LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 17

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ TRÍ, phần 9

Hỏi: Thân nghiệp, ngữ nghiệp, những gì là tùy tâm chuyển? Những gì là không tùy tâm chuyển?

Đáp: Giới của cõi sắc và giới vô lậu tùy tâm chuyển. Giới của cõi dục và thân, ngữ nghiệp khác không tùy tâm chuyển.

Hỏi: Vì sao giới của cõi dục không tùy tâm chuyển?

Đáp: Vì giới của cõi dục đối với nơi tùy tâm chuyển kia không phải là ruộng, không phải là pháp khí, cho đến nói rộng.

Lại nữa, cõi dục không phải là cõi định, không phải là địa tu tập, không phải là địa lìa nhiễm, không có đạo như thế để giới có thể tùy chuyển. Cõi sắc là cõi định, là địa tu, là địa lìa nhiễm, có đạo như thế để giới có thể tùy chuyển.

Lại nữa, nghĩa của giới nơi cõi dục hỏi tâm của cõi dục: Ông có thể vì tôi đoạn trừ sự phá giới và khởi phiền não phá giới không? Nếu có thể thì tôi sẽ tùy chuyển theo ông. Nghĩa của tâm thuộc cõi dục đáp với giới nơi cõi dục: Tôi không thể. Nghĩa của giới nói: Nếu không thể thì tôi chuyển theo ông làm gì.

Như người sợ kẻ oán thù, hỏi người khác: Ông có thể vì tôi làm người cứu hộ không? Nếu có thể tôi sẽ nương dựa nơi ông, tùy theo ông chuyển biến đến nơi khác. Đáp: Không thể. Người kia liền nói: Nếu ông không thể thì tôi đâu nương dựa nơi ông và tùy theo ông chuyển biến làm gì? Đây cũng như thế.

Hỏi: Tất cả tâm thiện nơi cõi sắc đều có giới tùy chuyển chăng?

Đáp: Không phải tất cả đều có. Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất có sáu tâm thiện, không có giới tùy chuyển: 1. Nhãn thức thiện. 2. Nhĩ thức thiện. 3. Thân thức thiện. 4. Tâm thiện lúc chết. 5. Tâm thiện khởi biểu. 6. Tâm thiện tương ưng với tuệ do văn tạo thành.

Tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư có hai tâm thiện không có giới tùy chuyển: 1. Tâm thiện lúc chết. 2. Tâm do văn tạo thành.

Hỏi: Vì sao cõi vô sắc không có giới tùy chuyển?

Đáp: Vì cõi vô sắc đối với giới không phải là ruộng, không phải là pháp khí, cho đến nói rộng.

Lại nữa, giới là thuộc về một phần sắc, vì cõi vô sắc không có sắc nên cũng không có giới.

Lại nữa, giới là đại chủng được tạo, cõi vô sắc không có đại chủng nên cũng không có giới.

Hỏi: Như tuy không có đại chủng vô lậu nhưng có giới vô lậu. Cõi vô sắc như thế tuy không có đại chủng nhưng có giới thì có ngăn ngại gì?

Đáp: Vì giới vô lậu, không phải do lực của đại chủng mới thành vô lậu, chỉ do lực của tâm, tùy thuận tâm sở vô lậu, cùng khởi hiện. Giới hữu lậu là do sức của đại chủng, hệ thuộc nơi cõi địa, nên không giống nhau.

Lại nữa, giới là đối trị phá giới, đối trị khởi phiền não phá giới, nhưng đạo ở cõi vô sắc không có khả năng đối trị phá giới và khởi phiền não phá giới nên không có giới.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao đạo của cõi vô sắc không có khả năng đối trị phá giới và khởi phiền não phá giới?

Đáp: Giới kia chỉ có nơi cõi dục. Cõi vô sắc đối với cõi dục có bốn sự việc xa nên không có đối trị: 1. Cõi, địa đều xa. 2. Đối tượng nương dựa xa. 3. Đối tượng duyên xa. 4. Đối trị xa.

Hỏi: Nếu thế thì tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư cũng không có đối trị phá giới và khởi hiện phiền não phá giới nên ở đấy không có giới chăng?

Đáp: Đối trị có hai thứ: 1. Đối trị bằng đoạn trừ. 2. Đối trị bằng nhàm chán, hủy hoại. Ba tĩnh lự trên đối với sự phá giới và khởi phiền não phá giới, tuy không có đối trị bằng đoạn trừ, nhưng có đối trị bằng nhàm chán, hủy hoại. Như Đức Thế Tôn nói: Thánh đệ tử đã nhập giải thoát tâm bất động, có thể đoạn trừ bất thiện, tu tập pháp thiện. Không phải trong thân họ cũng có bất thiện có thể đoạn trừ, nhưng căn cứ vào pháp đối trị lỗi lầm tai hại nên nói như vậy. Cõi vô sắc đối với việc phá giới và khởi phiền não phá giới không có đối trị bằng đoạn trừ, cũng không có đối trị bằng nhàm chán, hủy hoại, nên không có giới.

Giới tùy tâm chuyển biến gồm có hai thứ: 1. Giới của đạo câu hữu. 2. Giới của định câu hữu. Giới của đạo câu hữu: Nghĩa là giới vô lậu. Giới của định câu hữu: Nghĩa là giới của cõi sắc. Nếu là giới của đạo câu hữu thì cõi sắc kia không phải là giới của định câu hữu. Nếu là giới của định câu hữu thì cõi sắc kia không phải là giới của đạo câu hữu.

Có thuyết cho: Giới của đạo câu hữu là giới vô lậu. Giới của định câu hữu là tất cả giới hữu lậu, vô lậu tùy tâm chuyển. Họ nói như vầy: Hết thảy giới của đạo câu hữu đều là giới của định câu hữu. Hoặc là giới của định câu hữu nhưng không phải là giới của đạo câu hữu. Nghĩa là giới hữu lậu tùy tâm chuyển.

Có Sư khác nêu: Giới của đạo câu hữu là giới vô lậu, giới của định câu hữu là giới hữu lậu, vô lậu của tĩnh lự căn bản.

Căn cứ vào thuyết như thế, nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có giới của đạo câu hữu không phải là giới của định câu hữu: Nghĩa là các giới vô lậu của địa cận phần.

2. Có giới của định câu hữu không phải là giới của đạo câu hữu: Nghĩa là các giới hữu lậu của địa căn bản.

3. Có giới của đạo câu hữu cũng là giới của định câu hữu: Nghĩa là các giới vô lậu ở địa căn bản.

4. Có không phải là giới của đạo câu hữu cũng không phải là giới của định câu hữu: Nghĩa là các giới hữu lậu của địa cận phần.

