LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 1: PHÁP THẾ ĐỆ NHẤT, phần 1

* Thế nào là pháp thế đệ nhất? Các chương như thế v.v… cùng giải thích nghĩa của chương v.v… đã lãnh hội rồi, tiếp theo đấy nên giải thích rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Nghĩa là trong Khế kinh, Đức Phật – Thế Tôn đã nói: Nếu có một loài hữu tình ở trong các hành không thể tư duy như lý mà có thể khởi pháp thế đệ nhất là không có việc ấy. Nếu không thể khởi pháp thế đệ nhất mà có thể nhập chánh tánh ly sinh là không có việc ấy. Nếu không thể nhập chánh tánh ly sinh mà có thể chứng đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, là không có việc ấy. Nếu có một loài hữu tình ở trong các hành có thể tư duy như lý, khởi pháp thế đệ nhất là có việc ấy, cho đến nói rộng. Khế kinh tuy có nói đến tên của pháp thế đệ nhất, nhưng không biện giải rộng về nghĩa của pháp thế đệ nhất. Khế kinh đã là nơi nương dựa của Luận này, cho nên những gì Khế kinh chưa chỉ rõ thì nay cần phân biệt rộng. Do nhân duyên ấy nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao tạo Luận phải dựa vào Khế kinh?

Đáp: Vì ý của tác giả Luận muốn như thế. Theo ý muốn của tác giả nên tạo ra phần Luận này, không trái với pháp tánh, đâu cần phải gạn hỏi phiền phức. Lại nữa, tất cả A-tỳ-đạt-ma đều là giải thích nghĩa trong Khế kinh, là để phân biệt rộng nghĩa của các kinh mới được gọi là A-tỳ-đạt-ma. Vì thế nên Tôn giả kia ở trong các kinh đã tập hợp vô số các thứ nghĩa không giống nhau, phân biệt giải thích, lập làm Tạp uẩn, cho đến tập hợp vô số các thứ kiến thú rồi phân biệt giải thích lập làm Kiến uẩn. Trong tám thứ Uẩn đã được lập đều phân biệt đủ hết thảy pháp tướng.

Hỏi: Tại sao Luận của Tôn giả đầu tiên nói về pháp thế đệ nhất? Có phải vì thuận theo thứ lớp mà nói về các công đức, hay là ngược với thứ lớp mà nói đến các công đức? Hay vì dựa vào thuận với phần quyết định lựa chọn rồi theo thứ lớp trước sau mà nói? Nếu như vậy thì có lỗi gì? Nếu thuận theo thứ lớp mà nói về các công đức, trước hết nên nói quán bất tịnh, hoặc quán sổ tức v.v…, kế đến là nói niệm trụ, sau đó nói quán ba nghĩa, bảy xứ thiện, kế đến nói noãn, đảnh, nhẫn, sau cùng nên nói pháp thế đệ nhất. Nếu trái với thứ lớp mà nói về các công đức, trước hết nói quả A-la-hán, kế đến nói quả Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu, kiến đạo sau đó mới nói pháp thế đệ nhất. Nếu dựa vào thuận với phần quyết định lựa chọn theo thứ lớp trước sau mà nói, trước hết là nói noãn, đảnh, nhẫn, rồi sau đấy nên nói đến pháp thế đệ nhất.

Như Luận Sinh Trí của Tôn giả Diệu Âm nói: Thế nào là noãn? Thế nào là đảnh? Thế nào là nhẫn? Thế nào là pháp thế đệ nhất?

Nếu không căn cứ theo ba loại thứ lớp này tức Luận được tạo ra sẽ có lỗi tạp loạn. Như khi Phật tại thế, Tôn giả Đại Ca-đa-diễn-na đã thành tựu vô biên công đức hy hữu, trí không chướng ngại, đối với tự tướng, cộng tướng của vô lượng pháp, đều hiện tiền tùy theo ý muốn, dũng mãnh tinh tấn luôn không đoạn tuyệt, đã có thể khéo nhập nơi biển cả nghĩa văn của A-tỳ-đạt-ma là tuệ giác vô biên, không thể nghiêng động như núi Diệu Cao, là vua Đại Luận, có thể hàng phục Luận của người khác, từ chỗ lập luận, không ai có thể đương đầu. Nay Tôn giả Ca-đa-diễn-ni tử làm Luận này cũng lại như thế. Vì sao tạo ra phần Luận này trước hết lại nói pháp thế đệ nhất?

Đáp: Các sư đối với vấn đề này có vô số thuyết khác nhau. Nghĩa là:

Hoặc có thuyết cho: Nay ở trong đây không phải thuận theo thứ lớp mà nói về các công đức, không phải nghịch với thứ lớp mà nói về các công đức, cũng không căn cứ thuận theo phần quyết định lựa chọn rồi theo thứ lớp trước sau nói về các công đức, mà chỉ vì ý của người tạo luận muốn như thế. Vì tùy theo ý muốn của tác giả tạo ra phần Luận này, không mâu thuẫn với pháp tướng, cần gì phải gạn hỏi cho thêm phiền phức.

Có người nói thế này: Tánh tướng mà A-tỳ-đạt-ma nhằm làm sáng tỏ không phải như Khế kinh, đâu cần phải theo thứ lớp. A-tỳđạt-ma dùng luận đạo rộng quyết định lựa chọn tánh, tướng chân thật của các pháp. Điều này cũng vô cùng phức tạp rồi, không nên ở trong ấy buộc phải theo thứ lớp. Nếu đòi hỏi thứ lớp về văn chỉ gây thêm phiền phức đối với nghĩa, không có ích lợi.

Lại có thuyết nêu: Không nên gạn hỏi về ý của người tạo luận, vì kinh trước đã nói về pháp thế đệ nhất, nói rộng như trước. Nay Luận sư này căn cứ vào kinh để tạo luận, nên cũng trước hết nói về pháp thế đệ nhất.

Hỏi: Để qua một bên về người tạo luận. Vì sao trong kinh Đức Thế Tôn trước hết nói về pháp thế đệ nhất?

Đáp: Vì quán sát về đối tượng được giáo hóa có sai biệt mà nói. Nghĩa là Đức Phật quán sát về đối tượng được giáo hóa, đã được nhẫn phẩm hạ, trung, chưa được nhẫn phẩm thượng và pháp thế đệ nhất. Vì muốn khiến họ đạt được nên Ngài đã nói: Nếu có một loại hữu tình ở trong các hành không thể tư duy như lý mà có thể khởi pháp thế đệ nhất là không có việc ấy, cho đến nói rộng. Ở đây, tư duy như lý là hiển bày về nhẫn phẩm thượng, pháp thế đệ nhất là nói đúng về tên gọi của nó, nên Đức Phật – Thế Tôn quán sát về đối tượng được giáo hóa có sai biệt về sự tu hành mà nói như thế.

