LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 25

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 3: NÓI VỀ BỔ ĐẶC GIÀ LA, phần 3

Hỏi: Vô minh duyên hành, thủ duyên hữu có sai biệt gì?

Đáp: Vô minh duyên hành, nói rộng như trước. Duyên của nghiệp này, Đức Thế Tôn nói là một phiền não, nghĩa là vô minh. Thủ duyên hữu, nói rộng như trước. Duyên của nghiệp này, Đức Thế Tôn nói là tất cả phiền não, nghĩa là các thủ. Đây là sự sai biệt.

Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần Luận này?

Đáp: Tuy trước đã nói về tự tánh có sai biệt của nghiệp đã khởi. Nghĩa là nghiệp trước ở nơi đời quá khứ, nghiệp sau ở nơi đời hiện tại, nghiệp trước đã cho quả, nghiệp sau chưa cho quả, nghiệp trước là cũ, nghiệp sau là mới, nhưng chưa nói về tự tánh có sai biệt của khả năng phát sinh duyên. Nay vì muốn nói đến, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao duyên của nghiệp quá khứ chỉ nói là vô minh, còn duyên của nghiệp hiện tại lại nói là tất cả phiền não?

Đáp: Lúc tạo nghiệp quá khứ, đối với nhiều thứ sự việc không hiện thấy, không thể nhận biết, nên chỉ nói vô minh là duyên. Nghĩa là đối với cõi, nẻo, sinh, châu, phần vị, chốn dựa, gia hạnh, cùng khởi, tương tục, đối tượng duyên đều không thể nhận biết.

Cõi: Là ba cõi. Không biết trong quá khứ ở nơi cõi nào tạo nghiệp này.

Nẻo (thú): Là năm nẻo. Không biết trong quá khứ ở nơi nẻo nào tạo nghiệp này.

Sinh: Là bốn loài. Không biết trong quá khứ đã tạo nghiệp này nơi loài nào.

Châu: Là bốn châu. Không biết trong quá khứ đã tạo nghiệp này ở châu nào.

Phần vị: Là mười thứ phần vị như Yết-lạt-lam v.v… Không biết trong quá khứ đã tạo nghiệp này ở phần vị nào.

Chốn dựa: Là chốn dựa của mười nghiệp đạo thiện, bất thiện. Không biết trong quá khứ đã tạo nghiệp này ở nơi chốn dựa nào.

Gia hạnh: Là số hữu tình, không phải số hữu hình, đã khởi gia hạnh. Không biết trong quá khứ đã tạo nghiệp này do gia hạnh nào.

Cùng khởi: Là tham, giận, si v.v… Không biết trong quá khứ đã gây tạo nghiệp này do sự cùng khởi nào.

Tương tục: Là nam, nữ v.v… Không biết trong quá khứ đã dựa vào sự nối tiếp nào để tạo nghiệp này.

Đối tượng duyên: Là quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. Không biết trong quá khứ tâm đã duyên nơi những gì khi tạo nghiệp này.

Tuy không hiện thấy, cũng không thể nhận biết, nhưng ở phần vị phát khởi nghiệp đều có vô minh, nên nói tổng quát vô minh kia là duyên.

Lúc tạo nghiệp hiện tại, đối với nhiều thứ sự việc đều hiện thấy, đều có thể nhận biết, nên nói đủ tất cả phiền não là duyên.

Lại nữa, nghiệp quá khứ đã suy hoại, đã thọ nhận, đã cho quả, là nghiệp cũ, không có uy lực, công dụng, không sáng rõ, nên chỉ nói vô minh là duyên. Nghiệp hiện tại chưa suy hoại, chưa thọ dụng, chưa cho quả, là nghiệp mới, có uy lực, công dụng, rất sáng rõ, nên nói tất cả phiền não là duyên.

Lại nữa, nghiệp quá khứ là vi tế khó nhận biết, hoặc mình hoặc người khác đều không hiện thấy, không nhận biết các phiền não nào đã phát khởi, nhưng phiền não khởi tất có vô minh, nên chỉ nói vô minh là duyên. Nghiệp hiện tại là thô rõ, dễ nhận biết, hoặc mình hoặc người khác đều có thể hiện thấy, có thể nhận biết nghiệp đó là do các thứ phiền não kia phát khởi, nên nói hết thảy phiền não là duyên.

Lại nữa, tánh của nghiệp quá khứ không mãnh liệt, nhạy bén, tướng của nó tối tăm, thuận với vô minh, nên chỉ nói vô minh là duyên. Tánh của nghiệp hiện tại mãnh liệt, nhạy bén, tướng của nó hiển sáng, thuận với các thủ, nên nói đủ tất cả phiền não là duyên.

Hỏi: A-la-hán tạo nghiệp gọi là vô minh duyên hành, hay gọi là thủ duyên hữu?

Đáp: Không gọi là vô minh duyên hành, cũng không gọi là thủ duyên hữu, vì A-la-hán không có vô minh, cũng không có thủ. Tuy nhiên, nghiệp của vị ấy đã cho quả, nên biết là gồm trong phần chi hành. Chưa cho quả, nên biết là gồm trong phần chi hữu, là loại đó, nhưng không phải thuộc về mười hai hữu chi.

***

* Từng có hành duyên vô minh, không duyên minh chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao trong đây nhân nơi minh, vô minh để tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là vì ý của người tạo luận muốn thế, cho đến nói rộng. Lại nữa, vì hai thứ ấy đều là pháp căn bản. Nghĩa là vô minh là căn bản của pháp phẩm tạp nhiễm, minh là căn bản của pháp phẩm thanh tịnh.

Lại nữa, vì hai thứ ấy đều là pháp đứng đầu. Như nói: Vô minh là đứng đầu, vô minh là tướng trước, sinh vô lượng thứ pháp ác bất thiện cùng khởi hiện loại không hổ, không thẹn này. Minh là đứng đầu, minh là tướng trước, sinh vô lượng thứ pháp thiện thanh tịnh cùng khởi hiện loại hổ, thẹn tăng thượng này.

Lại nữa, minh cùng với vô minh là cùng đối trị gần. Tức vô minh là đối tượng đối trị gần của minh, minh là đối tượng đối trị gần của vô minh.

Lại nữa, minh cùng với vô minh là cùng mâu thuẫn nhau. Nghĩa là vô minh trái với minh, minh trái với vô minh.

