LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 93

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ HỌC CHI, phần 1

* Như Đức Thế Tôn nói: Học hành tích thành tựu tám chi học. Vậy các chi học ấy đã được thành tựu trong quá khứ là bao nhiêu, vị lai là bao nhiêu, hiện tại là bao nhiêu? Các chương như thế v.v… và giảng giải nghĩa của chương đã lãnh hội rồi, tiếp theo nên giải thích rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn giải thích nghĩa lý của Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Học hành tích thành tựu tám chi học. A-la-hán dứt hết lậu thành tựu mười chi vô học”. Khế kinh tuy nói như thế nhưng không nói là đã thành tựu được bao nhiêu trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Khế kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những gì Khế kinh chưa nói nay nên nêu bày đủ.

Lại nữa, vì muốn ngăn chận các thuyết khác, hiển bày về chánh lý. Nghĩa là hoặc có người chấp: Tự tánh của quá khứ, vị lai là không thật. Còn trong hiện tại tuy có nhưng là vô vi. Vì để ngăn chận ý tưởng ấy, làm sáng tỏ quá khứ, vị lai là thật có, có thể thành tựu, không phải là thứ không thể có được, như đầu thứ hai uẩn thứ sáu, mà là thành tựu được, nên là thật có. Lại muốn chỉ rõ các pháp trong đời hiện tại nhất định là hữu vi, có sinh diệt.

Hoặc lại có lối chấp: Tánh thành tựu không thành tựu là không thật. Như phái Thí Dụ nói: Hữu tình không lìa các pháp gọi là thành tựu. Khi lìa các pháp gọi là không thành tựu. Đây đều là giả nêu đặt. Như khi năm ngón tay hợp lại giả gọi là nắm tay, khi các ngón tay mở ra không còn là nắm tay nữa. Các sự việc ở đây cũng như thế.

Hỏi: Vì sao họ chấp như vậy?

Đáp: Vì họ dựa vào Khế kinh nên chấp như thế. Như Khế kinh nói: “Có Chuyển luân vương thành tựu bảy báu”. Như vậy, nếu tánh thành tựu là thật có thì việc thành tựu xe báu và ngọc thần báu là thuộc về pháp tánh hoại. Vì sao? Vì cũng là hữu tình, cũng là phi tình.

Khi thành tựu voi báu, ngựa báu thì lại thuộc về nẻo hoại. Vì sao? Vì cũng là bàng sinh cũng là người.

Khi thành tựu nữ báu thì thuộc về thân hoại. Vì sao? Vì cũng là thân nam cũng là thân nữ.

Khi thành tựu quan chủ binh và chủ kho báu thì thuộc về nghiệp hoại. Vì sao? Vì vua tôi xen tạp.

Chớ nên phạm lỗi này. Vì thế phái ấy cho tánh thành tựu nhất định là không thật có. Để ngăn chận ý tưởng đó, nêu rõ tánh thành tựu nhất định là thật có.

Vì nếu không như thế thì trái với Khế kinh, như nói: “Học hành tích thành tựu tám chi học. A-la-hán dứt hết lậu thành tựu mười chi vô học”. Bậc Thánh khi hiện khởi tâm hữu lậu nếu không thành tựu các pháp vô lậu ở quá khứ, vị lai, vậy làm thế nào thành tựu được tám chi hay mười chi?

Lại trái với kinh khác, như nói: “Bổ-đặc-già-la như thế là thành tựu pháp thiện và pháp bất thiện”. Nếu khi pháp thiện hiện tiền thì pháp bất thiện không tạo thành. Nếu khi pháp bất thiện hiện tiền thì pháp thiện không thành tựu. Nếu khi pháp vô ký hiện tiền thì hai pháp thiện và pháp bất thiện đều không thành tựu? Nếu không như thế thì vì sao nói là đã thành tựu pháp thiện và pháp bất thiện?

Lại trái với kinh khác, như nói: Thành tựu được bảy pháp thiện thì người kia trong hiện pháp phần nhiều trụ nơi hỷ, lạc, và như lý siêng năng tu tập tất có thể dứt hết các lậu. Bảy pháp thiện đó là biết pháp, biết nghĩa, cho đến nói rộng. Như vậy, trong bảy pháp ấy nếu khi một pháp hiện tiền tức nên sáu pháp thiện còn lại không thành tựu. Khi pháp khác hiện tiền thì bảy pháp thiện này tức nên không thành tựu. Vậy sao nói là thành tựu bảy pháp thiện?

Lại trái với kinh khác, như nói: Đức Như Lai thành tựu mười lực. Như vậy khi khởi một lực hiện tiền tức nên chín lực kia không thành tựu. Còn khi pháp khác hiện tiền thì mười thứ này không thành tựu. Vậy sao nói Đức Như Lai thành tựu mười lực?

Lại có lỗi khác: Tức là các phàm phu không khởi tâm nhiễm ô nơi phần vị hiện tiền, tức nên thành bậc vô học, không gây tạo tất cả các thứ phiền não trong ba cõi. Còn nếu các bậc vô học khởi tâm hữu lậu trong phần vị hiện tiền, tức nên thành phàm phu, không thành tựu các pháp học và vô học. Chớ có phạm lỗi này, vì thế tánh thành tựu quyết định là thật có.

Hỏi: Nếu tánh thành tựu là thật có thì phái Thí Dụ kia đã dẫn Khế kinh như trước làm sao thông tỏ?

Đáp: Vì Chuyển luân vương nơi kinh kia nói là có lực tự tại, tùy ý thọ dụng như thành tựu, do đó nên lập tên thành tựu. Nếu hoàn toàn bác bỏ cho tánh thành tựu là không thật có, thì vì sao ở đây lại lập tên thành tựu?

Lại có Sư khác nêu: Thừa nhận có thành tựu, bác bỏ không thành tựu. Vị này nói: Các tánh thành tựu có tác dụng nên có thể là thật có. Còn tánh không thành tựu đã không có tác dụng làm sao là thật có? Vì để ngăn chận lối chấp này, nêu rõ không thành tựu cũng là thật có. Nếu không thành tựu không phải là thật có, thì sự đối đãi với tánh thành tựu được đặt ra kia cũng không thật có. Tức như ánh sáng và hình bóng, sáng và tối, ngày và đêm, nóng và lạnh v.v… các sự việc cùng đối đãi mà lập, nếu thiếu một thì không thành. Ở đây cũng như thế.

