LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 191

Chương 8: KIẾN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ NIỆM TRỤ, phần 5

* Tâm A-la-hán bát Niết-bàn nên nói là thiện hay là vô ký?

Đáp: Nên nói là vô ký.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Nghĩa là A-la-hán đã đoạn trừ pháp bất thiện, thành tựu pháp thiện. Như thế hoặc có kẻ sinh nghi: Nếu như vậy thì A-la-hán nên trụ nơi tâm thiện mà bát Niết-bàn. Nay nhằm khiến cho nghi ấy được dứt, nên nêu rõ: A-la-hán tuy đoạn trừ pháp bất thiện, thành tựu pháp thiện, nhưng trụ nơi tâm vô ký mà bát Niết-bàn, không phải là tâm thiện. Nếu trước không tạo Luận này thì cho đến nay, nếu hỏi: Tâm A-la-hán bát Niếtbàn nên nói là thiện hay là vô ký? Người kia không hiểu rõ nên hoặc đáp: Là thiện không phải là vô ký, do A-la-hán đã đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, thành tựu pháp thiện. Vì trước đã tạo Luận này, nên cho đến nay đều được hiểu đúng. Do nhân duyên ấy nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao A-la-hán chỉ trụ nơi tâm vô ký mà bát Niết-bàn?

Đáp: Chỉ tâm vô ký là thuận với tâm đoạn trừ. Nghĩa là tâm thiện thì mạnh mẽ, trụ vững chắc, khó hoại, có thể khiến những tâm khác trong thời gian dài nối nhau khởi, nên đối với tâm đoạn trừ là không tùy thuận. Tâm vô ký thì yếu kém, như hạt giống hư nát, không trụ vững, dễ hoại, không thể khiến những tâm khác trong thời gian dài nối nhau khởi, nên đối với tâm đoạn trừ là hết sức tùy thuận.

Có thuyết nói: Do tâm vô ký ít khởi lỗi lầm tai họa. Nghĩa là tâm thiện, tâm bất thiện do hai môn nên ở trong sinh tử khởi nhiều lỗi lầm tai họa. 1. Do môn của quả dị thục. 2. Do môn của quả đẳng lưu. Tâm vô ký chỉ do môn của quả đẳng lưu khởi lỗi lầm tai họa không phải là quả dị thục.

Có thuyết cho: Do A-la-hán từ bỏ tất cả sự sinh. Nghĩa là những hữu tình khác khi sắp mạng chung, vì sẽ sinh nên đều tác ý cực mạnh, khiến tâm thiện khởi: Chớ khiến ta phải rơi vào những nẻo không yêu thích. A-la-hán từ bỏ tất cả sự sinh, nên không còn tác ý, chỉ trụ nơi tâm vô ký mà bát Niết-bàn.

Có thuyết nêu: Do A-la-hán không cầu hướng đến năng lực của dị thục. Nghĩa là những hữu tình khác thì cầu năng lực của dị thục nơi vị lai, nên khi sắp mạng chung đều dùng gia hạnh tối đa khiến tâm thiện khởi. A-la-hán không cầu hướng đến năng lực của dị thục như thế, nên chỉ trụ nơi tâm vô ký mà bát Niết-bàn.

Có thuyết cho: A-la-hán trụ vào tâm tự tánh mà bát Niết-bàn. Tâm tự tánh tức là tâm vô ký, do trong mỗi mỗi đời chưa từng không có. Hoặc có khi trong một chúng đồng phần không có tâm thiện khởi, nghĩa là căn thiện đã bị đoạn dứt chưa nối tiếp. Hoặc có khi trong một chúng đồng phần không có tâm bất thiện khởi, nghĩa là đã lìa nhiễm nơi cõi dục. Không có trong một chúng đồng phần nào không khởi tâm vô ký, thế nên nói tâm vô ký là tâm tự tánh. A-la-hán chỉ trụ nơi tâm ấy mà bát Niết-bàn.

Có thuyết nêu: A-la-hán chính là trụ như tâm của thân hữu bậc thượng mà bát Niết-bàn. Tức như có người sắp đi đến nước khác, thân hữu theo đưa tiễn, thân hữu bậc hạ chỉ đưa ra tới cửa rồi trở lại, thân hữu bậc trung đưa tới hết thôn, thân hữu bậc thượng đưa tới biên thùy. Như vậy, A-la-hán khi bát Niết-bàn, tâm bất thiện, nhiễm ô như thân hữu bậc ha, ở nơi việc lìa nhiễm của cõi dục và lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi đó liền lìa bỏ. Tâm thiện như thân hữu bậc trung, ngay khi tâm vô ký khởi liền lìa bỏ. Tâm vô ký như thân hữu bậc thượng, khi bát Niết-bàn mới liền lìa bỏ.

Có thuyết nói: Đây là A-la-hán dần dần bỏ pháp sinh tử. Nghĩa là khi lìa nhiễm nơi cõi dục là bỏ tất cả tâm bất thiện. Khi lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ là bỏ tất cả tâm nhiễm ô. Khi khởi tâm vô ký là bỏ tất cả tâm thiện. Khi nhập Niết bàn vô dư y là bỏ tất cả tâm vô ký.

Tôn giả Diệu Âm nói: Tất cả tâm thiện đều là tạo khởi công dụng, nên khi sắp mạng chung thì không thể tạo công dụng nữa, vì thế chỉ trụ nơi tâm vô ký mà bát Niết-bàn.

Hỏi: Tâm sau cùng của A-la-hán lấy gì làm đối tượng duyên?

Có thuyết cho: Duyên nơi đại chủng của các căn trong tự thân.

Có thuyết nói: Duyên nơi sáu xứ bên trong.