Lại nữa, minh cùng với vô minh không cùng hệ thuộc nhau, nhưng cảnh của đối tượng duyên gồm thâu lẫn nhau. Nghĩa là đều duyên nơi bốn Thánh đế, đều duyên nơi hữu lậu, vô lậu, đều duyên nơi hữu vi, vô vi. Tuy nhiên, về danh nghĩa của các hành có rộng, hẹp. Như nói: Vô minh duyên hành.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Trong Luận này ý nói về duyên khởi phần vị, nên tiếng hành này là nói năm thủ uẩn.

Tôn giả Diệu Âm nói: Tiếng hành này chỉ nói về các nghiệp. Như nói: Hành tạo tác có tổn hại thì tiếng hành kia là nói về nghiệp bất thiện. Như nói: Hành tạo tác không tổn hại thì tiếng hành kia là nói về nghiệp thiện. Như nói: Các hành tạo tác hữu vi thì tiếng hành kia chỉ nói đến tư duy. Như nói: Sắc, tâm, tâm sở pháp, tâm bất tương ưng hành, vô vi, thì tiếng hành kia là nói hành uẩn bất tương ưng. Như nói: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn thì tiếng hành kia là nói chung về hành uẩn tương ưng bất tương ưng. Như nói: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn, thì tiếng hành kia chỉ nói hành uẩn tương ưng bất tương ưng hữu lậu. Như nói: Hành thân, ngữ, ý thì tiếng hành của thân kia là nói về hơi thở vào ra, tiếng hành của ngữ là nói về tầm, tứ, tiếng hành của ý là nói về tưởng, tư. Nên tiếng hành kia nói một uẩn hoàn toàn, phần ít của hai uẩn, như nói: Có hành tội, phước, bất động. Tiếng hành kia là nói về nghiệp hữu lậu thiện, bất thiện.

Như nói: Ở trong các hành, có năm lỗi lầm tại hại: có sợ, hãi, khổ, xúc, không có ngã, ngã sở. Các người có trí không thấy hành này và có thể lìa các hành.

Có thuyết cho: Tiếng hành kia là nói về pháp bất thiện, do nói hành kia có sợ, có hãi, có khổ xúc.

Có thuyết nêu: Tiếng hành kia là nói về năm thủ uẩn, do nói hành kia không có ngã, ngã sở. Các người có trí không thấy hành này và có thể lìa các hành.

Như nói: Các hành vô thường, là pháp có sinh diệt.

Có thuyết nói: Tiếng hành kia là nói về tất cả pháp hữu vi, câu thứ ba nói do sinh diệt.

Có thuyết cho: Tiếng hành kia là chỉ nói về năm thủ uẩn, câu thứ tư nói: Tịch kia là vui, do tên gọi tịch, vui, chỉ hiển bày trạch diệt, không phải là pháp vô lậu có trạch diệt.

Như nói: Hành tội, hành không tội, thì tiếng hành kia là nói về nghiệp thiện, bất thiện. Như nói: Ba hành diệu, ba hành ác, thì tiếng hành kia là nói về nghiệp thiện, bất thiện, cùng tham, giận, tà kiến, không tham, không giận, chánh kiến.

Như nói: Tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô ngã. Niết-bàn tịch tĩnh, thì tiếng hành kia là nói về tất cả pháp hữu vi.

Ở đây, tiếng hành cũng nói về tất cả pháp hữu vi do mình, vô minh đều là duyên.

Hỏi: Từng có hành duyên vô minh không duyên minh chăng?

Đáp: Không có. Vì sao? Vì hành như thế chỉ dùng vô minh làm duyên, không phải là minh.

Hỏi: Từng có hành duyên minh không duyên vô minh chăng?

Đáp: Không có. Vì sao? Vì hành như thế chỉ dùng minh làm duyên, không phải là vô minh.

Hỏi: Từng có hành duyên vô minh cũng duyên minh chăng?

Đáp: Có. Vì sao? Vì chủng loại của các hành có mười một thứ: Cõi dục có bốn, là thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký. Cõi sắc có ba, là thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký. Cõi vô sắc có ba, như nói về cõi sắc và hành vô lậu là mười một thứ.

Trong đây: Hành thiện của cõi dục, minh và vô minh đều không phải là nhân của hành kia, chỉ làm ba duyên, nghĩa là Đẳng vô gián, Sở duyên và Tăng thượng. Hành bất thiện dùng vô minh làm bốn nhân, là tương ưng, câu hữu, đồng loại và biến hành, cũng làm bốn duyên. Minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm hai duyên, nghĩa là Sở duyên và Tăng thượng. Hành hữu phú vô ký của cõi dục dùng vô minh làm bốn nhân, như trước đã nói, cũng làm bốn duyên. Minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm một duyên, nghĩa là Tăng thượng duyên. Hành vô phú vô ký của cõi dục, trừ dị thục của vô minh, vô minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm ba duyên, nghĩa là trừ Nhân duyên. Minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm một duyên, nghĩa là Tăng thượng duyên. Dị thục của vô minh dùng vô minh làm một nhân, nghĩa là nhân dị thục, chỉ làm ba duyên, nghĩa là trừ Sở duyên. Dị thục của vô minh không phải là địa của ý. Minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm một duyên, nghĩa là Tăng thượng duyên.

Hành thiện của cõi sắc, minh và vô minh đều không phải là nhân của hành kia, chỉ làm ba duyên, nghĩa là trừ Nhân duyên. Hành hữu phú vô ký của cõi sắc dùng vô minh làm bốn nhân, nghĩa là tương ưng, câu hữu, đồng loại và biến hành, cũng làm bốn duyên. Minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm hai duyên, nghĩa là Sở duyên và Tăng thượng. Hành vô phú vô ký của cõi sắc, vô minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm ba duyên, nghĩa là trừ Nhân duyên. Minh không phải là nhân của hành kia, chỉ làm một duyên, nghĩa là Tăng thượng duyên.

Như nói: Ba hành của cõi sắc, thì nói ba hành của cõi vô sắc cũng như thế.

Hành vô lậu, trừ minh ban đầu và chỗ cùng được kia. Vô minh không phải là nhân của hành ấy, chỉ làm hai duyên, nghĩa là Sở duyên và Tăng thượng. Dùng minh làm ba nhân, nghĩa là nhân tương ưng, câu hữu và đồng loại, cũng làm bốn duyên. Minh và vô minh ban đầu không phải là nhân của hành ấy, chỉ làm hai duyên, nghĩa là Sở duyên và Tăng thượng. Minh cũng không phải là nhân của hành ấy, chỉ làm một duyên, nghĩa là Tăng thượng. Minh ban đầu cùng được minh và vô minh đều không phải là nhân của hành ấy, chỉ làm một duyên, nghĩa là Tăng thượng duyên. Đó gọi là ở xứ này đã tóm lược về Tỳ Bà Sa. Nên hết thảy hành đều được dùng vô minh, minh làm duyên lý khéo thành lập, vì tăng thượng duyên đều hiện hữu.