Sư kia căn cứ vào đắc lại tạo ra bốn trường hợp:

1. Có đắc giới của đạo câu hữu không phải là giới của định câu hữu: Nghĩa là chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, trong khoảng mười sáu tâm. Nếu đã lìa nhiễm nơi cõi dục, dựa vào định vị chí, nhập chánh tánh ly sinh, trong khoảng mười lăm tâm của kiến đạo. Nếu các bậc Thánh vì lìa nhiễm nơi cõi dục, tức khởi đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Nếu chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, bậc tín thắng giải luyện căn, tạo gia hạnh hiện có của kiến chí, đạt đạo vô gián giải thoát. Nếu các bậc Thánh vì chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, dựa vào định vị chí, khởi vô lượng quán bất tịnh, quán sổ tức, cùng niệm trụ v.v… Những thời gian như thế là đã đắc giới của đạo câu hữu không phải là giới của định câu hữu.

2. Có đắc giới của định câu hữu không phải là giới của đạo câu hữu: Nghĩa là các phàm phu lìa nhiễm nơi cõi dục, do tất cả đạo giải thoát sau cùng. Tức phàm phu kia lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, dựa vào tĩnh lự thứ nhất khởi đạo gia hạnh và tất cả đạo giải thoát sau cùng. Tức phàm phu kia vì lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ hai, nương dựa vào tĩnh lự thứ hai, khởi đạo gia hạnh và tất cả đạo giải thoát sau cùng. Tức phàm phu kia lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa vào tĩnh lự thứ ba khởi đạo gia hạnh và đạo giải thoát sau cùng. Tức phàm phu kia lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, nương dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi đạo gia hạnh. Nếu các phàm phu dựa vào tĩnh lự căn bản, dẫn phát các thông, khởi đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát. Nếu khởi vô lượng quán bất tịnh, quán sổ tức và niệm trụ, khởi noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước và lúc từ cõi vô sắc chết, sinh nơi cõi sắc, từ địa trên cõi sắc chết, sinh nơi địa dưới. Những thời gian như thế là đắc giới của định câu hữu không phải là giới của đạo câu hữu.

3. Có đắc giới của đạo câu hữu cũng là đắc giới của định câu hữu: Nghĩa là đã lìa nhiễm nơi cõi dục, dựa vào định vị chí, nhập chánh tánh ly sinh, là lúc có đạo loại trí. Nếu dựa vào địa trên, nhập chánh tánh ly sinh, là trong khoảng mười sáu tâm. Nếu các Thánh giả lìa nhiễm của cõi dục nơi đạo giải thoát sau cùng, tức Thánh giả kia vì lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, được các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Đã lìa nhiễm nơi cõi dục, bậc tín thắng giải luyện căn, tạo kiến chí nơi gia hạnh hiện có, lúc có đạo vô gián, giải thoát. A-la-hán giải thoát luyện căn, tạo bất động nơi các đạo gia hạnh, là chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Hoặc khi cùng tu tĩnh lự thứ nhất cho đến tĩnh lự thứ tư, nếu các Thánh giả dẫn phát các thông khởi đạo gia hạnh với năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát. Hoặc các Thánh giả đã lìa nhiễm nơi cõi dục, dựa vào định vị chí, cùng khởi tu vô lượng giải thoát thắng xứ, biến xứ, quán bất tịnh, quán sổ tức và các niệm trụ. Nếu khởi vô ngại giải nơi biên vực định nguyện trí vô tránh, là tâm tưởng vi tế của không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Những thời gian như thế đã đắc giới của đạo câu hữu cũng là đắc giới của định câu hữu.

4. Có không đắc giới của đạo câu hữu cũng không đắc giới của định câu hữu: Nghĩa là các phàm phu vì lìa nhiễm nơi cõi dục, khởi đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, dựa vào định vị chí, tĩnh lự trung gian, khởi noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất. Hoặc các phàm phu nương vào cận phần của các tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, khởi tu đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Hoặc các phàm phu dựa vào cận phần của Không vô biên xứ cho đến cận phần của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư cho đến Vô sở hữu xứ, khởi tu đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Hoặc các phàm phu chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, hoặc đã lìa nhiễm nơi cõi dục, khi nương vào các định cận phần như định vị chí v.v…, hoặc định vô sắc khởi tu các công đức như vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, cùng quán bất tịnh, quán sổ tức, niệm trụ v.v… Nếu các bậc Thánh khi dựa vào các định hữu sắc như định vị chí, khởi tu hữu lậu, vô lậu, thành tựu các công đức, và khi dựa vào định vô sắc, khởi tu hữu lậu, vô lậu, thành tựu các công đức, tất cả không nhất định và phần vị vô tâm. Những thời gian như thế v.v… thì không đắc giới của đạo câu hữu cũng không đắc giới của định câu hữu.

Sư kia căn cứ vào xả lại tạo ra bốn trường hợp:

1. Có xả giới của đạo câu hữu không phải là giới của định câu hữu: Nghĩa là đắc quả Dự lưu hoặc quả Nhất lai, hoặc lần lượt được quả Bất hoàn. Chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, bậc tín thắng giải luyện căn, được kiến chí và từ quả Nhất lai được đạo quả thù thắng của Nhất lai, và lúc thoái chuyển quả Dự lưu cùng đạo quả thù thắng của Dự lưu. Lúc từ quả Dự lưu thoái chuyển, nghĩa là từ luyện căn đã được quả rồi thoái chuyển. Những thời gian như thế v.v… là xả giới của đạo câu hữu không phải là giới của định câu hữu.

2. Có xả giới của định câu hữu không phải là giới của đạo câu hữu: Nghĩa là các phàm phu từ lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến từ lúc lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba và thoái chuyển. Hoặc các phàm phu và các Thánh giả từ cõi dục, cõi sắc mất, sinh nơi cõi vô sắc. Hoặc từ cõi sắc mất sinh nơi cõi dục. Hoặc các phàm phu từ địa căn bản thoái chuyển các công đức thù thắng. Những thời gian như thế v.v… là xả giới của định câu hữu không phải giới của đạo câu hữu.

3. Có xả giới của đạo câu hữu cũng là xả giới của định câu hữu: Nghĩa là các Thánh giả từ lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến từ khi lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ và thoái chuyển. Hoặc dựa vào bốn tĩnh lự và tĩnh lự trung gian được quả Bất hoàn. Hoặc đắc quả A-la-hán là đã lìa nhiễm nơi cõi dục, bậc tín thắng giải luyện căn, được kiến chí và A-la-hán thời giải thoát luyện căn được bất động. Từ quả Bất hoàn được đạo quả thù thắng của Bất hoàn và quả A-la-hán, lúc thoái chuyển đạo quả thù thắng của A-la-hán. Những thời gian như thế đều xả giới của đạo câu hữu cũng là xả giới của định câu hữu.