Hoặc có thuyết nói: Vì muốn chấm dứt nhiều sự phỉ báng về pháp thế đệ nhất này. Nghĩa là người khác đối với pháp thế đệ nhất này khởi lên nhiều sự chê trách, thế nên nói trước.

Nhiều sự chê trách: Nghĩa là đối với tự tánh và ở trong tên gọi, cảnh giới, hiện tiền, thoái chuyển, đều khởi phỉ báng.

Đối với tự tánh khởi phỉ báng: Nghĩa là hoặc có người nói năm căn như tín v.v… cho là tự tánh.

Đối với tên gọi khởi phỉ báng: Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Đây gọi là pháp chủng tánh địa, không nên gọi là pháp thế đệ nhất.

Đối với cảnh giới khởi phỉ báng: Nghĩa là hoặc có thuyết nêu: Pháp thế đệ nhất này là thuộc về cõi dục, cõi sắc. Hoặc có thuyết cho: Pháp thế đệ nhất này là thuộc về cõi sắc, cõi vô sắc. Hoặc có thuyết nêu: Pháp thế đệ nhất này là thuộc về ba cõi và không hệ thuộc. Hoặc có thuyết nói: Pháp thế đệ nhất này là không phải thuộc về ba cõi cũng không phải là không hệ thuộc.

Đối với sự hiện tiền khởi phỉ báng: Nghĩa là hoặc có thuyết cho: Pháp này là nhiều sự nhớ nghĩ nối tiếp nhau hiện tiền.

Đối với sự thoái chuyển khởi chê trách: Nghĩa là hoặc có thuyết cho: Pháp này có thể thoái chuyển.

Vì nhằm chấm dứt những sự phỉ báng như thế, nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có Sư khác nói: Các pháp hữu lậu đều không bền chắc, như phấn tảo (vải xấu), bùn lầy, trong những thứ đó, có thứ nào bền chắc hơn đâu. Ví như đề hồ, đó là pháp thế đệ nhất. Do vậy nên nói trước hết.

Có thuyết cho: Pháp này tùy thuận vô ngã, thế nên nói trước hết. Nghĩa là trong Luận này tán thán sự xuất ly, giải thoát, Niết-bàn, tùy thuận vô ngã, không phải như ngoại điển ca ngợi sự thọ dụng mọi thứ dục lạc thuận theo chấp ngã. Vì pháp thế đệ nhất có tiếng pháp, đã thuận với vô ngã, là đồng với Luận này, không phải như noãn v.v… không có tiếng pháp, không đồng với Luận này là tùy thuận vô ngã. Vì thế Luận này trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Pháp này là tối thắng trong pháp thế gian, nên nói trước hết. Nghĩa là Luận này là hơn hết trong các Luận. Pháp thế đệ nhất là pháp thù thắng trong pháp thế gian và đồng với Luận này, do đấy nói trước hết.

Có thuyết cho: Nếu có người khi an trụ nơi pháp này, gọi là Phật ra đời tạo lợi ích chân thật. Người kia bấy giờ được thọ dụng thánh pháp tài thắng nghĩa không chướng ngại. Nghĩa là Đức Phật xuất hiện ở thế gian, chúng sinh nhập pháp, gồm có hai loại: 1. Thế tục. 2. Thắng nghĩa.

Thế tục: Là người cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, chánh tín xuất gia.

Thắng nghĩa: Là pháp thế đệ nhất, luôn dẫn dắt sinh khởi khổ pháp trí nhẫn.

Thế tục nhập pháp có hai lỗi: 1. Phá giới. 2. Trở về tục.

Thắng nghĩa nhập pháp không có lỗi như thế, tùy thuộc vào chủng tánh, được tự tại chứng đắc công đức của thừa mình vì không thoái mất.

Có thuyết nói: Nếu có người khi an trụ nơi pháp này, từ thời vô thủy đến giờ, cửa Thánh đạo đã đóng, nay mới có thể mở ra, bỏ tánh của các phàm phu chưa từng bỏ, được Thánh đạo hiện có chưa từng được, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết cho: Nếu có người khi an trụ nơi pháp này, bỏ tên gọi phàm phu được tên gọi của bậc Thánh, bỏ số lượng của phàm phu được số lượng của bậc Thánh, bỏ phần vị sai biệt của phàm phu được phần vị sai biệt của bậc Thánh, bỏ chủng tánh của phàm phu được chủng tánh của bậc Thánh, do đấy nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Như có người khi an trụ nơi pháp này, được tâm không được nhân của tâm, được minh không được nhân của minh, được thọ không được nhân của thọ, các tâm sở khác cũng như vậy, vì thế trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết cho: Hoặc có người khi an trụ nơi pháp này, bỏ điều đã từng duyên tập được điều chưa từng duyên tập, bỏ cái chung được cái không chung, bỏ thế gian được xuất thế gian, bỏ vị có ái được vị không có ái, bỏ chỗ dựa tham đắm được chỗ dựa xuất ly, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nêu: Vì đoạn nghi nơi tánh phàm phu nên trước hết nói pháp thế đệ nhất. Nghĩa là hoặc có người ngờ vực tánh phàm phu này đã không có thủy nên cũng không có chung. Nay làm sáng tỏ tánh phàm phu là có chung tức pháp thế đệ nhất.

Có thuyết biện: Như có người khi an trụ nơi pháp này, thì các thứ lỗi lầm tai họa, biến đổi, hư dối, ương ngạnh của phàm phu đều không còn dấy khởi, quả vị noãn, đảnh, nhẫn có thể khởi lên, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết cho: Phàm phu khởi pháp này rồi cần đến quả vị không phải phàm phu mới được mạng chung. Như phàm phu – không phải là phàm phu như thế, thì chưa kiến đế – đã kiến đế, chưa đắc quả – đã đắc quả, chưa nhập chánh tánh ly sinh – đã nhập chánh tánh ly sinh, chưa khởi hiện quán – đã khởi hiện quán, trú nơi tụ bất định – trú nơi tụ chánh định, không có Thánh đạo – có Thánh đạo, không chứng tịnh – có chứng tịnh, nên biết cũng như vậy. noãn, đảnh, nhẫn v.v… tức không quyết định, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Nếu có người khởi lên căn thiện này, chỉ trong một sát na tất không có đình trệ, còn noãn v.v… thì không như vậy, vì thế trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nêu: Nếu có người khi an trụ nơi pháp này, trong thân phàm phu các hành như niệm trụ v.v…, tu tập đến cứu cánh, còn noãn v.v… thì không như vậy, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết biện: Hoặc có người khi an trụ nơi pháp này, gọi là đầu tiên tâm hữu lậu đoạn, tâm vô lậu tiếp nối, quả vị khác thì không như vậy, nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Thân phàm phu có thể bị khuynh động, nhưng pháp này có thể khiến không bị khuynh động, do vậy trước hết nói pháp thế đệ nhất. Như ngồi yên vững trên kim luân nơi núi Diệu Cao, tuy gió mạnh từ bốn phương thổi đến vẫn không thể làm nghiêng động. Như thế phàm phu an trụ nơi pháp này, bốn ác kiến điên đảo đều không thể làm cho khuynh động. Các phần vị phàm phu khác thì không như vậy.

