LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 48

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ BẤT THIỆN, phần 3

* Có bốn Bộc lưu: Nghĩa là bộc lưu dục, bộc lưu hữu, bộc lưu kiến, bộc lưu vô minh.

Hỏi: Bốn bộc lưu này lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy một trăm lẻ tám sự việc làm tự tánh. Nghĩa là: Bộc lưu dục lấy hai mươi chín sự việc của cõi dục làm tự tánh. Tức tham năm, giận năm, mạn năm, nghi bốn, triền mười. Bộc lưu hữu lấy hai mươi tám sự việc của cõi sắc, cõi vô sắc làm tự tánh. Tức tham mười, mạn mười, nghi tám. Bộc lưu kiến lấy ba mươi sáu sự việc của của ba cõi làm tự tánh. Tức mỗi cõi dục, Sắc, Vô sắc đều có mười hai kiến. Bộc lưu vô minh lấy mười lăm sự việc của ba cõi làm tự tánh. Tức mỗi cõi dục, Sắc, Vô sắc đều có năm bộ vô minh. Do đó, bốn bộc lưu này lấy một trăm lẻ tám sự việc làm tự tánh.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là bộc lưu? Bộc lưu là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa kích động tung tóe, nghĩa từ trên cao tuôn chảy xuống, nghĩa rơi rớt, chìm đắm, là nghĩa của Bộc lưu.

Nghĩa kích động tung tóe là nghĩa của bộc lưu: Tức là các phiền não kích động tung tóe các hữu tình, khiến đối với các cõi, các nẻo, các loài luôn lưu chuyển theo dòng sinh tử.

Nghĩa từ trên cao tuôn chảy xuống là nghĩa của bộc lưu: Tức là các thứ phiền não v.v… từ trên cao đổ xuống hữu tình, khiến họ đối với các cõi, các nẻo, các loài luôn lưu chuyển theo dòng sinh tử.

Nghĩa rơi rớt chìm đắm là nghĩa của bộc lưu: Tức là các hữu tình rơi rớt chìm đắm trong các phiền não v.v… khiến họ đối với các cõi, các nẻo, các loài luôn bị lưu chuyển trong dòng chảy sinh tử.

Hỏi: Nếu nghĩa rơi rớt, đắm chìm v.v… là nghĩa của bộc lưu, thì kiết thuận phần trên tức nên không phải là bộc lưu, vì kiết kia chỉ khiến hữu tình hướng sinh lên cõi trên?

Đáp: Nghĩa thuận phần trên khác với nghĩa của bộc lưu. Nghĩa là căn cứ vào cõi, địa để lập kiết thuận phần trên, kiết đó khiến hữu tình hướng đến địa cõi trên. Còn dựa vào đạo giải thoát để lập bộc lưu, tuy sinh ở cõi Hữu đảnh, nhưng vẫn khiến hữu tình luôn đắm chìm trong biển sinh tử, không đến được giải thoát và Thánh đạo.

Tôn giả Diệu Âm nói: Tuy đã từ lâu hữu tình được sinh lên cõi trên, nhưng vì bị nổi trôi, đắm chìm theo bộc lưu, khiến thoái chuyển nơi phẩm thiện.

Tôn giả Tả Thọ nói: Ở đây, số hạng phiền não tăng thượng trông như dòng thác chảy xiết nên gọi là bộc lưu.

Hỏi: Vì sao lập riêng kiến là Bộc lưu, Ách, Thủ, mà không lập riêng là kiến lậu?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Đức Phật nhận biết rõ về công dụng, thế mạnh nơi tánh, tướng của các pháp. Nếu pháp nào có thể nhận giữ việc lập riêng thì cho lập riêng, nếu không như vậy thì lập chung.

Lại nữa, các kiến có hành tướng vội vã, mãnh liệt, đối với nghĩa lưu giữ dừng trú, vì không tùy thuận, để cùng kết hợp với các phiền não chậm độn khác lập làm dục lậu, hữu lậu. Vì cùng với tướng của nghĩa kích động, tung tóe tùy thuận, thế nên lập riêng là bộc lưu.

Ách, thủ như một cỗ xe kéo được đóng kỹ v.v… vì tánh của hai con bò đều vội vã, gấp rút, nên chiếc xe v.v… tất bị hoại. Nếu hai con bò kia, một chậm, một nhanh, sẽ chế ngự nhau thì xe không bị hư hại. Vì vậy nên không lập riêng kiến làm kiến lậu.

Lại nữa, vì tánh của kiến thì vội vã, chuyển động, thuận với pháp lìa nhiễm, không thuận với sự lưu giữ dừng lại, thế nên kết hợp với các phiền não chậm độn khác lập thành lậu. Đối với nghĩa kích động, tung tóe, vì thuận với nhau, nên thiết lập riêng là bộc lưu, ách, thủ.

Hỏi: Nếu kiến mang tánh vội vã, chuyển động, thuận với pháp lìa nhiễm thì không nên lập làm bộc lưu, ách, thủ, vì bộc lưu v.v… thuận với sự chìm đắm?

Đáp: Vì chê trách ngoại đạo vướng mắc nơi các kiến, nên lập riêng các kiến là bộc lưu v.v… Nghĩa là các ngoại đạo tùy ý sinh khởi nơi chốn kiến chấp theo cảnh cầu tìm tà vạy, nên quanh quẩn trong vòng sinh tử, còn bị chìm đắm mãi không hẹn ngày ra khỏi. Ví như con voi già bị lún trong vũng bùn lầy, chỉ nhúc nhích là càng lún sâu thêm nữa.

Luận giả Phân Biệt nói: Có bốn lậu, là dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, vô minh lậu. Đối với Tông chỉ của Luận đó không cần nêu hỏi đáp.

***

* Có bốn Ách: Nghĩa là ách dục, ách hữu, ách kiến và ách vô minh.

Về tự tánh của Ách này, như nói về Bộc lưu, nhưng về nghĩa có khác. Nghĩa trôi nổi, chìm đắm là nghĩa của Bộc lưu. Nghĩa hòa hợp là nghĩa của Ách. Nghĩa là các hữu tình bị chìm nổi do bốn thứ Bộc lưu xong, lại bị bốn Ách hòa hợp với thân mạng tạo sự hệ thuộc và trở ngại, nên có thể gánh vác khổ não nặng nề của sinh tử. Như con bò kéo xe cộ phải mang ách vào cổ, được thắt chặt do các dây cổ, dây thắng mới có thể kéo vật chở nặng. Vì thế nên tất cả xứ đều nói Bộc lưu xong là nói tiếp về nghĩa của Ách, vì hai nghĩa gần nhau.

***

* Có bốn Thủ: Nghĩa là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ.