Lại nữa, tánh không thành tựu và tánh thành tựu gần nhau mà cùng trái nhau, chúng đều thật có, như tham và không tham, sân và không sân, si và không si luôn gần và cùng trái nhau nên cùng thật có.

Lại nữa, nếu tánh không thành tựu không phải là thật có, tức nên không đặt ra pháp đoạn trừ các phiền não. Vì sao? Vì không phải là Thánh đạo sinh ra sự đoạn trừ các phiền não, như đao chặt đứt các vật, như đá mài hương. Nhưng khi Thánh đạo hiện tiền thì khiến các phiền não đã tạo thành bị diệt, tức cũng khiến các phiền não không thành tựu được việc sinh, khi ấy gọi là đoạn trừ các phiền não.

Lại có phái khác chấp: “Đạo là vô vi”, như phái Luận Phân Biệt. Họ nói: Chỉ có một quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng là thường trụ, bất diệt. Tùy theo từng vị Phật xuất hiện ở đời, chủ thể chứng đắc tuy có khác nhưng đối tượng được chứng đắc thì không khác. Như một loại voi quý đẹp đẽ oai nghiêm, tuy có nhiều người lần lượt cỡi lên, nhưng voi quý kia trước sau vẫn là một.

Hỏi: Do đâu họ chấp như thế?

Đáp: Do họ dựa theo Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Phật bảo các Bí-sô: Ta đã chứng được cựu đạo”. Nên biết Thánh đạo nhất định là vô vi. Vì để ngăn chận lối chấp này, nhằm chỉ rõ Thánh đạo gắn liền với ba đời, nhất định là hữu vi, không phải là pháp vô vi vì gắn liền với ba đời.

Lại nữa, có kẻ chấp: Thể của Thánh đạo là vô vi. Vậy là trái với Khế kinh. Như Khế kinh nói: Có một vị Cư sĩ nữ tên là Tỳ-xákhư đến chỗ giảng pháp cho các Bí-sô-ni, hỏi: Thánh đạo là hữu vi hay là vô vi? Các vị Bí-sô-ni đáp: Thánh đạo là hữu vi vì gắn liền với ba đời.

Hỏi: Nếu Thánh đạo là hữu vi thì như phái Luận Phân Biệt đã dẫn Khế kinh làm sao thông?

Đáp: Do năm sự việc giống nhau nên nói là cựu đạo:

1. Giống nhau về địa: Tức chư Phật đều dựa vào tĩnh lự thứ tư để chứng đắc Bồ-đề.

2. Giống nhau về gia hạnh: Tức chư Phật đều trải qua ba vô số kiếp tu tập sáu pháp Ba-la-mật đã được viên mãn.

3. Giống nhau về đối tượng duyên: Tức chư Phật đều duyên vào lý của bốn Thánh đế để chứng đắc Bồ-đề.

4. Giống nhau về hành tướng: Tức chư Phật đều dùng mười sáu hành tướng như khổ, vô thường v.v… để tu tập Thánh đạo.

5. Giống nhau về đối tượng tạo tác: Tức chư Phật đều dùng diệu lực của đạo vô lậu để đoạn trừ tất cả phiền não trong tự thân, lại cũng khiến cho vô lượng vô biên các hữu tình đạt được Niết-bàn an lạc.

Nếu không căn cứ vào sự giải thích tên gọi cựu đạo này, cho vô vi là nghĩa của cựu, tức như kinh kia nói về thành cũ, kinh đô cũ, vậy chẳng lẽ kinh đô, thành ấp xưa cũ là pháp vô vi sao?

Lại, như Khế kinh nói: Chứng đắc Thánh đạo cựu, liền chấp Thánh đạo là pháp vô vi? Khế kinh cũng nói: Rắn lột da cũ, chẳng lẽ da cũ của rắn là pháp vô vi? Như có tụng nói:

Nếu đoạn ái rốt ráo

Như hoa sen nơi nước

Bí-sô bỏ kia, đây

Như rắn bỏ da cũ.

Như thành ấp xưa v.v… đều là hữu vi, nên Thánh đạo cựu nói ở đây lý cũng như thế.

Vì muốn ngăn chận những điều do các tông khác đã nói và nhằm hiển bày chánh lý của các pháp, nên tạo ra phần Luận này.

Như Đức Thế Tôn nói: “Học hành tích thành tựu tám chi học”.

Ở đây, những gì là tám chi học? Đó là học chánh kiến v.v… cho đến chánh định thành tựu.

Hỏi: Những gì là thành tựu? Là pháp thành tựu hay Bổ-đặc-giàla thành tựu? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao?

Nếu pháp thành tựu thì tất cả pháp đã không có tác dụng. Ở trong tất cả pháp không có tác dụng ấy, thì pháp nào là chủ thể thành tựu, pháp nào là đối tượng thành tựu?

Nếu Bổ-đặc-già-la thành tựu thì về nghĩa đúng thật và nghĩa thù thắng, Bổ-đặc-già-la đều không thể đạt được. Đã không phải là Bổđặc-già-la chân thật thì vì sao nói là có thể thành tựu được các pháp?

Đáp: Nên nói như vầy: Không phải là pháp thành tựu, cũng không phải là Bổ-đặc-già-la thành tựu, nhưng có tánh thành tựu chân thật và tánh không thành tựu, mà không có sự thành tựu chân thật và sự không thành tựu. Cũng như có sự chân thật về tạp nhiễm và thanh tịnh, bị trói buộc và giải thoát, lưu chuyển và hoàn diệt, nhân và quả, chết và sống, các nghiệp và dị thục, đạo và đạo quả, mà không có những kẻ tạp nhiễm và thanh tịnh chân thật v.v… cho đến kẻ tu đạo và chứng đạo quả.

Có thuyết nói: Là pháp thành tựu.

Hỏi: Nếu như thế thì pháp không có tác dụng làm sao thành tựu?

Đáp: Các pháp tuy không có tác dụng nhưng có công năng.

Hỏi: Nếu như thế thì nhãn xứ tức nên thành tựu mười một xứ, mười một xứ cũng nên thành tựu nhãn xứ?