4. Có không phải xả giới của đạo câu hữu cũng không xả giới của định câu hữu: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước, tức các phần vị còn lại.

Sư kia căn cứ vào sự thành tựu lại tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu giới của đạo câu hữu không phải là giới của định câu hữu: Nghĩa là các Thánh giả chưa lìa nhiễm nơi cõi dục.

2. Có thành tựu giới của định câu hữu không phải là giới của đạo câu hữu: Nghĩa là các phàm phu sinh nơi cõi dục, đã lìa nhiễm nơi cõi dục, hoặc các phàm phu sinh nơi cõi sắc.

3. Có thành tựu giới của đạo câu hữu cũng là giới của định câu hữu: Nghĩa là các Thánh giả sinh nơi cõi dục, đã lìa nhiễm nơi cõi dục, hoặc các Thánh giả sinh nơi cõi sắc và cõi vô sắc.

4. Có không thành tựu giới của đạo câu hữu cũng không thành tựu giới của định câu hữu: Nghĩa là các phàm phu chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, hoặc các phàm phu sinh nơi cõi vô sắc.

Căn cứ vào không thành tựu cũng nêu ra bốn trường hợp: Nghĩa là trường hợp 2 ở trước (thành tựu) là trường hợp 1 này. Trường hợp 1 ở trước là trường hợp 2 này. Trường hợp 4 ở trước là trường hợp 3 này. Trường hợp 3 ở trước là trường hợp 4 này.

Tất cả luật nghi gồm chung có bốn thứ: 1. Luật nghi biệt giải thoát. 2. Luật nghi tĩnh lự. 3. Luật nghi vô lậu. 4. Luật nghi đoạn trừ.

Luật nghi biệt giải thoát: Là giới của cõi dục. Luật nghi tĩnh lự: Là giới của cõi sắc. Luật nghi vô lậu: Là giới vô lậu. Luật nghi đoạn trừ: Là lìa nhiễm nơi cõi dục. Giới vô lậu của tĩnh lự hiện có trong chín đạo vô gián nói rộng. Bốn luật nghi này như đã nói trong phẩm Hại Sinh nơi chương Nghiệp Uẩn.

Giới của noãn tùy chuyển đối với phá giới là đối trị xả, đối trị giữ giới là đối trị phần xa. Đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất là giới tùy chuyển, đối với phá giới thuộc đạo loại trí trong kiến đạo tu đạo, chỉ là đối trị giữ giới, là đối trị phần xa. Lìa nhiễm nơi cõi dục là giới tùy chuyển nơi đạo gia hạnh, đối với phá giới là đối trị xả, đối trị giữ giới là đối trị phần xa. Giới tùy chuyển nơi đạo vô gián ban đầu, đối với phá giới chỉ là đối trị giữ giới tức đối trị phần xa. Đối với khởi phiền não phá giới chỉ là đối trị đoạn, đối trị xả. Giới tùy chuyển của bảy đạo vô gián, đối với phá giới chỉ là đối trị giữ giới tức đối trị phần xa. Đối với khởi phiền não phá giới là đối trị đoạn, đối trị xả, đối trị giữ giới là đối trị phần xa. Giới tùy chuyển trong đạo vô gián thứ chín, đối với phá giới là đối trị đoạn, đối trị giữ giới là đối trị phần xa. Đối với khởi phiền não phá giới là đối trị đoạn, đối trị xả, đối trị giữ giới là đối trị phần xa. Giới tùy chuyển trong chín đạo giải thoát và cả thời gian về sau, cho đến tận trí, vô sinh trí. Giới tùy chuyển của chánh kiến vô học, đối với phá giới và khởi phiền não phá giới chỉ là đối trị giữ giới, tức đối trị phần xa.

Hỏi: Đạo của phẩm pháp trí có khả năng đoạn trừ phá giới và khởi phiền não phá giới, có thể có giới tùy chuyển, còn đạo của phẩm loại trí không có công năng này, vì sao cũng có giới tùy chuyển?

Tôn giả Thế Hữu nói: Đạo của phẩm loại trí đối với giới

kia tuy không có đối trị đoạn, đối trị xả, nhưng có đối trị giữ giới là đối trị phần xa. Lại nữa, đạo của phẩm pháp trí cùng với đạo của phẩm loại trí lần lượt làm nhân, lần lượt nối tiếp nhau, lần lượt hệ thuộc nhau, lần lượt cùng sinh khởi.

Có Sư khác cho: Đạo của phẩm loại trí cũng có khả năng đoạn trừ việc phá giới và khởi phiền não phá giới, còn đạo của phẩm pháp trí vì trước đã đoạn phiền não rồi, nay không có gì để đoạn nữa, nên cũng có giới tùy chuyển. Ví như nhiều người cùng có một kẻ thù, một người đã hại kẻ ấy rồi, những người khác không còn đối tượng để hại, không phải là không có khả năng hại. Đây cũng như thế.

Đại đức nói: Nếu đạo của phẩm pháp trí có giới tùy chuyển, đạo của phẩm loại trí không có giới tùy chuyển, tức hợp với luật nghi vì chỉ có nơi xứ có khả năng chuyển, không có đối với xứ không có khả năng chuyển. Tuy nhiên các luật nghi đều thông hợp đối với xứ có khả năng chuyển hay không có khả năng chuyển. Thế nên, đạo của phẩm pháp trí, loại trí đều cùng được có giới tùy chuyển.

Hỏi: Cõi dục, cõi sắc cõi nào có nhiều giới?

Đáp: Có người nói: Giới của cõi dục có nhiều. Vì sao? Vì giới của cõi dục là ở nơi xứ của nghiệp đạo căn bản và xứ của gia hạnh hậu khởi có được. Còn giới nơi cõi sắc chỉ ở nơi xứ của nghiệp đạo căn bản có được. Giới của cõi dục vì lìa tánh tội và lìa già tội nên được. Giới nơi cõi sắc chỉ lìa tánh tội nên được.

Nên nói như thế này: Giới nơi cõi sắc là nhiều. Vì sao? Vì giới thuộc về định vị chí hãy còn nhiều hơn nơi cõi dục, vì có vô lượng công đức để đối trị cõi kia, huống chi lại còn có giới khác ở địa trên.

Hỏi: Hữu lậu, vô lậu, giới nào nhiều hơn?

