LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 159

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẮC, phần 3

* Các pháp khởi vô sắc thiện thì chúng cùng hợp với tâm thiện chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận ý tưởng cho không có pháp tương ưng, không có sinh lão trụ diệt, không có thoái chuyển, đồng thời làm sáng tỏ lý đúng của Tông chỉ mình là có pháp tương ưng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ hỏi về khởi vô sắc, không hỏi về sắc?

Đáp: Do ý của người tạo luận muốn như vậy. Tùy theo ý muốn của Luận giả để tạo luận, miễn là không trái với pháp tướng, tức không nên nêu vấn nạn.

Có thuyết nói: Nếu pháp trong tất cả cõi, tất cả địa, tất cả bộ, tất cả tâm có thể đạt được, thì trong đây hỏi. Nhưng pháp sắc không phải trong tất cả cõi cho đến không phải trong tất cả tâm có thể đạt được, nên ở đây không hỏi.

Có thuyết cho: Nếu pháp phần nhiều là tâm cùng có, do sức của tâm sinh, tùy tâm chuyển, thì ở đây tức hỏi. Pháp sắc phần nhiều không phải là tâm cùng có, không phải do sức của tâm sinh, không phải tùy tâm chuyển. Như khi khổ pháp trí nhẫn có chín mươi tám tùy miên được khởi, nhưng các đắc kia không phải là nhẫn cùng có, không do sức của nhẫn sinh, không tùy theo nhẫn chuyển, tuy cùng với nhẫn cùng đồng, pháp vô sắc hãy còn không nói chúng và tâm nhẫn đều cùng hợp huống là các pháp sắc, thế nên không hỏi. Ở đây đã nói là pháp vô sắc khởi, cùng hợp với tâm như thiện v.v…, chính là do uy lực của tâm kia đã dẫn các pháp vô sắc.

Hỏi: Các pháp khởi vô sắc thiện thì chúng cùng hợp với tâm thiện chăng?

Đáp: Các pháp khởi vô sắc thiện thì chúng hoặc cùng hợp với tâm thiện, hoặc cùng hợp với tâm bất thiện, hoặc cùng hợp với tâm vô ký.

Thế nào là cùng hợp với tâm thiện? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc thiện.

Vô sắc thiện tương ưng với tâm kia: Nghĩa là tâm sở pháp thiện.

Tâm kia cùng có vô sắc thiện: Nghĩa là pháp ấy có sinh lão trụ vô thường.

Trong đây cũng có đồng loại đắc khởi nhưng lược bớt nên không nói. Phần sau nên căn cứ theo đây để biết.

Thế nào là cùng hợp với tâm bất thiện? Là như tâm bất thiện hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp thiện được khởi.

Tâm bất thiện thoái chuyển thì pháp thiện được khởi: Nghĩa là các bậc Thánh đã lìa nhiễm cõi dục.

Nếu khởi triền nơi hai phẩm hạ hạ, hạ trung của cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm thiện ấy cùng với quả Nhất lai và đạo quả thù thắng hợp cùng bốn uẩn nơi phẩm câu sinh của ưu căn, ố tác thiện, có các đắc cùng khởi.

Nếu khởi triền nơi phẩm hạ thượng, khi thoái chuyển cũng có thể giúp đỡ gia hạnh, nên tâm thiện kia cũng cùng với thiện đắc như trước cùng khởi. Có khi không thể giúp đỡ gia hạnh, là trừ đạo quả Nhất lai thù thắng, tâm kia cùng với thiện đắc khác như trước cùng khởi.

Trong đây vì sao gọi là giúp đỡ gia hạnh, không giúp đỡ gia hạnh? Vì khiến đối với việc tu đoạn, nên gia hạnh kia có thể cần giúp đỡ, khi thế mạnh của phiền não hiện tiền, có khi không thể giúp đỡ.

Nếu khởi triền nơi năm phẩm từ trung hạ cho đến thượng trung, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với quả Dự lưu và đạo quả thù thắng hợp cùng bốn uẩn nơi phẩm cùng sinh của ưu căn, ố tác thiện, có các đắc cùng khởi.

Nếu khởi triền nơi phẩm thượng thượng, khi thoái chuyển cũng có thể giúp đỡ gia hạnh, nên tâm kia cũng cùng với thiện đắc như trước cùng khởi. Có khi không thể giúp đỡ gia hạnh, là trừ đạo quả Dự lưu thù thắng, tâm kia cùng với thiện đắc khác như trước cùng khởi.