Có thuyết nêu: Duyên nơi sáu xứ bên ngoài.

Có thuyết nói: Duyên nơi mười hai xứ.

Tôn giả nói: Tâm sau cùng của A-la-hán lấy gì làm đối tượng duyên?

Đáp: Duyên nơi tự thân. Vị ấy ở nơi tự thân khởi tưởng không có mạng, lìa mạng, môn giải thoát không hiện tiền mà bát Niết-bàn.

Có thuyết cho: Vị ấy tâm duyên nơi tất cả hành. Do ở nơi các hành thấy rõ các thứ lỗi lầm, môn giải thoát vô nguyện hiện tiền mà bát Niết-bàn.

Có thuyết nêu: Vị ấy tâm duyên nơi Niết-bàn, vì ở nơi Niết-bàn quán xét công đức tịch tĩnh, môn giải thoát vô tướng hiện tiền mà bát Niết-bàn. Nên biết, trong đây là dựa vào tâm mạng chung tương tục của A-la-hán mà nói, không phải là tâm sau cùng của sát-na, do tâm kia chỉ là vô ký.

Đại đức nói: Tâm sau cùng của A-la-hán duyên nơi cảnh được thấy nghe hiểu biết, do tâm ấy là thuộc về tự thể của dị thục sinh. Vì hành nghiệp trước đã hết, nên tự nhiên đoạn dứt mất, như thợ đồ gốm quay bánh xe cực mạnh rồi ngưng.

***

* Vì sao hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn trước, sau đấy mới đến Đức Phật?

Đáp: Hai Tôn giả kia, từ trước, trong đêm dài sinh tử đã tạo tác làm tăng trưởng nghiệp chiêu cảm không đoạn, chớ cho là hoàn toàn không có quả nơi dị thục. Do hai nhân duyên nên hai Tôn giả kia cầu xứ như thế, phát khởi nghiệp ấy: 1. Do trước đã thấy. 2. Do trước đã nghe.

Do trước đã thấy: Là hai Tôn giả kia nơi quá khứ đã từng thấy trước bậc Chánh Đẳng Giác hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn trước, sau đấy mới đến Đức Phật.

Do trước đã nghe: Là hai Tôn giả ấy nơi quá khứ đã từng nghe trước bậc Chánh Đẳng Giác hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn trước, sau đấy mới đến Đức Phật.

Do đã thấy, nghe như vậy nên liền dẫn khởi tùy thuận nơi nhân kia: Các thứ ta đã hành tác, hoặc giới cấm, hoặc khổ hạnh, phạm hạnh, tất cả đều hồi hướng nguyện cho ta vào đời vị lai được trụ nơi loại hành Thiện sĩ như thế, luôn cùng với bậc Đại sư hiện thọ pháp lạc nhưng không gián đoạn.

Nếu Đức Phật bát Niết-bàn trước, sau đấy mới tới hai vị đệ tử hiền thì chỗ tạo tác làm tăng trưởng nghiệp chiêu cảm không đoạn của hai vị kia tức nên hoàn toàn không có quả nơi dị thục.

Hỏi: Tất cả những tạo tác làm tăng trưởng nghiệp chiêu cảm không đoạn không vị nào như Phật. Nếu hai vị đệ tử Hiền bát Niếtbàn trước, tức nghiệp chiêu cảm không đoạn của Đức Phật liền là không, không có quả nơi dị thục. Há nghiệp chiêu cảm không đoạn của hai vị đệ tử Hiền kia đối với Đức Phật là hơn chăng?

Đáp: Đệ tử đối với Thầy có hai thứ thọ dụng là hơn: 1. Thọ dụng về của cải. 2. Thọ dụng về pháp.

Thầy đối với đệ tử có một thứ thọ dụng là hơn tức là của cải không phải là pháp.

Nhưng tạo tác làm tăng trưởng nghiệp chiêu cảm không đoạn chỉ là pháp, không phải là của cải, thế nên điều nêu trước không có lỗi.

Hỏi: Trong hai vị đệ tử Hiền, vị trí tuệ hơn lại bát Niết-bàn trước, không phải là vị thần thông hơn. Vị thần thông hơn đối với vị kia đã mất nghĩa thọ dụng pháp. Vì sao không phải là nghiệp chiêu cảm không đoạn, hoàn toàn là không có quả nơi dị thục?

Đáp: Trí tuệ hơn không vị nào như Đức Thế Tôn. Vị kia tuy đã Niết-bàn, nhưng do còn Đức Phật nên đối với pháp thọ dụng không phải là hoàn toàn không quả.

Lại nữa, do pháp nhĩ nên hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn trước Đức Phật. Thế nào là pháp nhĩ? Nghĩa là pháp nên như thế, không thể cải đổi, không thể nêu hỏi. Đó là nghĩa của pháp nhĩ. Đây là hiển bày: Hai vị đệ tử hiền của tất cả chư Phật, theo pháp nên bát Niết-bàn trước Đức Phật. Lý ấy không đổi khác.

Có thuyết nói: Cùng tương tợ với pháp của Chuyển luân vương. Như Chuyển luân vương muốn đi đến những phương xứ chưa đến kia, tất khiến đám tiền quân dũng tướng dẫn đường đi trước mà đến. Như vậy, Chuyển luân vương pháp mười lực muốn đi đến cảnh giới Niết-bàn vô dư y chưa đến kia, cũng khiến hai vị đệ tử hiền như đám tiền quân dũng tướng dẫn đường đi trước để đến.

Có thuyết cho: là muốn khiến cho các hữu tình được giáo hóa nhập nơi pháp Phật. Nghĩa là có những hữu tình được giáo hóa, tuy ở gần Phật nhưng trụ mãi nơi chúng đồng phần, không muốn đi đến chỗ Phật nhận hành pháp Phật. Nếu khi thấy hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn, thì liền đối với sinh tử sinh chán sợ đi đến chỗ Phật để nhận hành pháp Phật.