Hỏi: Bốn thủ này lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy một trăm lẻ tám sự việc làm tự tánh. Nghĩa là: Dục thủ lấy ba mươi bốn sự việc nơi cõi dục làm tự tánh. Tức tham năm, giận năm, mạn năm, vô minh năm, nghi bốn, triền mười. Kiến thủ lấy ba mươi sự việc của ba cõi làm tự tánh. Tức là mỗi kiến của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc đều có mười. Giới cấm thủ lấy sáu sự việc của ba cõi làm tự tánh. Tức giới cấm thủ của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc đều có hai. Ngã ngữ thủ lấy ba mươi tám sự việc của cõi sắc, cõi vô sắc làm tự tánh. Tức là tham mười, mạn mười, vô minh mười, nghi tám. Như thế là bốn thủ này lấy một trăm lẻ tám sự việc làm tự tánh.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là thủ?

Đáp: Là do ba sự việc nên gọi là thủ: 1. Nắm giữ. 2. Thu nhặt. 3. Chọn lựa.

Lại do hai sự việc nên gọi là thủ: 1. Có thể làm cho nghiệp bùng cháy. 2. Hành tướng mãnh liệt. Có thể làm cho nghiệp bùng cháy: Là thủ làm cho lửa nghiệp của hữu tình trong năm nẻo luôn bùng cháy. Hành tướng mãnh liệt: Là hành tướng của các thủ rất mạnh mẽ, nhanh nhẹn.

Hỏi: Thủ là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa của củi là nghĩa của thủ. Như duyên nơi củi, nên lửa mới bắt cháy được. Hữu tình cũng thế, phiền não là duyên, nghiệp mới có thể bùng cháy.

Lại nữa, nghĩa buộc bọc là nghĩa của thủ. Như con tằm làm kén, tự buộc, tự bọc cho đến ở mãi trong ấy để tự nhận lấy cái chết. Hữu tình cũng thế, khởi các phiền não để tự buộc, tự bọc lấy, chịu tổn thương về tuệ mạng trong hang ổ phiền não đó, lần lượt cho đến bị đọa vào các ác.

Lại nữa, nghĩa gây tổn hại là nghĩa của thủ. Như một loại gai độc bén nhọn, đâm vào thân là thân bị tổn hại. Hữu tình cũng thế, phiền não nhọn độc đâm vào pháp thân là pháp thân liền hoại.

Hỏi: Vì sao vô minh được lập riêng làm Lậu, Bộc lưu, Ách, mà không lập riêng làm Thủ?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật đã nhận biết rõ về công dụng, thế mạnh nơi tánh tướng của các pháp, nếu đối với pháp này có thể lập riêng thì lập riêng, nếu không thể thì kiến lập chung. Do vậy không nên vấn nạn.

Lại nữa, trước nói do ba sự việc nên gọi là thủ, đó là nắm giữ, thu nhặt và chọn lựa. Vô minh tuy có hai sự việc trước, nhưng không có sự việc thứ ba, nên không lập riêng làm thủ, vì vô minh ngu tối, nên không thể lựa chọn các pháp.

Lại nữa, trước nói do hai sự việc nên gọi là thủ, đó là có thể khiến nghiệp bùng cháy và hành tướng mãnh liệt. Vô minh tuy có thể khiến nghiệp bùng cháy, nhưng không có hành tướng mãnh liệt, nhạy bén, nên không lập riêng làm thủ, vì vô minh chậm độn, không thể quyết đoán về các pháp.

Hỏi: Vì sao trong năm kiến bốn kiến được hợp lập làm kiến thủ, còn một kiến thì lập riêng là giới cấm thủ?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật đã nhận biết rõ công dụng, thế mạnh nơi tánh, tướng của các pháp. Nếu ở trong kiến có thể lập riêng thì lập riêng kiến, nếu không thì lập chung, do vậy không nên vấn nạn.

Lại nữa, trước nói do hai sự việc nên gọi là thủ: Là có thể khiến nghiệp bùng cháy và hành tướng mãnh liệt, nhanh nhạy. Hữu tình trong năm nẻo do giới cấm thủ đã làm bùng cháy các nghiệp như bốn kiến kia v.v… nên lập riêng làm thủ.

Tôn giả Diệu Âm nói: Hữu tình trong năm nẻo do giới cấm thủ làm bùng cháy các nghiệp thế dụng càng nhanh chóng, thêm nặng, thêm gần gũi hơn hẳn bốn kiến khác, nên lập riêng làm thủ.

Lại nữa, vì giới cấm thủ trái ngược với Thánh đạo, xa lìa giải thoát nên lập riêng làm thủ. Trái ngược với Thánh đạo: Vì giới cấm thủ xả bỏ chân Thánh đạo, vọng chấp các lối khổ hạnh phi lý, cho đó là có thể đưa đến thanh tịnh. Như bỏ ăn uống, nằm trên tro than, ngửa mặt nhìn mặt trời xê dịch, hớp lấy không khí như uống nước. Hoặc chỉ ăn trái cây, hay chỉ ăn toàn rau cải. Hoặc mặc áo rách, hay lõa hình. Họ chấp làm những việc như thế đều có thể đạt được thanh tịnh. Xa lìa giải thoát: Là tu hành khổ hạnh theo tà đạo như thế như thế là xa lìa giải thoát.

Lại nữa, vì giới cấm thủ lừa dối hai đạo nội, ngoại, nên lập riêng là thủ. Lừa dối nội đạo: Như chấp rửa sạch, thọ trì mười hai công đức Đầu-đà là có thể chứng đắc thanh tịnh. Lừa dối ngoại đạo: Như chấp những lối tu khổ hạnh phi lý như trước đã nói là có thể đạt được thanh tịnh.

Tôn giả Diệu Âm nói: Giới cấm thủ này hiện thấy sinh khổ như ngọn lửa cháy bùng, lừa dối hai đạo, như mê hoặc trẻ con, nên lập riêng là thủ.

Hỏi: Vì sao gọi là ngã ngữ thủ? Vì do hành tướng hay là do đối tượng duyên? Nếu do hành tướng thì Tát-ca-da-kiến (Hữu thân kiến) nên gọi là ngã ngữ thủ, vì chuyển biến theo hành tướng của ngã. Nếu do đối tượng duyên thì các pháp vô ngã làm sao có thể nói là ngã ngữ thủ?

Đáp: Không do hành tướng cũng không do đối tượng duyên để gọi là ngã ngữ thủ, vì sẽ có lỗi như trước. Tuy nhiên, phiền não của cõi dục trừ kiến lập thành dục thủ. Phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc, trừ kiến lập thành ngã ngữ thủ.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp: Vì phiền não của cõi dục dựa vào dâm dục chuyển, dựa vào cảnh giới chuyển, dựa vào các vật dụng chuyển, dựa vào thân người khác chuyển, nên lập làm dục thủ. Phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc mâu thuẫn với dục thủ kia, vì dựa nơi bên trong dấy khởi, nên lập làm ngã ngữ thủ.