Đáp: Dựa theo lý này để nói cũng không có lỗi. Vì đều có công năng cùng nhau dẫn khởi.

Lời bình: Nên nói như vầy: Chủ thể thành tựu không phải là pháp, cũng không phải là Bổ-đặc-già-la, vì không có tác dụng chân thật, vì Bổ-đặc-già-la không phải là thật có. Nhưng có bốn uẩn, năm uẩn trong lúc sinh, cùng với các loại như thế đều được cùng chuyển gọi là thành tựu. Khi cùng với các loại như thế nhưng không được cùng chuyển gọi là không thành tựu.

Hỏi: Nếu như vậy thì các điều kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Các Bổ-đặc-già-la như thế thành tựu các pháp thiện và pháp bất thiện?

Đáp: Đây là Đức Thế Tôn đối với các uẩn theo thế tục mà nói, không nói là thật có Bổ-đặc-già-la thành tựu các pháp.

Hỏi: Trong đây, thế nào là nghĩa thành tựu?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Nghĩa không đoạn dứt là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu như thế các Bổ-đặc-già-la bị đủ các thứ trói buộc, đối với tất cả pháp đều gọi là không đoạn dứt, nên đều là thành tựu chăng?

Đáp: Không phải đều là thành tựu, vì có chưa được.

Lại có thuyết cho: Nghĩa đã đạt được là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu như thế bậc vô học đã được pháp học nên là thành tựu chăng?

Đáp: Không phải là thành tựu vì bậc kia đã xả bỏ pháp ấy.

Lại có thuyết nêu: Nghĩa không từ bỏ là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu như thế quả vị học không từ bỏ pháp vô học nên là thành tựu pháp ấy chăng?

Đáp: Không phải là thành tựu vì vị ấy chưa đạt được pháp kia.

Lại có thuyết cho: Nghĩa đã được, chưa bỏ là nghĩa thành tựu. Lời này là hợp lý. Nếu pháp đã được mà khi chưa bỏ tất là thành tựu.

Đại đức nói: Hữu tình ở thế gian không lìa các pháp, nên giả nói là thành tựu. Còn trong thắng nghĩa không có tánh thành tựu.

Hỏi: Thế nào gọi là học? Là học nơi đối tượng học hay là đạt được pháp học? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao?

Nếu học nơi đối tượng học nên gọi là học, thì điều nơi chương Định Uẩn nói làm sao thông? Như nói: Hữu học không phải là học nơi đối tượng học. Nghĩa là người hữu học an trụ nơi tự tánh.

Nếu đạt được pháp học nên gọi là học, thì điều nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như nói: Đức Phật nói với Thi-phược-ca: Học nơi đối tượng học nên gọi là học.

Đáp: Nên nói như thế này: Học nơi đối tượng học nên gọi là học. Hỏi: Nếu như thế thì điều nơi chương Định Uẩn nói làm sao thông?

Đáp: Phần Luận ấy nói về thế tục cùng xưng là học. Nghĩa là nơi đối tượng học lúc học hoặc không học, thế gian cùng gọi đó là học. Cho nên Luận sư của Bản luận này nói: Người kia là học nhưng thật sự là phi học. Lại nữa, người kia nơi đối tượng học luôn hy vọng không ngừng, căn cứ vào tâm luôn mong ước đó nên nói là học.

Có thuyết cho: Đạt được pháp học nên gọi là học

Hỏi: Nếu như thế thì điều nơi Khế kinh nói làm sao thông?

Đáp: Vì Khế kinh dựa vào tâm kỳ vọng không ngừng, không bỏ gia hạnh, nên nói như thế. Nghĩa là người hữu học, hoặc khởi tâm thiện, hoặc khởi tâm bất thiện, hoặc khởi tâm vô ký, nhưng luôn không bỏ tâm hướng đến Niết-bàn, luôn thực hiện các gia hạnh trong mọi lúc, nên gọi là học nơi đối tượng học. Nhưng cũng có lúc không học nơi đối tượng học. Như người đang đi trên đường, tạm thời nghỉ chân, có người đến hỏi: Anh định đi đến đâu? Người này trả lời: Tôi hướng đến chỗ đó, chốn đó v.v… Do không bỏ tâm hướng đến, nên tuy đang nghỉ cũng nói là hướng đến.

Người học đó đi theo dấu vết nên gọi là Học hành tích.

Hỏi: Vô học hành tích là sáng sạch, thắng diệu vượt hơn so với hữu học, vì sao chỉ nói Học hành tích?

Đáp: Cũng nên nói là có Vô học hành tích nhưng không nói là vì ở đây nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, đã nói khởi đầu tất phải nói về chung cuộc. Đã nói học tích tức cũng nói vô học.

Lại nữa, vì muốn hiển bày mỗi thứ đều riêng có sự việc thù thắng. Nghĩa là ở quả vị hữu học có hành tích thù thắng, còn trong quả vị vô học có giải thoát thù thắng. Cũng như vua cùng các quan mỗi bên đều có sự việc thù thắng riêng, tức là vua có sự tôn quý, uy phục thù thắng, còn quan có sự nghiệp, chiến công thù thắng.

Lại nữa, hữu học hành tích có khả năng đoạn trừ phiền não, chiến thắng giặc oán phiền não. Vô học thì không như vậy.

Lại nữa, hữu học hành tích là đoạn trừ phiền não, siêng năng tu tập gia hạnh. Vô học thì không như vậy.

Lại nữa, nghĩa thường xuyên hành trì là nghĩa của hành tích, hữu học là luôn hành tác. Vô học thì không như vậy.

Thế nên không nói Vô học hành tích.

Hỏi: Có tám chi học, quá khứ thành tựu bao nhiêu chi, vị lai thành tựu bao nhiêu chi, hiện tại thành tựu bao nhiêu chi?

Đáp: Nếu dựa vào định có tầm có tứ, học kiến đầu tiên hiện tiền, quá khứ không có, vị lai và hiện tại có tám chi.

Ở đây, định có tầm có tứ: Nghĩa là định vị chí và tĩnh lự thứ nhất.

Dựa vào, có thuyết nói: Cùng sinh gọi là dựa vào.

Lại có thuyết cho: Đẳng vô gián duyên là nghĩa dựa vào.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tức hai địa ấy nói chung là dựa vào.