Có thuyết nêu: Là nhằm giải trừ tâm sầu lo của các hữu tình được giáo hóa. Nghĩa là nếu Đức Phật bát Niết-bàn trước thì không người có thể giải trừ được tâm sầu lo của những hữu tình kia. Nếu hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn trước thì có Đức Như Lai, trong bốn tháng mùa mưa, có thể dựa vào hai vị đệ tử kia cùng tự thuyết giảng về giáo pháp vô thường, giải trừ mọi sầu lo kia khiến họ tu thắng hạnh.

Có thuyết nói: Là tâm khiến cho các hữu tình được giáo hóa đối với việc Đức Phật sẽ Bát Niết-bàn sẵn sàng giữ niệm an trụ. Nghĩa là do hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn trước, những hữu tình được giáo hóa liền khởi suy nghĩ: Không bao lâu Đức Phật cũng sẽ bát Niết-bàn, do hai vị đệ tử hiền đã bát Niết-bàn. Như trời muốn nổi sấm tất trước tạo chớp. Nếu không dùng ánh chớp để báo trước mà nổi sấm sét vang rền, tức khiến cho các hữu tình khiếp sợ vừa nghe là khinh hoàng, hoặc lại bỏ mạng. Thế nên khi trời muốn nổi sấm sét, vì thương xót hữu tình, nên trước tạo lằn chớp, các hữu tình kia đã nhận biết rồi thì tâm nhẹ nhàng mà đợi, tuy nghe sấm nổ rền nhưng không kinh hãi. Như vậy, nếu Phật bát Niết-bàn trước tức khiến cho một loại hữu tình khát ngưỡng luyến mến đối với Đức Phật lâm vào cảnh kinh sợ sầu muộn. Nếu hai vị đệ tử hiền bát Niếtbàn trước tức khiến cho loại hữu tình kia sẵn sàng khởi tưởng là Đức Như Lai sẽ bát Niết-bàn, đến khi Phật bát Niết-bàn tức không sầu muộn. Nên có tụng nói:

Luôn tạo tưởng vô thường

Biến hoại tức không sầu

Như trước thấy ánh chớp

Nghe sấm không kinh hãi.

Có thuyết cho: Là để dứt bỏ sự hủy báng. Nghĩa là có ngoại đạo thường hủy báng Đức Phật, nói: Sa-môn Kiều Đáp Ma thâu nhận Ô-ba-để-sa và Câu-lý-đa, ban đêm thì từ nơi hai vị kia hỏi han thọ nhận, ban ngày thì giảng nói cho kẻ khác. Nếu hai vị đệ tử hiền bát Niết-bàn rồi, Đức Thế Tôn giảng nói pháp không khác lúc trước, thì sự hủy báng của các ngoại đạo đều dứt.

Có thuyết nêu: Vì nhằm hiển bày Đức Thế Tôn không còn trụ lâu nơi thế gian tất sẽ bát Niết-bàn. Như khi thế giới sắp hoại diệt, núi Tô-mê-lô từng được hai Đại Long vương là Nan-đà, Ô-ba-nanđà quấn quanh, bỏ ra đi. Chư Thiên thấy rồi tức nhận biết là thế giới không bao lâu nữa sẽ tan hoại. Như thế, Tôn giả Xá-lợi-tử, Đại Mụckiền-liên bát Niết-bàn trước, thế gian liền nhận biết Đức Phật không lâu sẽ diệt độ.

Do các thứ nhân duyên như thế nên hai vị đệ tử hiền bát Niếtbàn trước, sau đấy mới đến Đức Phật.

Hỏi: Vì sao Cụ thọ Tô-bạt-đà-la bát Niết-bàn trước, sau đấy mới đến Đức Phật?

Đáp: Là cũng do pháp nhĩ. Nghĩa là pháp nhĩ của chư Phật là đệ tử cuối cùng bát Niết-bàn trước sau đấy mới đến Đức Phật.

Thế nào gọi là pháp nhĩ? Là pháp nên như vậy, không thể cải đổi, nên gọi là pháp nhĩ. Đây là hiển bày pháp của tất cả chư Phật là nên bát Niết-bàn sau vị đệ tử cuối cùng. Lý ấy không đổi khác.

Có thuyết nói: Cùng tương tợ với pháp của Chuyển luân vương. Như Chuyển luân vương sắp đi vào vườn hoa thắng cảnh để dạo chơi, tất dùng các thứ vật dụng trang sức trang điểm cho vị vương tử nhỏ nhất khiến vị ấy đi vào trước, sau đấy vua mới tự đi đến. Như vậy, đấng Pháp vương mười lực vô thượng sắp sửa đi vào cảnh giới Niết-bàn vô dư y như vườn hoa thắng cảnh thì trước cũng dùng pháp Bồ-đề phần trang nghiêng cho vị đệ tử sau cùng khiến bát Niết-bàn trước, sau đấy mình mới đi đến.

Có thuyết cho: Tôn giả Tô-bạt-đà-la suy nghĩ như vầy: Hết thảy các vị đồng phạm hạnh đều ở trước ta mà nhập Niết-bàn hữu dư y. Ta sẽ lại ở trước tất cả các vị đồng phạm hạnh nhập Niết-bàn vô dư y. Do chí nguyện của Tôn giả ấy như thế, nên đã bát Niết-bàn trước Đức Phật.