Lại nữa, phiền não của cõi dục lúc chiêu cảm nội thân, cần dâm dục, cần cảnh giới, cần các vật dụng, cần người thứ hai, nên lập làm dục thủ. Phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc lúc chiêu cảm nội thân thì mâu thuẫn với dục thủ kia, nên lập làm ngã ngữ thủ.

Lại nữa, phiền não của cõi dục lúc chiêu cảm nội thân chỉ dựa vào phi định, phần nhiều là nhân nơi môn ngoài, sự việc ngoài, nên lập làm dục thủ. Phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc lúc chiêu cảm nội thân chỉ dựa nơi định, phần nhiều là nhân nơi môn trong, sự việc trong, nên lập làm ngã ngữ thủ.

Lại nữa, phiền não của cõi dục không thể chiêu cảm được thân hình to lớn, thọ mạng lâu dài, nên lập làm dục thủ. Phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc có thể chiêu cảm được thân hình to lớn. Như cõi trời Sắc cứu cánh, thân cao một vạn sáu ngàn do-tuần, cũng có thể chiêu cảm được thọ mạng lâu dài như Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ mạng đến tám vạn đại kiếp. Do vậy, phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc được lập làm ngã ngữ thủ.

Hỏi: Vì sao dục lậu, bộc lưu, ách, thủ cũng gồm thâu các triền, còn trong hữu lậu v.v… hoàn toàn không gồm thâu chúng?

Đáp: Có thuyết nói: Hữu lậu cho đến trong ngã ngữ thủ cũng gồm thâu các triền. Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là hữu lậu? Nghĩa là các kiết phược tùy miên tùy phiền não, triền còn lại nơi cõi sắc, cõi vô sắc, trừ vô minh, đó gọi là hữu lậu. Tức bộc lưu hữu, ách và ngã ngữ thủ cũng nên thâu tóm triền. Nên nói như vầy: Cõi trên ít triền, không tự tại, nên không nói là hữu lậu, cho đến ngã ngữ thủ nơi cõi dục, tuy nhiều, nhưng do kiến đạo đoạn, vì không đầy đủ, không tự tại, nên chỉ nói chung là mười triền, không nói riêng về năm bộ.

Hỏi: Các phiền não cấu vì sao không nói là lậu?

Đáp: Có thuyết cho: Chúng cũng được nói là dục lậu. Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là dục lậu? Là các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền còn lại của cõi dục, trừ vô minh, đó gọi là dục lậu, cho đến nói rộng.

Như thế, tùy phiền não tức là phiền não cấu. Nên nói như vầy: Phiền não cấu thì thô, không trụ vững, nên không nói là lậu v.v… Bất tín, lười biếng, phóng dật cũng do quá nhẹ, nhỏ, nên không nói là lậu v.v… Như Khế kinh nói: Bốn thủ như thế, vô minh là nhân, vô minh là tập, là loại vô minh từ vô minh sinh.

Hỏi: Kinh khác đều nói: Ái là duyên của thủ, vì sao kinh này lại nói như thế?

Đáp: Vì dựa vào nhân gần, nên nói ái là duyên của thủ. Vì dựa nơi nhân xa nên nói vô minh là nhân của thủ v.v… Như nhân gần – nhân xa, ở nơi này – ở nơi kia, hiện tiền – không hiện tiền, chúng đồng phần này – chúng đồng phần khác, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, vì căn cứ vào nhân đồng loại, nên nói ái là duyên của thủ. Vì căn cứ vào nhân biến hành, đồng loại, nên nói vô minh là nhân của thủ v.v…

Lại nữa, vì phá bỏ lối chấp hẹp hòi, sai lầm của ngoại đạo, nên nói vô minh là nhân của thủ v.v… Nghĩa là các ngoại đạo tuy đã bỏ nhà ở, không nhận lấy, không chứa cất, siêng tu khổ hạnh, nhưng do vì không có trí, vướng chấp nơi chốn kiến, rơi vào đường ác hiểm, không mong gì thoát khỏi, nên nói vô minh là nhân của thủ v.v…

Hỏi: Ái tức được gồm thâu trong dục thủ v.v… vì sao vừa nói ái là duyên của thủ?

Đáp: Tức tùy miên tham mới sinh khởi gọi là ái, về sau gia tăng gọi là thủ, nên không mâu thuẫn.

Lại nữa, vì tùy miên tham thuộc phẩm hạ gọi là ái, thuộc phẩm trung, phẩm thượng gọi là thủ, nên không mâu thuẫn.

***

* Có bốn sự trói buộc thân: Nghĩa là tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân, giới cấm thủ trói buộc thân, chấp cho đó là thật trói buộc thân.

Hỏi: Bốn sự trói buộc thân này lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy hai mươi tám sự việc làm tự tánh. Nghĩa là mỗi sự tham dục, giận dữ trói buộc thân đều có năm bộ nơi cõi dục là mười sự việc. Giới cấm thủ trói buộc thân trong ba cõi, mỗi cõi đều có hai bộ là sáu sự việc. Chấp cho đó là thật trói buộc thân trong ba cõi, mỗi cõi đều có bốn bộ là mười hai sự việc. Hai mươi tám sự việc đó là tự tánh của bốn sự trói buộc thân.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Do đâu gọi là sự trói buộc thân? Trói buộc thân là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa cột chặt thân, nghĩa kiết sinh là nghĩa của trói buộc thân.

Nghĩa cột chặt thân là nghĩa của trói buộc thân: Nghĩa là bốn thứ ấy ở trong sinh tử đã trói buộc thân hữu tình, cùng trói buộc, trói buộc khắp. Như Luận Tập Dị Môn nói: Tham dục trói buộc thân, chưa đoạn, chưa nhận biết khắp, nên đối với vô số thân kia, hình kia và những gì nơi mỗi thân có được, làm tự Thể, làm nhân, làm duyên, làm hệ thuộc, cùng hệ thuộc, hệ thuộc khắp, là sự nối kết tương tục của kiết. Như thợ kết tràng hoa, hoặc học trò của ông ta, góp nhặt các thứ hoa đặt vào một chỗ, rồi dùng chỉ tơ kết thành các thứ tràng hoa. Chỉ tơ với tràng hoa là nhân, là duyên, là kết buộc, là đều kết buộc, là cùng buộc khắp, là sự nối kết tiếp nhau. Ba thứ trói buộc thân còn lại, nói rộng cũng như thế.

Nghĩa kiết sinh là nghĩa của trói buộc thân: Như Khế kinh nói: Vì ba sự việc hợp lại nên được vào thai mẹ: 1. Cha mẹ cùng có tâm nhiễm. 2. Người mẹ kia không có bệnh lúc gặp nhau. 3. Kiện-đạtphược chính thức hiện tiền.

Bấy giờ, Kiện-đạt-phược (Trung hữu) có hai tâm yêu, giận lần lượt hiện tiền mới được kiết sinh, nên nghĩa kiết sinh là nghĩa của trói buộc thân.