Hỏi: Từng có hành không duyên vô minh cũng không duyên minh chăng?

Đáp: Không có. Vì sao? Vì không có một hữu tình nào từ lâu xa đến nay không đối với Thánh đạo hủy báng nói là phi đạo. Trước hủy báng đạo rồi, thời gian sau, hữu tình kia tạo tác tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp đại địa. Hoặc nơi thời gian sau này, tạo tác tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp tiểu vương. Hoặc nơi thời gian sau, tạo tác tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp đại vương. Hoặc nơi thời gian sau, tạo tác tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp Chuyển luân vương. Do nhân này, do duyên này và do kẻ kia nơi Thánh đạo, lần lượt chiêu cảm được đại địa, nơi đã có thành ấp, thôn xóm, con người, phi nhân, gia súc, lúa mạ, cỏ thuốc, cây cối, rừng rậm tăng trưởng, tươi tốt thêm. Như thế bốn duyên của tâm trước đối với tâm sau chỉ làm một tăng thượng duyên.

Ở đây, là đang nói do tà kiến nên hủy báng đạo của Thánh đạo vô lậu. Đối với các nghiệp thiện hữu lậu và quả đều có thể tạo duyên là làm sáng tỏ: Hết thảy hành, không có hành nào là không duyên minh và vô minh, là do tăng thượng duyên, lần lượt đối chiếu nên không phải là không có.

Chiêu cảm nghiệp đại địa: Nghĩa là có thể chiêu cảm được nơi các vật của đại địa như núi, rừng, sông, biển, vườn tược, cỏ thuốc v.v… Đối với chúng được tự tại thống lãnh thọ dụng.

Chiêu cảm nghiệp tiểu vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ dinh thự, thành lũy.

Chiêu cảm nghiệp đại vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ đất đai, sông núi rộng lớn.

Chiêu cảm nghiệp Chuyển luân vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua như Lực luân v.v… chiếm cứ một chúa đất v.v… như Thiên tử Quật hạ noa một lỗ trà chí na v.v…

Lại nữa, chiêu cảm nghiệp tiểu vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ đất đai sông núi rộng lớn. Chiêu cảm nghiệp đại vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ một chúa đất, như Quật hạ noa một lỗ trà v.v… Chiêu cảm nghiệp Chuyển luân vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ một châu v.v…

Lại nữa, chiêu cảm nghiệp tiểu vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ một chúa đất. Chiêu cảm nghiệp đại vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ một châu. Chiêu cảm nghiệp Chuyển luân vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ hai châu.

Lại nữa, chiêu cảm nghiệp tiểu vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ một châu. Chiêu cảm nghiệp đại vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ hai, ba châu. Chiêu cảm nghiệp Chuyển luân vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua chiếm cứ cả bốn châu.

Có thuyết nói: Chiêu cảm nghiệp tiểu vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm ngôi vua do Chuyển luân Thánh vương chiếm cứ, sai khiến. Chiêu cảm nghiệp đại vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm được ngôi vị thái tử của Chuyển luân vương. Nghiệp Chuyển Luân vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm được ngôi vị Chuyển Luân vương.

Có Sư khác cho: Chiêu cảm nghiệp tiểu vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm được ngôi vị thái tử của Luân vương, chưa nhận lễ quán đảnh. Chiêu cảm nghiệp đại vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm được ngôi vị thái tử của Luân vương đã nhận lễ quán đảnh. Nghiệp Chuyển Luân vương: Nghĩa là có thể chiêu cảm được ngôi vị Chuyển Luân vương.

Do nhân này: Nghĩa là do nghiệp thiện đã được tạo dựng ấy.

Do duyên này: Nghĩa là do tà kiến hủy báng đạo ấy.

Do kẻ kia nơi Thánh đạo: Nghĩa là do kẻ kia đã hủy báng Thánh đạo. Do nhân duyên này và kẻ kia nơi Thánh đạo lần lượt chiêu cảm được đại địa, nơi đã có dị thục của hữu tình, vô tình trong ngoài và quả tăng thượng. Sự việc đó là thế nào? Như các ngoại đạo nhàm chán sự tăng giảm của thế gian, lại chán ngán những thứ khổ vì oán ghét phải gặp nhau, yêu thương phải biệt ly. Đời sống tại gia đã bị bức bách, như trong ngục tù, nên liền xuất gia. Đã xuất gia rồi, vì muốn giải thoát nên thọ trì vô số hạnh khổ phi lý, cho là thanh tịnh, có thể chứng đắc giải thoát. Như luôn dựa vào khổ hạnh nơi tà đạo. Như thế như thế càng trở nên xa cách Thánh đạo. Vì xa cách Thánh đạo, nên không chứng giải thoát, liền khởi suy niệm: Tuy có giải thoát nhưng không có Thánh đạo, vì nếu có thì sao ta không đạt được? Ta đã tu khổ hạnh khó làm như thế, trải qua thời gian lâu mà không được, nên biết là không có đạo. Đã hủy báng đạo rồi, từ bỏ những gì đã thọ trì và khởi suy nghĩ: Kẻ tu nghiệp phước hãy còn đối với sinh tử không được tự tại, an lạc như ý, huống chi là không tu phước. Đã suy nghĩ như thế, nên dùng các thứ phương tiện để mưu cầu của cải vật báu, lập hội bố thí lớn, nhân đấy phát nguyện: Nguyện cho tôi do phước này có thể chiêu cảm được các vật trong ngoài v.v… của đại địa sẽ được làm tiểu vương, hoặc làm đại vương, hoặc làm Luân vương thống lãnh tự tại, theo những điều đã nguyện đều được quả như ý.

Lại như nội đạo nhàm chán các tai họa về địa vị, tài sản, mạng sống ở thế gian, hoặc tăng, hoặc giảm. Lại nhàm chán các thứ khổ vì oán ghét phải gặp gỡ, yêu thương phải biệt ly. Người tại gia luôn bị bức bách cũng như tù ngục, lưu chuyển trong vòng sinh tử, nhận chịu khổ não dữ. Vì nhằm giải thoát nên xuất gia, đã xuất gia rồi, thì ít ham muốn, biết đủ, siêng năng tinh tấn hành khổ hạnh, từ tối đến sáng từng không ngủ nghỉ, nương dựa nơi núi hang, nhận bảy thứ nhỏ lớn, ngồi kiết già, thân thẳng tâm tu tĩnh lự. Bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, đến khi mặt trời mọc, chuyên chú tư duy, đã nhận tướng định, siêng năng tinh tấn trải qua nhiều thời gian v.v…, do hai nhân duyên nên không được Thánh đạo: 1. Căn thiện chưa thành thục. 2. Khởi gia hạnh tà.