Mới, đầu: Tức có bốn thứ: 1. Mới nhập chánh tánh ly sinh: Nghĩa là dựa vào địa kia để bước đầu nhập chánh tánh ly sinh. 2. Mới được quả: Nghĩa là dựa vào địa kia đầu tiên được quả học. 3. Mới chuyển căn: Nghĩa là dựa vào địa kia, tín thắng giải đầu tiên luyện căn tạo kiến chí. 4. Mới lìa nhiễm: Nghĩa là đạo thế tục lìa các nhiễm rồi, đầu tiên dựa vào địa kia khởi đạo vô lậu hiện tiền. Trong đây là dựa chung vào bốn thứ đầu tiên nói trên để tạo ra phần luận. Nhưng trải qua các phần vị, có chỗ đủ bốn, có chỗ không đủ, theo chỗ thích ứng suy xét tuyển chọn.

Học kiến hiện tiền: Hỏi: Về học cũng có phi học phi vô học kiến hiện tiền, vì nó cũng là học kiến, tức là các vị hữu học đã khởi kiến. Vì sao trong đây không nói vị học là học kiến hiện tiền?

Đáp: Đáng lẽ nói như thế nhưng không nói, nên biết ở đây là nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, ở đây học kiến tức nói là học kiến, không phải là kiến của người học, cho nên đừng vấn nạn.

Quá khứ không có: Nghĩa là như trước đã nói: Khi các sát-na đầu tiên hiện tiền thì hoàn toàn không có quá khứ, vì chưa có một niệm đã sinh rồi diệt. Nếu như đã sinh rồi diệt thì được quả chuyển căn, hoặc thoái bỏ.

Vị lai có tám: Nghĩa là lúc đầu tu đầy đủ tám chi học ở vị lai.

Hiện tại có tám: Khi ấy tám chi hiện tiền, tức chúng diệt rồi không mất.

Nếu lại dựa vào định có tầm có tứ, học kiến hiện tiền, thì quá khứ, vị lai và hiện tại đều có tám.

Ở đây, chữ bỉ (ấy, kia): Nghĩa là tám chi ấy.

Diệt rồi: Nghĩa là vô thường.

Diệt rồi không mất: Nghĩa là do ba nhân duyên nên mất đạo vô lậu: 1. Đắc quả. 2. Chuyển căn. 3. Thoái bỏ. Vì không có ba duyên ấy nên nói là không mất.

Nếu lại dựa vào v.v…: Nghĩa là ở trong sát-na thứ hai trở đi lại dựa vào định có tầm có tứ, học kiến hiện tiền.

Hỏi: Vì sao lại khởi học kiến của địa này?

Đáp: Là do nhớ nghĩ báo ân. Nghĩa là dựa vào địa này phá trừ các oán phiền não, nhớ nghĩ báo ân kia nên lại khởi lên lần nữa. Như nhân nơi áo giáp binh khí chế ngự kẻ oán địch rồi, lại luôn tu sửa quý trọng cất giữ. Lại nữa, do bốn duyên nên lại khởi lần nữa học kiến ấy: 1. Hiện pháp lạc trụ. 2. Công đức tự tại. 3. Quán xét chỗ tạo tác gốc. 4. Thọ dụng Thánh tài.

Quá khứ có tám: Nghĩa là kể từ sát-na thứ hai trở về sau thì thành tựu quá khứ, vì trong sát-na đầu tiên đã khởi và diệt.

Vị lai, hiện tại đều có tám: Như trước đã nói, nên biết, vì chúng diệt rồi không mất.

Nếu dựa vào định không tầm không tứ, học kiến hiện tiền, quá khứ và vị lai có tám, hiện tại có bảy.

Ở đây, định không tầm không tứ: Tức là các tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư.

Hỏi: Vì sao không nói đến tĩnh lự trung gian?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn . Lại nữa, tĩnh lự trung gian cùng với ba địa sau các chi không tăng giảm, thế nên không nói.

Quá khứ và vị lai đều có tám: Như trước đã nói, nên biết.

Hiện tại có bảy: Tức là trừ chánh tư duy, vì định kia không có tầm, do diệt rồi không mất.

Nếu dựa vào định vô sắc, học kiến hiện tiền, quá khứ và vị lai có tám, hiện tại có bốn.

Ở đây, định vô sắc: Tức là ba định vô sắc trước.

Hỏi: Vì sao không nói định vô sắc thứ tư?

Đáp: Vì nơi địa ấy không có Thánh đạo. Sau này sẽ nói về phần khởi tâm thế tục.

Quá khứ vị lai đều có tám: Như trước đã nói nên biết.

Hiện tại có bốn: Tức là trừ chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì ở địa kia không có, do chúng diệt rồi không mất.

Nếu nhập định diệt hoặc tâm thế tục hiện tiền, quá khứ và vị lai có tám, hiện tại không có.

Ở đây, nhập định diệt: Tức là đang trụ vào định diệt thọ tưởng.

Tâm thế tục: Tức là tâm định hữu lậu xuất khỏi định diệt, hoặc lại khởi tâm định hữu lậu khác.

Quá khứ và vị lai đều có tám: Nghĩa là ở trước, đầu tiên khởi định có tầm có tứ về tám chi và ở vị lai tu tập các chi ấy.

Hiện tại không có: Nghĩa là vì khi ở tại định diệt không có Thánh đạo và lúc tâm thế tục không khởi tám đạo chi vô lậu.

Nếu dựa vào định không tầm không tứ, học kiến đầu tiên hiện tiền, quá khứ không có, vị lai có tám, hiện tại có bảy.

Ở đây, nghĩa của dựa vào: Như trước đã nói, nên biết.

Định không tầm không tứ: Tức là ba tĩnh lự sau.

Đầu tiên: Tức có đủ bốn thứ như trước đã nói rộng.

Giải thích nghĩa của học kiến: Như trước đã nói, nên biết.

Quá khứ không có: Nghĩa là ở sát-na đầu tiên chưa có một niệm đã sinh rồi diệt. Nếu như đã sinh rồi diệt thì có ba duyên nên bỏ.

Vị lai có tám: Nghĩa là lúc đầu tiên tu tập đủ tám học chi ở vị lai.