Có thuyết cho: Pháp này cũng như minh tướng, có khả năng biểu hiện từ đầu đến cuối nên được thuyết giảng trước. Nghĩa là như minh tướng biểu hiện phần ngày khởi đầu cùng phần đêm chấm dứt, pháp thế đệ nhất cũng lại như vậy, làm sáng tỏ chỗ khởi đầu của Thánh đạo và sự chấm dứt của phàm phu, như biểu hiện về đầu cuối. Như thế có thể biểu hiện về đang độ, đã độ, hướng nhập rồi xuất ly, gia hạnh, cứu cánh, nên biết cũng như vậy. Các quả vị khác thì không như thế.

Có thuyết nêu: Làm sáng tỏ trụ này đồng trong pháp, có thể có tướng khác, do đó nên nói trước. Nghĩa là pháp thế đệ nhất tuy thuộc về khổ đế, nhưng luôn dẫn dắt làm sinh khởi đạo diệt khổ thứ nhất.

Tuy có lưu chuyển già chết, ở thế gian thuộc về thân, nhưng vẫn có thể dẫn sinh nẻo diệt đầu tiên nơi đạo kia. Còn noãn v.v… thì không như vậy.

Có thuyết biện: Làm sáng tỏ pháp này, tuy là duyên của thế gian, nhưng có thể luôn dẫn đến duyên của xuất thế gian thứ nhất. Các quả vị khác thì không như thế. Do vậy trước hết nói pháp thế đệ nhất. Như duyên của thế gian, xuất thế gian như thế, thì có cấu – không cấu, có lỗi – không lỗi, có độc – không độc, có vẩn đục – không vẩn đục, có sự của thân kiến – không có sự của thân kiến, có sự của điên đảo – không có sự của điên đảo, có sự của ái – không có sự của ái, có sự của tùy miên – không có sự của duyên tùy miên, nên biết cũng như vậy. Do đấy trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Hoặc có người khi an trụ nơi pháp này, tức có uy có lực, có thể tạo tác, cũng như người khỏe mạnh. Nghĩa là vào lúc đó luôn dẫn khởi chỉ quán ban đầu của bậc Thánh và sinh khởi kiến tuệ bậc Thánh đứng đầu như xâu hoa mới quàng lên mão là giác chi còn lại, quả vị khác thì không như vậy, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nêu: Công dụng của pháp này là tối thắng, có thể bỏ tánh phàm phu đạt tánh bậc Thánh, bỏ tánh tà được tánh chánh, luôn có thể nhập chánh tánh ly sinh, các pháp khác thì không như vậy, vì thế trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết biện: Hành giả khi an trụ nơi pháp này, tức có thể bỏ tánh của các phàm phu có những lỗi dao động nhẹ như các thứ bông đố la miên, bông liễu chồng chất, có thể đối với Thánh giáo an trụ không lay động, như ngọn cờ của Thiên đế, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có thuyết cho: Hành giả khi an trụ nơi pháp này, tức bỏ các thứ phiền não, ác kiến, từ vô thỉ đến nay đã khiến cho tâm tâm sở trở thành không chân chất, không ngay thẳng, đạt được điều chưa từng được, khiến tâm tâm sở trở thành tánh chân chất, ngay thẳng theo Thánh đạo vô lậu.

Có thuyết nêu: Hành giả khi an trụ nơi pháp này, tức bỏ đồng phần của năm Bổ-đặc-già-la, đó là năm vô gián, đạt được đồng phần của tám Bổ-đặc-già-la, đó là bốn hướng, bốn quả, vì thế trước hết nói pháp thế đệ nhất.

Có người nói: Pháp thế đệ nhất do ba sự việc, nên Luận này nói đến trước nhất:

  1. Thuận với kinh nói.
  2. Chấm dứt nhiều sự hủy báng.
  3. Nơi sát-na này đạt được quả Thánh thứ nhất.

Thuận với kinh nói, chấm dứt nhiều sự hủy báng: Như trước đã nói rộng.

Nơi sát-na này đạt được quả Thánh thứ nhất: Nghĩa là người tu hành cùng với pháp thế đệ nhất này là quả sĩ dụng vô gián.

Do các nhân duyên như thế, nên Luận này nói pháp thế đệ nhất trước hết.

Có Sư khác cho: Tôn giả kia ở đây đã dựa nơi thứ lớp ngược để tuyên nói các pháp.

Hỏi: Nếu vậy Luận này trước nên nói về quả A-la-hán, kế đến nói về quả Bất hoàn, tiếp nói về quả Nhất lai, Dự lưu, Kiến đạo, sau đấy mới nói về pháp thế đệ nhất, vì sao trước hết lại nói pháp thế đệ nhất?

Đáp: Trong đây nói ngược về các pháp nhiễm, tịnh trong thân phàm phu, không phải là nói tất cả. Ban đầu nói: Thế nào là pháp thế đệ nhất?, nói rộng cho đến: Thế nào là noãn? Đây là nói ngược về pháp thuộc phẩm thanh tịnh trong thân phàm phu. Kế đến nói lời này: Đây là hai mươi câu nói về Tát-ca-da kiến (Thân kiến), nói rộng cho đến: Nếu không có kiến thì đây là tuyên nói về pháp thuộc phẩm tạp nhiễm trong thân phàm phu.

Pháp của hai phẩm này ai có thể nhận biết rõ? Đó là người có trí vô ngã. Thế nên trong phẩm thứ hai là trí, nói như vầy: Từng có một trí nhận biết tất cả pháp, cho đến nói rộng.

Do đâu trí vô ngã ấy phát sinh? Đó là do hiểu biết về duyên khởi nên phát sinh. Do đó trong phẩm thứ ba nói như thế này: Một Bổ-đặc-già-la ở đây sinh mười hai chi duyên khởi, cho đến nói rộng.

Do đâu biết rõ duyên khởi này được phát sinh? Đó là do ái và kính. Thế nên trong phẩm thứ tư nói: Thế nào là ái? Thế nào là kính? Cho đến nói rộng.