Đáp: Có thuyết cho: Giới hữu lậu nhiều. Vì sao? Vì giới hữu lậu gồm thâu hai luật nghi và phần ít của một luật nghi. Giới vô lậu gồm thâu một luật nghi cùng phần ít của một luật nghi. Lại nữa, giới hữu lậu gồm thâu hai giới (giới, xứ, uẩn) và phần ít của một giới, hai xứ và phần ít của một xứ. Giới vô lậu chỉ gồm một giới và phần ít của một xứ.

Nên nói như thế này: Giới vô lậu nhiều. Vì sao? Vì giới tùy chuyển của khổ pháp trí nhẫn hãy còn nhiều hơn giới hữu lậu, vì có vô lượng công đức đối trị hữu lậu kia, huống chi lại còn có giới khác ở phần vị trên.

Hỏi: Khổ pháp trí nhẫn cùng với khổ pháp trí, cho đến tận trí, vô sinh trí, chánh kiến vô học, nơi các giới tùy chuyển, thứ nào nhiều giới?

Đáp: Có thuyết nêu: Giới tùy chuyển của khổ pháp trí đối với giới tùy chuyển của khổ pháp trí nhẫn là nhiều gấp bội. Như thế lần lượt cho đến giới tùy chuyển của chánh kiến vô học đối với giới tùy chuyển của vô sinh trí là nhiều gấp bội.

Lại có thuyết nói: Như giới tùy chuyển của khổ pháp trí nhẫn, như vậy giới tùy chuyển của khổ pháp trí, cho đến giới tùy chuyển của đạo loại trí cũng như thế. Lìa nhiễm nơi cõi dục, hành các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, các giới tùy chuyển càng về sau càng thêm nhiều. Vì sao? Như dần đoạn trừ phá giới và khởi phiền não phá giới, giới như thế, như thế dần dần tăng nhiều, giới ở những phần vị trên, trước sau tương tợ.

Nên nói như thế này: Giới tùy chuyển của khổ pháp trí nhẫn cùng với khổ pháp trí, cho đến giới tùy chuyển của chánh kiến vô học đều không có khác biệt. Vì sao? Vì đồng với bảy chi của thân, ngữ chuyển.

Hỏi: Nếu thế nơi Luận Thi Thiết nói làm sao thông suốt? Như nói: Khổ pháp trí đối với khổ pháp trí nhẫn là hơn, cho đến tận trí đối với định kim cang dụ là hơn.

Vì căn cứ vào nhân được nuôi lớn nên nói như thế. Nghĩa

là khổ pháp trí nhẫn, chỉ trong một sát-na, nhân đã được nuôi lớn. Khổ pháp trí phải hai sát-na, nhân mới được nuôi lớn. Cho đến tận trí, phải có vô lượng sát-na, nhân mới được nuôi lớn. Luận kia nói về phẩm hơn, không nói về giới nhiều.

Hỏi: Thanh văn cùng với Phật vị nào có giới nhiều?

Đáp: Có thuyết nói: Giới của Thanh văn nhiều. Vì sao? Vì giới của Thanh văn căn cứ vào thân của hai cõi, còn giới của Phật chỉ căn cứ vào thân ở cõi dục. Lại nữa, giới của Thanh văn căn cứ vào thân của hai nẻo, còn giới của Phật chỉ dựa vào thân của nẻo người.

Nên nói như vầy: Giới của Phật nhiều. Vì sao? Vì giới tùy chuyển của mười lực, bốn pháp không sợ hãi, hãy còn nhiều hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, huống chi lại còn có các giới tùy chuyển của vô lượng vô biên công đức thù thắng.

Hỏi: Chư Phật – Thế Tôn có phần vị trăm năm chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, cho đến khi ở vào phần vị tám vạn tuổi có chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng chăng? Nếu ở phần vị trăm năm chứng đắc Bồ-đề, cũng có được giới trong thân tám vạn tuổi không? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Nếu được, thì vì sao ở thân này mà được giới của thân khác? Nếu không được, thì như nơi Luận Thi Thiết nói làm sao thông suốt? Như nói: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác thảy đều bình đẳng.

Đáp: Nên nói cũng được.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao thân này được giới của thân khác?

Đáp: Nếu dựa vào thân này được giới của thân khác, cũng không có lỗi, vì phần nối tiếp nhau là một. Nhưng người ở phần vị trăm năm chứng đắc Bồ-đề, đối với người ở phần vị trăm năm có giới tùy tâm chuyển, cũng đạt được, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện ở trước. Đối với phần vị tám vạn tuổi có giới tùy tâm chuyển, cũng đạt được, nhưng không thành tựu ở nơi thân, không hiện ở trước. Người ở phần vị tám vạn tuổi chứng đắc Bồ-đề, đối với người ở phần vị tám vạn tuổi có giới tùy tâm chuyển, cũng đạt được, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện ở trước. Đối với phần vị trăm năm có giới tùy tâm chuyển, cũng đạt được, nhưng không ở nơi thân thành tựu, không hiện ở trước.

Có thuyết nói: Không được.

Hỏi: Nếu thế thì nơi Luận Thi Thiết đã nói làm sao thông suốt?

Đáp: Do ba sự việc như nhau, nên gọi là bình đẳng.

1. Tu hành như nhau: Nghĩa là như một Đức Phật trong ba vô số kiếp tu sáu Ba-la-mật được viên mãn, nên chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, thì Đức Phật khác cũng thế, nên gọi là bình đẳng.

2. Tạo lợi ích như nhau: Nghĩa là như một Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hóa độ vô lượng trăm ngàn na-do-tha chúng sinh, khiến nhập Niết-bàn, thì Đức Phật khác cũng thế, nên gọi là bình đẳng.

3. Pháp thân như nhau: Nghĩa là như một Đức Phật thành tựu vô biên công đức như: mười lực, bốn pháp không sợ hãi, đại bi, ba niệm trụ, mười tám pháp bất cộng v.v…, thì Đức Phật khác cũng thế, nên gọi là bình đẳng.

Lại nữa, vì căn như nhau, nên gọi là bình đẳng. Chư Phật đều an trụ nơi căn thượng phẩm.

Lại nữa, vì giới như nhau, nên gọi là bình đẳng. Chư Phật đều được giới thượng phẩm.

Lại nữa, vì địa như nhau, nên gọi là bình đẳng. Nghĩa là như một Đức Phật dựa vào tĩnh lự thứ tư, chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, thì Đức Phật khác cũng thế, nên gọi là bình đẳng.

Hỏi: Khi đắc quả A-la-hán thì được bao nhiêu giới tùy tâm chuyển của thân, địa?

Các Sư ở phương Tây nói: Được giới tùy tâm chuyển của

hai mươi sáu xứ thân. Nghĩa là cõi dục có chín, cõi sắc có mười bảy.