Nếu người Nhất lai nơi triền của sáu phẩm trước tùy khởi, vì sao thoái chuyển, trừ phẩm cùng sinh của ưu căn, ố tác thiện đắc, thì tâm kia tùy chỗ thích ứng cùng với thiện đắc khác như trước.

Nếu các phàm phu đã lìa nhiễm cõi dục, tùy khởi triền bất thiện của phẩm nào, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn nơi phẩm cùng sinh của ưu căn, ố tác thiện có các đắc cùng khởi.

Tâm bất thiện sinh pháp thiện được khởi: Nghĩa là từ cõi sắc, cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi dục, do tâm bất thiện khi kiết sinh, nên tâm kia cùng với bốn uẩn thiện sinh đắc của cõi dục có các đắc cùng khởi.

Có thuyết nói: Tâm kia cũng có cùng với một phần văn tư tạo thành bốn uẩn có các đắc cùng khởi.

Thế nào là cùng hợp với tâm vô ký? Là như tâm vô ký hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp thiện được khởi.

Tâm vô ký thoái chuyển pháp thiện được khởi: Nghĩa là bậc A-la-hán khi thoái chuyển căn thắng trụ nơi căn kém, tâm vô ký ấy cùng với phẩm căn kém có thiện đắc cùng khởi. Học thoái chuyển chủng tánh thắng trụ nơi chủng tánh kém cũng như vậy.

Nếu A-la-hán khởi triền của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với quả Bất hoàn và đạo quả thù thắng hợp cùng phần thuận thoái chuyển của Phi tưởng phi phi tưởng xứ có các đắc cùng khởi. Như vậy cho đến khi khởi triền nơi tám phẩm sau của tĩnh lự thứ nhất, tâm kia cùng với quả Bất hoàn và đạo quả thù thắng hợp cùng phần thuận thoái chuyển của tĩnh lự thứ nhất có các đắc cùng khởi.

Nếu khởi triền nơi phẩm thượng thượng của tĩnh lự thứ nhất, khi thoái chuyển, cũng có thể giúp đỡ gia hạnh, nên tâm kia cũng cùng với thiện đắc như trước cùng khởi. Có khi không thể giúp đỡ gia hạnh, là trừ đạo quả Bất hoàn thù thắng, tâm kia cùng với thiện đắc khác như trước cùng khởi.

Nếu người Bất hoàn và các phàm phu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khởi triền của từ Vô sở hữu xứ, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với phần thuận thoái chuyển của Vô sở hữu xứ có các đắc cùng khởi.

Như thế cho đến khởi triền của tĩnh lự thứ nhất, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với phần thuận thoái chuyển của tĩnh lự thứ nhất có các đắc cùng khởi.

Như đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, hoặc đã lìa nhiễm của Thức xứ, cho đến đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, nên biết cũng như vậy.

Nếu các phàm phu đã lìa nhiễm cõi dục, khởi triền hữu thân kiến, biên chấp kiến của cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn nơi phẩm cùng sinh của ưu căn , ổ tác thiện, có các đắc cùng khởi.

Tâm vô ký sinh pháp thiện được khởi: Nghĩa là khi ở nơi địa trên của cõi vô sắc mất, sinh xuống địa dưới, tâm kia cùng với bốn uẩn thiện của địa kia có các đắc cùng khởi. Nếu từ cõi vô sắc và địa của tĩnh lự trên mất, sinh nơi địa của các tĩnh lự dưới, tâm kia cùng với năm uẩn thiện của địa kia có các đắc cùng khởi. Nếu từ cõi sắc và cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi dục, khi kiết hữu thân kiến, biên chấp kiến sinh, tâm kia cùng với bốn uẩn thiện sinh đắc của cõi dục có các đắc cùng khởi.

Có thuyết nói: Tâm kia cũng có cùng với một phần văn, tư tạo thành có các đắc cùng khởi. Nếu từ cõi dục mất, sinh lên hai cõi trên, và khi từ địa dưới của hai cõi trên mất, sinh nơi địa trên, thì tâm kia cùng với bốn uẩn thiện sinh đắc của địa ấy có các đắc cùng khởi.

Hỏi: Nếu như pháp khởi cùng hợp với tâm thiện thì các pháp ấy là vô sắc thiện chăng?

Đáp: Các pháp khởi cùng hợp với tâm thiện thì các pháp ấy hoặc là vô sắc thiện, hoặc là vô sắc vô ký.