Ái, kính như thế do nhân nào phát sinh? Đó là do hổ và thẹn. Vì thế trong phẩm thứ năm lại nói: Thế nào là Hổ? Thế nào là Thẹn? Cho đến nói rộng.

Hổ thẹn như thế do đâu có được? Đó là do thông hiểu về pháp tướng. Vì vậy trong phẩm thứ sáu lại nói về: Sắc pháp như sinh, lão, vô thường, cho đến nói rộng.

Thông hiểu về pháp tướng ấy do đâu có được? Đó là do bỏ vô nghĩa, tu tập có nghĩa. Do vậy trong phẩm thứ bảy nói: Các thứ tu khổ hạnh thấp kém, nên biết việc đó đều là vô nghĩa, cho đến nói rộng.

Ai bỏ vô nghĩa tu tập có nghĩa? Đó là người có khả năng suy nghĩ đúng đắn, người chánh tư duy. Thế nên trong phẩm thứ tám đã nói thế này: Thế nào là suy nghĩ? Thế nào là tư duy? Cho đến nói rộng.

Rõ pháp của Tạp uẩn do đâu mà được sáng tịnh? Đó là do kiết đã đoạn dứt. Vì thế nên thứ đến nơi Chương 2 là nói về Kiết uẩn. (Chương 1: Tạp uẩn).

Đoạn kiết như thế do gì mà chứng? Đó là do các trí, nên kế nơi Chương 3 là nói về Trí uẩn.

Loại người nào có thể sinh khởi các trí đoạn dứt kiết? Đó là Bổ-đặc-già-la không có nghiệp chướng, nên sau đó nơi Chương 4 là nói về Nghiệp uẩn.

Các nghiệp phần nhiều nương vào đâu mà sinh? Đó là do bốn đại chủng, nên kế đó nơi Chương 5 là nói về Đại chủng uẩn.

Sự thù thắng được tạo nên do đại chủng là gì? Đó là các căn như nhãn v.v… thế nên sau đó nơi Chương 6 là nói về Căn uẩn.

Do uy lực nào các căn được thanh tịnh? Đó là do được các định, nên kế đến nơi Chương 7 là nói về Định uẩn.

Có được định rồi, dấy khởi suy tìm tà vạy, nên lại dẫn sinh các nẻo ác kiến, tức khiến cho tướng thức có thể đoạn trừ mau chóng, nên sau cùng nơi Chương 8 là nói về Kiến uẩn.

Tuy ở trong mỗi mỗi Uẩn như thế các pháp đều được gồm thâu đủ, nhưng tùy thuận vào chỗ tăng hơn nên lập ra tên Uẩn, nói như vầy: Do ngược với thứ lớp là nói các pháp nhiễm, tịnh trong thân phàm phu, không phải là nói tất cả, thế nên trước hết nói pháp thế đệ nhất.

***

* Thế nào là pháp thế đệ nhất?

Đáp: Nếu tâm tâm sở pháp là đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh, đó gọi là pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Nếu năm căn là đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh, đó gọi là pháp thế đệ nhất.

Hỏi: Ai nói như thế?

Đáp: Đó là các vị thuộc A-tỳ-đạt-ma cũ nói.

Hỏi: Vì sao các vị kia lại nói lời ấy?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận Bộ khác nên nói lời ấy, không hẳn chỉ nói năm căn là tánh. Nghĩa là người của Luận Phân Biệt chấp năm căn như tín v.v… chỉ là vô lậu, nên tất cả phàm phu đều không thành tựu.

Hỏi: Tại sao Bộ đó lại chấp như vậy?

Đáp: Bộ đó do nơi Khế kinh nên tạo ra chấp này. Nghĩa là như Khế kinh nói: Nếu có Hành giả, năm căn tăng thượng mạnh mẽ, bình đẳng, viên mãn, tu tập nhiều sẽ thành A-la-hán, các lậu vĩnh viễn dứt hết. Từ ấy giảm xuống thành quả Bất hoàn. Lại nữa, giảm xuống thành quả Nhất lai, lại giảm xuống thành quả Dự lưu, hoặc hoàn toàn không có năm căn như tín v.v… ấy. Ta nói Hành giả kia trụ ngoài phẩm phàm phu. Do kinh này nên họ chấp năm căn chỉ là vô lậu. Vì nhằm ngăn chận ý đó nên các vị thuộc A-tỳ-đạt-ma cũ nói pháp thế đệ nhất dùng năm căn làm tự tánh. Pháp thế đệ nhất ở trong thân phàm phu, nên biết năm căn cũng chung cho phàm phu hữu lậu, chắc chắn không thành hữu vi vô lậu.

Hỏi: Nếu chấp Thể của năm căn chỉ là vô lậu là có lỗi gì?

Đáp: Là mâu thuẫn với Khế kinh. Như Khế kinh nói: Nếu đối với năm căn như tín v.v… ấy, ta chưa nhận biết đúng như thật chúng là tích tập, là ẩn mất, là vị, là lỗi lầm, tai họa, là xuất ly, chưa có thể vượt lên trên hàng trời, người nơi thế gian này và Ma, Phạm v.v… cho đến chưa có thể chứng đắc Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, cho đến nói rộng. Không phải pháp vô lậu có thể tạo sự quán sát về phẩm loại như thế.

Người của Luận Phân Biệt nói như thế này: Đức Thế Tôn trong ấy nói quán sát tự tướng, tức Ta đối với năm căn như tín v.v… chưa nhận biết đúng như thật về tự tướng như tích tập v.v…, chưa có thể vượt khỏi hàng trời người nơi thế gian và các Ma, Phạm v.v… cho đến nói rộng.

Thế nào là quán tự tướng của vô lậu là tích tập? Nghĩa là ở đây nhờ vào sự gần gũi với bậc thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp, tác ý như lý, hành pháp tùy pháp được tập hợp phát khởi.

Thế nào là quán tự tướng của đây là ẩn mất? Nghĩa là chủ yếu vị tri đương tri căn ẩn mất thì dĩ tri căn khởi, dĩ tri căn ẩn mất thì cụ tri căn khởi.

Thế nào là quán tự tướng của đây là vị? Nghĩa là đây cũng là đối tượng duyên của ái.

Nếu thế, vô lậu là đối tượng để ái trói buộc chăng? Không phải như vậy. Như người nhân chấp nhận pháp vô lậu là cảnh của phiền não nhưng không bị nó trói buộc. Tông chỉ của tôi cũng như vậy. Ái duyên nơi vô lậu nhưng không thể trói buộc, điều này nào có lỗi gì!

Thế nào là quán sát tự tướng của vô lậu là lỗi lầm? Nghĩa là quán sát vô lậu là vô thường.