Hỏi: Nếu nghĩa cột chặt thân v.v… là nghĩa của trói buộc thân, thì các phiền não v.v… khác cũng có nghĩa này, vì sao không lập là sự trói buộc thân?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là Đức Thế Tôn quán sát hữu tình được giáo hóa nên nói tóm lược chưa trọn vẹn.

Hiếp Tôn giả nói: Đức Phật đã nhận biết rõ về công dụng, thế mạnh của tướng tánh nơi các pháp, vì vậy nếu pháp nào có thể lập làm trói buộc thân thì kiến lập, nếu không thì thôi, do vậy không nên vấn nạn.

Tôn giả Diệu Âm nói: Đức Phật nhận biết rõ bốn thứ trói buộc này đã buộc lấy thân hữu tình, cùng buộc, buộc khắp với thế mạnh, lực dụng nhanh chóng, càng nặng càng gần, vượt hơn các phiền não khác, nên lập riêng.

Lại nữa, bốn thứ trói buộc thân này đã buộc lấy thân trong hai bộ vượt hơn các phiền não khác, vì thế nên lập riêng. Nghĩa là hai thứ trói buộc thân trước (tham dục, giận dữ) buộc lấy thân của hàng tại gia vượt hơn các phiền não khác. Hai thứ trói buộc thân sau (giới cấm thủ, chấp cho đó là thật) buộc lấy thân người xuất gia vượt hơn các phiền não khác. Như người tại gia – xuất gia, thì các thứ có nhà cửa – không có nhà cửa, có thu nhận – không thu nhận, có chứa nhóm – không chứa nhóm, có quyến thuộc – không quyến thuộc, có xa lìa – không xa lìa, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bốn thứ trói buộc thân này buộc lấy thân vào ba cõi, vượt hơn các phiền não khác, do vậy nên lập riêng. Nghĩa là hai thứ trói buộc thân đầu trói buộc thân của cõi dục, vượt hơn phiền não khác. Hai thứ trói buộc thân sau trói buộc thân của cõi sắc,Vô sắc, vượt hơn phiền não khác.

Lại nữa, bốn thứ trói buộc thân này sinh khởi hai căn tranh chấp, vượt hơn phiền não khác, vì thế nên lập riêng. Nghĩa là hai thứ trói buộc thân trước sinh khởi căn tranh chấp nhau là ái. Hai thứ trói buộc thân sau khởi căn tranh chấp nhau là kiến. Như Khế kinh nói: Phạm chí bưng bình bát chống gậy đến gặp Tôn giả Đại Ca Đa Diễn Na, hỏi: Do nhân duyên nào mà Sát-đế-lợi tranh chấp với Sát-đế-lợi? Bà-lamôn tranh chấp với Bà-la-môn? Phệ-xá tranh chấp với Phệ-xá, Thúđạt-la tranh chấp với Thú-đạt-la? Tôn giả đáp: Do tham, giận, ái là nguồn gốc của mọi tranh chấp, nên cùng dấy khởi sự tranh giành xâu xé lẫn nhau. Phạm chí lại hỏi: Vì nhân duyên nào mà những người xuất gia không nhà, không cửa, không thu nhận, không chứa nhóm, mà vẫn đối mặt tranh chấp với nhau? Tôn giả đáp: Chính là giới cấm thủ, cùng chấp kiến giải này thật, là gốc của mọi tranh chấp, nên cùng tạo ra các cuộc tranh cãi, đối kháng. Như hai căn tranh chấp, thì hai biên, hai mũi tên, hai hý luận, hai ngã chấp, nên biết cũng như thế.

Có thuyết nói: Trong đây là hiện bày môn, hiện bày sự tóm lược, hiện bày sự dẫn nhập, nên chỉ nói bốn. Nghĩa là các phiền não hoặc chỉ do kiến đạo đoạn, hoặc chung cho cả kiến đạo, tu đạo đoạn. Như nói hai thứ trói buộc sau của thân, nên biết là nói chung, chỉ do kiến đạo đoạn. Như nói hai thứ trói buộc trước của thân, nên biết là nói chung cho cả kiến đạo, tu đạo đoạn.

Lại nữa, các phiền não hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành. Nếu nói hai thứ trói buộc sau của thân, nên biết là nói chung về biến hành. Nếu nói hai thứ trói buộc trước của thân, nên biết là nói chung về không phải là biến hành.

Lại nữa, các phiền não hoặc tánh là kiến, hoặc tánh không phải là kiến. Nếu nói hai thứ trói buộc sau của thân, nên biết là nói chung về tánh là kiến. Nếu nói hai thứ trói buộc trước của thân, nên biết là nói chung về tánh không phải là kiến.

Lại nữa, các phiền não hoặc chỉ hiện hành nơi phàm phu, hoặc hiện hành chung cả phàm phu và Thánh. Nếu nói hai thứ trói buộc sau của thân, nên biết là nói chung về các phiền não chỉ hiện hành ở phàm phu. Nếu nói hai thứ trói buộc trước của thân, nên biết là nói chung về các phiền não hiện hành ở phàm và Thánh.

Lại nữa, các phiền não hoặc có hành huyển biến vui, hoặc có hành huyển biến buồn. Nếu nói giận dữ trói buộc thân, nên biết là nói chung về hành tướng chuyển biến buồn. Nếu nói ba thứ trói buộc thân khác, nên biết là nói chung về hành tướng chuyển biến vui.

Lại nữa, các phiền não hoặc chỉ thuộc cõi dục, hoặc thuộc chung ba cõi. Nếu nói hai thứ trói buộc đầu của thân, nên biết là nói chung về loại chỉ thuộc cõi dục. Nếu nói hai thứ trói buộc sau của thân, biết là nói chung về các loại thuộc cả ba cõi. Do vì hiện bày môn, hiện bày sự tóm lược, dẫn nhập nên Khế kinh chỉ nói bốn thứ trói buộc thân.

***

* Có năm cái: Nghĩa là tham dục, giận dữ, hôn trầm – thùy miên, trạo cử – ố tác và nghi.

Hỏi: Năm cái này lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy ba mươi sự việc của cõi dục làm tự tánh: Nghĩa là tham dục, giận dữ, mỗi thứ đều có năm bộ nơi cõi dục, thành mười sự việc. Hôn trầm, trạo cử mỗi thứ đều có năm bộ của ba cõi, chung cho cả bất thiện, vô ký, chỉ bất thiện mới lập làm cái, là mười sự việc. Thùy miên chỉ có năm bộ nơi cõi dục, chung cho cả thiện, bất thiện, vô ký, chỉ bất thiện mới lập làm cái, là năm sự việc. Ố tác chỉ ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ, chung cho cả thiện, bất thiện, chỉ bất thiện mới lập làm cái, là một sự việc. Nghi chung cho bốn bộ nơi ba cõi, chung cho cả bất thiện, vô ký, chỉ bất thiện mới lập làm cái, là bốn sự việc. Như vậy năm cái này lấy ba mươi sự việc của cõi dục làm tự tánh.