Các Luận sư ở nước Ca-thấp-di-la nói: Được giới tùy tâm chuyển của hai mươi lăm xứ thân. Do trời Đại Phạm không có xứ riêng. Là vị lai tu, không phải đều hiện khởi. Nghĩa là cõi dục, cõi sắc tùy theo thân ở địa nào mà được quả vô học, tức thân ở địa đó có giới tùy tâm chuyển, cũng là vị lai tu, cũng được hiện khởi. Còn thân ở địa khác có giới tùy tâm chuyển, tuy vị lai tu, nhưng không hiện khởi, không có dị thục kia nương vào thân, vì đã sinh vào cõi vô sắc, được quả vô học, tuy được giới của cõi vô sắc, nhưng không hiện khởi, vì sinh nơi cõi trên không khởi định ở địa dưới.

Hỏi: Dựa vào thân của tự địa có khả năng khởi hiện tất cả giới của tự địa không?

Đáp: Không có khả năng khởi hiện hết. Vì sao? Vì pháp ác hãy còn không thể khởi hiện hết, huống chi là các công đức do gia hạnh phát sinh.

Hỏi: Vì sao bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc thành tựu giới của đạo câu hữu, không phải là giới của định câu hữu?

Đáp: Vì pháp hữu lậu hệ thuộc ở địa cõi, không phải cõi trên, nghĩa là sinh ở cõi trên liền mất. Vô lậu thì không như vậy. Lại nữa, pháp hữu lậu hơn kém đều tùy thuộc ở địa. Sinh nơi cõi trên, nhàm chán cõi dưới, cho là không có chỗ dùng, tất không thành tựu. Vô lậu thì không như vậy. Thế nên bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc, chỉ thành tựu được giới của đạo câu hữu.

Luận phụ thêm đã rõ, nên trở lại phần chánh luận.

Hỏi: Nhân câu hữu lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Tất cả pháp hữu vi.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là nhân câu hữu? Câu hữu nghĩa là gì?

Đáp: Nghĩa không lìa nhau là nghĩa của câu hữu. Nghĩa đồng một quả là nghĩa của câu hữu. Nghĩa cùng tùy thuận là nghĩa của câu hữu.

Nhân câu hữu này quyết định thông hợp cả ba đời, có quả Sĩ dụng.

***

* Thế nào là Nhân đồng loại? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác và để làm sáng tỏ chánh lý. Nghĩa là hoặc có người chấp: Quá khứ vị lai, Thể không thật có. Hoặc chấp: Hiện tại là pháp vô vi. Hoặc chấp: Tự loại là nhân đồng loại, nghĩa là tâm chỉ cùng với tâm, thọ chỉ cùng với thọ, pháp khác cũng như thế. Vì ngăn chận các lối chấp dị biệt như thế, nhằm chỉ rõ: Thật có quá khứ, vị lai, và đời hiện tại là pháp hữu vi, tự tha loại là nhân đồng loại, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là nhân đồng loại?

Đáp: Căn thiện của đời trước và căn thiện nơi tự giới của đời sau cùng pháp tương ưng là nhân đồng loại. Căn thiện của quá khứ cùng căn thiện nơi tự giới của hiện tại, vị lai và pháp tương ưng là nhân đồng loại. Căn thiện của hiện tại cùng căn thiện nơi tự giới của vị lai và pháp tương ưng là nhân đồng loại.

Hỏi: Trong đây vì sao không nói quá khứ cùng với quá khứ là nhân đồng loại?

Đáp: Vì đời trước cùng với đời sau đã nói rồi.

Hỏi: Vì sao không nói tên riêng của quá khứ?

Vì muốn hiển bày pháp sau không phải là nhân của pháp

trước. Nếu nói quá khứ cùng với quá khứ là nhân đồng loại thì hoặc có người sinh nghi: Pháp sau của quá khứ cũng là nhân của pháp trước. Nếu nói đời trước cùng với đời sau là nhân đồng loại, thì nghi ấy liền dứt.

Có thuyết cho: Đoạn văn này muốn chỉ rõ là quá khứ có nghĩa trước sau. Nếu nói quá khứ cùng với quá khứ là nhân đồng loại, thì hoặc có người sinh nghi: Các pháp quá khứ đồng thời lần lượt làm nhân đồng loại. Nếu nói đời trước cùng với đời sau là nhân đồng loại thì nghi ấy được dứt.

Hỏi: Vì sao đời trước v.v… chỉ nói căn thiện, còn đời sau v.v… lại nói luôn cả pháp tương ưng?

Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn thế, cho đến nói rộng.

Có thuyết nêu: Đời trước v.v… cũng nên nói pháp tương ưng, nhưng không nói, nên biết là ở đây nêu bày chưa đầy đủ.

Có thuyết nói: Đoạn văn này là nhằm ngăn chận ý của Sa-môn tương tợ tương tục. Sa-môn kia bảo: Căn thiện chỉ cùng với căn thiện làm nhân, pháp tương ưng của căn thiện chỉ cùng với pháp tương ưng của căn thiện làm nhân. Vì nhằm ngăn chận ý của Sa-môn kia và cũng để chỉ rõ là căn thiện cùng với căn thiện làm nhân, cũng cùng với pháp tương ưng làm nhân. Pháp tương ưng của căn thiện cùng với pháp tương ưng của căn thiện làm nhân, cũng cùng với căn thiện làm nhân nên nói như thế.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói căn thiện và pháp tương ưng mà không phải là pháp khác?

Đáp: Vì căn cứ vào sự thù thắng để nói. Nghĩa là trong pháp thiện thì căn thiện là tối thắng. Nó đối với pháp tương ưng là rất gần gũi nên nói riêng. Pháp bất thiện, vô ký nên biết cũng như vậy.

Tự giới nghĩa là cõi dục chỉ cùng với cõi dục làm nhân đồng loại. Cõi sắc và cõi vô sắc nên biết cũng như thế. Như nói tự giới thì tự địa cũng vậy, vì sự hệ thuộc riêng. Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất chỉ cùng với tĩnh lự thứ nhất làm nhân đồng loại, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ nên biết cũng như vậy.

Có Sư khác cho: Như nói về tự giới, tự địa, thì tự xứ cũng như vậy. Tức là Na-lạc-ca chỉ cùng với Na-lạc-ca làm nhân đồng loại, cho đến trời Sắc Cứu Cánh nên biết cũng như vậy.

Lời bình: Sư kia không nên nói như thế. Vì nếu nói như thế thì năm xứ Tịnh cư, ngay khi khởi sát-na đầu, tức nên không có nhân đồng loại, vì từ thời vô thỉ đến nay vẫn chưa sinh ra nhân đó. Nên nói như vầy: Đồng địa khác xứ đã khởi hiện phiền não, lần lượt cùng trói buộc, tùy từng loại lần lượt làm nhân đồng loại với nhau. Nhưng trừ bộ khác, là năm bộ tùy miên, vì sự trói buộc đã phân chia rõ nên có khác nhau.