Có thuyết nêu: Tôn giả ấy suy nghĩ như vầy: Như thọ nhận từng ấy công đức của Thánh giáo, trở lại thọ nhận từng ấy lỗi lầm của sinh tử. Ta đã không thể thọ lãnh nhiều thứ công đức của Thánh giáo thì đâu cần phải trụ lâu để nhận lãnh các thứ lỗi lầm tai họa của sinh tử, thế nên Tôn giả ấy đã bát Niết-bàn trước Đức Phật.

Có thuyết cho: Do Tôn giả ấy lo sợ phải thọ nhận nhiều cung kính lợi dưỡng. Nghĩa là các Lực sĩ ở thành Câu-thi, trước hết đối với Tôn giả khởi tưởng Đại sư, lại biết Tôn giả đã chứng đắc quả A-la-hán. Tôn giả ấy suy niệm: Nếu Phật bát Niết-bàn rồi, các vị Lực sĩ kia tất đối với ta sẽ lập sự cúng dường lớn. May mắn là nhân Đức Phật chưa bát Niết-bàn, các Lực sĩ đang cúng dường Đức Thế Tôn, họ chưa rảnh rỗi, do vậy ta sẽ bát Niết-bàn trước Đức Phật.

Có thuyết nói: Tôn giả ấy muốn đoạn dứt gốc của sự tranh chấp. Nghĩa là Tôn giả ấy suy nghĩ: Nếu ta bát Niết-bàn sau Đức Phật thì ngoại đạo sẽ cho ta là đồng loại với họ, các Bí-sô lại nói ta là đồng môn, nhân đấy dấy khởi các thứ tranh cãi. Tôn giả ấy quán xét về vị lai có thể xảy ra sự việc như thế, nên đã bát Niết-bàn trước Đức Phật.

Có thuyết nêu: Đây là muốn hiển bày công đức giáo hóa nơi phần vị sau cùng của Đức Thế Tôn cũng không hề giảm. Nghĩa là hoặc có kẻ khởi suy nghĩ: Công đức giáo hóa của Đức Thế Tôn thoái giảm nên bát Niết-bàn. Tôn giả kia muốn làm rõ Đức Thế Tôn ở nơi phần vị sau cùng cũng có thể giáo hóa hữu tình khiến công đức viên mãn, tức là giúp họ nhập Niết-bàn vô dư y.

Do các thứ nhân duyên như thế, nên Tôn giả Tô-bạt-đà-la bát Niết-bàn trước Đức Phật.

***

* Như nói: Đức Thế Tôn dựa vào định bất động tịch tĩnh mà bát Niết-bàn, mắt sáng của thế gian đã diệt. Đây là ở trong định hay là xuất định?

Đáp: Là xuất định.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là muốn khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Nghĩa là như Khế kinh nói: Đức Thế Tôn dựa vào định bất động tịch tĩnh mà bát Niết-bàn, mắt sáng của thế gian đã diệt. Như vậy hoặc có kẻ nghi: Đức Phật ở trong định mà bát Niết-bàn. Nhằm khiến nghi kia được dứt bỏ, nên nêu rõ Đức Phật xuất định mà bát Niết-bàn, do đó tạo ra phần Luận này.

Trong đây, định bất động tịch tĩnh: Nghĩa là có định tương ưng với tâm vô phú vô ký ở cõi dục, tợ như tĩnh lự thứ tư, nên gọi là bất động tịch tĩnh. Đức Phật dựa vào định ấy mà bát Niết-bàn.

Các Sư ở phương Tây nước Kiện-đà-la nói: Như nói Đức Thế Tôn nhập tĩnh lự thứ tư mà bát Niết-bàn, mắt sáng của thế gian đã diệt. Đây là đang ở trong định hay là xuất định?

Đáp: Xuất định.

Hỏi: Đức Phật nhập đủ bốn tĩnh lự mà bát Niết-bàn, vì sao chỉ nói nhập tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Tuy cũng nhập ba tĩnh lự trước, nhưng không trụ vững ở đấy. Nếu nhập tĩnh lự thứ tư tức liền trụ vững ở đấy, thế nên nói riêng.

Có thuyết nói: Vì nhập tĩnh lự thứ tư nên nhập ba tĩnh lự trước, do đó chỉ nói riêng về tĩnh lự thứ tư.

Có thuyết cho: Ba tĩnh lự trước cũng như còn đi trên đường, tĩnh lự thứ tư là chính thức tới nơi, cho nên nói riêng.

Có thuyết nêu: Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, đã từ tĩnh lự thứ tư khởi, rồi nhập cận phần của tĩnh lự thứ ba. Từ cận phần của tĩnh lự thứ ba khởi, rồi nhập cận phần của tĩnh lự thứ hai. Từ cận phần của tĩnh lự thứ hai khởi, rồi nhập cận phần của tĩnh lự thứ nhất. Từ cận phần của tĩnh lự thứ nhất khởi thì tâm thiện của cõi dục hiện tiền. Tâm thiện của cõi dục không gián đoạn thì tâm vô phú vô ký của cõi dục hiện tiền, tức trụ nơi tâm ấy mà bát Niết-bàn. Do ba tĩnh lự trước chỉ nhập xuất nơi cận phần, không phải là căn bản. Tĩnh lự thứ tư nhập xuất căn bản cho nên nói riêng.

Tôn giả Diệu Âm nói: Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, tĩnh lự thứ tư không gián đoạn nên tâm thiện của cõi dục hiện tiền. Tâm thiện của cõi dục không gián đoạn nên tâm vô phú vô ký của cõi dục hiện tiền. Đức Phật tức trụ nơi tâm ấy mà bát Niết-bàn.

Hỏi: Há có người có thể từ tĩnh lự thứ tư không gián đoạn tức khởi tâm thiện của cõi dục chăng?

Đáp: Có. Là Đức Phật, không phải ai khác.