Hỏi: Cái có tướng gì?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Tự tánh tức là tướng, tướng tức là tự tánh. Do tự tánh của tất cả pháp cùng tướng của chúng đều không lìa nhau. Lại nữa, đam mê cầu các dục là tướng của tham dục. Ghét giận hữu tình là tướng của giận dữ. Thân tâm chìm ẩn là tướng của hôn trầm. Thân tâm chao động là tướng của trạo cử. Khiến tâm mù mờ mê muội là tướng thùy miên. Khiến tâm đổi thay hối tiếc là tướng của ố tác. Khiến hành tướng của tâm do dự không quyết định là tướng của nghi.

Đã nói về tự tánh và tướng của cái. Về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là cái? Cái là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chướng ngại, nghĩa che lấp, nghĩa phá vỡ, nghĩa hư hoại, nghĩa rơi rụng, nghĩa nằm xuống là nghĩa của cái.

Trong đây, nghĩa chướng ngại là nghĩa của cái: Tức cái làm chướng ngại Thánh đạo, gây chướng ngại cho căn thiện gia hạnh của Thánh đạo, nên gọi là cái.

Nghĩa che lấp cho đến nghĩa nằm xuống là nghĩa của cái: Như Khế kinh nói: Có năm đại thọ hạt giống tuy nhỏ, nhưng cành nhánh, tàng cây của nó to lớn, che rợp các cây nhỏ khác chung quanh, khiến cho toàn bộ các cây nhỏ kia đều gẫy đổ, ngã nằm xuống, không sinh hoa quả. Năm hạt giống đó là: 1. Tên là Kiến-chiết-na. 2. Tên là Kiếp-tí-đát-la. 3. Tên là A-thấp-phược-kiện-đà. 4. Tên là Ô-đàm-bạtla. 5. Tên là Nặc-cồ-đà. Cũng vậy, cây tâm của hữu tình nơi cõi dục bị che lấp do năm cái ấy, phá hoại, làm rơi xuống, nằm vắt ngang, không thể sinh trưởng hoa bảy chi giác và bốn quả Sa-môn, nên nghĩa che lấp v.v… là nghĩa của cái.

Hỏi: Nếu tạo chướng ngại Thánh đạo và gây chướng ngại cho căn thiện gia hạnh của Thánh đạo là nghĩa của cái, thì các phiền não khác v.v… cũng có nghĩa này. Vì sao Đức Thế Tôn không nói là cái?

Đáp: Có thuyết cho: Đây là Đức Thế Tôn vì người được giáo hóa, nên nói tóm lược chưa được trọn vẹn.

Hiếp Tôn giả nói: Đức Phật đã nhận biết rõ về công dụng, thế mạnh nơi tánh, tướng của các pháp. Nếu pháp nào có tướng của cái nên lập là cái. Nếu pháp nào không có tướng của cái thì không nên lập, do vậy không nên vấn nạn.

Tôn giả Diệu Âm nói: Đức Phật đã nhận biết rõ năm cái này đều có thể gây chướng ngại Thánh đạo và che lấp căn thiện gia hạnh của Thánh đạo, có công dụng, thế mạnh rất nhanh, rất nặng, thân cận vượt hơn các pháp khác, nên lập riêng làm cái.

Lại nữa, năm cái như thế, lúc là nhân, lúc là quả, đều có thể gây nên chướng ngại, nên lập riêng làm cái. Gây chướng ngại lúc là nhân: Tức là khi chỉ đi theo một trong năm cái này là tâm hãy còn không thể khởi pháp hữu lậu thiện, vô ký, huống chi là Thánh đạo. Gây chướng ngại lúc là quả: Là vì năm cái này khiến con người rơi vào nẻo ác, gây chướng ngại chung cho hết thảy công đức.

Lại nữa, năm cái như thế, đa số hữu tình ở cõi dục hiện khởi, hành tướng của chúng vi tế, các phiền não khác thì không như thế, do vậy lập riêng làm cái. Nghĩa là hữu tình nơi cõi dục khởi mạn, kiến v.v… rất ít. Như địa ngục v.v… đâu có thể khởi hiện mạn, cho chỗ thọ nhận khổ của ta hơn khổ của người khác. Như loài ểnh ương v.v… trong nẻo bàng sinh rất ngu tối, yếu kém, đâu có thể phát khởi các xứ kiến của nẻo ác. Thế nên Tôn giả Diệu Âm nói: Các phiền não khác tuy gây chướng ngại Thánh đạo, nhưng năm cái này thường xuyên hiện hành, hành tướng vi tế, thế nên lập riêng.

Lại nữa, năm cái này gây chướng ngại cho định và quả của định, vượt hơn phiền não khác, nên lập riêng.

Lại nữa, năm cái này có thể gây chướng ngại cho sự lìa nhiễm của ba cõi, chín đạo nhận biết khắp và bốn quả Sa-môn, vượt hơn phiền não khác, nên lập riêng.

Lại nữa, tham dục khiến con người xa lìa sự ham muốn về pháp. Giận dữ khiến con người bỏ việc xa lìa các pháp ác. Hôn trầm, thùy miên khiến con người xa lìa Tỳ-bát-xá-na. Trạo cử, ố tác khiến con người xa cách Xa-ma-tha. Do xa lìa sự ham muốn về pháp, đi theo pháp ác, xa lìa Tỳ-bát-xá-na, Xa-ma-tha, nên bị mũi tên nghi não hại tâm, có các quả của nghiệp xấu ác, bất thiện, vì không phải chỉ có tà kiến, nhân đó tạo nên vô số các thứ nghiệp ác, thế nên lập riêng năm thứ này là cái.

Lại nữa, tham dục, giận dữ hủy hoại uẩn giới. Hôn trầm, thùy miên hủy hoại uẩn tuệ. Trạo cử, ố tác hủy hoại uẩn định. Do phá hoại ba uẩn này, nên bị mũi tên nghi não hại tâm, vì có các quả của nghiệp xấu ác bất thiện, vì không phải có tà kiến, nhân đó tạo nên vô số các thứ nghiệp ác, thế nên lập riêng năm thứ này là cái.

Lại nữa, tham dục, giận dữ gây chướng ngại cho uẩn giới. Hôn trầm, thùy miên gây chướng ngại cho uẩn tuệ. Trạo cử, ố tác gây chướng ngại cho uẩn định. Do chướng ngại ba uẩn này, nên bị mũi tên nghi não hại tâm, vì có các quả của nghiệp xấu ác, bất thiện, vì không phải chỉ có tà kiến, nhân đó tạo nên vô số các thứ nghiệp ác, thế nên lập riêng năm thứ này là cái.

Như nói hủy hoại – gây chướng ngại ba uẩn, thì hủy hoại – gây chướng ngại ba học, ba tu, ba tịnh cũng như thế.

