiến đạo đoạn trừ chỉ dùng kiến khổ, tập đoạn trừ làm nhân, là không khởi hiện ở trước, vì nhân đã đoạn.

Như thế, Thánh giả đối với pháp nhiễm ô do tu đạo đoạn trong tu đạo chỉ dùng tu đạo đoạn làm nhân, là được khởi hiện ở trước. Pháp nhiễm ô do tu đạo đoạn chỉ dùng kiến khổ, tập đoạn trừ làm nhân, là không khởi hiện ở trước, vì nhân đã đoạn. Nhưng các Thánh giả lúc đã lìa nhiễm nơi cõi dục, pháp nhiễm ô của cõi dục do tu đạo đoạn, nếu chỉ dùng tu đạo đoạn làm nhân, nếu chỉ dùng kiến khổ, tập đoạn làm nhân, hợp làm một tụ chín phẩm dần dần đoạn. Thánh giả kia về sau khi thoái chuyển, pháp nhiễm ô của cõi dục do tu đạo đoạn chỉ dùng tu đạo đoạn làm nhân, là trở lại thành tựu, chỉ dùng kiến đạo đoạn làm nhân, là không thành tựu, vì nhân đã đoạn.

Lại, vào bấy giờ chỉ dùng tu đạo đoạn làm nhân, vị lai trong pháp nhiễm ô do tu đạo đoạn, là trở lại thành tựu. Quá khứ là không thành tựu, vì Thánh kia về sau không nhận sự khởi hiện ở trước.

Lời bình: Tôn giả kia không nên nói như vậy. Vì tại sao đồng một đối trị đã đoạn trừ phiền não, Thánh giả kia về sau khi thoái chuyển, có khi trở lại thành tựu, có khi không thành tựu. Lại, không thể thông suốt thuyết của Luận Phẩm Loại Túc, Luận Thức Thân. Thế nên, như thuyết trước đã nói là đúng.

Hỏi: Ái đối với các cõi, địa, bộ đều cùng cách tuyệt, vì sao tùy miên biến hành có thể đối với bộ khác tùy tăng mà không phải đối với cõi, địa khác?

Đáp: Tùy miên biến hành đối với pháp của bộ khác có quả đẳng lưu, hoặc quả dị thục, nên có thể tùy tăng, còn đối với cõi, địa khác không có quả đẳng lưu và quả dị thục, nên không tùy tăng. Lại nữa, vì địa mình và bộ khác đều giống nhau về thô tế, nên có thể tùy tăng, vì địa trên vi tế nên không thể tùy tăng.

Hỏi: Dị thục biến hành với dị thục không biến hành lần lượt làm nhân chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Dị thục biến hành cùng với dị thục không biến hành làm nhân. Dị thục không biến hành đều không cùng với dị thục biến hành làm nhân. Như tùy miên biến hành cùng với tùy miên không biến hành làm nhân. Tùy miên không biến hành của bộ khác không thể cùng với tùy miên biến hành làm nhân. Dị thục cũng như thế.

Lời bình: Người kia không nên nói như vậy, vì pháp tùy miên khác, pháp dị thục khác. Tùy miên có năm bộ, còn dị thục chỉ có do tu đạo đoạn. Nên nói thế này: Dị thục biến hành cùng với dị thục biến hành làm nhân, cũng cùng với dị thục không biến hành làm nhân. Dị thục không biến hành cùng với dị thục không biến hành làm nhân, cũng cùng với dị thục biến hành làm nhân, vì đồng địa, đồng tánh, loại của bộ.

Hỏi: Nhân biến hành lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Tất cả tùy miên biến hành trong quá khứ, hiện tại và các pháp tương ưng, câu hữu kia.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là nhân biến hành? Biến hành nghĩa là gì?

Đáp: Nghĩa hiện hữu khắp làm nhân là nghĩa của biến hành. Lại nữa, nghĩa có khả năng duyên khắp là nghĩa của biến hành. Lại nữa, nghĩa tùy tăng khắp là nghĩa của biến hành. Nhân biến hành này chỉ thông hợp nơi hai đời quá khứ, hiện tại, có quả đẳng lưu.

***

* Thế nào là Nhân dị thục? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác, đồng thời biểu dương chánh lý. Nghĩa là hoặc có lối chấp: Lìa tư không có nhân dị thục, lìa thọ không có quả dị thục, như phái Thí Dụ. Nhằm ngăn chận lối chấp đó cùng chỉ rõ nhân dị thục và quả dị thục đều thông hợp cả năm uẩn.