Hỏi: Vì sao khi Đức Phật bát Niết-bàn, sau cùng là nhập tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Pháp của Hằng hà sa chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đều như vậy. Thứ lớp nhập định mà bát Niết-bàn. Nghĩa là tất cả chư Phật khi bát Niết-bàn, pháp nhĩ sau cùng là nhập tĩnh lự thứ tư. Từ đó khởi rồi mà bát Niết-bàn.

Có thuyết nói: Đây là muốn hiển bày: Đức Phật đối với định ấy là hết sức tự tại, tuy sắp Niết-bàn nhưng cũng hiện nhập. Nếu không như vậy tức nên không thể hiện tiền.

Có thuyết cho: Do Đức Phật muốn hiện bày tâm bi đối với chúng sinh đời sau. Nghĩa là sau khi Phật diệt độ, có các chúng sinh suy nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn đầy đủ Nhất thiết trí, nhưng khi sắp Niết-bàn hãy còn nhập tĩnh lự thứ tư, huống chi là chúng ta không ở trong các Đẳng chí siêng năng tạo gia hạnh sao? Do vậy nên siêng tu tất cả đẳng chí.

Có thuyết nêu: Là cùng tương tợ với pháp của Chuyển luân vương. Như Chuyển luân vương nếu trước ở nơi chốn nào làm lễ quán đảnh để lên ngôi thì về sau tức ở nơi chốn ấy mạng chung. Như vậy, đấng Pháp vương mười lực vô thượng, trước dựa vào tĩnh lự thứ tư nhận ngôi vị Pháp vương thì sau trở lại dựa vào địa ấy mà bát Niết-bàn.

Có thuyết nói: Tức cùng tương tợ với pháp của Thương chủ đại phú. Như Thương chủ giàu có lớn, sau cùng chuyển đổi châu báu đắt giá nhưng không luyến tiếc. Cũng vậy, Đức Thế Tôn sau cùng từ bỏ tĩnh lự thứ tư thù thắng mà không luyến vướng.

Đức Thế Tôn khi sắp bát Niết-bàn, trước khởi tâm thiện của cõi dục, từ đó không gián đoạn nhập tĩnh lự thứ nhất. Từ tĩnh lự thứ nhất nhập tĩnh lự thứ hai. Theo thứ lớp như vậy, cho đến từ Vô sở hữu xứ nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ không gián đoạn nhập định diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng không gián đoạn nhập Vô sở hữu xứ. Từ Vô sở hữu xứ nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập Thức vô biên xứ. Từ Thức vô biên xứ nhập Vô sở hữu xứ. Từ Vô sở hữu xứ nhập Không vô biên xứ. Từ Không vô biên xứ nhập Thức vô biên xứ. Từ Thức vô biên xứ nhập tĩnh lự thứ tư. Từ tĩnh lự thứ tư nhập Không vô biên xứ. Từ Không vô biên xứ nhập tĩnh lự thứ ba. Từ tĩnh lự thứ ba nhập tĩnh lự thứ tư. Từ tĩnh lự thứ tư nhập tĩnh lự thứ hai. Từ tĩnh lự thứ hai nhập tĩnh lự thứ ba. Từ tĩnh lự thứ ba nhập tĩnh lự thứ nhất. Từ tĩnh lự thứ nhất nhập tĩnh lự thứ hai. Từ tĩnh lự thứ hai nhập tĩnh lự thứ ba. Từ tĩnh lự thứ ba nhập tĩnh lự thứ tư. Từ tĩnh lự thứ tư khởi liền bát Niết-bàn. Như vậy, Đức Thế Tôn khi sắp bát Niết-bàn đã bốn lượt nhập tĩnh lự thứ tư. Lúc nhập ba tĩnh lự trước chưa gọi là Định bất động tịch tĩnh. Khi nhập tĩnh lự thứ tư mới gọi là Định bất động tịch tĩnh. Vì sao? Vì lúc nhập ba tĩnh lự trước không duyên nơi Niếtbàn. Khi nhập tĩnh lự thứ tư mới duyên nơi Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn khi sắp nhập Niết-bàn không nhập vượt thuận theo các định mà chỉ nhập vượt nghịch với các định?

Đáp: Do pháp của Hằng hà sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác quá khứ đều nhập vượt các định như thế.

Có thuyết nói: Là muốn hiển bày Đức Thế Tôn đối với các định đều được tự tại. Vì sao? Vì nếu có ở nơi các định được tự tại mới có thể không nhân nơi nhập vượt thuận mà liền nhập vượt nghịch. Nếu đối với các định không tự tại hãy còn không thể vượt theo hướng thuận huống chi là có thể vượt theo hướng nghịch để nhập các định.

Có thuyết cho: Là muốn hiển bày Đức Thế Tôn có thể làm được những việc khó làm. Nghĩa là không vượt theo hướng thuận mà có thể nhập vượt các định theo hướng nghịch. Sự việc này là khó không phải như nhập vượt theo hướng thuận rồi mới nhập vượt theo hướng nghịch.

Có thuyết nêu: Là nhằm hiển bày uy lực của Đức Thế Tôn là lớn. Uy lực của Đức Thế Tôn mới có thể không vượt theo hướng thuận mà vượt theo hướng nghịch. Hàng Thanh văn, Độc giác nếu không vượt theo hướng thuận thì không thể vượt theo hướng nghịch để nhập các định.

Có thuyết nói: Do muốn gồm nhập cả định diệt tận. Nghĩa là khi ấy nếu Đức Phật nhập vượt các định theo hướng thuận thì không thể gồm luôn việc nhập định diệt tận. Vì sao? Vì định diệt tận chính là theo thứ lớp từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ tâm không gián đoạn hiện tiền. Như vậy khi Phật bát Niết bàn tức không nên hiện nhập tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Nhưng khi Phật sắp bát Niết bàn đã quyết định hiện nhập tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Thế nên không nhập vượt các định theo hướng thuận mà nhập vượt chúng theo hướng nghịch.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn khi sắp bát Niết-bàn hiện nhập tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí?