Có thuyết nói: Trong đây, do hiện bày về môn, hiện bày về tóm lược, dẫn nhập, nên chỉ lập năm thứ này là cái. Nghĩa là các phiền não, hoặc chỉ có một bộ, hoặc chung nơi bốn bộ, hoặc chung nơi năm bộ. Nếu nói cái ố tác, nên biết là nói chung về loại phiền não chỉ có một bộ. Nếu nói cái nghi, nên biết là nói chung về loại phiền não chung cho bốn bộ. Nếu nói về những cái còn lại, nên biết là nói chung về loại phiền não chung cho cả năm bộ.

Lại nữa, các phiền não hoặc chỉ do kiến đạo đoạn, hoặc chỉ do tu đạo đoạn, hoặc chung cho cả kiến đạo – tu đạo đoạn. Nếu nói cái nghi, nên biết là nói chung về loại phiền não chỉ do kiến đạo đoạn. Nếu nói cái ố tác, nên biết là nói chung về loại phiền não chỉ do tu đạo đoạn. Nếu nói các cái còn lại, nên biết là nói chung về loại phiền não chung cho cả do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Lại nữa, các phiền não v.v… hoặc là tùy miên, hoặc không phải là tùy miên. Nếu nói cái tham dục, giận dữ, nghi, nên biết là nói chung về các phiền não là tùy miên. Nếu nói cái hôn trầm – thùy miên, trạo cử – ố tác, nên biết là nói chung về các phiền não không phải là tùy miên.

Lại nữa, các phiền não v.v… hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành, hoặc chung cả hai thứ. Nếu nói cái nghi, nên biết nói chung về loại phiền não là biến hành. Nếu nói cái tham dục, giận dữ, ố tác, nên biết là nói chung về loại phiền não không phải là biến hành. Nếu nói cái hôn trầm – thùy miên, trạo cử, nên biết là nói chung về loại phiền não chung cho cả hai thứ.

Lại nữa, các phiền não v.v… hoặc chỉ hiện hành ở phàm phu, hoặc chung cả phàm Thánh. Nếu nói cái nghi, ố tác, nên biết là nói chung về loại phiền não chỉ hiện hành ở phàm phu. Nếu nói các cái còn lại, nên biết là nói chung về loại phiền não hiện hành chung cho cả phàm, Thánh.

Lại nữa, các phiền não v.v… hoặc hành tướng chuyển biến vui, hoặc hành tướng chuyển biến buồn, hoặc chung cả hai thứ. Nếu nói cái tham dục, nên biết là nói chung về loại phiền não có hành tướng chuyển biến vui. Nếu nói cái giận dữ, ố tác, nghi, nên biết là nói chung về loại phiền não có hành tướng chuyển biến buồn. Nếu nói cái hôn trầm – thùy miên, trạo cử, nên biết là nói chung về loại phiền não có hành tướng chuyển biến chung cho cả hai thứ.

Nay vì hiện bày về môn, hiện bày sự tóm lược, dẫn nhập nên Khế kinh chỉ lập năm thứ này là cái.

Hỏi: Danh của cái có năm, còn Thể của cái có bao nhiêu?

Đáp: Thể của cái có bảy thứ. Danh, Thể của cái tham dục, giận dữ, nghi đều có một. Cái hôn trầm – thùy miên, trạo cử – ố tác thì danh một Thể hai. Như danh đối với Thể, danh nêu đặt đối với Thể nêu đặt, danh khác tướng đối với Thể khác tướng, danh khác tánh đối với Thể khác tánh, danh phân biệt đối với Thể phân biệt, danh giác tuệ đối với Thể giác tuệ, nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao tham dục, giận dữ và nghi, mỗi thứ đều lập riêng cái. Hôn trầm – thùy miên, trạo cử – ố tác, hai thứ kết hợp lập chung một cái?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật đã nhận biết rõ về công dụng, thế mạnh của tánh, tướng nơi các pháp. Nếu pháp nào có thể nhận giữ việc lập riêng cái thì lập, nếu không thể thì lập chung một cái, do vậy không nên vấn nạn.

Lại nữa, nếu là tùy miên cũng là tánh triền thì mỗi thứ đều lập riêng làm cái. Nếu là tánh triền, không phải là tùy miên, thì cả hai thứ cùng lập chung một cái.

Lại nữa, nếu là tánh phiền não đầy đủ thì lập riêng làm cái. Nếu không phải là tánh phiền não đầy đủ thì cả hai thứ lập chung một cái. Kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền có đủ năm nghĩa, gọi là phiền não đầy đủ.

Lại nữa, do ba sự việc nên gọi là lập chung một cái. Tức: Một là thức ăn, một là đối trị, và cùng gánh vác. Trong đây:

Do một thức ăn, một đối trị: Là cái tham dục lấy tướng tịnh, đẹp làm thức ăn, do quán bất tịnh làm đối trị. Do một thức ăn, một đối trị này, nên lập riêng một cái. Cái giận dữ lấy tướng đáng ghét làm thức ăn, do quán từ làm đối trị. Do một thức ăn, một đối trị này, nên lập riêng một cái. Cái nghi lấy tướng của ba đời làm thức ăn, do quán duyên khởi làm đối trị. Do một thức ăn, một đối trị này, nên lập riêng một cái. Cái hôn trầm – thùy miên lấy năm pháp làm thức ăn là: 1. Lờ mờ. 2. Không vui. 3. Thường ngáp. 4. Thức ăn có tánh không bình thường. 5. Tâm có tánh yếu kém. Do Tỳ-bát-xá-na làm đối trị. Vì hai thứ này (hôn trầm – thùy miên) cùng dùng một thứ thức ăn, một thứ đối trị, nên cùng lập một cái. Cái trạo cử – ố tác lấy bốn pháp làm thức ăn: 1. Tầm về người thân. 2. Tầm về cõi nước. 3. Tầm về sự không chết. 4. Nhớ nghĩ đến việc vui xưa. Do Xa-ma-tha làm đối trị. Vì hai thứ này (trạo cử – ố tác) cùng dùng một thức ăn, một thứ đối trị, nên lập chung một cái.

Cùng gánh vác: Là tham dục, giận dữ, nghi, mỗi thứ đều có thể gánh lấy gánh nặng của một cái, nên lập riêng làm cái. Hai thứ hôn trầm – thùy miên, vì cả hai đều có thể gánh lấy gánh nặng của một cái, nên lập chung làm một cái. Như trong thành ấp, một người có khả năng làm xong một việc phải làm thì khiến để làm riêng. Nếu hai người cùng có khả năng làm xong một việc phải làm thì cho họ cùng làm chung. Lại như sử dụng rường cột, nếu loại chắc thì dùng một, loại yếu phải dùng hai. Đây cũng như thế.

Hỏi: Vì duyên nào năm cái theo thứ lớp như thế?