Hoặc lại có lối chấp: Chỉ có tâm tâm sở là có nhân dị thục và quả dị thục, như Đại chúng bộ. Nhằm ngăn chận lối chấp đó và làm sáng tỏ nhân quả này cũng thông hợp nơi các sắc bất tương ưng hành.

Hoặc lại có lối chấp: Chỉ có tâm tâm sở và các sắc pháp là có nhân dị thục và quả dị thục. Nhằm ngăn chận lối chấp đó và làm sáng tỏ các pháp ấy cũng thông hợp nơi bất tương ưng hành.

Hoặc lại có lối chấp: Các nhân dị thục cần phải bỏ tự Thể thì quả dị thục mới chín. Họ nêu lên thuyết này: Các nhân dị thục cần phải đi vào quá khứ mới cho quả dị thục, vì quá khứ đã diệt nên không có tự Thể. Để ngăn chận lối chấp đó và nhằm làm sáng tỏ nhân dị thục đến phần vị quả chín cũng có thực Thể.

Hoặc lại có lối chấp: Các nhân quả dị thục nếu chưa thuần thục thì Thể của nó luôn có. Quả kia đã chín rồi thì Thể của nó liền hoại. Như thuyết của bộ Ẩm Quang nói: Cũng như hạt giống, khi chưa nẩy mầm thì Thể của hạt giống luôn có, lúc mọc mầm rồi thì Thể liền tan hoại. Các nhân dị thục cũng lại như thế. Nhằm ngăn chận lối chấp đó và bày tỏ nhân dị thục quả tuy đã thuần thục Thể vẫn tồn tại.

Hoặc lại có lối chấp: Những việc thiện ác đã gây tạo không có quả khổ vui, như các ngoại đạo. Nhằm ngăn chận lối chấp của họ và chứng tỏ rằng nghiệp thiện, ác là có quả khổ vui, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là nhân dị thục?

Đáp: Các tâm tâm sở pháp thọ nhận dị thục nơi sắc, tâm tâm sở pháp, tâm bất tương ưng hành. Tâm tâm sở pháp này cùng với dị thục của các pháp kia làm nhân dị thục.

Ở đây: Các tâm tâm sở pháp: Nghĩa là hết thảy tâm tâm sở pháp bất thiện, thiện, hữu lậu. Nói ở đây là cũng bao gồm sắc tùy chuyển theo dị thục kia, vì bất tương ưng hành cùng với tâm tâm sở đều đồng một quả.

Sắc dị thục: Nghĩa là sắc uẩn, tức năm căn như mắt v.v… và sắc, hương, vị, xúc.

Tâm: Nghĩa là thức uẩn, tức sáu thức như nhãn thức v.v…

Tâm sở pháp: Nghĩa là ba uẩn, tức thọ, tưởng, tư.

Tâm bất tương ưng hành: Nghĩa là hành uẩn, tức mạng căn, chúng đồng phần v.v…

Đây là hiển bày nhân dị thục và quả dị thục đều chung cho cả năm uẩn

Lại nữa, các nghiệp thân, ngữ thọ nhận dị thục nơi sắc, tâm tâm sở pháp, tâm bất tương ưng hành. Nghiệp thân ngữ này cùng với dị thục của các pháp kia làm nhân dị thục.

Hỏi: Nghiệp thân, ngữ tùy tâm chuyển vì tâm có một quả như trước đã nói. Trong đây lại nói nghiệp thân, ngữ nữa là nói pháp nào?

Đáp: Biểu thị về thiện, bất thiện và dựa vào nghiệp hữu biểu sinh khởi vô biểu, hai nghiệp thân, ngữ không tùy tâm chuyển, vì hai nghiệp này nhất định có thể gây nên quả dị thục.

Có thuyết nói: Trong đây nói thân, ngữ biểu và sát-na này đã sinh vô biểu, vì đồng một quả. Thuyết đó phi lý vì nghiệp thân, ngữ biểu cùng với vô biểu kia là cùng sinh. Thân, ngữ vô biểu không phải đồng một cõi, vì vô biểu kia không cùng làm nhân câu hữu.