Lại nói quá khứ v.v… là nhằm hiển bày Thể của quá khứ, vị lai là có thật, hiện tại là pháp hữu vi. Như căn thiện, căn bất thiện và căn vô ký cũng như thế.

Sự sai khác, là trong pháp bất thiện trừ tự giới, đó gọi là nhân đồng loại.

Hỏi: Vì sao trừ tự giới của bất thiện?

Đáp: Vì căn bất thiện không có giới khác.

Hoặc nói: Tự giới không có đối tượng phân biệt.

Có thuyết nêu: Trong pháp bất thiện cũng nên nói tự giới, do tiếng tự giới cũng nói là tự bộ. Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ, chỉ cùng với do kiến khổ đoạn trừ làm nhân đồng loại, cho đến do tu đạo đoạn trừ nên biết cũng như thế.

Hỏi: Nếu thế ở đây chỉ nên nói: Như căn thiện, thì căn bất thiện, căn vô ký cũng như vậy, không nên nói thêm câu có khác nhau?

Nếu chỉ nói như thế, hoặc có người sinh nghi: Như căn vô

ký thông hợp cả ba cõi thì căn bất thiện cũng thế, nên lại cần phải nói câu có khác nhau v.v…

Hỏi: Vì sao ở đây không nói căn bất thiện của đời trước v.v… cùng với căn vô ký v.v… của đời sau và pháp tương ưng là nhân đồng loại? Căn vô ký của đời trước v.v… cùng với căn bất thiện của đời sau v.v… và pháp tương ưng làm nhân đồng loại?

Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn như thế, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Nên nói nhưng không nói, phải biết ở đây nghĩa ấy nêu bày chưa đầy đủ .

Có thuyết cho: Nếu nói như vậy hoặc có khi khiến người khác sinh nghi, là căn bất thiện cũng thông cả ba cõi, hoặc căn vô ký chỉ ở nơi cõi dục. Hoặc còn sinh nghi nhân ít quả nhiều, hay nhân nhiều quả ít, thế nên không nói đến.

Văn tuy không nói nhưng nghĩa là thật có, vì tự bộ cùng làm nhân đồng loại.

Hỏi: Trong đời vị lai có nhân đồng loại không? Giả sử nêu như thế thì có lỗi gì?

Nếu có nhân đồng loại thì vì sao trong đây không nói? Nghĩa là trong đây chỉ nói đời trước cùng với đời sau làm nhân đồng loại. Quá khứ cùng với vị lai, hiện tại làm nhân đồng loại. Hiện tại cùng với vị lai làm nhân đồng loại, không nói vị lai cùng với vị lai làm nhân đồng loại?

Lại, nếu có nhân đồng loại, tức nên có hai tâm lần lượt làm nhân, là trái với thuyết trước. Nếu không thì nơi chương Kiến Uẩn trong Luận này đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Nếu pháp này cùng với pháp kia làm nhân, hoặc có lúc pháp này cùng với pháp kia không làm nhân chăng? Đáp: Không có lúc nào không phải là nhân.

Nếu pháp đã sinh là nhân đồng loại, nếu pháp chưa sinh thì không phải là nhân đồng loại, thế thì nếu pháp này cùng với pháp kia làm nhân, hoặc có lúc pháp này cùng với pháp kia không làm nhân, vì sao trả lời là: Không có lúc nào không phải là nhân.

Lại, nếu là không thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Thế nào là pháp không phải tâm làm nhân? Đáp: Là Bổ-đặc-già-la đã nhập chánh tánh ly sinh, là tâm vô lậu ban đầu và phàm phu khác nhất định sẽ nhập chánh tánh ly sinh, là tâm vô lậu ban đầu. Nhưng tâm vô lậu hiện có nơi vị lai của phàm phu kia đều không phải là tâm làm nhân, vì sao chỉ nói tâm vô lậu ban đầu kia?

Lại, nếu là không thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân, trừ hữu thân kiến ở vị lai và khổ đế tương ưng với hữu thân kiến đó, còn lại là các thứ nhiễm ô nơi khổ đế. Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân, cũng cùng với hữu thân kiến làm nhân, tức là pháp đã trừ. Nếu hữu thân kiến ở vị lai không cùng với hữu thân kiến ở vị lai làm nhân, vì sao nói là trừ hữu thân kiến ở vị lai? Và khổ đế tương ưng với hữu thân kiến kia chăng?

Lại, nếu là không thì như nơi Luận Thức Thân Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Đối với nhãn thức quá khứ nhiễm ô hiện có tùy miên, nhãn thức đó đối với tâm này, hoặc có thể làm nhân không phải là đã tùy tăng. Hoặc là đã tùy tăng nhưng không có thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng là đã tùy tăng. Hoặc không có thể làm nhân cũng không phải là đã tùy tăng.

Là có thể làm nhân không phải là đã tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm này, đồng loại, biến hành, tức tùy miên kia hoặc không duyên với đây, giả sử duyên rồi đoạn, cùng tùy miên tương ưng ấy đã đoạn.

Là đã tùy tăng nhưng không có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm này, đồng loại, biến hành, tức tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn.

Có thể làm nhân cũng là đã tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm này, đồng loại, biến hành, tức tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn và tùy miên tương ưng ấy chưa đoạn.

Không có thể làm nhân cũng không phải là đã tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm này, đồng loại, biến hành, tức tùy miên kia hoặc không duyên với đây, giả sử duyên rồi đoạn, hoặc duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Như nhãn thức nơi quá khứ kia nhiễm ô, nhãn thức ở vị lai nhiễm ô cũng như thế.

Bốn trường hợp của quá khứ, về lý có thể như thế. Về vị lai vì sao có thể nêu ra bốn trường hợp?

Nếu có trước sau vì sao không nhân?

Lại, nếu là không thì như nơi Luận Thi Thiết Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Các pháp có bốn sự việc quyết định, đó là nhân quả, đối tượng nương dựa, đối tượng duyên.

Nếu nơi đời vị lai không phải là nhân đồng loại, sinh rồi mới phải, thì làm sao quyết định được?

Lại, nếu là không tức nên không nhân mà có nhân, cũng nên không quả mà có quả, tức là hủy hoại tông chỉ của mình.

Đáp: Nên nói như vầy: Trong đời vị lai không có nhân đồng loại, do nhân kia không có, nên ở đây không nói. Cũng không có lỗi hai tâm cùng làm nhân.