Đáp: Vì theo thứ lớp như thế nên về lời văn và ngôn thuyết đều tùy thuận.

Lại nữa, vì theo thứ lớp như thế nên người trao kẻ nhận đều tùy thuận.

Lại nữa, năm cái theo thứ lớp như thế mà sinh khởi. Đức Thế Tôn đã theo thứ lớp như thế để giảng nói. Do vậy Tôn giả Thế Hữu nói: Được cảnh đáng yêu liền sinh tham dục. Mất cảnh đáng yêu nên kế theo là sinh khởi giận dữ. Mất cảnh này rồi tâm trở nên yếu kém, kế đó sinh hôn trầm. Do hôn trầm nên tâm sầu buồn, tiếp đó là sinh khởi thùy miên. Sau khi thức tỉnh, kế đến là sinh khởi trạo cử. Đã trạo cử rồi, sau đó là sinh ố tác. Từ ố tác lại dẫn đến nghi. Do đó thứ lớp của năm cái là như thế.

Hỏi: Đức Phật nói sự sai biệt của năm cái có mười, vì sao phân năm thành mười?

Đáp: Vì ba sự việc nên chia năm thành mười: 1. Vì trong, ngoài. 2. Vì tự Thể. 3. Vì thiện, ác.

Vì trong ngoài: Nghĩa là có cái tham dục duyên bên trong mà khởi. Có cái tham dục duyên bên ngoài mà khởi, nên thành hai cái. Có cái giận dữ là tự thể của giận, có cái giận dữ là nhân duyên của giận, nên thành hai cái.

Vì tự Thể: Nghĩa là có cái hôn trầm, có cái thùy miên, có cái trạo cử, có cái ố tác, nên hai chia thành bốn.

Vì thiện ác: Nghĩa là nghi đối với thiện ác phân thành hai cái.

Do ba sự việc nên chia năm thành mười. Trong mười cái này, mỗi mỗi cái đều có thể gây chướng ngại chung cho tuệ, Bồ-đề, Niếtbàn, nên gọi là cái.

Hỏi: Trong bảy tùy miên thì mạn, vô minh, kiến, vì sao Đức Thế Tôn không lập là cái?

Đáp: Mạn không phải là cái: Có thể che lấp tâm nên gọi là cái. Mạn có thể sách động tâm, khiến tâm cao ngạo, nên không lập là cái.

Vô minh sở dĩ không lập là cái: Vì cùng gánh vác nên gọi là cái. Còn hành tướng chuyển biến của vô minh là che giấu. Các nghĩa gánh vác thiên trọng đều không thuận hợp nên không lập.

Trong loại cái này, kiến không phải là cái: Có thể diệt bỏ tuệ nên gọi là cái. Kiến tức là tuệ, tự tánh không thể trở lại diệt tự tánh, nên kiến không phải là cái.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, cái có thể diệt chung các pháp thiện hữu vi, vì sao chỉ nói cái diệt tuệ?

Đáp: Vì tuệ là thù thắng, nên chỉ nói diệt tuệ. Tức nói chung là pháp thiện hữu vi thù thắng hãy còn bị diệt, huống chi là các loại yếu kém. Như một người có năng lực hàng phục một ngàn kẻ địch, thì những người yếu kém khác há không thể chế ngự được!

Hỏi: Các phiền não v.v… của cõi sắc, cõi vô sắc, vì sao không phải là cái?

Đáp: Vì các thứ phiền não đó không có tướng của cái, nên không lập làm cái.

Lại nữa, vì cái có thể gây chướng ngại cho sự lìa nhiễm của ba cõi, cho sự thành tựu bốn quả Sa-môn và chín đạo nhận biết khắp. Các phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc đều không có khả năng như thế, nên không lập làm cái.

Lại nữa, cái có thể gây chướng ngại cho định và của quả định. Các phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc đều không có khả năng như thế, nên không lập làm cái.

Lại nữa, cái có thể gây chướng ngại cho ba đạo, ba căn, ba thứ luật nghi, ba thứ Bồ-đề, ba tuệ, ba uẩn, ba học, ba tu, ba tịnh. Các phiền não của cõi sắc, cõi vô sắc đều không có khả năng như thế, nên không lập làm cái.

Ba đạo: Là kiến đạo, tu đạo, vô học đạo.

Ba căn: Là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn và cụ tri căn.

Ba thứ luật nghi: Là luật nghi biệt giải thoát, luật nghi tĩnh lự, luật nghi vô lậu.

Ba thứ Bồ-đề: Là Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Độc giác, Bồ-đề vô thượng.

Ba tuệ: Là tuệ do văn tạo thành, tuệ do tư tạo thành, tuệ do tu tạo thành.

Ba uẩn: Là uẩn giới, uẩn định, uẩn tuệ.

Ba học, ba tu, ba tịnh cũng như vậy.

Lại nữa, cái chỉ là bất thiện. Các phiền não v.v… của cõi sắc, cõi vô sắc đều là vô ký, nên không lập làm cái.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao chỉ lập bất thiện là cái, không phải là vô ký?

Đáp: Gây chướng ngại cho tụ pháp thiện nên gọi là cái, vì thế cái này chỉ là bất thiện. Như Khế kinh nói: Tụ pháp thiện là bốn niệm trụ. Gây chướng ngại gần này là tụ pháp ác, đó là năm cái.

Tôn giả Diệu Âm nói: Các phiền não tuy đều gây chướng ngại cho Thánh đạo, đều nên gọi là cái, nhưng vì hữu tình nhàm chán sâu xa và lìa bỏ, nên chỉ nói là bất thiện.

Hỏi: Không hổ, không thẹn đã chỉ là bất thiện, đều cùng kết hợp khắp với tất cả tâm bất thiện, vì sao không phải là cái?

Đáp: Có thuyết cho: Đây là Đức Thế Tôn vì người thọ nhận giáo hóa, nên nói tóm lược chưa trọn vẹn.

Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật đã nhận biết rõ công dụng, thế mạnh nơi tướng, tánh của các pháp. Nếu pháp nào có thể nhận giữ việc lập cái thì lập, nếu không thì không lập cái, do vậy không nên vấn nạn.

Tôn giả Thế Hữu nói: Không hổ không thẹn tuy đều kết hợp với tất cả tâm bất thiện, nhưng nó chỉ là bất thiện. Như khi tạo ác thì không xấu hổ đối với việc ác đã gây tạo, đa số là bằng những cách thức khôn khéo, nhưng nơi nghĩa chướng ngại, che lấp thì không hiện rõ, nên không lập là cái.

Tôn giả Diệu Âm nói: Không hổ không thẹn tuy có tác dụng với thế mạnh tăng thượng trong việc tạo nghiệp bất thiện, nhưng về nghĩa gây chướng ngại, che lấp thì nó không hiển bày, nên không lập riêng là cái.