Hiện tại có bảy: Nghĩa là ở địa này không có chánh tư duy, vì nó đã diệt rồi không mất.

Nếu lại dựa vào định không tầm không tứ, học kiến hiện tiền, quá khứ và hiện tại có bảy, vị lai có tám.

Ở đây, đã diệt rồi không mất: Như trước đã giải thích.

Quá khứ có bảy: Tức từ sát-na thứ hai trở về sau là thành tựu quá khứ. Còn sát-na đầu tiên khi đã khởi, diệt nên có bảy, vì nó diệt rồi không mất.

Nếu dựa vào định vô sắc, học kiến hiện tiền, quá khứ có bảy, vị lai có tám, hiện tại có bốn.

Ở đây, quá khứ có bảy: Nghĩa là sát-na đầu tiên đã khởi, diệt.

Các thứ khác như trước đã giải thích, vì nó đã diệt không mất.

Nếu nhập định diệt hoặc tâm thế tục hiện tiền, quá khứ có bảy, vị lai có tám, hiện tại không có.

Ở đây, tất cả như trước đã nói, nên biết, là chúng đã diệt không mất.

Nếu dựa vào định có tầm có tứ, học kiến hiện tiền, quá khứ có bảy, vị lai và hiện tại có tám.

Ở đây, quá khứ có bảy: Tức ở trước đầu tiên khởi định không tầm không tứ có bảy chi.

Vị lai có tám: Tức là ở phần vị đầu tiên nơi vị lai tu hành, từ chỗ nhập định diệt và sau khi khởi tâm thế tục mà nói.

Khởi định có tầm có tứ: Sau sẽ phân biệt.

Nếu dựa vào định vô sắc, học kiến đầu tiên hiện tiền, quá khứ không có, vị lai có tám, hiện tại có bốn.

Ở đây, định vô sắc: Tức là ba định vô sắc trước.

Đầu tiên: Tức chỉ dựa vào sự lìa nhiễm để tạo luận. Do đạo thế tục phải lìa hết các nhiễm mới bắt đầu khởi pháp vô lậu.

Ba định vô sắc hiện tiền nên không có nghĩa dựa vào vô sắc để nhập kiến đạo, cũng không nhập chánh tánh ly sinh thứ nhất, vì đầu tiên không dựa vào vô sắc để được nghĩa quả học, cũng không dựa vào vị học ở vô sắc để có nghĩa luyện căn, nên không được quả và chuyển căn đầu tiên.

Các điều còn lại như trước đã giải thích.

Hỏi: Định vô sắc hữu lậu tất phải dựa vào tĩnh lự vô lậu làm gia hạnh để khởi, định vô sắc vô lậu tất cũng dựa vào tĩnh lự vô lậu làm gia hạnh để khởi. Vì sao trong đây nói dựa vào định vô sắc, học kiến đầu tiên hiện tiền, quá khứ không thành tựu tám chi?

Đáp: Đạo chi vô lậu có thứ thuộc vào tĩnh lự, có thứ thuộc vào vô sắc. Thuộc về tĩnh lự thì tuy quá khứ thành tựu, nhưng khi thuộc về vô sắc thì quá khứ không thành tựu, nên nói quá khứ không có tám chi.

Có thuyết cho: Có thứ dựa vào đạo thế tục chứng được quả Bất hoàn rồi, không khởi đạo vô lậu, lại dùng đạo thế tục lìa nhiễm nơi bốn tĩnh lự, hoặc lại lìa nhiễm nơi ba vô sắc rồi, nên khi mới khởi định vô sắc vô lậu thì quá khứ đó không có tám chi Thánh đạo, nên nói như thế. Quá khứ hoàn toàn không có, vì chúng đã diệt rồi không mất.

Nếu lại dựa vào định vô sắc, học kiến hiện tiền, quá khứ và hiện tại có bốn, vị lai có tám.

Ở đây, quá khứ có bốn: Nghĩa là trước đã khởi bốn chi niệm đầu tiên.

Vị lai có tám: Nghĩa là trước đã tu tám chi ở vị lai.

Các điều còn lại như trước đã giải thích. Vì chúng đã diệt rồi không mất.

Nếu nhập định diệt hoặc tâm thế tục hiện tiền, quá khứ có bốn, vị lai có tám, hiện tại không có.

Ở đây, hết thảy như trước, nên biết, vì chúng diệt rồi nhưng không mất.

Nếu dựa vào định có tầm có tứ, học kiến hiện tiền, quá khứ có bốn, vị lai, hiện tại có tám.

Ở đây, quá khứ có bốn: Nghĩa là định vô sắc mới khởi bốn chi.

Vị lai có tám: Nghĩa là khi tu tập tám chi ở vị lai.

Hỏi: Định vô sắc vô gián tất không thể khởi định có tầm có tứ, vì sao trong đây nói như thế?

Đáp: Nên biết trong đây là nói theo thứ lớp, không phải dựa theo thứ lớp của định để nói. Là tùy thuận mà nói, không phải dựa vào tùy thuận nơi định để nói, vì chúng diệt rồi nhưng không mất.

Nếu dựa vào định không tầm không tứ, học kiến hiện tiền, quá khứ có bốn, vị lai có tám, hiện tại có bảy.

Ở đây, quá khứ có bốn: Nghĩa là trước dựa nơi định vô sắc đầu tiên khởi bốn chi.

Vị lai có tám: Nghĩa là tu tám chi ấy ở vị lai.

Hỏi: Tiếp theo trước khởi tám chi định có tầm có tứ, nhập vào quá khứ đều nên không mất, vì sao chỉ nói quá khứ có bốn?

Đáp: Trong đây nói quá khứ, vị lai là đều làm sáng tỏ chỗ dấy khởi đầu tiên và sự tu tập, không hiển bày chỗ dấy khởi tu tập ở phần vị sau, nên không có lỗi. Hiện tại tùy lúc hiện tiền nên theo sự khởi đó mà nói.

Hỏi: Nay trong đây nói về học nào?