Thế nào là quán sát tự tướng của vô lậu là xuất ly? Nghĩa là khi đạt Niết-bàn tất bỏ hết, như Khế kinh nói: Khi nhập Niết-bàn, tất cả hữu vi thảy đều xả bỏ. Thuyết kia nói là không đúng lý. Vì sao? Vì kinh này nói: Nếu đối với năm căn như tín v.v… này, ta chưa nhận biết như thật chúng là tích tập, ẩn mất, hương vị, lỗi lầm, nẻo xuất ly, thì ta chưa có thể đoạn trừ vĩnh viễn các lậu, chứng đắc Bồ-đề vô thượng.

Vì không phải quán sát tự tướng là có thể dứt hết các lậu, thế nên thuyết kia đã nói quyết định là phi lý, vì năm căn này không phải chỉ là vô lậu.

Lại, chấp năm căn chỉ là vô lậu là lại trái với kinh thuyết giảng. Như Khế kinh nói: Kính mong Đức Thế Tôn diễn nói pháp yếu. Vì sao? Vì có các hữu tình sống tại thế gian, hoặc sinh ra, hoặc trưởng thành, nhưng có kẻ căn tánh lanh lợi, có kẻ căn tánh trung bình, có kẻ căn tánh yếu kém, cho đến nói rộng.

Lại như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Khi xưa chưa chuyển Chánh pháp luân, Ta đã từng dùng Phật nhãn quán sát các hữu tình ở thế gian, hoặc mới sinh, hoặc lớn lên, hoặc có các căn khác nhau: Lanh lợi, trung bình, yếu kém, vóc dáng tốt đẹp, khéo điều phục khiến trần cấu giảm dần, hoặc có kẻ không nghe pháp, thoái chuyển mất lợi ích thù thắng của năm căn như tín v.v… Hoặc có kẻ chỉ cho vô lậu thích hợp với hàng lợi căn là A-la-hán, hạng căn trung bình là Bất hoàn, hạng căn yếu kém là Nhất lai, Dự lưu. Nếu như vậy khi Đức Thế Tôn chưa chuyển pháp luân, nên gọi là đã chuyển. Tất cả bậc Thánh đối với các thế gian đã đầy đủ rồi mà còn chuyển pháp luân nữa nên thành vô dụng.

Người của Luận Phân Biệt lại nói như thế này: Trong đây tên gọi căn tức chỉ nơi được nương dựa, không nói là Thể của căn thì đâu có trái với Tông của tôi. Luận kia nói như thế là cũng không hợp lý, vì muân thuẫn với kinh khác. Nghĩa là kinh khác đã nói: Phạm chí Sinh Văn đến chỗ Đức Thế Tôn, bạch: “Kiều Đáp Ma Tôn nói căn có bao nhiêu thứ?”. Phật nói: “Ta nói có hai mươi hai căn. Đó là nhãn căn cho đến nói rộng”. Kinh kia há cũng nói về chỗ dựa của căn sao?

Hai kinh kia và đây, tiếng căn không khác: Một cho là Thể của căn, một cho là chỗ nương dựa, không phải là chỗ hoàn thành tột bậc là tự vọng chấp, nên nhất định phải thừa nhận năm căn như tín v.v… cũng chung cho hữu lậu.

Hỏi: Nếu chung cho hữu lậu thì sẽ giải thích như thế nào đối với chỗ kinh đã được nêu dẫn kia?

Đáp: Năm căn như tín v.v… thật sự là chung cho hữu lậu. Kinh kia nói hoàn toàn là vô lậu. Vì sao? Vì dựa vào căn vô lậu để kiến lập Thánh giả nên có sai khác.

Có thuyết nêu: Kinh kia chỉ nói Thánh đạo. Vì sao? Vì chỗ khác biệt của Thánh giả là căn cứ vào Thánh đạo mà nói, không phải dựa vào thế tục.

Hỏi: Kinh kia lại nói: Nếu hoàn toàn không có năm căn như tín v.v… này, ta nói người kia ở ngoài phẩm phàm phu, như thế làm sao thông?

Đáp: Kẻ đoạn căn thiện gọi là ngoài phàm phu. Nghĩa là các phàm phu nói chung có hai hạng: 1. Trong. 2. Ngoài.

Không đoạn căn thiện gọi là trong, kẻ đoạn căn thiện gọi là ngoài. Ý kinh kia nói: Nếu hoàn toàn không có năm căn như tín v.v… này, thì gọi là kẻ đoạn căn thiện. Do vậy chỗ nêu dẫn kinh, đối với điều đã nêu là không có lỗi.

Hoặc nói: Đây là Kinh Bộ đã nói. Nghĩa là các Sư của Kinh Bộ cũng nhằm ngăn chận loại bỏ người của Luận Phân Biệt như trước đã chấp và nói: Pháp thế đệ nhất lấy năm căn làm tánh, không phải chỉ có thế.

Có thuyết nói: Đây là Tông chỉ của Độc Tử Bộ. Sư của Bộ này cho pháp thế đệ nhất lấy năm căn như tín v.v… làm tự tánh, và chỉ có năm căn này là tự tánh thiện, các pháp tạp khác cũng được mang tên thiện. Do năm căn này kiến lập hết thảy Hiền Thánh có sai biệt, không phải do căn nào khác. Như Khế kinh nói: Nếu có năm căn tăng thượng mạnh mẽ, bình đẳng, viên mãn, tu tập nhiều nên thành tựu bậc Câu giải thoát. Từ đây giảm xuống thành Tuệ giải thoát. Lại nữa, giảm xuống thành Thân chứng. Lại nữa, giảm xuống thành Kiến chí. Lại nữa, giảm xuống thành Tín giải. Lại nữa, giảm xuống thành Tùy pháp hành. Lại nữa, giảm xuống thành Tùy tín hành.

Hỏi: Nay Tông chỉ của Luận này so với Độc Tử Bộ có can dự gì mà nêu bày thuyết ấy?

Đáp: Vì khiến cho kẻ nghi có được sự quyết định. Nghĩa là bên ấy và đây, chỗ lập Tông nghĩa tuy phần nhiều đều đồng, nhưng vẫn có chút dị biệt. Đó là bên Bộ kia cho pháp thế đệ nhất chỉ lấy năm căn như tín v.v… làm tánh, cho tánh của các phàm phu là hoàn toàn nhiễm ô, thuộc về cõi dục, do kiến khổ đoạn trừ vì lấy mười thứ tùy miên làm tự tánh, cho Thể của tùy miên là hành không tương ưng, cho Niết-bàn có ba thứ là học, vô học, phi học phi vô học, lập A-tốlạc làm nẻo thứ sáu, cho Thể của Bổ-đặc-già-la là thật có. Bộ kia với những pháp như thế, hoặc sáu, hoặc bảy thứ, so với pháp của Luận này là bất đồng, ngoài ra phần nhiều đều giống nhau, nên đừng có nghi ngờ. Vì Bộ kia và Luận này đều đồng, nên nêu bày chỗ nhằm ngăn chận của Tông kia là để làm rõ tức có dị biệt.