Thế nào là vô sắc thiện? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc thiện. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là vô sắc vô ký? Là như tâm thiện thắng tấn pháp vô ký được khởi. Và trụ nơi tâm thiện thì các căn vô ký được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp ấy là đắc sinh lão trụ vô thường.

Tâm thiện thắng tấn pháp vô ký được khởi: Nghĩa là lìa nhiễm cõi dục, đạo vô gián thứ chín diệt, khi đạo giải thoát khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ nhất là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Cho đến lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, đạo vô gián thứ chín diệt, khi đạo giải thoát khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ tư là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Định kim cang dụ diệt, khi tận trí khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Đã lìa nhiễm dục, các bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí khi có đạo gia hạnh.

Có thuyết nói: Và khi có đạo giải thoát, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, dựa vào định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư, khi có đạo gia hạnh, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Khi đạo giải thoát thứ chín dựa vào tất cả địa, tâm kia cùng với quả của bốn tĩnh lự là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Khi các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát dẫn phát năm thông thì tạp tu tĩnh lự. Khi có đạo vô gián, đạo giải thoát trước sau thì khởi bốn vô lượng. Khi đạt được ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, thì khởi vô ngại giải và dựa nơi định vị chí. Cho đến khi tĩnh lự thứ tư tăng trưởng, thì khởi nguyện trí vô tránh, định biên vực. Và khi tăng trưởng thì dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư thì khởi các công đức như không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Cùng khi tăng trưởng thì tâm kia cùng với quả của tĩnh lự, theo chỗ ứng hợp là vô ký nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Và trụ nơi tâm thiện cho đến pháp ấy là đắc sinh lão trụ vô thường: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, cõi sắc, tâm thiện dồi dào, nối tiếp lâu dài, khi khởi đại chủng của các căn được nuôi lớn, tăng ích, thì tâm kia cùng với bốn tướng đã được cùng khởi. Các căn nuôi lớn, đại chủng tăng ích, hỏi đáp giải thích như nơi chương Đại Chủng Uẩn.

Hỏi: Các pháp khởi vô sắc bất thiện thì chúng cùng hợp với tâm bất thiện chăng?

Đáp: Các pháp khởi vô sắc bất thiện thì chúng hoặc cùng hợp với tâm bất thiện, hoặc cùng hợp với tâm vô ký.

Thế nào là cùng hợp với tâm bất thiện? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc bất thiện. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là cùng hợp với tâm vô ký? Là như tâm vô ký hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp bất thiện được khởi.

Tâm vô ký thoái chuyển pháp bất thiện được khởi: Nghĩa là các phàm phu đã lìa nhiễm dục, khởi triền hữu thân kiến, biên chấp kiến ở cõi dục, khi thoái chuyển tâm kia cùng với bốn uẩn bất thiện do kiến đạo, tu đạo đoạn, có các đắc cùng khởi.

Tâm vô ký sinh pháp bất thiện được khởi: Nghĩa là từ cõi sắc và cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi dục, khi do kiết hữu thân kiến, biên chấp kiến sinh, tâm kia cùng với bốn uẩn bất thiện do kiến đạo, tu đạo đoạn, có các đắc cùng khởi.

Hỏi: Nếu như pháp khởi cùng hợp với tâm bất thiện thì các pháp ấy là vô sắc bất thiện chăng?

Đáp: Các pháp khởi cùng hợp với tâm bất thiện thì các pháp ấy hoặc là vô sắc bất thiện, hoặc là vô sắc thiện, hoặc là vô sắc vô ký.

Thế nào là vô sắc bất thiện? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc bất thiện. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là vô sắc thiện? Là như tâm bất thiện hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp thiện được khởi. Điều này như trước đã giải thích về khởi vô sắc thiện cùng hợp với tâm bất thiện.

Thế nào là vô sắc vô ký? Là như tâm bất thiện hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp vô ký được khởi. Cùng trụ nơi tâm bất thiện thì các căn vô ký được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp ấy là đắc sinh lão trụ vô thường.

Tâm bất thiện thoái chuyển pháp vô ký được khởi: Nghĩa là A-lahán khởi triền của cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của tám địa trên do tu đạo đoạn, có các đắc cùng khởi.

Các vị Bất hoàn, nếu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khởi triền ở cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của bảy địa do tu đạo đoạn, có các đắc cùng khởi. Cho đến nếu đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khởi triền ở cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của một địa do tu đạo đoạn, có các đắc cùng khởi.