Đáp: Nếu các vị học đối với tất cả định thứ lớp nhập khắp, như có thứ lớp khi bước lên thềm thang thì ở đây nói. Nghĩa là người hữu học trước là nhập định có tầm có tứ, kế là nhập định không tầm không tứ, tiếp theo là nhập định vô sắc, tiếp nữa là nhập định diệt, sau là khởi tâm thế tục. Người học như vậy thì ở đây nói đến. Nếu người hữu học trước nhập định có tầm có tứ, kế nhập định không tầm không tứ, tiếp theo nhập định vô sắc, tiếp là nhập định diệt, sau khởi tâm vô lậu, thì những người học ấy không phải ở đây nói đến.

Như trong chương Tạp Uẩn nói: Nếu có một loại Bổ-đặc-già-la có đầy đủ mười hai chi của pháp duyên khởi, đó là điều ở đây nói. Còn nếu không đầy đủ thì không phải là điều ở đây nói.

Như Khế kinh nói: Trước hết là thấy một thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp ai cũng thích ngắm nhìn, kế đến thấy người nữ già yếu, tiếp đó là thấy bệnh tật, rồi đến mạng chung, cuối cùng là nhìn thấy các sự biến hoại sau khi chết. Người nữ như thế là kinh nói đến. Nếu không như thế thì không phải là điều kinh nói.

Việc học trong đây nên biết cũng như vậy.

Lời bình: Nên nói như vầy: Trong đây là nói chung về tất cả việc học, tùy theo các người học, nơi các phần vị dấy khởi những học chi đều gồm thâu hết.

Nên biết về Hành tích sai khác có bốn thứ: 1. Khổ trì thông hành. 2. Khổ tốc thông hành. 3. Lạc trì thông hành. 4. Lạc tốc thông hành.

Song các hành tích nên nói một thứ: Tức là hành hướng tới diệt khổ, là hành hướng tới diệt sinh già bệnh chết có nơi thế gian. Hoặc nên nói có hai thứ: Tức là hành hướng tới diệt danh và hành hướng tới diệt sắc. Hoặc nên nói có ba thứ: Tức là hành hướng tới diệt ba cõi. Hoặc nên nói có năm thứ: Tức là hành hướng tới diệt năm uẩn. Hoặc nên nói có mười hai thứ: Tức là hành hướng tới diệt mười hai chi duyên khởi. Hoặc nên nói là có vô lượng thứ: Tức là nơi các sátna nối tiếp nhau có sai khác vô biên vực.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn lại nói rộng về một, hai, ba thứ, tóm lược mười hai thứ để kiến lập bốn thông hành như thế?

Đáp: Vì ba sự việc sau đây: Một là do địa. Hai là do căn. Ba là do Bổ-đặc-già-la. Đây là nói chung.

Nếu nói riêng thì chỉ do hai sự việc, đó là do địa và căn, do địa và Bổ-đặc-già-la.

Do địa và căn: Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, ba định vô sắc, đối với những người có căn trí độn chậm, Thánh đạo hiện có gọi là Khổ trì thông hành. Còn các địa này, đối với những người có căn lanh lợi, Thánh đạo hiện có gọi là Khổ tốc thông hành. Bốn thứ tĩnh lự căn bản, đối với các người có căn địa độn chậm, Thánh đạo hiện có gọi là Lạc trì thông hành. Còn các địa ấy, đối với các người có căn trí lanh lợi, Thánh đạo hiện có gọi là Lạc tốc thông hành.

Do địa và Bổ-đặc-già-la: Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, ba định vô sắc, các vị tùy tín hành, tín thắng giải, thời giải thoát, Thánh đạo hiện có gọi là Khổ trì thông hành. Còn các địa này, các vị tùy pháp hành, kiến chí, bất thời giải thoát, Thánh đạo hiện có gọi là Khổ tốc thông hành. Bốn thứ tĩnh lự căn bản, các vị tùy tín hành, tín thắng giải, thời giải thoát, Thánh đạo hiện có gọi là Lạc trì thông hành. Còn các địa ấy, các vị tùy pháp hành, kiến chí, bất thời giải thoát, Thánh đạo hiện có gọi là Lạc tốc thông hành.

Hỏi: Tự tánh của bốn thông hành là gì?

Đáp: Năm uẩn và bốn uẩn dùng làm tự tánh. Nghĩa là ở tại tĩnh lự và cận phần thì năm uẩn là tự tánh, còn ở vô sắc thì bốn uẩn là tự tánh. Như thế gọi là tự tánh, là bản tánh, tướng phần, tự thể ngã vật của thông hành.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là thông hành? Thông hành là nghĩa gì?

Đáp: Thông nghĩa là thông đạt, Hành tức là hành tích. Tức có thể thông đạt đúng đắn, hướng đến Niết-bàn là nghĩa của thông hành.

Về khổ trì thông hành:

Hỏi: Tự tánh của Thánh đạo không phải là khổ thọ, cũng không tương ưng với khổ thọ, vì sao gọi là khổ?

Đáp: Vì cận phần nơi vô sắc rất khó thực hiện xong, nên chỗ khởi Thánh đạo gọi là khổ. Tĩnh lự căn bản thì dễ thực hiện xong, nên chỗ khởi Thánh đạo gọi là lạc. Phân biệt rộng điều này như nơi phần nói về bốn tĩnh lự trong chương Kiết Uẩn ở trước.

Hỏi: Vì sao Thánh đạo lại gọi là trì (chậm)?

Đáp: Do vì các vị căn tánh độn, chậm, khi khởi tu các Thánh đạo không thể nhanh chóng tiến đến Niết-bàn rốt ráo, nên gọi là trì (chậm). Đối với các người có căn tánh lanh lợi, khi khởi tu Thánh đạo thì nhanh chóng tiến đến Niết-bàn, nên gọi là nhanh (tốc).

Hỏi: Có vị Tín thắng giải nhanh chóng tiến đến Niết-bàn hơn vị Kiến chí. Như tín thắng giải siêng năng tinh tấn tu hành nhanh chóng chứng đắc Niết-bàn. Còn kiến chí lười biếng thì không thể mau chóng chứng quả. Như có tụng nói:

Không phóng dật, phóng dật

Tỉnh thức và mê ngủ

Như cỡi ngựa nhanh, chậm

Kẻ siêng hành đến trước.