Có thuyết cho: Nghiệp hữu biểu với sự việc dựa vào hữu biểu, sinh thân, ngữ vô biểu tuy không phải là một quả, nhưng nhất định cùng lúc thọ nhận quả dị thục, vì một tâm khởi. Thuyết đó phi lý vì sự lần lượt trông vào nhau, không phải là nhân câu hữu, làm sao lại khẳng định là đồng một sát-na thọ nhận quả dị thục? Nhưng hữu biểu, vô biểu lần lượt không làm nhân câu hữu nên quả dị thục khác biệt.

Trong nghiệp hữu biểu bảy chi cùng khác, vì mỗi mỗi nghiệp đều chiêu cảm quả dị thục riêng khác. Mỗi mỗi chi đều có nhiều cực vi, mỗi mỗi cực vi đều có ba đời sai biệt. Ở mỗi mỗi đời đều có nhiều sát-na, mỗi mỗi sát-na đều có quả dị thục riêng khác, vì không phải là nhân câu hữu. Nghiệp vô biểu cũng như thế. Trước tùy tâm chuyển, bảy chi vô biểu có thể lần lượt làm nhân câu hữu nên đồng quả dị thục. Nhưng nghiệp hữu biểu, vô biểu đã nói ở đây tức cũng gồm thâu các pháp kia tùy chuyển sinh v.v…, vì đồng một quả, chỗ thọ nhận dị thục như trước nên biết.

Lại nữa, các tâm bất tương ưng hành thọ nhận dị thục nơi sắc, tâm tâm sở pháp, tâm bất tương ưng hành. Tâm bất tương ưng hành này cùng với dị thục của các pháp kia làm nhân dị thục. Đó gọi là nhân dị thục.

Hỏi: Các nghiệp hữu biểu, vô biểu của tâm tâm sở tùy chuyển sinh v.v… như trước đã nói, vì đồng một quả, nay lại nói bất tương ưng hành nào?

Đáp: Nay nói về định vô tưởng, định diệt tận, tất cả pháp bất thiện, thiện, hữu lậu có được cùng các tướng của các pháp kia chuyển sinh v.v… vì trước chưa nói đến.

Hỏi: Định vô tưởng thọ nhận quả dị thục nào?

Đáp: Có thuyết nói: Định vô tưởng thọ nhận vô tưởng và quả dị thục của sắc. Dị thục của mạng căn, chúng đồng phần kia là quả của nghiệp có tâm nơi tĩnh lự thứ tư, dị thục của uẩn còn lại kia là quả chung.

Có thuyết cho: Định vô tưởng thọ nhận vô tưởng và quả dị thục của sắc. Dị thục của mạng căn kia là quả của nghiệp có tâm nơi tĩnh lự thứ tư, dị thục của uẩn còn lại kia là quả chung.

Có thuyết nêu: Định vô tưởng thọ nhận vô tưởng cùng quả dị thục của sắc, dị thục của uẩn còn lại kia là quả chung.

Có thuyết biện: Định vô tưởng chỉ thọ nhận quả dị thục của vô tưởng, dị thục của uẩn còn lại kia là quả chung.

Hỏi: Nếu mạng căn cũng không phải là quả dị thục của nghiệp, thì theo thuyết của Luận Phẩm Loại Túc làm sao thông suốt? Như nói: Một pháp là dị thục của nghiệp, nhưng không phải nghiệp, nghĩa là mạng căn.

Đáp: Hết thảy mạng căn chỉ là dị thục, tất cả dị thục do nghiệp nên hiển bày. Căn cứ vào mật ý ấy, nên lời nói này, nhưng thật ra mạng căn cũng không phải nghiệp chiêu cảm. Lại nữa, Luận kia căn cứ vào thế tục mà nói, không dựa vào thắng nghĩa. Nghĩa là như thế gian hễ thấy người nào chết yểu liền nói: “Người này tạo nghiệp chết yểu”, thấy kẻ nào sống lâu liền nói: “Người này gây nghiệp sống lâu”.

Có thuyết cho: Xứ vô tưởng thiên lúc không có tâm cũng thọ nhận quả của nghiệp có tâm nơi tĩnh lự thứ tư, khi có tâm, cũng thọ nhận quả của định vô tưởng.

Hỏi: Nếu lúc không có tâm cũng thọ nhận quả có tâm, lúc có tâm cũng thọ nhận quả không có tâm, làm sao nhân, quả không điên đảo?

Đáp: Như nghiệp có sắc cũng thọ nhận quả không sắc, nghiệp không sắc cũng thọ nhận quả có sắc, nhưng không có lỗi lầm về nhân, quả điên đảo. Đây cũng như thế.