Hỏi: Thế thì chương Kiến Uẩn trong Luận này đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Nếu pháp này cùng với pháp kia làm nhân, cho đến nói rộng.

Đáp: Có thuyết nói: Nơi phần kia đã dựa vào nhân câu hữu để tạo luận, vì nhân câu hữu hiện hữu khắp pháp hữu vi, trực tiếp có khả năng hành tác quả thông hợp cả ba đời.

Có thuyết cho: Phần kia là căn cứ vào hai nhân tương ưng và câu hữu để tạo luận, do hai nhân này cùng hiện hữu khắp ba tánh, chính chúng có khả năng hành tác quả thông hợp cả ba đời.

Có thuyết nêu: Phần kia là căn cứ vào ba nhân: tương ưng, câu hữu, dị thục để tạo luận, do ba nhân ấy có khả năng hành tác quả thông hợp cả ba đời.

Có thuyết biện: Phần kia là căn cứ vào bốn nhân: tương ưng, câu hữu, dị thục và năng tác để tạo luận, do bốn nhân ấy thông hợp cả ba đời.

Có thuyết cho: Phần kia là căn cứ vào năm nhân để tạo luận, tức sáu nhân trừ nhân năng tác, hiện hữu khắp tất cả pháp, đều không bị ngăn ngại.

Ở đây có thuyết nêu: Trừ nhân biến hành, vì Thể dụng hẹp.

Nên nói là phần kia đã căn cứ vào sáu nhân để tạo luận, vì nhân gọi là đối tượng được biểu hiện chung cho cả sáu nhân.

Hỏi: Nếu pháp đã sinh là nhân đồng loại, hoặc nhân biến hành, hoặc pháp chưa sinh không phải là nhân đồng loại, không phải là nhân biến hành, thế thì nếu pháp này cùng với pháp kia làm nhân, hoặc có lúc pháp này cùng với pháp kia không phải là nhân, vì sao đáp là: Không lúc nào không phải là nhân?

Đáp: Căn cứ vào phần vị sau cùng để ngầm tạo lời đáp này. Nghĩa là nếu pháp đối với phần vị này quyết định có thể tạo nên nhân đồng loại, hoặc nhân biến hành, thì từ đấy về sau không lúc nào không phải là nhân, nên nói như vậy.

Hỏi: Nếu thế thì nơi chương Kiến Uẩn đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Nếu pháp này cùng với pháp kia làm đẳng vô gián, hoặc có lúc pháp này cùng với pháp kia không làm đẳng vô gián chăng? Trả lời: Hoặc có lúc pháp này chưa đến đã sinh. Trong đây cũng nên căn cứ vào phần vị sau cùng để ngầm tạo câu trả lời: Không lúc nào không phải là đẳng vô gián. Nghĩa là nếu pháp đối với phần vị này, nhất định có thể làm đẳng vô gián, thì từ đây về sau không lúc nào không phải là đẳng vô gián. Vì sao không nói như vậy?

Đáp: Cũng nên nói như thế nhưng không nói là có ý sâu xa riêng, tức là trình bày với hình thức văn khác. Nếu trình bày theo hình thức văn khác thì nghĩa tức dễ hiểu. Lại nữa, vì hiện bày hai môn, hai con đường, hai ngọn đèn, hai sáng rõ, hai ngọn đuốc, hai ánh sáng, hai mặt trời, hai văn ảnh. Như nhân đồng loại nương dựa vào phần vị sau cùng, ngầm nói như vầy: Không lúc nào không phải là nhân. Đẳng vô gián duyên cũng nên căn cứ vào phần vị này để ngầm nói: Không lúc nào không phải là đẳng vô gián. Như đẳng vô gián duyên dựa vào tất cả phần vị để nói hoặc có lúc pháp này chưa đến đã sinh. Nhân đồng loại cũng nên căn cứ vào tất cả phần vị để nói như thế. Hai hình thức văn phản ánh cùng thông hợp cả hai nghĩa.

Hỏi: Như nơi Luận Phẩm Loại Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Thế nào là pháp không phải tâm làm nhân, cho đến nói rộng?

Đáp: Luận kia chỉ nói pháp hoàn toàn không phải tâm làm nhân. Tuy hành giả kia chưa nhập chánh tánh ly sinh, các tâm vô lậu đều không phải tâm làm nhân. Nhưng nếu nhập chánh tánh ly sinh, chỉ có tâm vô lậu ban đầu là không phải tâm làm nhân, còn tâm khác đều lấy tâm làm nhân.

Có Sư khác cho: Đoạn văn của luận kia không biện luận về nghĩa của nhân đồng loại. Thế nào là chỉ biện về hai hạng phàm phu? Nghĩa là có pháp Bát Niết-bàn và không có pháp Bát Niết-bàn. Văn tuy không nêu ra không có pháp Niết-bàn, nhưng nghĩa dựa theo môn lý để chỉ rõ nên biết là có. Tức đoạn văn kia đã nói có hạng phàm phu khác quyết định sẽ nhập chánh tánh ly sinh, nhưng do dựa theo nghĩa này, cũng có phàm phu quyết định không nhập chánh tánh ly sinh. Đây tức gọi là không có pháp Niết-bàn, nghĩa là không có pháp Niết-bàn gọi là không phải tâm làm nhân.

Hỏi: Theo như Luận Phẩm Loại Túc đã nói thì làm sao thông suốt? Như nói: Hoặc có khổ đế do hữu thân kiến làm nhân, cho đến nói rộng?

Đáp: Luận kia chỉ nói: Trừ hữu thân kiến ở vị lai tương ưng với khổ đế, không cùng với lời nói kia. Vì nếu nói như vậy tức là người tụng đã nhầm.

Hỏi: Như nơi Luận Thức Thân Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Đối với nhãn thức quá khứ nhiễm ô hiện có tùy miên, cho đến nói rộng?

Đáp: Luận kia đối với vị lai nên tạo ra ba trường hợp: Trừ đã tùy tăng không có thể làm nhân, vì nhân kia về sau này không có. Nhưng nói vị lai như quá khứ là có ý sâu xa riêng. Nghĩa là lúc đang sinh tất nhập hiện tại nhất định là nhân đồng loại, hoặc nhân biến hành, đối chiếu với pháp khác chưa khởi hiện, có thể nói là trước. Đối lập với trước này có thể gọi phần còn lại là sau.

Có Sư khác nêu: Luận kia nói vị lai cũng có bốn trường hợp. Không nói vị lai có tâm trước sau, đồng với quá khứ.

Là có thể làm nhân không phải là đã tùy tăng: Nghĩa là tùy miên tương ưng này đã đoạn.