Căn thiện chưa thành thục: Nghĩa là nương theo pháp Phật, nhanh chóng nhất là ba đời mới được giải thoát. Trong đời thứ nhất, gieo trồng phần giải thoát. Trong đời thứ hai, tu tập khiến được thành thục. Trong đời thứ ba, đã được thành thục rồi, dẫn khởi Thánh đạo, có thể chứng giải thoát. Người kia nơi đời trước chưa gieo trồng phần giải thoát tốt, nên trong đời này căn thiện chưa thành thục.

Khởi gia hạnh tà: Nghĩa là người kia thọ trì pháp đối trị điên đảo, vì sự việc này, nên không được Thánh đạo. Liền khởi suy nghĩ:

Tuy có giải thoát nhưng không có Thánh đạo. Nếu như có sao ta không đạt được? Ta đã tu khổ hạnh tinh tấn như thế, trải qua thời gian lâu nhưng không được, nên biết là không có đạo.

Đã hủy báng đạo rồi, nên bỏ hết những gì đã thọ trì, khởi suy nghĩ: Kẻ tu nghiệp phước hãy còn đối với sinh tử không được tự tại an lạc như ý, huống chi là không tu phước. Đã tư duy rồi, bèn dùng đủ thứ phương tiện mong cầu được tài sản vật báu, mở hội bố thí lớn, giúp đỡ người bệnh, cung kính, phụng dưỡng người có đức, tự mình làm, bảo kẻ khác làm, thấy người khác làm thì tùy hỷ. Tu các nghiệp phước dốc sức không biết mệt mỏi, nhân đấy phát nguyện: Nguyện cho tôi do phước này có thể chiêu cảm được các vật trong ngoài v.v… của đại địa, được làm tiểu vương, hoặc làm đại vương, hoặc làm Luân vương thống lãnh tự tại, theo chỗ đã nguyện đều được quả như ý.

Đã ở ngôi vua, dùng chánh pháp trị nước, khiến muôn vật trong ngoài đều được thấm nhuần, tốt đẹp.

Nếu không có Thánh đạo thì tà kiến hủy báng đạo sẽ không do đâu được sinh. Vì thế nên Thánh đạo kia là tăng thượng duyên gần của tà kiến này. Nếu không có tà kiến thì bố thí cùng với tâm thiện không do đâu được khởi. Thế nên pháp nhiễm ô là tăng thượng duyên gần của pháp không nhiễm ô.

Nếu không có thí, phước, sẽ không được ngôi vị vua. Nếu không có ngôi vua thì các vật trong ngoài sẽ không do đâu mà được thấm nhuần, tăng trưởng. Vì thế nên số hữu tình là tăng thượng duyên gần của các vật bên ngoài.

Như thế, bốn duyên của tâm trước: Nghĩa là tà kiến cùng tâm có đủ bốn duyên và pháp tương ưng câu hữu v.v… ấy là nhân duyên của tà kiến kia. Nghi v.v… là đẳng vô gián duyên của tà kiến kia, Thánh đạo là sở duyên duyên của tà kiến, trừ phần tự Thể của chúng, tất cả pháp khác đều là tăng thượng duyên của tà kiến kia.

Ở nơi tâm sau chỉ là một tăng thượng duyên: Nghĩa là bốn duyên của tâm trước cùng với tâm đều cùng bố thí sau chỉ là một tăng thượng duyên.

Hỏi: Tâm cùng bố thí sau cũng có bốn duyên: Nhân duyên: Nghĩa là các pháp tương ưng câu hữu kia v.v… Đẳng vô gián duyên: Nghĩa là tiếp sau nhân duyên kia là tâm tâm sở pháp trước. Sở duyên duyên: Nghĩa là đối tượng vật xả thí cùng người thọ nhận vật bố thí. Tăng thượng duyên: Nghĩa là trừ tự thể của duyên đó, ngoài ra là tất cả pháp. Như thế bốn duyên của tâm sau đối với tâm trước cũng là một tăng thượng duyên, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Cũng nên nói nhưng không nói, nên biết đây là nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Vì loại trước, nghĩa nằm ở sau có thể nhận biết, thế nên không nói.

Có Sư khác nêu: Tâm trước đối với sau làm duyên là thuận theo nghĩa, không phải sau đối với trước, thế nên không nói.

Hỏi: Bốn duyên của tâm sau đều nhập vào, được gồm thâu trong bốn duyên của tâm trước. Tăng thượng duyên kia, trừ tự gồm thâu, còn lại là tất cả pháp khác, vì sao lại nói là bốn duyên của tâm trước cùng với tâm sau làm một tăng thượng duyên?

Đáp: Trong đây nên nói: Bốn duyên của tâm trước cũng cùng với tâm sau làm đủ bốn duyên, nhưng chỉ nói làm một tăng thượng, nên biết đây là nói tăng thượng duyên gần. Nghĩa là tà kiến trước chỉ gần với tăng thượng duyên, không nhập vào tâm sau, ba duyên của tâm trước đều gồm thâu những gì tâm sau hiện có. Tâm sau là tăng thượng duyên gần không nhập vào tâm trước, do được gồm thâu trong ba duyên trước.

Như có chỗ khác nói: Bốn duyên của nhãn thức, nghĩa là các pháp tương ưng, câu hữu của nhãn thức kia, là nhân duyên của nhãn thức kia. Tiếp theo nhãn thức ấy là tâm tâm sở pháp trước đã diệt, là đẳng vô gián duyên của nhãn thức ấy. Sắc là sở duyên duyên của nhãn thức ấy và mắt là tăng thượng duyên của nhãn thức ấy. Như chỗ đó chỉ nói tăng thượng duyên gần, ở đây cũng thế, do vậy không có lỗi.

Có thuyết nói như vầy: Tà kiến trước là tăng thượng duyên bên trong của tâm, về lý thật sự có đủ bốn duyên của tâm sau, nhưng vì nghĩa của tăng thượng duyên là rộng có khắp tất cả xứ nên nói riêng.