Đáp: Do pháp của hằng sa sa số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác quá khứ đều như vậy. Nghĩa là pháp của tất cả chư Phật khi sắp bát Niết-bàn đều hiện nhập tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

Có thuyết nói: Đây là muốn hiển bày Đức Thế Tôn đối với các định đều được tự tại. Nghĩa là nếu đối với các định tự tại thì khi sắp bát Niết bàn cũng có thể hiện nhập. Nếu đối với các định không được tự tại thì vào lúc khác hãy còn không thể hiện nhập huống chi là khi sắp bát Niết bàn.

Có thuyết cho: Đức Phật vì thương xót các hữu tình đời sau. Nghĩa là khi Phật bát Niết bàn, có các hữu tình khởi suy nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn gồm đủ Nhất thiết trí mà khi sắp bát Niết bàn hãy còn hiện nhập tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, huống chi là chúng ta đối với các pháp ấy lại không siêng năng tạo gia hạnh sao? Do đấy nên siêng tu các tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

Có thuyết nêu: Vì muốn tôn trọng việc tu các Thiết-lợi-la (Xálợi) để lại. Lại vì để nuôi dưỡng thân yếu kém. Lại vì con của người thợ khéo léo là Chuẩn-đà (Thuần-đà) có ruộng phước tăng rộng. Lại vì nhằm dứt bỏ các khổ thọ trong thân đã sinh nhân nơi thân nhỏ bé (?).

Có thuyết nói: Cùng tương tợ với pháp của thương chủ đại phú. Như thương chủ giàu có lớn, khi sắp qua đời đã cho mở các kho xem qua những thứ của báu, phó chúc cho con cháu sau đấy mới nhắm mắt. Như vậy Đức Thế Tôn là thương chủ của chánh pháp vô thượng, khi sắp Niết bàn đã mở những kho tàng công đức, xem qua tất cả các pháp tài báu là tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, phó chúc cho đệ tử, sau đấy mới bát Niết bàn.

Tôn giả Diệu Âm nói: Đức Thế Tôn tự hiển bày pháp không thoái chuyển. Nghĩa là Đức Phật đã thành tựu tất cả công đức, nơi tất cả cảnh, trí đều được tự tại, khi sắp bát Niết bàn cũng có thể hiện khởi tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí.

***

* Như Khế kinh nói: Đức Thế Tôn ở nơi rừng Song Sa La thuộc xứ sinh của các lực sĩ thành Câu-thi bát Niết bàn.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn bát Niết-bàn ở nơi thành Câu-thi?

Đáp: Vì nhằm hóa độ các lực sĩ trong thành Câu-thi. Lại vì để giáo hóa ngoại đạo Tô-bạt-đà-la. Lại vì muốn khiến đại lực sĩ Bổyết-bà gieo trồng chủng tử Bồ đề Độc giác. Lại khiến cho vợ ông ấy gieo trồng chủng tử Chánh đẳng Bồ đề vô thượng.

Có thuyết nói: Vì nhằm ngăn dứt sự việc các lực sĩ trong thành Câu-thi bị khinh miệt. Nghĩa là nếu Đức Phật bát Niết bàn nơi một thành lớn khác thì các lực sĩ nơi thành nhỏ này liền bị khinh miệt, tức không được một phần dị thể của Đức Như Lai, nên Đức Phật đã ở nơi ấy nhập Niết bàn.

Có thuyết cho: Vì muốn cho cảnh giới của thân Phật được lưu hành rộng khắp. Nghĩa là nếu Đức Phật bát Niết bàn nơi một thành lớn khác thì đông đảo dân chúng nơi ấy khó có thể thuyết phục, vì họ đối với thân giới của Phật hoặc sinh tâm luyến tiếc giữ lấy, không thể phân chia. Nếu bát Niết bàn nơi thành Câu-thi thì các lực sĩ ở đấy thân tâm mạnh mẽ. Tâm mạnh mẽ nên vui thích làm công việc phân chia. Thân mạnh mẽ nên không bị kẻ khác chế ngự, vui thích phân chia, khiến thân Phật được lưu hành rộng khắp.

Có thuyết nêu: Là nhằm hiển bày Đức Phật tuy sắp bát Niết bàn, nhưng đối với thế gian cũng còn thọ nhận quả phú quý tăng thượng. Nghĩa là Đức Phật nếu ở nơi thành lớn khác bát Niết bàn, tức chỗ thọ nhận sự cúng dường tuy hơn Chuyển luân vương hàng trăm ngàn lần, nhưng chưa phải là đặc biệt. Nếu nhập Niết bàn nơi thành nhỏ tại biên giới này, mà chỗ thọ nhận sự cúng dường cũng hơn chuyển pháp luân hàng trăm ngàn lần mới là đặc biệt.

Có thuyết nói: Đức Phật từng ở nơi ấy, thường xuyên xả bỏ thân mạng. Như kinh kia nói: Phật nói với Tôn giả A-nan, cho đến thành Câu-thi có khu rừng Song Sa La, sông Kim, các lực sĩ đứng đầu đã tăng giới phần của khu tháp miếu, chi vi mỗi chiều đều mười hai do-tuần. Như Lai ở nơi đây đã sáu lần xả bỏ thân mạng Chuyển luân vương. Nay là lần thứ bảy xả bỏ thân mạng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. A-nan nên biết! Ta không thấy nơi nào ở đất này hoặc Đông Tây hoặc Nam Bắc, Như Lai lại bỏ thân mạng lần thứ tám. Vì sao? Vì Như Lai nơi các nẻo hữu đã đoạn dứt, sinh tử đã vĩnh viễn hết, không còn thân sau.