Nay nên hỏi Bộ kia: Nếu chỉ có năm căn là tự tánh thiện thì tự tánh của các pháp thiện khác là gì? Nếu cho các pháp kia là bất thiện, vô ký, xen tạp với năm căn nên cũng gọi là thiện. Năm căn như thế cùng với pháp kia xen tạp nhau, tại sao không gọi là bất thiện, vô ký? Tuy nhiên, năm căn như tín v.v… cùng với pháp khác là đồng một chỗ dựa, đồng một hành tướng, đồng một đối tượng duyên, một khởi, một trụ, một diệt, một quả, đồng một đẳng lưu, đồng một dị thục, mà nói năm căn là tự tánh thiện, cùng lẫn lộn với pháp khác nên giả lập tên thiện, là chỉ thuận theo vọng tình, không hợp với chánh lý. Tức chớ vì có lỗi này mà nói căn của pháp thế đệ nhất không phải là tánh của căn.

Tôn giả Pháp Cứu nói: Các tâm tâm sở là tư duy có sai biệt, nên pháp thế đệ nhất lấy tư duy làm tự tánh.

Tôn giả Giác Thiên nói: Thể của các tâm tâm sở tức là tâm, nên pháp thế đệ nhất lấy tâm làm tự tánh.

Hai Tôn giả kia đều nói như thế này: Tâm tư như tín v.v… trước sau đều khác, không cùng một công dụng. Còn năm căn như tín v.v… là đẳng vô gián. Người nhập kiến đạo vì căn cứ nơi chỗ cùng có nghĩa nên nói như vầy: Năm căn như tín v.v… có thể nhập kiến đạo.

Nghĩa là, hoặc có khi dùng tín, tư và tâm tín làm đẳng vô gián nhập nơi kiến đạo, cho đến hoặc dùng tuệ tư, tuệ tâm làm đẳng vô gián nhập nơi kiến đạo. Nếu thế nên dùng pháp bất tương ưng làm đẳng vô gián nhập nơi kiến đạo. Bộ kia nói: Dù có thừa nhận như vậy cũng đâu có lỗi gì. Như Tông khác nói: Thể của tâm trước sau tuy không tương ưng, nhưng có đối tượng duyên, có thể làm vô gián nhập nơi kiến đạo. Tông của tôi cũng vậy. Tín cùng với tư, tâm tuy về tự Thể là nghĩa không tương ưng nhưng có đối tượng duyên có thể làm vô gián nhập nơi kiến đạo, thì đấy có lỗi gì?

Có lỗi lầm lớn. Vì sao? Vì nếu tín, tư, tâm làm đẳng vô gián, nhập nơi kiến đạo, tức đã không có tinh tấn và niệm, định, tuệ, nên có biếng nhác, quên nhớ nghĩ, tán loạn, tuệ ác, đều có thể nhập kiến đạo. Như thế cho đến hoặc tuệ, tư, tâm làm đẳng vô gián, nhập nơi kiến đạo, đã không có tín, tinh tấn, niệm, định, nên có không tin, lười biếng, quên nhớ nghĩ và tán loạn, đều có thể nhập kiến đạo. Như vậy há không phải là lỗi lầm lớn hay sao?

Vì nhằm ngăn chận những kiến chấp dị biệt như thế, nên lại nói: Ở trong nghĩa này nếu tâm tâm sở pháp làm đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh, đó gọi là pháp thế đệ nhất. Ở trong nghĩa này: Tức là ở đây không điên đảo, Tông chỉ này, Luận này, Uẩn này, Chương này, Phẩm loại này, thuận với Khế kinh. Tôi và các Tôn giả khác đều là những người đồng phạm hạnh, đã thừa nhận nghĩa như thế. Tôn giả Ca-đa-diễn-ni tử muốn làm sáng tỏ về pháp thế đệ nhất của Tông mình, vì căn tương ưng với phi căn đều cùng có tâm tâm sở pháp làm tự tánh của chúng.

Hỏi: Pháp thế đệ nhất cùng với khổ pháp trí nhẫn là đẳng vô gián duyên, gọi là nhập kiến đạo, đó là các trí này đã diệt rồi mới gọi là nhập, hay là các trí ấy trụ nơi phần vị tức gọi là nhập?

Nếu các trí này đã diệt rồi mới gọi là nhập, thì vì sao trong đây không nói là đã nhập? Còn nếu các trí này trụ nơi phần vị tức gọi là nhập, thì phàm phu Thánh giả nên trở thành lẫn lộn.

Đáp: Có thuyết nói thế này: Diệt rồi gọi là nhập.

Hỏi: Nếu như vậy thì văn này nên nói là đã nhập, vì lúc ấy kiến đạo gọi là đã sinh chăng?

Đáp: Nên nói là đã nhập. Nhưng nói nhập, là ở đây đối với cứu cánh nói tiếng gia hạnh. Như nay tiếng đi đến là nói sự việc đã đến. Như thế gian nói: Đại vương hôm nay từ nơi nào đến? Đại vương kia tuy đã đến rồi nhưng nói là hôm nay mới đến. Sự việc ở đây cũng như thế.

Lại như đã đoạn mà nói là hôm nay đoạn. Như Khế kinh nói: Đoạn vui, đoạn khổ, cho đến nói rộng. Khi lìa dục nhiễm, khổ căn đã đoạn. Nay lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba khi lạc căn đã đoạn mới nói là đoạn. Há chẳng phải là đã đoạn mà nói nay đoạn sao?

Lại như đã giải thoát mà nói nay giải thoát. Như Khế kinh nói: Tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Khi lìa nhiễm nơi cõi dục, tâm ở nơi dục lậu đã được giải thoát. Hôm nay lìa nhiễm của phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi tâm đã được giải thoát đối với hữu lậu, vô minh lậu, mới nói là giải thoát. Cũng như đối với đã giải thoát mà nói nay giải thoát.

Lại như đã thọ nhận mà nói nay thọ nhận. Như Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết như thật là thọ nhận lạc thọ, cho đến nói rộng. Đây cũng đã thọ nhận rồi mà nói nay thọ nhận. Không phải đối với lúc thọ nhận có thể nhận biết rõ. Đây cũng như thế, tuy là đã nhập mà nói nay nhập.