Các loại phàm phu, nếu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khởi triền bất thiện, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của bảy địa do kiến đạo, tu đạo đoạn, và bốn uẩn vô ký ở cõi dục do kiến đạo đoạn, có các đắc cùng khởi. Cho đến nếu đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khởi triền bất thiện, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của một địa do kiến đạo, tu đạo đoạn, và bốn uẩn vô ký ở cõi dục do kiến đạo đoạn, có các đắc cùng khởi. Nếu đã lìa nhiễm của cõi dục, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, khởi triền bất thiện, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của cõi dục do kiến đạo đoạn, có các đắc cùng khởi.

Tâm bất thiện sinh pháp vô ký được khởi: Nghĩa là ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ mất, sinh nơi cõi dục, do tâm bất thiện khi kiết sinh, tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của bảy địa do kiến đạo, tu đạo đoạn và bốn uẩn vô ký ở cõi dục do kiến đạo đoạn, hai uẩn sắc hành vô ký do tu đạo đoạn, có các đắc cùng khởi.

Có thuyết nói: Cũng cùng với tâm tâm sở vô ký nơi cõi dục do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Nghĩa là khéo thường xuyên hành tập bốn uẩn của đường oai nghi, xứ công xảo, cho đến ở tĩnh lự thứ nhất mất, sinh nơi cõi dục, do tâm bất thiện khi kiết sinh, tâm kia cùng với bốn uẩn vô ký của cõi dục do kiến đạo đoạn và hai uẩn sắc hành vô ký ở cõi dục do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Có thuyết cho: Cũng cùng với tâm tâm sở vô ký ở cõi dục do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi, như đã nói ở trước.

Cùng trụ nơi tâm bất thiện cho đến pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường: Nghĩa là ba mươi bốn tùy miên của các phàm phu và bốn tùy miên của bậc Thánh, tùy theo một tuôn chảy nối tiếp lâu dài, khi khởi khiến đại chủng của các căn được nuôi lớn, tăng ích, tâm kia cùng với bốn tướng đã đắc cùng khởi. Phần còn lại như trước đã nói.

Hỏi: Các pháp khởi vô sắc vô ký thì chúng cùng hợp với tâm vô ký chăng?

Đáp: Các pháp khởi vô sắc vô ký thì chúng hoặc cùng hợp với tâm vô ký, hoặc cùng hợp với tâm thiện, hoặc cùng hợp với tâm bất thiện.

Thế nào là cùng hợp với tâm vô ký? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc vô ký. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là cùng hợp với tâm thiện? Là như tâm thiện thắng tấn pháp vô ký được khởi. Cùng trụ nơi tâm thiện thì các căn vô ký được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp ấy là đắc sinh lão trụ vô thường. Điều này như trước đã giải thích về tâm thiện cùng khởi vô sắc vô ký.

Thế nào là cùng hợp với tâm bất thiện? Là như tâm bất thiện hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp vô ký được khởi.

Cùng trụ nơi tâm bất thiện thì các căn vô ký được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường. Điều này như trước đã giải thích về tâm bất thiện cùng khởi vô sắc vô ký.

Hỏi: Nếu như pháp khởi cùng hợp với tâm vô ký thì các pháp ấy là vô sắc vô ký chăng?

Đáp: Các pháp khởi cùng hợp với tâm vô ký thì các pháp ấy hoặc là vô sắc vô ký, hoặc là vô sắc thiện, hoặc là vô sắc bất thiện.

Thế nào là vô sắc vô ký? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc vô ký. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là vô sắc thiện? Là như tâm vô ký hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp thiện được khởi. Điều này như trước đã giải thích về khởi vô sắc thiện cùng hợp với tâm vô ký.

Thế nào là vô sắc bất thiện? Là như tâm vô ký hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp bất thiện được khởi. Điều này như trước đã giải thích về khởi vô sắc bất thiện cùng hợp với tâm vô ký.

Hỏi: Các pháp khởi vô sắc của cõi dục thì chúng cùng hợp với tâm của cõi dục chăng?

Đáp: Các pháp khởi vô sắc của cõi dục thì chúng hoặc cùng hợp với tâm của cõi dục, hoặc cùng hợp với tâm của cõi sắc, hoặc cùng hợp với tâm của cõi vô sắc, hoặc cùng hợp với tâm không hệ thuộc.

Thế nào là cùng hợp với tâm của cõi dục? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc của cõi dục.

Tâm kia tương ưng với vô sắc của cõi dục: Nghĩa là tâm sở pháp của cõi dục.

Tâm kia cùng có vô sắc của cõi dục: Nghĩa là pháp kia là sinh lão trụ vô thường.