Hỏi: Nếu như vậy tâm sau cũng thuộc về tăng thượng duyên của tâm trước. Đã nói bốn duyên của tâm trước đối với tâm sau làm tăng thượng duyên, thế là tự Thể nên cùng với tự Thể làm tăng thượng duyên là mâu thuẫn với nghĩa của Tông chỉ sao?

Đáp: Ở đây nên nói bốn duyên của tâm trước đối với tâm sau chỉ làm một tăng thượng duyên, trừ tự tánh của chúng, nhưng không nói vì trước đã nói. Nghĩa là trong phẩm trước đã nói các thức, trừ tự tánh của chúng, còn lại tất cả pháp là nhân năng tác, nên không nói nữa. Nếu đối với luận khác uẩn khác, ngày khác đã nêu bày ngôn thuyết hãy còn có thể làm chứng, huống chi là đối với luận này, uẩn này, ngày này đã nói ở phẩm kế trước mà không làm chứng được sao?

Có thuyết cho: Vì ở đây nói về tăng thượng gần, nên không có lỗi. Lại nữa, nếu dựa vào nhân duyên để nói thì ở đây là dựa nơi lời nói để làm sáng tỏ nghĩa đã được căn cứ. Nghĩa là căn cứ nơi nhân duyên để tạo luận, tức có được ba trường hợp. Trước căn cứ nơi bốn duyên để tạo luận nên chỉ có trường hợp chung.

Hỏi: Từng có hành duyên vô minh không duyên minh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là dị thục của vô minh và hành nhiễm ô. Ở đây: Dị thục của vô minh dùng vô minh làm một nhân, là nhân dị thục. Minh không phải là nhân của dị thục đó. Hành nhiễm ô dùng vô minh làm bốn nhân, là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại và biến hành.

Minh không phải là nhân của hành đó.

Hỏi: Từng có hành duyên minh không duyên vô minh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là trừ minh lúc đầu, còn lại là các hành vô lậu khác. Nghĩa là hành vô lậu khác dùng minh làm ba nhân, là nhân tương ưng, câu hữu và đồng loại. Vô minh không phải là nhân của hành vô lậu kia.

Hỏi: Từng có hành duyên vô minh cũng duyên minh chăng?

Đáp: Không có. Vì sao? Vì minh với vô minh đều cách xa nhau. Tất không có một hành nào dùng cả hai thứ làm nhân, như có tụng nói:

Hư không đại địa: Cùng cách xa

Biển, bờ kia đây: Cũng lại xa Mặt trời mọc, lặn: Ấy cũng xa

Chánh pháp, tà pháp: Xa trong xa.

Hỏi: Từng có hành không duyên vô minh cũng không duyên minh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là trừ dị thục của vô minh, còn lại là các hành vô phú vô ký khác và hành hữu lậu thiện của minh ban đầu.

Hỏi: Ở đây nói trừ dị thục của vô minh là thế nào?

Đáp: Nghĩa là ba mươi bốn tùy miên của cõi dục và các pháp câu hữu tương ưng với chúng sinh khởi v.v… đã chiêu cảm dị thục. Như thế gọi là dị thục của vô minh.

Có thuyết nói: Ba mươi bốn tùy miên bất thiện ở cõi dục đã chiêu cảm được dị thục, cũng gọi là dị thục của vô minh, vì chủ thể đạt được và đối tượng đạt được đồng một quả.

Có Sư khác cho: Dị thục của các nghiệp thân, ngữ bất thiện đã chiêu cảm được, cũng gọi là dị thục của vô minh, vì chủ thể khởi và đối tượng được khởi đều đồng một quả.

Lời bình: Cả hai thuyết trên đều phi lý, vì chủ thể đạt được, đối tượng đạt được, chủ thể khởi, đối tượng được khởi, lần lượt cùng đối chiếu, không phải là nhân câu hữu, vì không đồng một quả. Lại nữa, tùy miên được và dị thục chiêu cảm được của nghiệp thân, ngữ không phải là dị thục của vô minh. Thế nên thuyết đầu đối với lý là đúng.

Các hành vô phú vô ký khác: Nghĩa là tất cả dị thục của pháp thiện. Tất cả nghiệp thân, ngữ bất thiện cùng dị thục như sinh v.v… của người đó. Tất cả đắc bất thiện cùng dị thục như sinh v.v… Tất cả sắc được nuôi lớn cùng các thứ đắc, sinh v.v… Tất cả pháp đẳng lưu và các thứ đắc, sinh v.v… của người đó. Tất cả đường oai nghi, xứ công xảo, tâm thông quả nơi pháp câu hữu tương ưng và các thứ đắc, sinh v.v… đã khởi nghiệp thân, ngữ.

Các hành như thế, minh và vô minh đều không phải là nhân của chúng, nhưng không phải là không có nhân. Nghĩa là hoặc có bốn nhân, hoặc có ba nhân, hoặc có hai nhân, như lý nên nói.

Minh ban đầu: Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn hiện hành. Vô minh không phải là nhân của các trí ấy, do tánh của các trí ấy là vô lậu. Minh cũng không phải là nhân của các trí ấy, vì nếu cùng có hay có trước thì đều là vô minh. Nhưng không phải là không nhân, do trí kia có nhân tương ưng, câu hữu.

Hỏi: Minh ban đầu cùng được cũng là minh và vô minh đều không phải là nhân của các trí kia, nhưng không phải là không nhân, vì chúng cùng sinh v.v… đều có thể cùng với chúng làm nhân câu hữu. Đây là trường hợp thứ tư, vì sao không nói? Vì sao không loại trừ trường hợp thứ hai ở trước?

Đáp: Điều ấy cũng nên nói, trường hợp trước cũng nên loại trừ, nhưng không như thế là vì ở đây nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Vì trường hợp thứ tư này đã gồm thâu trong trường hợp hai, là khổ pháp nhẫn, là pháp câu hữu.

Người kia không nên nói như vậy, vì chủ thể đạt được cùng với đối tượng đạt được, không phải là nhân câu hữu. Như trước đã nói, nên thuyết trước là đúng.

Dựa vào nghĩa như thế nên có lời hỏi đáp.

Hỏi: Từng có trong khoảng một sát-na có hai mươi bốn đắc cùng với khổ pháp trí nhẫn cùng sinh là chủng loại của khổ pháp trí nhẫn nhưng cùng với khổ pháp trí nhẫn không cùng có nghĩa làm nhân lẫn nhau chăng?