Tôn giả Thiết-ma-đạt-đa nói: Định vô tưởng thọ nhận vô tưởng và quả dị thục của chúng đồng phần. Mạng căn kia và sắc dị thục là quả của nghiệp có tâm nơi tĩnh lự thứ tư. Tâm tâm sở của tĩnh lự đó và tâm bất tương ưng hành khác đều không phải là dị thục.

Lời bình: Tôn giả kia không nên nói như vậy, vì dị thục nơi chúng đồng phần là quả của nghiệp. Tâm tâm sở của tĩnh lự thứ tư kia và tâm bất tương ưng hành cũng có dị thục này.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Định vô tưởng thọ nhận quả dị thục của vô tưởng, mạng căn chúng đồng phần của vô tưởng đó là quả của nghiệp có tâm thuộc tĩnh lự thứ tư. Dị thục của uẩn còn lại kia là quả chung.

Lời bình: Điều ấy không nên nêu bày như vậy. Vì năm căn như mắt v.v… là quả của nghiệp. Nên nói như vầy: Dị thục vô tưởng chỉ là quả của định vô tưởng. Mạng căn, chúng đồng phần của vô tưởng kia và dị thục của năm sắc căn chỉ là quả của nghiệp có tâm nơi tĩnh lự thứ tư. Dị thục của uẩn còn lại kia là quả chung.

Hỏi: Định diệt tận thọ nhận quả dị thục nào?

Đáp: Nhận quả dị thục của bốn uẩn nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trừ mạng căn chúng đồng phần, vì quả dị thục đó chỉ là quả của nghiệp

Hỏi: Các đắc thọ nhận quả dị thục nào?

Đáp: Các đắc thọ nhận quả dị thục của sắc, tâm tâm sở pháp và tâm bất tương ưng hành.

Sắc: Nghĩa là sắc, hương, vị, xúc, không phải là năm sắc căn, là quả của nghiệp thuộc sắc kia.

Tâm tâm sở pháp: Nghĩa là thọ nhận khổ (khổ thọ), thọ nhận vui (lạc thọ) và thọ nhận không khổ không vui cùng pháp tương ưng với sự thọ nhận đó.

Tâm bất tương ưng hành: Nghĩa là các đắc, sinh, lão, trụ, vô thường.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Đắc cũng có thể thọ nhận năm căn như mắt v.v… và quả dị thục của mạng căn, chúng đồng phần. Tôn giả bảo: Tuy mỗi mỗi đắc không có năng lực dẫn sinh chúng đồng phần v.v… nhưng nhiều đắc tụ tập tức có thể dẫn phát chúng đồng phần kia, nhưng chúng đồng phần đó chỉ chiêu cảm thân ngu độn, như loài giun v.v…. Đắc đã chiêu cảm chín xứ sắc, trừ âm thanh. Tâm tâm sở pháp thông hợp chung cho cả ba thọ tụ họp hành bất tương ưng, nghĩa là chúng đồng phần, mạng căn, các đắc, sinh, trụ, dị, diệt.

Lời bình: Tôn giả kia không nên nói như vậy. Các đắc trông vào nhau, không phải là cùng có nhân. Nếu tích tập quá nhiều thì nào có ích gì, vì không phải một quả không có khả năng dẫn phát chúng đồng phần v.v…

Tôn giả Diệu Âm nói như vầy: Đắc không thể dẫn phát chúng đồng phần v.v… Lúc các nghiệp dẫn dắt đắc, chúng đồng phần v.v… đối với xứ của căn như mắt v.v… chỉ có thể chiêu cảm được sắc hương vị xúc.

Lời bình: Tôn giả kia không nên nói như vậy, đừng cho đắc của cõi vô sắc không có quả dị thục. Do vậy, nên biết thuyết ban đầu là đúng.

Hỏi: Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là nhân dị thục? Nghĩa là hết thảy pháp hữu lậu bất thiện, thiện, so với Luận này đã nói về nhân dị thục có khác gì nhau?

Đáp: Luận này không liễu nghĩa, Luận kia là liễu nghĩa. Luận này có ý khác, Luận kia không có ý khác. Luận này có nhân hữu dư, Luận kia là nhân vô dư. Luận này căn cứ vào thế tục, Luận kia căn cứ vào thắng nghĩa. Luận này có ảnh hiện rõ, Luận kia không có ảnh hiện rõ.