Trong đây cũng có đồng loại được khởi, nhưng vì lược bớt nên không nói.

Thế nào là cùng hợp với tâm của cõi sắc? Là như tâm của cõi sắc hoặc sinh, hoặc thắng tấn, thì pháp cõi dục được khởi, cùng trụ nơi tâm của cõi sắc thì các căn của cõi dục được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường.

Tâm của cõi sắc sinh pháp cõi dục được khởi: Nghĩa là ở cõi vô sắc mất, nếu khi sinh ở tĩnh lự thứ tư, thì tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ tư ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Cho đến nếu khi sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, thì tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ nhất ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi. Như ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi sắc, thì ở địa trên mất sinh nơi địa dưới cũng như vậy.

Tâm của cõi sắc thắng tấn pháp cõi dục được khởi: Nghĩa là dùng đạo thế tục lìa nhiễm cõi dục, đạo vô gián thứ chín diệt, khi đạo giải thoát khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ nhất ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Cho đến dùng đạo thế tục lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, đạo vô gián thứ chín diệt, khi đạo giải thoát khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ tư, ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Đã lìa nhiễm dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, khi có đạo thế tục, đạo gia hạnh, tâm kia cùng với tĩnh lự theo chỗ ứng hợp thuộc cõi dục nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Nương vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư, A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, khi có đạo thế tục, đạo gia hạnh, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự, theo chỗ ứng hợp thuộc cõi dục ở nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Khi các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát dẫn phát năm thông và tha tâm trí thông thế tục. Khi có đạo giải thoát thì tạp tu tĩnh lự. Khi tâm trung gian thì khởi bốn vô lượng. Khi đạt ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước thì khởi vô ngại giải, và dựa vào định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư. Khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng thì khởi nguyện trí vô tránh, định biên vực. Và khi tăng trưởng dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư thì khởi các công đức thế tục như không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Và khi tăng trưởng thì tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp thuộc cõi dục ở nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Cùng trụ nơi tâm của cõi sắc cho đến pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, khi nhập định cõi sắc, đại chủng của các căn được nuôi lớn, tăng ích, tâm kia cùng với bốn tướng đã đắc cùng khởi.

Thế nào là cùng hợp với tâm của cõi vô sắc? Là như trụ nơi tâm của cõi vô sắc, các căn của cõi dục được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, khi nhập định nơi cõi vô sắc, đại chủng của các căn được nuôi lớn tăng ích, tâm kia cùng với bốn tướng đã đắc cùng khởi.

Thế nào là cùng hợp với tâm không hệ thuộc? Là như tâm không hệ thuộc thắng tấn pháp cõi dục được khởi, cùng trụ nơi tâm không hệ thuộc thì các căn của cõi dục được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường.

Tâm không hệ thuộc thắng tấn pháp cõi dục được khởi: Nghĩa là khi ba loại trí trụ nơi kiến đạo, tâm kia cùng với ba trí khổ, tập, diệt hiện quán biên đã tu phẩn thế tục trí ở cõi dục có các đắc cùng khởi.

Dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của cõi dục, đạo vô gián thứ chín diệt, khi đạo giải thoát khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ nhất, ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Cho đến dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, đạo vô gián thứ chín diệt, khi đạo giải thoát khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ tư, ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Định kim cang dụ diệt, khi tận trí khởi, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp, ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc. Khi ấy, những pháp thiện của cõi dục đã được có các đắc cùng khởi. Đã lìa nhiễm dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí khi đạt đạo gia hạnh vô lậu.

Có thuyết nói: Cùng khi đạt đạo giải thoát, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, dựa vào định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư, khi có đạo vô lậu, gia hạnh, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp, ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Khi đạo giải thoát thứ chín dựa vào tất cả địa, tâm kia cùng với quả của bốn tĩnh lự ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc. Bấy giờ, những pháp thiện ở cõi dục đã được có các đắc cùng khởi.

Khi khởi tha tâm trí thông vô lậu thì tạp tu tĩnh lự. Khi tâm trước sau thì dựa vào định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư. Khi vô ngại giải vô lậu tăng trưởng, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp ở cõi dục thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Cùng trụ nơi tâm không hệ thuộc, cho đến pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, lúc nhập nơi định vị chí vô lậu cho đến định Vô sở hữu xứ, đại chủng của các căn được nuôi lớn tăng ích, tâm kia cùng với bốn tướng đã đắc cùng khởi.