***

* Như nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Tôn giả nên đi đến nơi khu rừng Song Sa La trải đặt giường nằm cho Đức Phật, đầu quay về hướng Bắc. Trong giữa đêm nay, Như Lai sẽ nhập Niết bàn vô dư y, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn khiến trải đặt giường nằm đầu quay về hướng Bắc để nằm?

Đáp: Là muốn hiển bày pháp của Luận sư nơi nước đó, nên như thế. Nghĩa là Luận sư của nước ấy đều trải đặt giường nằm đầu quay về hướng Bắc. Đức Thế Tôn cũng như vậy. Do Đức Phật đã có thể hàng phục các Luận sư ở đây, tức Ngài là Luận sư bậc nhất vô thượng, thế nên Đức Phật khiến tùy theo pháp của họ trải đặt giường nằm như thế.

Có thuyết nói: Là muốn hiển bày Đức Phật đã xa lìa vọng chấp về sự an lành của thế gian. Nghĩa là người nơi nước ấy khi mạng chung thì mới khiến đặt giường đầu quay về hướng Bắc để nằm. Đức Phật vì phá bỏ vọng chấp cho là an lành ấy, nên khi chưa bát Niết bàn đã khiến trải đặt giường quay đầu về hướng Bắc để nằm.

Có thuyết cho: Là nhằm ngăn dứt tâm bất tịnh của các lực sĩ trong thành Câu-thi. Nghĩa là theo tục lệ của nước ấy đều đối với phương Bắc kiến lập đền thờ trời. Nếu Đức Phật nằm, hai chân quay về hướng Bắc, tức các lực sĩ sẽ sinh tâm bất tịnh: Vì sao khinh miệt sự thờ phụng của chúng tôi khi nằm hai chân quay về hướng Bắc?

Có thuyết nêu: Đây là nêu rõ Đức Phật đã cung kính chánh pháp. Nghĩa là Đức Phật đã dự biết sau khi mình bát Niết bàn thì đuốc pháp vô thượng sẽ rực sáng mãi ở phương Bắc lâu nền không diệt, thế nên Ngài nằm quay đầu về hướng Bắc.

Có thuyết nói: Đức Phật muốn hiển bày nơi tất cả thời, những việc mình đã làm càng trở nên thù thắng. Nghĩa là Đức Phật từ nơi ba vô số kiếp đến nay căn thiện đã khởi dần dần thêm vượt hơn, không có suy diệt, thế nên Ngài nằm đầu hướng về phương thù thắng, do phương Bắc là phương hơn hết.

Có thuyết cho: Đức Phật muốn hiển bày là dân chúng nơi phương Bắc ngày càng tăng nhiều. Nghĩa là Đức Phật dự biết sau khi ngài bát Niết bàn thì dân chúng nơi phương Bắc dần dần tăng lên, do vậy Ngài đã khiến đặt trải giường nằm đầu quay về phương Bắc.

***

* Như nói: Bấy giờ, Đức Thế Tôn đến nơi giường đã trải sẵn, nằm nghiêng, hông bên phải ở dưới, hai chân chồng lên nhau, đầu quay về phương Bắc, mặt hướng về phương Tây, trụ nơi tưởng quang minh, đầy đủ niệm chánh tri, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nằm nghiêng mình về bên phải?

Đáp: Là muốn hiển bày: Đức Phật nằm như sư tử chúa. Nghĩa là như Khế kinh nói: Nằm có bốn thứ: 1. Nằm như sư tử chúa. 2. Nằm như chư thiên. 3. Nằm như quỷ. 4. Nằm như kẻ tham đắm dục. Nằm như sư tử chúa là nằm nghiêng theo hông bên phải. Chư thiên thì nằm ngửa mặt. Quỷ thì nằm úp mặt. Kẻ tham đắm dục thì nằm hông bên trái chạm đất. Phật là sư tử vô thượng trong loài người, nên Ngài nằm nghiêng theo hông bên phải.

Có thuyết nói: Đây là muốn hiển bày: Đức Thế Tôn đã làm như lời mình giảng nói. Nghĩa là như Khế kinh nói: Phật nói với Tôn giả A-nan: Các ông nên học cách nằm của sư tử chúa. Đức Phật đã như thuyết mà hành tác. Đã khuyên người nằm nghiêng theo hông bên phải nên tự mình cũng làm như vậy.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nằm mà bát Niết-bàn chứ không ngồi?

Đáp: Là muốn khiến cho đại chúng dễ nhận biết rõ nơi tất cả phần thân của Phật.

Có thuyết nói: Nếu Đức Phật nằm mà bát Niết bàn thì dung lượng của thân hiện bày có thể nhận biết rõ không phải đợi phân biệt.

Có thuyết cho: Đó là muốn làm sáng tỏ Đức Như Lai luôn lìa mọi thứ dối trá. Nếu ngài ngồi mà bát Niết bàn thì những kẻ bất tín sẽ nói: Đây chỉ là dối trá, vì đâu có người qua đời mà có thể ngồi yên.

Có thuyết nêu: Đây là nhằm ngăn dứt sự phỉ báng của người đời sau đối với các bậc Thánh. Nếu Đức Phật ngồi mà bát Niết bàn, tức thời nay các A-la-hán thân lực suy yếu, nằm mà bát Niết bàn, thế gian liền phỉ báng cho không phải là A-la-hán. Nếu đúng là A-la-hán vì sao không giống như Đức Phật là ngồi mà bát Niết bàn?