Có Sư khác nói: Văn này nên nói là vô gián mà nhập chánh tánh ly sinh. Lời nói kia là vô lý. Vì đẳng vô gián nhập và vô gián mà nhập, nghĩa có khác gì? Nên nói như thế này: Pháp thế đệ nhất khi trụ tức gọi là nhập.

Hỏi: Nếu như thế thì phàm phu nên tức là Thánh giả vì nhập Thánh đạo?

Đáp: Không có lỗi như thế. Pháp thế đệ nhất đến khi trụ nơi phần vị tức khổ pháp trí nhẫn tại nơi phần vị đang sinh, nhưng vì chưa thành tựu nên không gọi là Thánh giả. Khổ pháp trí nhẫn tuy chưa phát sinh, nhưng vì ngay khi ấy phát sinh, nên gọi là đẳng vô gián. Pháp thế đệ nhất bấy giờ là đẳng vô gián duyên cho trí kia nên gọi là nhập. Do đó nên nói: Nếu tâm tâm sở pháp là đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh, thì đấy gọi là pháp thế đệ nhất.

Hỏi: Nếu tâm tâm sở pháp đã nhập chánh tánh ly sinh, hoặc sẽ được nhập, cũng là pháp thế đệ nhất chăng?

Đáp: Cũng thế.

Hỏi: Nếu như vậy tại sao ở đây không nói đến?

Đáp: Nếu nói đang nhập tức nên biết là nói đã nhập, sẽ nhập. Nếu nói hiện tại nhập tức nên biết là nói về quá khứ, vị lai, vì tướng kia nói là một.

Phái Luận cho tư, tâm có khác nhau nói như thế này: Nếu tín, tư, tâm làm đẳng vô gián nhập kiến đạo, tức chính tín, tư, tâm chỉ là đẳng vô gián duyên đồng loại. Như thế cho đến nếu tuệ, tư, tâm làm đẳng vô gián nhập kiến đạo, tức chính tuệ tư tâm chỉ là đẳng vô gián duyên đồng loại.

Luận giả của phái tương tợ tương tục nói như vầy: Tâm tâm sở pháp chỉ là đẳng vô gián duyên đồng loại. Nghĩa là tâm cùng với tâm không phải là tâm sở. Tâm sở cùng với tâm sở không phải là tâm. Trong các tâm sở, thọ cùng với thọ không phải là cái gì khác. Tưởng v.v… cũng như vậy. Tuy nhiên, các tâm sở không phải luôn tương ưng mà phải gặp duyên riêng mới khởi. Nghĩa là hoặc ưa thích cảnh trước rồi mới khởi lạc thọ. Hoặc chán lìa cảnh trước rồi mới khởi khổ thọ. Nếu đối với cảnh bình thường thì khởi thọ không khổ không lạc. Hoặc dục có chỗ nhận lãnh sinh thọ. Hoặc dục nhận lấy hình tượng sinh tưởng. Hoặc dục có đối tượng tạo tác sinh tư, cho đến hoặc dục có đối tượng quyết định lựa chọn sinh tuệ. Vì thế các tâm sở không phải luôn tương ưng với nhau.

Nếu như thế thì tâm tâm sở pháp đã khởi tức nên đều không làm đẳng vô gián duyên. Luận giả kia nói lời như vầy: Tất cả đều có thể làm đẳng vô gián duyên, nhưng không phải là vô gián, như Tông khác đã thừa nhận. Khi ra khỏi vô tưởng, tuy trong năm trăm kiếp không có tâm tâm sở mà dùng tâm tâm sở pháp để nhập phần vị, vì hôm nay ra khỏi phần vị là đẳng vô gián duyên. Tông của tôi cũng như thế, tuy pháp đồng loại có nhiều thời gian gián đoạn, nhưng trước làm đẳng vô gián duyên cho sau. Đây đâu có lỗi gì!

Luận giả kia nói không đúng lý. Vì sao? Vì có tâm, không có tâm, nghĩa đều riêng khác.

Lại, pháp tương ưng có khi tức cho quả, có khi chưa cho quả, điều ấy là không hợp lý, vì tâm v.v… chưa sinh, không phải là đẳng vô gián dự định làm duyên kia tức không hợp lý.

Lại, thuyết kia là trái hại với Luận Phẩm Loại Túc đã nêu: Như nói: Tâm nào là pháp đẳng vô gián? Đó là tâm vô gián với tâm tâm sở pháp khác, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh và định vô tưởng, định diệt tận, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh.

Lại, nếu như thế thì còn có lỗi khác. Nghĩa là nếu từ địa có tầm có tứ thì tâm tâm sở pháp vô gián. Địa không tầm chỉ có tứ, hoặc địa không tầm không tứ, thì tâm tâm sở pháp hiện tiền. Địa trước đã khởi tâm tâm sở pháp, nên không phải là đẳng vô gián duyên của địa sau, vì không giống nhau. Cho đến nếu từ địa không tầm không tứ, tâm tâm sở pháp vô gián, địa không tầm chỉ có tứ, hoặc địa có tầm có tứ, thì tâm sở pháp hiện tiền, nói cũng như thế.

Các tâm tâm sở pháp thiện, bất thiện, vô ký v.v… đều lần lượt không gián đoạn. Lỗi đó cũng như thế. Trước nếu không phải là đẳng vô gián duyên của sau, và sau đã không có duyên nên không được sinh khởi. Nếu cho sau sinh khởi là do ngăn cách và vượt qua trước là đẳng vô gián duyên của các pháp đồng loại, điều này cũng không đúng. Vì ở phần vị có tâm, lấy sự cách biệt vượt qua làm duyên là không hợp lý.

Lại, vô lậu ban đầu và từ vô thỉ đến nay chưa từng khởi hữu lậu thù thắng, tức nó đã không có sự khởi hiện trước, nên đẳng vô gián duyên của đồng loại tức nên không được sinh khởi.

Lại, những chỗ nêu bày kia đã có lỗi lớn. Nghĩa là, nếu tham là vô gián nên thường khởi hiện tham, thì không lúc nào chế ngự được tham khi khởi quán bất tịnh. Nếu sân là vô gián nên thường khởi giận, thì không bao giờ chế ngự được giận khi khởi quán từ bi. Nếu si là vô gián nên thường khởi si, thì không lúc nào chế ngự được si khi khởi quán nhân duyên. Khởi ngã kiến v.v… như lý nên biết: Chấp khác loại mà sinh khởi thì không có duyên gần.

Lại, thiện thù thắng này chưa từng sinh khởi, thế thì tâm thiện không do đâu mà được khởi hiện, nếu thế thì không được nghĩa giải thoát. Vậy chớ nên phạm những lỗi lầm như thế.