Đáp: Có. Nghĩa vào dựa vào tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh, khi khổ pháp trí nhẫn hiện tiền, là có sáu địa, mỗi địa đều có bốn hành tướng. Khổ pháp trí nhẫn và đắc cùng thời hiện tiền, thì đắc kia cùng với khổ pháp trí nhẫn không cùng có nghĩa làm nhân lẫn nhau.

Hành hữu lậu thiện: Nghĩa là tất cả hữu lậu thiện nơi năm uẩn. Minh và vô minh đều không phải là nhân của hành kia, nhưng không phải là không nhân, nghĩa là hoặc có ba nhân, hoặc có hai nhân, như lý nên nói.

Do đấy, nên nói nếu dựa vào nhân duyên, nhân ở minh, vô minh, hành có ba trường hợp.

Hỏi: Vì sao gọi là vô minh? Vô minh là nghĩa gì?

Đáp: Không thông đạt, không hiểu biết, không thấu rõ, là nghĩa của vô minh.

Hỏi: Nếu như vậy, trừ vô minh, các pháp khác cũng không thông đạt, không hiểu biết, không thấu rõ, vì sao không gọi là vô minh?

Đáp: Nếu không thông đạt, không hiểu biết, không thấu rõ, lấy ngu si làm tự tướng thì đó là vô minh. Vì các pháp khác không như vậy, nên không phải là vô minh.

Hỏi: Vì sao gọi là minh? Minh nghĩa là gì?

Đáp: Có thể thông đạt, có thể hiểu biết, có thể thấu tỏ, là nghĩa của minh.

Hỏi: Nếu như vậy, tuệ hữu lậu cũng có thể thông đạt, có thể hiểu biết, có thể thấu tỏ, vì sao không gọi là minh?

Đáp: Nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, có thể đối với bốn đế thông đạt chân thật thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng đối với bốn đế không thể thông đạt chân thật, nên không gọi là minh. Hoặc bốn pháp thuận phần quyết định lựa chọn như noãn, đảnh v.v…, tuy có thể mạnh mẽ nhạy bén trong việc xét tìm bốn đế, nhưng vì chưa thông đạt chân thật về chúng, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, có thể đối với bốn đế thông tỏ rốt ráo thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng đối với bốn đế không thể thông đạt rốt ráo, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, có thể đối với bốn đế thông đạt quyết định thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng đối với bốn đế không thể thông đạt quyết định, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, có thể đối với bốn đế, thấy rồi, không phải là không thấy, nhận biết rồi, không phải là không nhận biết, hiện quán rồi, không còn bị vô tri, tà trí khiến do dự, khuất phục thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng đối với bốn đế không thể như thế, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ về pháp của chủ thể đoạn trừ, đối tượng được đoạn trừ, khiến phiền não kia hoàn toàn không có sức để tăng trưởng thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng vì không có năng lực ấy, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ có thể phá trừ các Hữu thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng vì làm tăng trưởng Hữu, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ có thể đoạn dứt sự nối tiếp Hữu, pháp nối tiếp già, chết, có thể khiến cho sinh tử hoàn toàn đoạn dứt thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng không có lực dụng như thế, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ hướng đến hành diệt khổ, cùng hướng đến hành diệt các thứ già, chết nơi sinh tử của các hữu thế gian thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng hướng tới hành tập khổ, cùng hướng tới hành tập của già chết nơi sinh tử theo các hữu thế gian, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ không phải là sự việc thân kiến, không phải là sự việc tùy miên, không phải là sự việc điên đảo, không phải là tham, giận, si, mạn trụ nơi xứ an ổn, không có cấu uế, vẩn đục, không rơi vào các hữu thuộc về khổ, tập đế, thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng mâu thuẫn với các thứ nêu trên, nên không gọi là minh.

Lại nữa, nếu thông đạt, hiểu biết, thấu rõ không có vô minh thì gọi là minh. Các tuệ hữu lậu tuy có thông đạt, hiểu biết, thấu rõ, nhưng vì có vô minh, nên không gọi là minh.

Lại nữa, như chú thuật có khả năng chữa trị bệnh, gọi là minh. Nghĩa là người thế gian bị các thứ chú thuật tà vạy trù ếm, minh chú có thể trị khỏi. Thánh đạo như thế là có khả năng chữa trị các bệnh phiền não của chúng sinh, nên gọi là minh. Các tuệ hữu lậu vì không thể chữa trị hoàn toàn các bệnh phiền não, nên không gọi là minh.

Lại nữa, các tuệ hữu lậu tùy thuận hai phẩm, do đối với hai phẩm cùng tạo ba duyên, nên không gọi là minh, cũng không phải là vô minh. Như có người đối với bạn thân của gia đình thù oán khác đều thuận theo. Người kia đối với người khác không phải là thân thích, cũng không phải là oán thù. Đây cũng như thế.

Lại nữa, vì phẩm tuệ hữu lậu có thể hủy báng minh nên không gọi là minh. Tuệ hữu lậu thiện tuy thuận với minh, nhưng có thể dẫn sinh tà kiến hủy báng đạo, như quan phản nghịch, nên không gọi là minh.

Lại nữa, các tuệ vô lậu đối với bốn Thánh đế soi chiếu sáng, tịnh, như mắt trông thấy các sắc tượng nơi phần ban ngày, nên gọi là minh. Các tuệ hữu lậu đối với bốn Thánh đế nhận thấy không sáng, tịnh, như mắt nhìn thấy các sắc tượng về đêm, nên không gọi là minh.

Hỏi: Trừ minh là pháp của nhân và pháp không phải minh, pháp khác gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn.

Ở đây, trừ minh là pháp của nhân, nghĩa là trừ minh ban đầu, còn lại là các tuệ vô lậu.

Và pháp không phải minh: Nghĩa là tất cả pháp hữu lậu và trừ tuệ vô lậu, còn lại là các pháp vô lậu.

Pháp khác: Nghĩa là minh ban đầu.

Pháp kia gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn: Nghĩa là gồm thâu pháp giới, pháp xứ và hành uẩn.

Hỏi: Trừ tâm là pháp của nhân và pháp không phải tâm, pháp khác gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ và bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn.

Ở đây, trừ tâm là pháp của nhân: Nghĩa là trừ tâm tương ưng với khổ pháp trí nhẫn hiện hành, còn lại là tâm vô lậu.

Và pháp không phải tâm: Nghĩa là mười một xứ.

Pháp khác: Nghĩa là tâm tương ưng với khổ pháp trí nhẫn hiện hành.

Pháp kia gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn: Nghĩa là gồm thâu ý giới, ý thức giới, ý xứ và thức uẩn.