Lại nữa, Luận này nói nhân dị thục đã sinh, Luận kia nói nhân dị thục đã sinh, chưa sinh. Luận này nói nhân dị thục cho quả, Luận kia nói nhân dị thục cho quả, chưa cho quả.

Lại nữa, Luận này nói quả của nghiệp mới, Luận kia nói quả của nghiệp mới, cũ.

Lại nữa, Luận này nói nhân dị thục quá khứ, Luận kia nói nhân dị thục đủ ba đời.

Lại nữa, Luận này nói nhân dị thục đang cho quả, Luận kia nói nhân dị thục đang và sẽ cho quả.

Trên đây là sự sai biệt giữa thuyết của Luận này và thuyết của Luận Phẩm Loại Túc.

Hỏi: Vì sao trong Luận này chỉ nói nhân dị thục đang cho quả?

Đáp: Đang cho quả: Nghĩa là tướng của nhân kia hiển bày. Lại nữa, quả dị thục kia hiện ở trước thiết lập các hữu tình trong năm nẻo. Lại nữa, bấy giờ tác dụng của nhân này hoàn toàn, nên do sự đang cho quả chỉ rõ về nhân sẽ cho quả, đã cho quả, đối với nghĩa là thuận hợp, nên trong Luận này chỉ nói nhân đang cho quả.

Lại nữa, trong cõi dục có nhân dị thục của bốn uẩn đắc một quả, nghĩa là tâm thiện, tâm bất thiện, tâm sở pháp và sự sinh v.v… (sinh trụ lão vô thường v.v…). Có nhân dị thục của hai uẩn đắc một quả, nghĩa là thân, ngữ nghiệp thiện, bất thiện và sự sinh v.v… Có nhân dị thục của một uẩn đắc một quả, nghĩa là đắc và sự sinh v.v… Trong cõi sắc có nhân dị thục của năm uẩn đắc một quả, nghĩa là có tùy thuận chuyển nơi sắc, tâm tâm sở pháp và sự sinh v.v… Có nhân dị thục của bốn uẩn đắc một quả, nghĩa là không tùy chuyển nơi sắc tâm thiện, tâm sở pháp và sự sinh v.v… Có nhân dị thục của hai uẩn đắc một quả, nghĩa là thân, ngữ hữu biểu thiện và sự sinh v.v… Có nhân dị thục của một uẩn đắc một quả, nghĩa là đắc định vô tưởng và sự sinh v.v… Trong cõi vô sắc có nhân dị thục của bốn uẩn đắc một quả, nghĩa là tâm tâm sở pháp thiện và sự sinh v.v… Có nhân dị thục của một uẩn đắc một quả, nghĩa là đắc định diệt tận và sự sinh v.v…

Lại nữa, có nghiệp chỉ thọ nhận dị thục của một xứ, nghĩa là nghiệp của đắc, mạng căn, chúng đồng phần. Nghiệp đó chỉ thọ nhận dị thục thuộc pháp xứ. Có nghiệp chỉ thọ nhận dị thục của hai xứ, nghĩa là nghiệp của đắc ý xứ. Nghiệp kia chỉ thọ nhận dị thục của ý xứ, pháp xứ. Nghiệp của đắc xúc xứ cũng thọ nhận dị thục của hai xứ, nghĩa là xúc xứ, pháp xứ. Nghiệp của đắc thân xứ thọ nhận dị thục của ba xứ, nghĩa là thân xứ, xúc xứ, pháp xứ. Nghiệp của đắc sắc, hương, vị xứ cũng như thế, đều thọ nhận dị thục của tự xứ, xúc xứ, pháp xứ. Nghiệp của đắc nhãn xứ thọ nhận dị thục của bốn xứ, nghĩa là nhãn xứ, thân xứ, xúc xứ, pháp xứ. Nghiệp của đắc nhĩ, tỷ, thiệt xứ cũng như thế, nghĩa là đều thọ nhận dị thục của tự xứ, thân xứ, xúc xứ, pháp xứ.