Như có hai người cùng đi đến một nơi, một người cỡi ngựa chạy nhanh, một người cỡi ngựa chạy chậm. Nhưng người cỡi ngựa chạy nhanh lại không siêng đi, nên không thể đến sớm được. Còn người cỡi ngựa chạy chậm nhưng lại siêng năng đi luôn tất sẽ đến trước. Như thế, kiến chí cùng với tín thắng giải đều cùng hướng đến Niết-bàn. Nếu tín thắng giải siêng năng tu hành sẽ nhanh chóng chứng đắc Niết-bàn. Còn kiến chí nếu lười biếng, chậm trễ thì không thể nhanh chóng chứng đắc. Vậy vì sao lại nói Thánh đạo của kẻ độn căn không thể tiến đến nhanh chóng nên gọi là trì?

Đáp: Ý trong đây là nói về những người cùng siêng năng tu hành. Nếu những vị kiến chí siêng năng hành trì thì sẽ chứng quả nhanh chóng chứ không phải là tín thắng giải, cho nên nói là trì.

Hỏi: Bốn thứ hành này do lấy năm uẩn và bốn uẩn làm tự tánh sao lại gọi là thông? Vì thông chỉ để hiển bày về tuệ chứ không phải là uẩn khác?

Đáp: Vì tuệ tăng nên chỉ nói về thông. Như trong kiến đạo, tuy có đủ năm uẩn, nhưng do tuệ tăng nên chỉ lập tên kiến. Như các thế tục trí hiện quán biên, tuy lấy bốn uẩn, năm uẩn làm tự tánh, nhưng do tuệ tăng nên chỉ lập tên trí. Định kim cang dụ tuy lấy bốn uẩn, năm uẩn làm tự tánh, nhưng do đẳng trì tăng nên chỉ lập tên định. Thông hành cũng như vậy, tức không nên nêu vấn nạn.

Như Khế kinh nói: Thế nào là khổ trì thông hành? Nghĩa là các Bí-sô đối với năm thủ uẩn luôn chê trách, chán ghét.

Hỏi: Khổ trì thông hành duyên với cảnh của bốn Thánh đế, vì sao Đức Thế Tôn lại chỉ nói duyên với khổ?

Đáp: Cũng nên nói duyên với ba đế kia, nhưng lại không nói là do nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì khổ đế đứng trước, nên khi nói duyên với khổ, nên biết cũng là nói duyên với cả ba đế kia.

Lại nữa, Khế kinh kia chỉ hiển bày gia hạnh, chưa hiển bày căn bản. Nghĩa là khi gia hạnh duyên với năm thủ uẩn, khởi các hành tướng chán lìa, cho đến khi căn bản thì duyên với bốn Thánh đế.

Luận Tập Dị Môn nói: Thế nào là khổ trì thông hành? Đó là tĩnh lự không thâu giữ năm căn như tín v.v… độn chậm. Thế nào là khổ tốc thông hành? Đó là tĩnh lự không thâu giữ năm căn như tín v.v… lanh lợi. Thế nào là lạc trì thông hành? Đó là tĩnh lự thâu giữ năm căn như tín v.v… độn chậm. Thế nào là lạc tốc thông hành? Đó là tĩnh lự thâu giữ năm căn như tín v.v… lanh lợi.

Hỏi: Bốn thứ thông hành này lấy năm uẩn, bốn uẩn làm tự tánh. Vì sao Luận kia chỉ nói về năm căn như tín v.v… lợi và độn?

Đáp: Vì dựa vào chỗ hơn mà nói. Nghĩa là trong năm hành uẩn và bốn hành uẩn, năm căn là hơn hết.

Lại nữa, năm căn như tín v.v… đối với các việc làm chúng là phương tiện thiện xảo, nên có thể thành tựu nhanh chóng công việc hơn các uẩn khác, cho nên nói riêng.

Hỏi: Các loại hữu tình có thứ gọi là căn trung bình không? Nếu có thì vì sao Luận kia không nói? Nếu không có thì nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như Khế kinh nói: Có các hữu tình ở thế gian, sinh ra nơi thế gian và lớn lên, có người thì lợi căn, có người thì căn tánh trung bình, có người thì độn căn, cho đến nói rộng.

Đáp: Có thuyết cho: Không có căn trung bình. Vì sao? Vì kiến đạo có hai thứ là đạo tùy tín hành và đạo tùy pháp hành. Tu đạo cũng có hai thứ là đạo tín thắng giải và đạo kiến chí. Đạo vô học cũng có hai thứ là đạo thời giải thoát và đạo bất thời giải thoát, không có đạo thứ ba, nên không có căn trung bình.

Hỏi: Nếu như thế thì nơi Khế kinh nói làm sao thông?

Đáp: Những người được Phật hóa độ, có người thấy đế trước, có người thấy đế giữa, có người thấy đế sau. Đối với người thấy đế trước gọi là lợi căn, đối với người thấy đế giữa gọi là trung căn, còn người thấy đế sau gọi là độn căn.

Lại nữa, những người được Phật hóa độ, có người thấy đế gần, có người thấy đế xa, có người thấy đế không gần không xa. Đối với người thấy đế gần gọi là lợi căn, như các vị A-nhã-đa Kiều-trần-na v.v… Người thấy đế xa gọi là độn căn, như các vị Thiện Hiền v.v… Người thấy đế không gần không xa gọi là căn trung bình, như các vị Hộ quốc v.v…

Lại có thuyết nêu: Cũng có căn trung bình.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao Luận kia không nói?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa ấy nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, căn trung bình tức thuộc về trong lợi căn và độn căn. Vì sao? Vì khi nói độn căn thì căn trung bình là lợi, vì nó hơn độn căn. Khi nói về lợi căn thì căn trung bình là độn, vì nó thua lợi căn. Do đó, Tôn giả Thế Hữu nói: Nên nói căn trung bình là thuộc về lợi căn, vì nó hơn độn căn. Đây lại có thể cho căn trung bình thuộc về độn căn, vì nó thua lợi căn.