Là đã tùy tăng không phải là có thể làm nhân: Nghĩa là có tùy miên đồng loại, biến hành nơi đời vị lai. Nhãn thức nhiễm ô ở đời vị lai duyên với tùy miên nhưng chưa đoạn.

Có thể làm nhân cũng là đã tùy tăng: Nghĩa là tùy miên tương ưng này chưa đoạn.

Không có thể làm nhân cũng không phải là đã tùy tăng: Nghĩa là có tùy miên đồng loại, biến hành ở đời vị lai, hoặc không duyên với đây, nếu như duyên rồi đoạn, hoặc duyên nơi pháp khác, hoặc tùy miên khác, hoặc tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Hỏi: Như nơi Luận Thi Thiết Túc đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Các pháp có bốn sự việc quyết định, cho đến nói rộng?

Đáp: Về nhân: Là có bốn nhân, tức nhân tương ưng, câu hữu, dị thục, năng tác.

Về quả: Là ba quả, tức quả sĩ dụng, quả dị thục, quả tăng thượng.

Về đối tượng nương dựa: Là có sáu thứ đối tượng nương dựa, tức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

Về đối tượng duyên: Là có sáu thứ đối tượng duyên, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Bốn sự việc như thế quyết định cả ba đời nên không mâu thuẫn nhau.

Hỏi: Nếu ở đời vị lai không có nhân đồng loại và nhân biến hành ở quá khứ, hiện tại mới có, tức nên không nhân mà có nhân, cũng nên không quả mà có quả. Như thế là hủy hoại về Tông chỉ ba đời là có chăng?

Đáp: Cho dù thừa nhận cũng không có lỗi, vì căn cứ theo phần vị không phải là Thể, do tác dụng hòa hợp nơi quả của vị, không phải là quả của Thể. Tuy nhiên phần vị cùng với Thể là phi tức phi lìa, Thể tuy luôn có mà phần vị không phải là luôn có, nên nhân đồng loại và nhân biến hành xưa không nay có, cũng không có lỗi.

Có Sư khác nói: Trong đời vị lai có nhân đồng loại.

Hỏi: Nếu như thế đối với sáu thứ vấn nạn nêu sau là khéo thông tỏ, vì sao trong đây văn của luận không nói đến?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa ấy nêu bày chưa trọn vẹn. Vì sáu nhân đã nói đều chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu nhân đồng loại có sức, có thể nhận quả, cho quả, tức trong đây nói đến. Vì nhân đồng loại ở vị lai không có sức, không có thể nhận lấy quả, cho quả, thế nên không nói.

Lại nữa, nếu nhân đồng loại đã hiện ra, đã hòa hợp, đã có tác dụng, gánh lấy trách nhiệm tức trong đây nói đến. Vì nhân đồng loại ở vị lai không có các sự việc như thế, nên không nói đến.

Lại nữa, nếu nhân đồng loại đã hành thế cùng hiện rõ, tức trong đây nói đến. Vì nhân đồng loại ở vị lai chưa hành thế cùng không hiện rõ, nên không nói đến.

Hỏi: Nếu đời vị lai có nhân đồng loại tức nên có lỗi là hai tâm cùng làm nhân chăng?

Đáp: Như bốn hành tướng, mỗi thứ đều có hệ thuộc, các pháp khác cũng thế, nên không có lỗi ấy. Nghĩa là hành tướng vô thường ở đời vị lai có bốn hành tướng, nên vô gián sinh, tướng đó là hệ thuộc của sự tu tập. Đối với hành tướng vô thường này cùng với vô gián kia làm nhân. Tướng kia không phải là nhân của tướng vô thường ấy, vì hệ thuộc tướng ấy. Hành tướng vô thường khởi hiện tất ở trước. Hành tướng khổ, không, vô ngã cũng như thế. Pháp hữu vi khác so sánh với đây nên biết. Do vậy không có lỗi hai tâm cùng làm nhân.

Nếu nói như vậy, có trường hợp nương vào tĩnh lự thứ tư, chứng đắc quả A-la-hán, có thể tu chín địa vô lậu ở vị lai. Đã tu vô lậu là đều hệ thuộc ở đấy. Về sau khởi tu ở địa khác, Thánh đạo hiện ở trước, lại không thể tu vô lậu ở vị lai, vì không có Thánh đạo khác hệ thuộc nơi đây, nên ở quá khứ, hiện tại không phải là nhân đồng loại, thế là trái hại.

Ở đây đã nói căn thiện đời trước cùng với đời sau là nhân đồng loại, cho đến nói rộng. Chớ nên có lỗi ấy. Vì thế nên đời vị lai không có nhân đồng loại, đối với lý là đúng.

Hỏi: Sắc pháp có phải là nhân đồng loại không?

Đáp: Các Sư nước ngoài nói như vầy: Tất cả sắc pháp đều không có nhân đồng loại, chỉ nhờ vào lực hòa hợp của duyên khác mà khởi hiện thấy. Như đào sâu xuống lòng đất hơn một trăm khuỷu tay thì thấy bùn, lấy bùn đó phơi dưới nắng gió, về sau gặp trời mưa khối bùn nọ liền sinh cỏ. Lại nữa, hiện thấy trên nóc nhà, trên đỉnh núi cao, trước không hề có hạt giống nào, thế mà cũng mọc lên cây cỏ. Vì vậy nên biết: Sắc pháp không có nhân đồng loại.

Hỏi: Nếu thế thì nơi chương Đại Chủng Uẩn trong Luận này đã nói làm sao thông suốt? Như nói: Đại chủng tạo sắc quá khứ cùng với đại chủng tạo sắc vị lai v.v… là nhân tăng thượng.

Đáp: Đối với luận khác đâu cần phải thông suốt! Nếu tất phải thông suốt, nên nói thế này: Lực của tăng thượng duyên có gần, có xa, có nơi thân này, có nơi thân khác. Nếu là gần, có nơi thân này, gọi là nhân. Nếu là xa, ở nơi thân khác gọi là tăng thượng.

Các Luận sư nước Ca-thấp-di-la nói: Sắc pháp cũng có nhân đồng loại, chỉ trừ sắc vô lậu ban đầu.

Hỏi: Nếu thế tuy thông với phần Đại Chủng Uẩn đã nói, nhưng sự việc đã nêu dẫn kia phải thông suốt như thế nào?

Đáp: Khối bùn đem phơi kia trước có hạt giống, nhưng thiếu duyên khác nên cỏ chưa được sinh. Về sau gặp các duyên, tức liền sinh cỏ.

Lại, trên khối bùn nơi nóc nhà, đỉnh núi cao kia, cây cỏ sinh ra là do có gió thổi, có chim ngậm mang hạt giống đến đó, nên được như thế.

HẾT – QUYỂN 17