Có Sư khác nói: Tất cả đại chủng đều sinh sắc, âm thanh. Các sắc ở cõi dục không lìa hương vị. Sư ấy bảo: Nghiệp của đắc nhãn xứ thọ nhận dị thục của bảy xứ, nghĩa là dị thục của nhãn xứ, thân xứ và dị thục của sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ. Nghiệp của đắc nhĩ, tỷ, thiệt xứ cũng như thế, nghĩa là đều thọ nhận dị thục của tự xứ, thân xứ và sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ. Nghiệp của đắc thân xứ thọ nhận dị thục của sáu xứ, nghĩa là dị thục của thân xứ cùng sắc, hương, vị xúc, pháp xứ. Nghiệp của đắc sắc xứ thọ nhận dị thục của năm xứ, nghĩa là dị thục của sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ. Nghiệp của đắc hương, vị, xúc xứ cũng như thế, nghĩa là đều thọ nhận dị thục của sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Những gì đã nói như thế là nhất định đắc hay không nhất định đắc, số đó không nhất định. Tuy nhiên, có nghiệp có thể thọ nhận dị thục của tám xứ, có nghiệp có thể thọ nhận dị thục của chín xứ, có nghiệp có thể thọ nhận dị thục của mười xứ, có nghiệp có thể thọ nhận dị thục của mười một xứ, đều trừ thanh xứ.

Hỏi: Vì sao có nghiệp có thể thọ nhận dị thục của nhiều xứ? Có nghiệp có thể thọ nhận dị thục của ít xứ?

Đáp: Nếu nghiệp có các thứ công năng đạt được các thứ quả thì thọ nhận dị thục của nhiều xứ. Nếu nghiệp không có các thứ công năng không đạt được các thứ quả thì thọ nhận dị thục của ít xứ. Như hạt giống bên ngoài có các thứ công năng, được các thứ quả: Là như lúa tẻ, mía, bồ đào, ngó sen v.v… Không có các thứ công năng, không có được các thứ quả: Là như hạt Tố chước ca đa la v.v… Nghĩa là trong đầm có cỏ gọi là Tố chước ca, chỉ một hạt giống, một cành mà cao đến vài thước, bên trên có một ít lá, hình dáng trông như chiếc lọng. Có cây Đa la cao quá một trăm khuỷu tay, bên trên cũng thưa thớt lá, hình dáng trông như chiếc lọng, gốc cây tuy lớn, nhưng quả hạt thì rất ít. Nghiệp cũng như thế. Nhưng nghiệp của một đời được quả của ba đời, không có nghiệp của ba đời được quả của một đời. Nghiệp trong một sát-na được quả trong nhiều sát-na. Không có nghiệp trong nhiều sát-na được quả trong một sát-na, vì quả của nghiệp thiện, bất thiện là vô ký. Như quả đã sinh, nhân không diệt.

Hỏi: Các người tạo nghiệp là trước tạo dẫn phát chúng đồng phần hay là trước tạo mãn nghiệp chúng đồng phần?

Đáp: Có thuyết nói: Trước tạo dẫn nghiệp, sau tạo mãn nghiệp. Nếu trước không dẫn thì sau không có gì để mãn. Cũng như thợ vẽ, trước hết phác họa vị trí làm mẫu, sau đó mới tô điểm thêm cho rực rỡ. Đây cũng như thế.

Có Sư khác cho: Trước tạo mãn nghiệp, sau tạo dẫn nghiệp. Như Bồ-tát trước ở trong ba vô số kiếp tạo mãn nghiệp xong, về sau ở trong trăm đại kiếp mới tạo nên dẫn nghiệp.

Nên nói như thế này: Sự việc ấy là không nhất định. Hoặc có trước tạo dẫn nghiệp, sau tạo mãn nghiệp. Hoặc có trước tạo mãn nghiệp, sau tạo dẫn nghiệp, tùy thuộc vào người tạo nghiệp dấy khởi ý lạc.

Lại nữa, có ba thứ nghiệp thọ nhận dị thục: 1. Nghiệp thuận hiện pháp thọ. 2. Nghiệp thuận thứ sinh thọ. 3. Nghiệp thuận hậu thứ thọ.

Nghiệp thuận hiện pháp thọ: Nghĩa là nếu nghiệp nơi đời này đã tạo tác tăng trưởng, tức nơi đời này thọ nhận quả dị thục, không phải nơi đời khác.

Nghiệp thuận thứ sinh thọ: Nghĩa là nếu nghiệp nơi đời này đã tạo tác tăng trưởng, tức nơi đời tiếp sau thọ nhận quả dị thục, không phải ở đời khác.

Nghiệp thuận hậu thứ thọ: Nghĩa là nếu nghiệp nơi đời này đã tạo tác tăng trưởng, tức nơi đời thứ ba, hoặc thứ tư về sau như thứ lớp thọ nhận quả dị thục.