Hỏi: Nếu như pháp khởi cùng hợp với tâm của cõi dục thì các pháp ấy là vô sắc của cõi dục chăng?

Đáp: Các pháp khởi cùng hợp với tâm của cõi dục thì các pháp ấy hoặc là vô sắc của cõi dục, hoặc là vô sắc của cõi sắc, hoặc là vô sắc của cõi vô sắc, hoặc là vô sắc không hệ thuộc.

Thế nào là vô sắc của cõi dục? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc của cõi dục. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là vô sắc của cõi sắc? Là như tâm của cõi dục hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp cõi sắc được khởi.

Tâm của cõi dục thoái chuyển pháp cõi sắc được khởi: Nghĩa là các bậc Thánh đã lìa nhiễm của cõi sắc, khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp nơi bốn địa của cõi sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Nếu các phàm phu đã lìa nhiễm cõi sắc, khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển tâm kia cùng với pháp của bốn địa nơi cõi sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Tâm của cõi dục sinh pháp cõi sắc được khởi: Nghĩa là từ cõi vô sắc mất, khi sinh nơi cõi dục, tâm kia cùng với pháp của bốn địa nơi cõi sắc do kiến đạo tu đạo đoạn. Cho đến từ tĩnh lự thứ hai mất, khi sinh nơi cõi dục, tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Thế nào là vô sắc của cõi vô sắc? Là như tâm của cõi dục hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp cõi vô sắc được khởi.

Tâm của cõi dục thoái chuyển pháp cõi vô sắc được khởi: Nghĩa là A-la-hán khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của bốn địa nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Nếu người Bất hoàn đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của ba địa nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến đã lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, khi khởi triền nơi cõi dục, thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Nếu các phàm phu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khi khởi triền nơi cõi dục, thoái chuyển, thì tâm kia cùng với pháp của ba địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến đã lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, khi khởi triền nơi cõi dục, thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Tâm của cõi dục sinh pháp cõi vô sắc được khởi: Nghĩa là từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ mất, khi sinh nơi cõi dục, tâm kia cùng với pháp của ba địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến từ Thức vô biên xứ mất, khi sinh nơi cõi dục, tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Thế nào là vô sắc không hệ thuộc? Là như tâm của cõi dục thoái chuyển pháp không hệ thuộc được khởi. Nghĩa là A-la-hán thoái chuyển căn thắng trụ nơi căn kém, tâm của cõi dục kia cùng với phẩm căn kém không hệ thuộc đắc cùng khởi.

Học thoái chuyển chủng tánh thắng trụ nơi chủng tánh kém cũng như vậy.

Nếu các bậc Thánh đã lìa nhiễm cõi dục, khi khởi triền nơi hai phẩm hạ hạ và trung hạ của cõi dục, thoái chuyển, thì tâm kia cùng với quả Nhất lai và đạo thắng quả có các đắc cùng khởi.

Nếu khi khởi triền nơi phẩm hạ thượng, thoái chuyển cũng có thể giúp đỡ gia hạnh, tâm kia cũng cùng với các đắc không hệ thuộc như trước cùng khởi. Có khi không thể giúp đỡ gia hạnh, tâm kia chỉ cùng với quả Nhất lai có các đắc cùng khởi.

Nếu khởi triền nơi năm phẩm từ trung hạ cho đến thượng trung khi thoái chuyển thì tâm kia cùng với quả Dự lưu và đạo thắng quả có các đắc cùng khởi.

Nếu khởi triền nơi phẩm thượng thượng, khi thoái chuyển do cũng có thể giúp đỡ gia hạnh, nên tâm kia cũng cùng với các đắc không hệ thuộc như trước cùng khởi. Có khi không thể giúp đỡ gia hạnh, tâm kia chỉ cùng với quả Dự lưu có các đắc cùng khởi.

Nếu người Nhất lai đối với triền nơi sáu phẩm trước theo đấy khởi thoái chuyển, thế thì tâm kia theo chỗ ứng hợp cũng cùng với các đắc không hệ thuộc như trước cùng khởi.

Hỏi: Tâm cõi dục thắng tấn, pháp không hệ thuộc đắc cũng khởi. Như hoặc do thí, giới, văn, tư, khiến đối với nẻo ác đắc phi trạch diệt, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Có thuyết nói: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Nên nói như vầy: Phi trạch diệt tuy không hệ thuộc, nhưng đắc kia không phải là không hệ thuộc. Trong đây, nói đắc không hệ thuộc khởi, cho nên không nói.