Hỏi: Nếu pháp là minh, pháp đó là nhân của minh chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có pháp là minh không phải là nhân của minh: Nghĩa là minh vị lai.

2. Có pháp là nhân của minh không phải là minh: Nghĩa là quá khứ, hiện tại, trừ tuệ vô lậu, còn lại là các hành vô lậu và minh vị lai cùng pháp tương ưng, câu hữu.

3. Có pháp là minh cũng là nhân của minh: Nghĩa là các tuệ vô lậu quá khứ, hiện tại.

4. Có pháp không phải là minh cũng không phải là nhân của minh: Nếu nói về loại của nó, tức là đắc vô lậu vị lai và sinh v.v… của đắc đó. Nếu không nói về loại của nó, tức là trừ ba tướng nêu trước.

Hỏi: Nếu pháp là minh, pháp đó là minh làm nhân chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có pháp là minh không phải minh làm nhân: Nghĩa là minh ban đầu.

2. Có pháp minh làm nhân không phải là minh: Nghĩa là pháp câu hữu, tương ưng của minh và trừ đắc vô lậu ban đầu và sinh v.v… của đắc đó, còn lại là các đắc vô lậu và sinh v.v… của đắc ấy.

3. Có pháp là minh cũng là minh làm nhân: Nghĩa là trừ minh ban đầu, còn lại là các tuệ vô lậu.

4. Có pháp không phải là minh cũng không phải là minh làm nhân: Nếu nói về loại là đắc vô lậu ban đầu và sinh v.v… của đắc đó. Nếu không nói về loại tức trừ ba tướng nêu trước.

Lại nữa, có đạo tùy tín hành và đạo tùy pháp hành. Trong đó, đạo tùy tín hành cùng với đạo tùy tín hành làm nhân, cũng cùng với đạo tùy pháp hành làm nhân. Đạo tùy pháp hành chỉ cùng với đạo tùy pháp hành làm nhân, không phải là đạo tùy tín hành, vì đạo kia yếu kém.

Có thuyết nói: Đạo tùy tín hành cũng chỉ cùng với đạo tùy tín hành làm nhân, không phải là đạo tùy pháp hành, do trong kiến đạo người tùy tín hành tất không chuyển làm tùy pháp hành.

Lời bình: Người kia không nên nói như vậy, vì nghĩa đồng một sự nối tiếp nhau, nên có thể đạt được, lại là đạo thù thắng, vì sao không phải là nhân. Do vậy, thuyết trước đối với lý là đúng.

Lại nữa, có đạo tín giải và đạo kiến chí. Trong đó, đạo tín giải cùng với đạo tín giải làm nhân, cũng cùng với đạo kiến chí làm nhân. Đạo kiến chí chỉ cùng với đạo kiến chí làm nhân, không phải là đạo tín giải, do đạo kia yếu kém.

Lại nữa, có đạo thời giải thoát, đạo bất thời giải thoát. Trong đó, đạo thời giải thoát cùng với đạo thời giải thoát làm nhân, cũng cùng với đạo bất thời giải thoát làm nhân. Đạo bất thời giải thoát chỉ cùng với đạo bất thời giải thoát làm nhân, không phải là đạo thời giải thoát, do đạo kia yếu kém.

Lại nữa, có đạo kiến, đạo tu, đạo vô học. Trong đó, đạo kiến cùng với đạo kiến làm nhân, cũng cùng với đạo tu, đạo vô học làm nhân. Đạo tu cùng với đạo tu làm nhân, cũng cùng với đạo vô học làm nhân, không phải là đạo kiến, vì đạo kia yếu kém. Đạo vô học chỉ cùng với đạo vô học làm nhân, không phải là đạo kiến, đạo tu, vì chúng yếu kém.

Lại nữa, có đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Phật. Trong đó, đạo Thanh văn chỉ cùng với đạo Thanh văn làm nhân, không phải là hai đạo kia, vì cách rất xa. Đạo Độc giác chỉ cùng với đạo Độc giác làm nhân, không phải là đạo Thanh văn, vì đạo kia yếu kém và vì rất xa, cũng không phải là đạo Phật vì cách rất xa. Đạo Phật chỉ cùng với đạo Phật làm nhân, không phải là hai đạo kia, vì chúng yếu kém và vì rất xa.

Lại nữa, Thánh đạo cũng dựa vào thân nam, cũng dựa vào thân nữ. Ở đây, Thánh đạo dựa vào thân nữ cùng với Thánh đạo dựa vào thân nữ làm nhân, cũng cùng với Thánh đạo dựa vào thân nam làm nhân. Thánh đạo dựa vào thân nam chỉ cùng với Thánh đạo dựa vào thân nam làm nhân, không phải là Thánh đạo dựa vào thân nữ, vì đạo kia yếu kém.

Có thuyết nói: Hai Thánh đạo kia lần lượt làm nhân, tùy thuộc vào tính chất lợi độn của hai hạng nam nữ kia. Thuyết ấy phi lý, vì chỗ hơn, kém của hai thân nam, nữ đã định rõ, Thánh đạo có dựa vào hai thân kia thì sự hơn kém vẫn cố định.

Có Sư khác cho: Hai Thánh đạo kia lần lượt không phải là nhân, vì dựa vào loại khác biệt. Thuyết của Sư kia cũng phi lý, vì trước ở nơi thân nữ nhập Thánh đạo xong, về sau chuyển thành thân nam, vì đã khởi Thánh đạo nên không có nhân.

Do vậy, trong đây thuyết nêu trước là đúng.

Lại nữa, có thuyết nói một đạo, có thuyết nói nhiều đạo. Nói một đạo: Nghĩa là không nói đạo kiến, tức là đạo tu và đạo vô học. Vì ba đạo: kiến, tu, vô học đều khác nhau, nên chỉ nói Thánh đạo dựa vào thân nam, nữ. Thánh đạo trong hai thân này là một. Nói nhiều đạo: Nghĩa là nói Thánh đạo trong hai thân đều riêng khác, vì dựa vào loại khác biệt.

Nói nhiều đạo còn có hai thứ: 1. Có thuyết nói: Thánh đạo dựa vào thân nữ, ở trong thân nữ, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Thánh đạo dựa vào thân nam, ở trong thân nữ đắc, nhưng không ở nơi thân, thành tựu nhưng không hiện tiền. Thánh đạo dựa vào thân nam, ở trong thân nam cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Thánh đạo dựa vào thân nữ, ở trong thân nam, không đắc, không ở nơi thân, không thành tựu, không hiện tiền. Do dựa vào thân nam được Thánh đạo, về sau tất không còn có nghĩa thọ nhận thân nữ. Lại, chỗ dựa kia nhất định là thô, kém. 2. Có thuyết nói: Thánh đạo dựa vào thân nữ, ở trong thân nữ, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Thánh đạo dựa vào thân nam, ở trong thân nữ, không đắc, không ở nơi thân, không thành tựu, không hiện tiền, vì dựa vào khác loại. Ở trong thân nam nói hai Thánh đạo nên biết cũng như thế.