Tuy nhiên tiếng dị thục nói lên nhiều thứ nghĩa. Có xứ đẳng lưu gọi là dị thục, như nói: Thọ là dị thục của chi ái. Có xứ nuôi lớn gọi là dị thục, như nói: Thức ăn uống và thuốc thang đạt được dị thục vui. Có xứ sự việc trong mộng gọi là dị thục, như nói: Mộng thấy các loại dị thục như thế như thế. Có xứ dư thiếu gọi là dị thục, như nói: Tinh tú ở nơi đường đi này sẽ có dị thục dư thiếu như thế. Có xứ Phạm vương gọi là dị thục, như nói: Đại tiên! Tôi vẫn chưa đi xem ánh sáng này có dị thục gì? Có xứ dị thục gọi là dị thục, như trong Luận này nói quả dị thục như sắc v.v… gọi là dị thục.

Thục có hai thứ: 1. Đồng loại. 2. Khác loại.

Thục đồng loại, tức quả đẳng lưu. Nghĩa là thiện sinh thiện, bất thiện sinh bất thiện, vô ký sinh vô ký.

Thục khác loại, tức quả dị thục. Nghĩa là thiện, bất thiện sinh quả vô ký. Quả vô ký này từ nhân khác loại thuộc thiện, bất thiện sinh, nên gọi là dị thục.

Hỏi: Nếu loại khác mà thục gọi là quả dị thục, vì sao nơi nẻo ác gọi là không phải thục?

Đáp: Nẻo ác kia cũng là dị thục, nhưng vì chúng thấp kém, nên nói là không phải thục. Như có các vật của nông thôn, thành thị thấp kém, gọi là không phải nông thôn, thành thị v.v…

Lại nữa, vì quá thục nên gọi là không phải thục, như thợ gốm quá vụng nung đốt các chậu sành, vì sử dụng quá nhiều củi, cỏ khô, các vật đựng kia cháy rụi cả, không dùng vào việc trao đổi, cũng gọi là không phải thục. Nẻo ác cũng như thế. Vì quả khổ thái quá, nên gọi là không phải thục.

Lại nữa, nơi nẻo ấy không có dị thục thiện, nên gọi là không phải thục.

Hỏi: Bàng sinh, nẻo quỷ cũng thọ nhận quả thiện, vì sao nẻo ác đều gọi là không phải thục?

Đáp: Vì quả thiện của chúng ít, nên cũng gọi là không có, như sông ít nước cũng gọi không có nước.

Lại nữa, nẻo ác kia tuy có quả thiện, nhưng không có khả năng tu pháp thiện tốt đẹp khác, nên gọi là không phải thục. Ví như nhà nông thu hoạch mùa vụ thiếu kém, cũng gọi là không phải thục. Nhưng thật ra nẻo ác có quả dị thục.

Hỏi: Vì sao pháp hữu lậu bất thiện, thiện có quả dị thục, còn pháp vô lậu, vô ký lại không có quả dị thục?

Đáp: Các duyên của tự tánh có đủ, có thiếu ba thứ không đồng. Như hạt giống bên ngoài, nếu hạt giống cứng chắc, gieo trong thửa ruộng tốt, do có nước tưới và phân ủ rải lên, sức của nhân duyên hội đủ liền sinh mầm. Như thế, tự tánh của các pháp hữu lậu bất thiện, thiện là vững chắc, đặt trong thửa ruộng hữu, dùng nước ái tưới và che phủ bằng các kiết khác, lực của nhân duyên hội đủ, liền sinh mầm hữu lậu. Như hạt giống cứng chắc cất giữ trong lẫm, vì thiếu duyên nước, phân bón, thì không thể sinh mầm. Như thế, pháp hữu vi vô lậu thiện thể tuy chắc thật, nhưng vì thiếu nước ái và các kiết khác thấm nhuần, che phủ thì tuy có mầm cũng không mọc được. Như hạt giống hư mục, tuy gieo nơi thửa ruộng phì nhiêu, đem nước tưới và rải phân ủ mục, nhưng vì thiếu sức của nhân, nên không thể sinh mầm. Như thế các pháp hữu vi vô ký, tuy dùng nước ái và các kiết khác làm thấm nhuần, che phủ, nhưng vì thể yếu kém, nên tuy có mầm cũng không sinh.

Hỏi: Lại do duyên nào các pháp vô lậu không có quả dị thục?

Đáp: Vì không phải là ruộng, không phải là vật chứa đựng, cho đến nói rộng.