Hỏi: Các pháp khởi vô sắc của cõi sắc thì chúng cùng hợp với tâm của cõi sắc chăng?

Đáp: Các pháp khởi vô sắc của cõi sắc thì chúng hoặc cùng hợp với tâm của cõi sắc, hoặc cùng hợp với tâm của cõi dục, hoặc cùng hợp với tâm của cõi vô sắc, hoặc cùng hợp với tâm không hệ thuộc.

Thế nào là cùng hợp với tâm của cõi sắc? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc của cõi sắc. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là cùng hợp với tâm của cõi dục? Là như tâm của cõi dục hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp cõi sắc được khởi. Điều này như trước đã nói về cùng hợp với tâm của cõi dục khởi vô sắc của cõi sắc.

Thế nào là cùng hợp với tâm của cõi vô sắc? Là như trụ nơi tâm của cõi vô sắc, các căn của cõi sắc được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường. Nghĩa là sinh nơi cõi sắc, khi nhập định nơi cõi vô sắc, đại chủng của các căn được nuôi lớn tăng ích, tâm kia cùng với bốn tướng đã đắc cùng khởi.

Thế nào là cùng hợp với tâm không hệ thuộc? Là như tâm không hệ thuộc thắng tấn pháp cõi sắc được khởi, cùng trụ nơi tâm không hệ thuộc thì các căn của cõi sắc được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường.

Tâm không hệ thuộc thắng tấn pháp cõi sắc được khởi: Nghĩa là khi ba loại trí trụ nơi kiến đạo, tâm kia cùng với ba trí là khổ tập diệt hiện quán biên đã tu phẩm thế tục trí ở cõi sắc có các đắc cùng khởi.

Dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của cõi dục, nếu vô lậu làm gia hạnh thì khi có các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc cùng khởi.

Khi được đạo giải thoát thứ chín, tâm kia cùng với quả của tĩnh lự thứ nhất ở cõi sắc nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, cho đến khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, nếu vô lậu làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc cùng khởi.

Khi được đạo giải thoát sau cùng, tâm kia cũng cùng với quả của tĩnh lự thứ hai cho đến quả của tĩnh lự thứ tư ở cõi sắc nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư và dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư, lìa nhiễm của Không vô biên xứ cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu vô lậu làm gia hạnh và khi được các đạo gia hạnh, tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc cùng khởi.

Định kim cang dụ diệt, khi tận trí sinh, tâm kia cùng với thiện của cõi sắc đã được và khi ấy có các đắc cùng khởi. Tâm kia cũng cùng với quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp ở cõi sắc thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Chưa lìa nhiễm cõi dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, nếu vô lậu làm gia hạnh khi có đạo gia hạnh kia, có thuyết nói: Khi dùng đạo giải thoát, tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc cùng khởi.

Đã lìa nhiễm cõi dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, nếu vô lậu làm gia hạnh, khi được đạo gia hạnh kia, có thuyết nói là khi cùng đạo giải thoát, tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc và quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp ở cõi sắc thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư, khi được đạo vô lậu, gia hạnh, tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc. Và quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp ở cõi sắc thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Khi đạo giải thoát thứ chín dựa vào tất cả địa, tâm kia cùng với những thiện của cõi sắc đã được vào lúc ấy có các đắc. Và quả của bốn tĩnh lự ở cõi sắc thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Khi khởi tha tâm trí thông vô lậu thì tạp tu tĩnh lự. Khi tâm trước sau thì dựa vào định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư. Khi vô ngại giải vô lậu tăng trưởng tức dựa vào các địa kia. Khi khởi niệm trụ vô lậu thì tâm kia cùng với đạo của cõi sắc đã tu ở vị lai có các đắc. Cùng quả của tĩnh lự theo chỗ ứng hợp ở cõi sắc thì nơi phẩm tâm thông quả có các đắc cùng khởi.

Cùng trụ nơi tâm không hệ thuộc, cho đến pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường: Nghĩa là sinh nơi cõi sắc, khi nhập định vị chí vô lậu cho đến định Vô sở hữu xứ, đại chủng của các căn được nuôi lớn tăng ích, tâm kia cùng với bốn tướng đắc kia cùng khởi.

Hỏi: Nếu như pháp khởi cùng hợp với tâm của cõi sắc thì các pháp ấy là vô sắc của cõi sắc chăng?

Đáp: Các pháp khởi cùng hợp với tâm của cõi sắc thì chúng hoặc là vô sắc của cõi sắc, hoặc là vô sắc của cõi dục, hoặc là vô sắc của cõi vô sắc, hoặc là vô sắc không hệ thuộc.