Tôn giả Phật Đà Đề Bà nói: Không hổ không thẹn tuy che lấp uẩn giới, nhưng tác dụng và thế mạnh của nó không bằng tham, giận. Tuy gây chướng ngại cho uẩn định, nhưng tác dụng và thế mạnh của nó không bằng trạo cử và ố tác. Tuy gây chướng ngại cho uẩn tuệ, nhưng tác dụng và thế mạnh của nó không bằng hôn trầm, thùy miên, nên không lập riêng là cái.

Hỏi: Vì sao hai kiết ganh tị (tật), keo kiệt (xan) không phải là cái?

Đáp: Cũng nên nói là cái nhưng không nói, nên biết đây là nêu bày chưa trọn vẹn..

Có thuyết cho: Đây là Đức Thế Tôn giảng nói tóm lược cho kẻ thọ nhận giáo hóa.

Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật nhận biết rõ công dụng, thế mạnh nơi tánh tướng của các pháp. Nếu pháp nào có thể lập được cái thì lập, nếu không thể thì không lập, do vậy không nên vấn nạn.

Tôn giả Thế Hữu nói: Vì hai thứ ganh tị, keo kiệt gây não loạn nơi hai nẻo cùng với hai chúng tại gia và xuất gia nên lập là kiết. Tuy nhiên, về nghĩa gây chướng ngại, che lấp thì không tạo thêm sức mạnh, nên không lập là cái.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Hai kiết ganh tị, keo kiệt về nghĩa ngăn che không được hiển bày, nên không lập là cái.

Tôn giả Giác Thiên nói: Hai kiết ganh tị, keo kiệt gây chướng ngại cho giới, định, tuệ, nhưng thế mạnh tác dụng của chúng không bằng cái tham dục v.v…, nên không lập là cái.

Hỏi: Vì sao hai triền phẫn, phú không phải là cái?

Đáp: Cũng nên nói là cái nhưng không nói, nên biết đó là nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Đây là Đức Như Lai giảng nói tóm lược cho chúng sinh được hóa độ.

Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật đã nhận biết rõ về công dụng thế mạnh nơi tánh, tướng của các pháp, nếu pháp nào có thể lập là cái thì lập, nếu không thể thì không lập, do vậy không nên vấn nạn.

Tôn giả Thế Hữu nói: Hai triền phẫn, phú, về nghĩa gây chướng ngại, che lấp tâm thì không hiển bày, nên không lập là cái.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Hai triền phẫn, phú, đối với nghĩa gây chướng ngại, ngăn che vì không phải là tăng thượng, nên không lập là cái.

Tôn giả Giác Thiên nói: Hai triền phẫn, phú có tác dụng thế mạnh gây chướng ngại cho uẩn, giới v.v… nhưng không bằng cái tham dục v.v…, nên không lập là cái.

Các sư phương Tây đều nói: Vì hai thứ phẫn và phú không có tự thể riêng, nên không lập riêng là cái.

Hỏi: Vì sao sáu phiền não cấu không phải là cái?

Đáp: Cũng nên nói là cái nhưng không nói, nên biết đây là nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Đây là Đức Như Lai vì các chúng sinh được hóa độ nên giảng nói tóm lược.

Hiếp Tôn giả nói: Vì Đức Phật đã nhận biết rõ công dụng thế mạnh nơi tánh tướng của các pháp, nếu pháp có thể lập cái thì lập, nếu không thể thì không lập, do vậy không nên vấn nạn.

Tôn giả Thế Hữu nói: Sáu phiền não cấu, hành tướng thô, động, không thuận với nghĩa của cái, nên không lập là cái.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Sáu phiền não cấu không thuận với tướng của cái, nên không lập là cái. Tướng của cái là thường hành vi tế.

Tôn giả Giác Thiên nói: Sáu phiền não cấu tạo chướng ngại cho giới, định, tuệ, nhưng về tác dụng thế mạnh không bằng cái tham dục v.v…, nên không lập là cái. Như Khế kinh nói: Cái vô minh che lấp, kiết ái trói buộc, hai thứ ấy đều trói buộc kẻ ngu, người trí, cùng chiêu cảm có được thức thân như thế.

Hỏi: Vô minh có thể che lấp cũng có thể trói buộc, kiết ái có thể trói buộc cũng có thể che lấp, vì sao chỉ nói vô minh che lấp, kiết ái trói buộc?

Đáp: Cũng nên nói cả hai nhưng không nói, nên biết đó là nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nhằm khiến cho nghĩa đã giảng nói dễ lãnh hội, nên dùng nhiều lời nói, vô số câu văn để diễn đạt.

Lại nữa, kinh kia vì muốn hiện bày hai môn, hai sự tóm lược, hai thềm, hai bậc, hai sự sáng tỏ, hai ngọn đuốc, hai lời văn, hai ảnh. Như nói: Vô minh che lấp thì kiết ái cũng nên như vậy. Như nói: Kiết đã trói buộc thì vô minh cũng nên như thế. Vì muốn hiện bày hai môn cho đến hai ảnh, soi rõ lẫn nhau, nên nói như thế.

Lại nữa, trước đã nói: Che lấp là nghĩa của cái. Không có phiền não khác nào che lấp, gây chướng ngại cho mắt tuệ như vô minh, thế nên chỉ nói vô minh che lấp. Trói buộc là nghĩa của kiết. Không có phiền não khác nào trói buộc hữu tình khiến lưu chuyển nơi sinh tử như kiết ái. Do đó, nên chỉ nói kiết ái trói buộc.

Các loại hữu tình, vì vô minh làm cho mù tối, vì bị kiết ái trói buộc, nên không thể hướng nhập Niết-bàn cứu cánh. Ở đây, nên nói dụ về hai kẻ giặc dữ. Xưa có hai tên giặc dữ thường xuất hiện ở đoạn đường nguy hiểm. Nếu chúng bắt được người nào, thì một đứa dùng bụi đất tấp vào mắt, còn tên kia thì trói chặt cả tay chân. Người kia đã bị mù, còn bị trói buộc, nên không thể chạy trốn được. Hữu tình cũng như thế, đã bị vô minh làm mù mắt, còn bị kiết ái trói buộc, nên không thể hướng nhập Niết-bàn cứu cánh, phải trôi lăn trong vòng sinh tử, luôn nhận chịu khổ não.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Hữu tình bị mù lòa do vô minh và bị trói buộc do kiết ái, nên chấp nhận việc gây tạo nghiệp ác bất thiện. Lại nữa, vì căn cứ vào nghĩa tăng thượng nên nói như thế. Nghĩa là vô minh thì tác dụng che lấp tăng thượng. Còn kiết ái thì tác dụng trói buộc tăng thượng. Lại nữa, vì căn cứ vào nghĩa phần nhiều nên nói như thế. Nghĩa là vô minh phần nhiều có thể che lấp. Còn kiết ái phần nhiều có thể trói buộc.

HẾT – QUYỂN 48