Lại nữa, nếu pháp có thể khiến các Hữu, các nẻo sinh, lão, bệnh, tử luôn nối tiếp nhau, nên có quả dị thục. Vì pháp vô lậu có thể khiến cho các Hữu, các nẻo sinh, lão, bệnh, tử hoàn toàn đoạn dứt, nên không có quả dị thục.

Lại nữa, nếu pháp có thể khiến các Hữu, các nẻo dần dần tăng trưởng, nên có quả dị thục. Vì pháp vô lậu có thể khiến cho các Hữu, các nẻo dần dần tổn giảm, nên không có quả dị thục.

Lại nữa, nếu pháp là khổ, các Hữu thế gian sinh, lão, bệnh, tử hướng tới hành tập, nên có quả dị thục. Pháp vô lậu khiến các khổ, các hữu thế gian sinh, lão, bệnh, tử hướng tới hành diệt, nên không có quả dị thục.

Lại nữa, nếu pháp là sự việc của thân kiến, là sự việc điên đảo, là sự việc tham ái, là sự việc tùy miên, có cấu, có độc, có uế, có đục, tùy thuộc khổ, tập đế, rơi vào ba cõi, nên có quả dị thục. Vì các pháp vô lậu không giống với các pháp kia, nên không có quả dị thục.

Lại nữa, nếu pháp vô lậu có dị thục, tức là nhân tốt, được quả thấp kém. Nhân là pháp hữu vi thiện, vô lậu, quả là pháp hữu lậu, vô ký.

Lại nữa, nếu pháp vô lậu có dị thục, tức là Thánh đạo khiến hữu nối tiếp nhau. Vì Thánh đạo nối tiếp Hữu là trái với đạo lý.

Lại nữa, nếu pháp vô lậu có dị thục, thì nơi xứ nào sẽ thọ nhận? Nếu ở cõi dục thì không hợp lý, vì pháp vô lậu không thuộc về cõi dục, như nghiệp của cõi sắc và Vô sắc. Nếu ở cõi sắc cũng không hợp lý, vì pháp vô lậu không thuộc về cõi sắc, như nghiệp của cõi dục, cõi vô sắc. Nếu ở cõi vô sắc cũng không hợp lý, vì pháp vô lậu không thuộc về cõi vô sắc, như nghiệp của cõi dục, cõi sắc. Nếu ở ngoài ba cõi cũng không hợp lý, vì ngoài ba cõi không có xứ riêng.

Lại nữa, Thánh đạo vô lậu đối trị dị thục và nhân dị thục. Nếu lại có thể chiêu cảm quả dị thục, thì còn cần đối trị để đối trị quả dị thục này là vô lậu. Lại chiêu cảm dị thục vì đối trị dị thục kia, lại tu Thánh đạo, tức Thánh đạo kia lại chiêu cảm dị thục. Như thế lần lượt trở thành không cùng tận. Thế thì nên không có giải thoát, xuất ly. Chớ nên phạm lỗi này. Vì thế pháp vô lậu không có quả dị thục.

Lại nữa, nếu pháp vô lậu chiêu cảm dị thục, tức nên hoàn toàn không chứng đắc Niết-bàn. Thánh giả không nên siêng năng tinh tấn tu tập, là vì chiêu cảm pháp sinh tử luân chuyển. Do vậy pháp vô lậu không có quả dị thục.

Hỏi: Lại do duyên gì các pháp vô ký không có quả dị thục?

Đáp: Vì không phải là ruộng, không phải là vật chứa đựng, cho đến nói rộng.

Lại nữa, nếu pháp vô ký có quả dị thục, thì quả dị thục ấy là vô ký, hay là thiện, bất thiện? Nếu là vô ký vì sao gọi dị thục không phải là loại dị thục? Nếu là thiện, bất thiện, cũng không phải dị thục, vì quả dị thục là vô ký.

Lại nữa, nếu pháp vô ký có dị thục, thì quả dị thục này là vô ký, nên có dị thục, tức dị thục kia lại nên có khả năng chiêu cảm quả dị thục khác nữa. Như thế lần lượt trở thành vô cùng. Thế là nên không có giải thoát, xuất ly. Chớ có lỗi lầm này. Vì vậy pháp vô ký không có quả dị thục.

Do những nhân duyên như thế, nên chỉ có các pháp hữu lậu bất thiện, thiện là nhân dị thục.

HẾT – QUYỂN 19