Do đó nên thừa nhận tụ của tâm sinh trước làm đẳng vô gián duyên cho tụ sinh sau, hoặc cùng hay không cùng. Trước đối với sau sinh, nhưng lực dụng mở, đóng đều đồng, ví như đống lúa, đống đậu.

Hỏi: Pháp thế đệ nhất khi hiện tiền, tâm tâm sở pháp đang tu ở vị lai, thì chúng cũng là pháp thế đệ nhất chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Chúng không phải là pháp thế đệ nhất. Vì sao? Vì trong đây nói: Nếu tâm tâm sở pháp là đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh, đó gọi là pháp thế đệ nhất. Còn pháp vị lai kia đã không thể làm đẳng vô gián duyên, do vậy pháp đó không phải là pháp thế đệ nhất.

Lại, nếu pháp đó là pháp thế đệ nhất thì pháp thế đệ nhất nên có nhiều tâm, tức trái với văn sau. Do vậy pháp thế đệ nhất nên nói là một tâm, không phải là nhiều tâm. Nên nói như vầy: Pháp kia cũng là pháp thế đệ nhất. Nếu pháp kia không phải là pháp thế đệ nhất, tức trái với phần Trí uẩn đã nói. Như nói: Nếu có người khi chưa từng được đạo hiện tiền mà tu các chủng loại đạo khác ở vị lai, nếu cho pháp ấy không phải là pháp thế đệ nhất, thì sao gọi là chủng loại đạo kia?

Hỏi: Pháp kia không thể làm đẳng vô gián duyên, vì sao có thể gọi là pháp thế đệ nhất?

Đáp: Pháp kia tuy không làm đẳng vô gián duyên, nhưng vẫn có thể tùy thuận, do khởi hiện được. Ví như pháp gởi nguyện vọng của Bí-sô cho Tăng. Nghĩa là như khi chúng Tăng hành Bố-sái-tha (Bố tát) có các Bí-sô tuy không ở trong chúng, vì đã gởi nguyện vọng, nên vẫn được Bố-sái-tha, các sự việc khác của Tăng cũng được thành lập. Do vậy chủng loại phải tu ở vị lai, tuy không thể làm đẳng vô gián duyên, nhưng vẫn tự khởi được cùng hiện bày tướng tùy thuận. Nếu như pháp kia không khởi làm sáng tỏ tướng tùy thuận có được, tức nói là không thể làm đẳng vô gián duyên. Đây có thể làm duyên là do lực dụng tùy thuận với cái khác, cái khác ấy có sức mạnh nên khởi hiện diệu lực của Thánh đạo không trở ngại.

Hỏi: Nếu pháp kia cũng là pháp thế đệ nhất, thì tại sao trong bản Luận này không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này chưa nêu bày trọn vẹn.

Lại nữa, nếu có thể làm đẳng vô gián duyên thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia không thể làm đẳng vô gián duyên nên không nói đến.

Lại nữa, nếu là pháp hành ở đời thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia không hành ở đời nên không nói đến.

Lại nữa, nếu là pháp có thể nhận lấy quả và cho quả thì trong Luận này nói đến. Pháp kia không thể nhận lấy quả và cho quả nên ở đây không nói đến.

Lại nữa, nếu nhân nơi sự nuôi lớn đạt được mà cũng ở tại thân thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia tuy là nhân nơi sự nuôi lớn đạt được nhưng không ở nơi thân, do vậy nên không nói đến.

Lại nữa, nếu có đủ uy lực có thể tu nơi vị lai thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia không có lực tu tập nên không nói đến.

Lại nữa, nếu tâm nơi nhân kia tâm kia đưa đến quả ấy, thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia không như thế nên không nói đến.

Lại nữa, nếu pháp báo đáp lại nhân cũng có thể nhận lấy quả ở thân duyên nơi cảnh thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia không như thế nên không nói đến.

Lại nữa, nếu có đủ hai tu thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia chỉ có nghĩa tu đắc không có nghĩa tu hành nên không nói đến.

Lại nữa, nếu là pháp có tác dụng thì Luận này nói đến. Vì pháp kia không có tác dụng nên không nói đến.

Hỏi: Nếu như vậy tại sao trong đoạn văn sau đây lại nói pháp thế đệ nhất không phải có nhiều tâm?

Đáp: Đó là nói nơi đời hiện tại có tác dụng. Nghĩa là chỉ có một tâm không phải là nói tất cả. Nếu nói tất cả thật sự có nhiều tâm tức trong đời vị lai có nhiều phẩm loại, vì đồng chủng loại. Tuy không phải do tu mà hãy còn được gọi là pháp thế đệ nhất, huống chi là đã tu mà không phải là pháp thế đệ nhất hay sao? Nên có người hỏi:

Hỏi: Từng có pháp tương ưng với pháp thế đệ nhất nhưng pháp ấy không làm đẳng vô gián duyên cho khổ pháp trí nhẫn chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là chủng loại tu ở vị lai.

Hỏi: Pháp thế đệ nhất thuận chuyển nơi sắc, tâm bất tương ưng hành, tức pháp ấy là pháp thế đệ nhất chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Pháp ấy không phải là pháp thế đệ nhất. Do trong Luận này đã nói: Nếu tâm tâm sở pháp làm đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh, đấy gọi là pháp thế đệ nhất. Pháp kia không thể làm đẳng vô gián duyên, thế nên không gọi là pháp thế đệ nhất. Nên nói như thế này: Pháp kia cũng là pháp thế đệ nhất.

Hỏi: Pháp kia đã không làm đẳng vô gián duyên, vì sao được gọi là pháp thế đệ nhất?

Đáp: Pháp đó tuy không làm đẳng vô gián duyên, nhưng có thể tùy thuận, vì pháp đó cùng với tâm tâm sở của pháp này cùng có một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, một dị thục, vì rất gần gũi.

Hỏi: Nếu như vậy trong Luận này tại sao không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa ấy nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu pháp có thể làm đẳng vô gián duyên thì trong Luận này nói đến. Vì pháp đó không như thế nên không nói đến.

Lại nữa, nếu pháp nhân nơi sự nuôi lớn đạt được mà có đối tượng duyên thì trong Luận này nói đến. Vì pháp đó không như thế nên không nói đến.

Lại nữa, nếu pháp tương ưng có chỗ dựa, có hành tướng, có đối tượng duyên, có tánh thức tỉnh, thì trong Luận này nói đến. Vì pháp kia không như thế nên không nói đến.

Vì vậy có người hỏi: Từng có pháp thế đệ nhất hiện tại không phải làm đẳng vô gián duyên cho khổ pháp trí nhẫn chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là pháp này tùy chuyển nơi sắc, tâm bất tương ưng hành.

HẾT – QUYỂN 2