Thế nào là vô sắc của cõi sắc? Là các pháp tương ưng với tâm kia, tâm kia cùng có vô sắc của cõi sắc. Nghĩa như trước đã giải thích.

Thế nào là vô sắc của cõi dục? Là như tâm của cõi sắc hoặc sinh, hoặc thắng tấn, thì pháp cõi dục được khởi. Cùng trụ nơi tâm của cõi sắc thì các căn của cõi dục được nuôi lớn, đại chủng tăng ích, pháp kia là đắc sinh lão trụ vô thường. Điều này như trước đã giải thích về phần khởi vô sắc của cõi dục cùng hợp với tâm của cõi sắc.

Thế nào là vô sắc của cõi vô sắc? Là như tâm của cõi sắc hoặc thoái chuyển, hoặc sinh, thì pháp cõi vô sắc được khởi.

Tâm của cõi sắc thoái chuyển pháp cõi vô sắc được khởi: Nghĩa là khi A-la-hán khởi triền nơi cõi sắc thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của bốn địa nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Các người Bất hoàn đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khi khởi triền nơi cõi sắc thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của ba địa nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến đã lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, khi khởi triền nơi cõi sắc thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Nếu các phàm phu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khi khởi triền nơi cõi sắc thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của ba địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến đã lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, khi khởi triền nơi cõi sắc thoái chuyển thì tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Tâm của cõi sắc sinh pháp cõi vô sắc được khởi: Nghĩa là từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ mất, khi sinh nơi cõi sắc, tâm kia cùng với pháp của ba địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi. Cho đến khi ở Thức vô biên xứ mất, sinh nơi cõi dục, tâm kia cùng với pháp của một địa nơi cõi vô sắc do kiến đạo tu đạo đoạn có các đắc cùng khởi.

Thế nào là vô sắc không hệ thuộc? Là như tâm của cõi sắc hoặc thoái chuyển, hoặc thắng tấn, thì pháp không hệ thuộc được khởi.

Tâm của cõi sắc thoái chuyển pháp không hệ thuộc được khởi: Nghĩa là khi A-la-hán khởi triền nơi cõi sắc thoái chuyển thì tâm kia cùng với quả Bất hoàn và đạo thắng quả có các đắc cùng khởi.

Tâm của cõi sắc thắng tấn pháp không hệ thuộc được khởi: Nghĩa là bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của cõi dục cho đến lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, nếu thế tục làm gia hạnh, khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, tâm kia cùng với pháp không hệ thuộc đã tu vị lai có các đắc cùng khởi.

Dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu thế tục làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh, tâm kia cùng với pháp không hệ thuộc đã tu ở vị lai có các đắc cùng khởi.

Bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí và dựa vào định vị chí, cho đến tĩnh lự thứ tư. A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, nếu thế tục làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh, tâm kia cùng với pháp không hệ thuộc đã tu vị lai có các đắc cùng khởi.

Nếu các bậc Thánh dẫn phát các thông được các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát, và tha tâm trí thông thế tục, khi có đạo giải thoát thì tạp tu tĩnh lự. Khi tâm trung gian hoặc các bậc Thánh khởi bốn vô lượng. Khi đạt ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước thì khởi vô ngại giải, và dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư. Khi vô ngại giải thế tục tăng trưởng thì khởi nguyện trí vô tránh, định biên vực và khi tăng trưởng thì dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư, khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng và bậc Thánh tức dựa vào địa kia, khởi các công đức như quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục v.v… Và khi tăng trưởng thì tâm kia cùng với pháp không hệ thuộc đã tu ở vị lai có các đắc cùng khởi.

Hỏi: Khi tâm của cõi sắc sinh, pháp không hệ thuộc đắc cũng khởi. Như khi ở cõi vô sắc mất, sinh nơi tĩnh lự thứ tư, tâm kia cùng với uẩn của tĩnh lự thứ ba do kiến đạo tu đạo đoạn, trạch diệt đắc cùng khởi, cho đến ở nơi địa trên mất, khi sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, tâm kia cùng với uẩn của cõi dục do kiến đạo tu đạo đoạn, trạch diệt đắc cùng khởi, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Có thuyết nói: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Nên nói như vầy: Khi ấy trạch diệt đã được tuy không hệ thuộc, nhưng các đắc kia là thuộc cõi sắc, không phải là không hệ thuộc, cho nên không nói.

HẾT – QUYỂN 159