Thuyết kia phi lý, vì trước dựa vào thân nữ được Thánh đạo rồi, về sau chuyển thành thân nam, nên lại đắc đạo. Thế nên chỉ có thuyết kế trước nói là đúng.

Như thế, kiến đạo dựa vào chín xứ thân: Nghĩa là ba châu của loài người, trừ châu Bắc Câu Lô và sáu cõi trời thuộc Dục giới. Vì chín xứ thân này đều có khả năng nhập kiến đạo.

Nói một đạo: Nghĩa là chín xứ dựa vào thân kiến đạo, là một loại nương dựa đồng. Tức là Thánh đạo kia đã dựa vào đồng loại nam, nữ.

Nói nhiều đạo: Nghĩa là nói chín xứ dựa vào thân kiến đạo, đều dựa vào xứ riêng khác.

Nói nhiều đạo lại có hai thứ: 1. Có thuyết nói: Dựa vào thân của châu Thiệm Bộ kiến đạo, ở trong thân của châu Thiệm Bộ, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Dựa vào thân của tám xứ còn lại kiến đạo, ở trong thân của châu Thiệm Bộ, đắc, nhưng không ở nơi thân, thành tựu, nhưng không hiện tiền. 2. Có thuyết nói: Dựa vào thân của châu Thiệm Bộ kiến đạo, ở trong thân của châu Thiệm Bộ, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Dựa vào thân của tám xứ còn lại kiến đạo, ở trong thân của châu Thiệm Bộ, không đắc, không ở nơi thân, không thành tựu, không hiện tiền.

Thuyết kia phi lý, vì dựa vào thân của châu Thiệm Bộ, đắc quả Dự lưu rồi, về sau sinh vào xứ khác, nên lại được quả, nhưng không có nghĩa này. Do vậy, thuyết kế trước nói là đúng.

Đối với thân của tám xứ còn lại nói hai sự kiến đạo, nên biết cũng như thế.

Như vậy, tu đạo dựa vào thân của ba cõi. Nói một đạo: Nghĩa là nói thân của ba cõi tu đạo là một.

Nói nhiều đạo: Nghĩa là nói thân của ba cõi, tu đạo đều riêng khác.

Nói nhiều đạo lại có hai thứ: 1. Có thuyết nói: Dựa vào thân của cõi dục tu đạo, ở trong thân của cõi dục, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Dựa vào thân của hai cõi trên tu đạo, ở trong thân của cõi dục, đắc, nhưng không ở nơi thân, thành tựu, nhưng không hiện tiền. 2. Có thuyết nói: Dựa vào thân của cõi dục tu đạo, ở trong thân của cõi dục, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Dựa vào thân của cõi sắc, cõi vô sắc tu đạo, ở trong thân của cõi dục, không đắc, không ở nơi thân, không thành tựu, không hiện tiền.

Thuyết kia phi lý, vì dựa vào thân của cõi dục đắc quả Bất hoàn, về sau sinh nơi cõi trên, nên lại đắc quả lần nữa, nhưng không có nghĩa này. Vì thế, thuyết kế trước nói là đúng.

Đối với thân cõi trên nói về hai thứ tu đạo, nên biết cũng như thế.

Đạo vô học của Nhị thừa cũng căn cứ theo đây, nên biết.

Như thế, Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng, dựa vào thân của phần vị một trăm năm ở châu Thiệm Bộ, cho đến dựa vào thân tám vạn năm này. Nói một đạo: Nghĩa là nói dựa vào thân của phần vị trăm năm nơi Bồ-đề Vô thượng, tức là cho đến dựa vào thân tám vạn năm nơi Bồ-đề Vô thượng.

Nói nhiều đạo: Nghĩa là nói dựa vào thân của phần vị một trăm năm nơi Bồ đề Vô thượng, cho đến dựa vào thân tám vạn năm nơi Bồ-đề Vô thượng, Thể đó đều riêng khác.

Nói nhiều đạo lại có hai thứ: 1. Có thuyết nói: Dựa vào thân của phần vị một trăm năm nơi Bồ-đề Vô thượng, ở trong thân của phần vị một trăm năm, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Dựa vào thân của phần vị khác nơi Bồ-đề Vô thượng, ở trong thân của phần vị một trăm năm, đắc, nhưng không ở nơi thân, thành tựu, nhưng không hiện tiền. 2. Có thuyết nói: Dựa vào thân của phần vị một trăm năm nơi Bồ-đề Vô thượng, ở trong thân của phần vị một trăm năm, cũng đắc, cũng ở nơi thân, cũng thành tựu, cũng hiện tiền. Dựa vào thân của phần vị khác nơi Bồ-đề vô thượng, ở trong thân của phần vị trăm năm, không đắc, cho đến không hiện tiền.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao Luận Thi Thiết nói: Công đức của chư Phật tất cả đều bình đẳng?

Đáp: Do ba sự việc:

1. Tu hành bình đẳng: Nghĩa là tất cả Đức Phật đều trải qua ba đại kiếp A-tăng-xí-da ( A-tăng-kỳ) tu bốn Ba-la-mật-đa viên mãn, đắc Bồ-đề Vô thượng.

2. Pháp thân bình đẳng: Nghĩa là tất cả Đức Phật đều thành tựu vô lượng vô biên công đức thù thắng như mười lực, bốn pháp không sợ hãi v.v…

3. Lợi ích bình đẳng: Nghĩa là mỗi mỗi Đức Phật đều hóa độ vô lượng vô biên hữu tình khiến đều được giải thoát.

Lại nữa, căn bình đẳng: Nghĩa là tất cả Đức Phật đều an trụ nơi căn thượng thượng. Lại nữa, giới bình đẳng: Nghĩa là tất cả Đức Phật đều đạt được giới thượng thượng. Lại nữa, đạo bình đẳng: Nghĩa là tất cả Đức Phật đều thành tựu đạo thượng thượng.

Lời bình: Trong đây, theo thuyết kế trước nói là đúng, vì căn cứ vào đồng loại.

HẾT – QUYỂN 25