Đại đức nói: Có thể nói căn trung bình gồm cả lợi căn và độn căn, nhưng không thể nói nó thuộc về căn trên hay căn dưới. Vì sao? Vì lợi căn và độn căn, mỗi thứ đều có ba phẩm. Làm sao nhận biết được? Vì Đức Phật (Đại giác), Độc giác, Tôn giả Xá-lợi-tử v.v… đều thuộc về chủng tánh tùy pháp hành, nên ba thứ căn này đâu có thể giống nhau? Trong tự tánh của lợi căn đã có ba phẩm, nên biết tánh của độn căn cũng phải có ba phẩm. Hai đạo lợi, độn đó, mỗi thứ đều có ba phẩm, nên trong Khế kinh nói có ba phẩm căn. Vì đạo thứ ba không thể có được, nên A-tỳ-đạt-ma nói là không có căn trung bình. Như vậy là đã khéo thông tỏ về hai cách nói của Kinh và Luận.

Luận Tập Dị Môn lại nói: Khổ trì thông hành hoặc tập, hoặc tu, hoặc hành tác nhiều thì có thể tạo đầy đủ cho khổ tốc thông hành. Lạc trì thông hành hoặc tập, hoặc tu, hoặc hành tác nhiều thì có thể tạo đầy đủ cho lạc tốc thông hành.

Hỏi: Thế nào là tạo đầy đủ? Tạo đầy đủ về căn hay tạo đầy đủ về lìa nhiễm? Nếu tạo đầy đủ về căn thì khổ trì thông hành hoặc tập, hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, đúng lý có thể tạo đầy đủ cho hai thứ tốc thông hành. Lạc trì thông hành hoặc tập, hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, cũng tức có thể làm đầy đủ cho hai thứ tốc thông hành. Còn nếu tạo đầy đủ về lìa nhiễm, thì trì tạo đầy đủ cho trì và tốc tạo đầy đủ cho tốc. Vì sao trong Luận này lại nói như thế?

Đáp: Nên nói như vầy: Luận kia nói tạo đầy đủ cho căn, rồi lại nói giống nhau không phải là không giống nhau. Vì khổ cùng với khổ giống nhau không phải là lạc. Lạc cùng với lạc giống nhau không phải là khổ.

Hỏi: Những vị nào thành tựu được bao nhiêu thông hành?

Đáp: Hoặc có người thành tựu được một thứ, đó là người chưa lìa dục nhiễm. Hoặc có người thành tựu được hai thứ, đó là những người đã lìa dục nhiễm.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Có người thành tựu đủ bốn thông hành. Đó là những người dựa vào các tĩnh lự căn bản để luyện căn, khi trụ vào đạo vô gián chưa bỏ hai thứ trì thông hành mà có được hai tốc thông hành.

Lời bình: Vị kia không nên nói như thế. Nếu nói như vậy thì nên là Bổ-đặc-già-la hoại căn. Kẻ hoại căn bấy giờ nên là độn căn cũng là lợi căn. Còn Bổ-đặc-già-la hoại căn bấy giờ tức nên cũng là tín thắng giải v.v… cũng là kiến chí v.v… Chớ nên phạm lỗi này! Do đấy thuyết trước đối với lý là đúng. Vì chỉ có người thành tựu được một, hai thứ, không ai thành tựu được ba, bốn thứ. Vì không có một người thành tựu cả lợi và độn căn.

Hỏi: Những vị nào sử dụng bao nhiêu thông hành để làm các công việc?

Đáp: Có người chỉ dùng một thứ. Hoặc có người dùng hai thứ. Hoặc có người dùng ba thứ. Cũng có người dùng đủ bốn thứ, nhưng không phải trong cùng một lúc.

Có người chỉ dùng một thứ: Nghĩa là hoặc có người chỉ dùng khổ trì thông hành để hành tác sự việc. Như người độn căn dựa vào định vị chí, tĩnh lự trung gian, ba định vô sắc, tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người chỉ dùng khổ tốc thông hành để hành tác công việc. Như người lợi căn dựa vào định vị chí, tĩnh lự trung gian, ba định vô sắc, tùy theo chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người chỉ dùng lạc trì thông hành để làm các công việc. Như người độn căn khi lìa nhiễm dục, dựa vào bốn tĩnh lự căn bản, tùy theo chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người chỉ dùng lạc tốc thông hành để hành tác công việc. Như người lợi căn khi lìa nhiễm dục, dựa vào bốn tĩnh lự căn bản, tùy theo chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Có người dùng hai thứ: Nghĩa là hoặc có người dùng khổ trì thông hành và lạc trì thông hành để làm các công việc. Như người độn căn dựa vào định vị chí v.v… và dựa vào tĩnh lự thứ nhất, tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng khổ trì thông hành và khổ tốc thông hành để hành tác sự việc. Như người độn căn chỉ dựa vào định vị chí v.v…, tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng lạc trì thông hành và khổ tốc thông hành để hành tác sự việc. Như người độn căn dựa vào tĩnh lự thứ nhất và dựa vào định vị chí v.v… tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng lạc trì thông hành và lạc tốc thông hành để hành tác sự việc. Như người độn căn chỉ dựa vào tĩnh lự thứ nhất v.v… tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng khổ tốc thông hành và lạc tốc thông hành để hành tác công việc. Như người lợi căn dựa vào định vị chí v.v… và dựa vào tĩnh lự thứ nhất, tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Có người dùng ba thứ: Nghĩa là hoặc có người dùng khổ trì thông hành, lạc trì thông hành cùng khổ tốc thông hành để hành tác công việc. Như người độn căn dựa vào định vị chí và dựa vào tĩnh lự thứ nhất v.v… tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng khổ trì thông hành, khổ tốc thông hành cùng lạc tốc thông hành để hành tác công việc. Như người độn căn dựa vào định vị chí và dựa vào tĩnh lự thứ nhất v.v… tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng khổ trì thông hành, lạc trì thông hành cùng lạc tốc thông hành. Như người độn căn dựa vào định vị chí và dựa nơi tĩnh lự thứ nhất v.v… tùy chỗ thích hợp nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Hoặc lại có người dùng lạc trì thông hành, khổ tốc thông hành cùng lạc tốc thông hành để hành tác công việc. Như người độn căn dựa vào tĩnh lự thứ nhất và dựa vào định vị chí v.v… tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

Có người dùng đủ bốn thứ: Nghĩa là người độn căn dựa vào định vị chí và dựa vào tĩnh lự thứ nhất v.v… tùy chỗ thích ứng nhập chánh tánh ly sinh, đắc quả luyện căn lìa nhiễm, tu tập các công đức khác mà bát Niết-bàn.

HẾT – QUYỂN 93