Có thuyết nói: Là nhằm đoạn dứt tâm kiêu mạn của kẻ cậy vào sức mạnh. Nghĩa là những kẻ kia thấy Phật nằm mà bát Niết bàn đều khởi suy nghĩ: Đức Thế Tôn nơi mỗi mỗi phần thân đều có đủ sức của Na-la-diên hãy còn bị vô thường bức bách không thể ngồi thẳng, huống chi chúng ta là kẻ tầm thường yếu kém, sao cậy chút sức lực mà sinh kiêu mạn?

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn bát Niết-bàn vào giữa đêm?

Đáp: Do thời gian ấy là hết sức yên tĩnh. Nghĩa là nơi xứ ấy, ban ngày trời nóng bức không thể làm việc, phần nhiều phải làm việc vào đầu hôm hoặc sau đêm. Chỉ có khoảng giữa đêm là hoàn toàn vắng lặng, Đức Như Lai luôn yêu mến sự tịch tĩnh, khen ngợi sự tịch tĩnh, nên Ngài bát Niết bàn vào giữa đêm yên lặng.

Có thuyết nói: Đây là nhằm hiển bày: Đức Phật đối với sự việc tăng giảm luôn khéo điều tiết giữ lấy phần giữa, không lìa bỏ tức thì. Nghĩa là Đức Phật vào đầu đêm đã giữ lại thọ mạng bỏ nơi cuối đêm. Lại ở trong khoảng nửa đêm giữ lại phần trước đã bỏ. Sau ở nơi phần giữa mà bát Niết bàn.

Có thuyết cho: Đức Phật muốn khiến cho đại chúng đối với bóng tối sinh tử dấy khởi sự chán sợ lớn. Nghĩa là Đức Phật bát Niết bàn vào giữa đêm mồng tám thuộc nửa tháng có trăng của tháng Ca-lật-để-ca. Bấy giờ, vầng trăng lặn xuống đỉnh núi. Như vậy vầng trăng chánh biến tri của Phật cũng ẩn khuất nơi núi đại Niết bàn tĩnh lự. Tức thời hai thứ bóng tối cùng khởi: Đó là bóng tối của tánh sắc và bóng tối của vô minh. Khi ấy, các đại chúng thấy sự việc đó rồi liền đối với sinh tử dấy khởi sự chán sợ lớn. Thế nên Đức Phật bát Niết bàn vào giữa đêm.

Có thuyết nêu: Đức Phật nơi tất cả thời đều vui thích hành xử theo nẻo trung. Nghĩa là Phật xưa lúc còn làm Bồ tát, nơi lần sinh sau cùng vào cõi trời, xứ sinh là trời Đổ-sử-đa là trung xứ, lần sinh sau cùng vào nẻo người là sinh nơi thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-tốt-đổ thuộc Trung Ấn Độ. Vào nửa đêm vượt thành xuất gia. Hành tập xứ trung hành chứng đắc Vô thượng giác, vì tạo lợi ích cho hữu tình, nên thuyết giảng diệu pháp lìa có không là xứ trung, vào giữa đêm mà bát Niết bàn.

***

* Như nói: Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: Thế Tôn! Trong thành Câu-thi này có các lực sĩ như thế, như thế cùng những nam nữ lớn nhỏ, kẻ giúp việc, sai khiến thân hữu, quyến thuộc, tất cả đều quy y Đức Thế Tôn, cùng Pháp và Bí-sô Tăng, thọ các học xứ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Luật nghi biệt giải thoát là do tự mình biểu hiện đạt được. Vì sao các lực sĩ v.v… kia thọ giới lại do người khác biểu hiện để đạt được?

Đáp: Là do thần lực của Phật. Nghĩa là giới đều do tự mình biểu hiện mà được. Nhưng khi Phật sắp bát Niết bàn, do oai lực của Phật khiến giới của các lực sĩ v.v… kia cũng do người khác biểu hiện mà được.

Có thuyết nói: Tôn giả A-nan trước từng vào thành Câu-thi trao cho các lực sĩ v.v… ấy học xứ tam quy, nay chỉ thưa lại với Đức Phật để nhận biết, tức muốn hiển bày những lực sĩ v.v… đó là đệ tử chân thật của Đức Phật cùng làm sáng tỏ: Đức Như Lai ở nơi phần vị sau cùng cũng có thể thâu nhận các chúng đệ tử mới học. Thế nên đệ tử của Đức Thế Tôn luôn đầy đủ không phải như ngoại đạo, khi thầy sắp mạng chung thì đệ tử ly tán.

Có thuyết cho: Luật nghi biệt giải thoát cũng có khi từ nơi người khác biểu hiện mà được. Như trường hợp người nữ Bán-ca-thi v.v… tuy tự biểu hiện không được sáng rõ hoàn toàn, nhưng do sức biểu hiện của người khác nên cũng được luật nghi biệt giải thoát.

***

* Như nói: Phật bảo các Bí-sô: Từ nay trở đi cùng sau khi Ta diệt độ, không nên độ ngay các ngoại đạo xuất gia, cho thọ giới cụ túc, chỉ trừ dòng họ Thích và ngoại đạo để nhiều tóc, thờ lửa. Nếu có dòng họ Thích mặc y phục ngoại đạo đến cầu xuất gia, các vị tức nên độ khiến họ xuất gia, cho thọ giới cụ túc. Vì sao? Vì đối với quyến thuộc của Ta nên mở đường chấp nhận như thế, cho đến nói rộng.

Hỏi: Đức Thế Tôn đã thành tựu đại bi hiện hành khắp, vì sao chỉ mở đường chấp nhận cho quyến thuộc của mình?

Đáp: Do có những người họ Thích trước quy y ngoại đạo, chưa quy y Phật, nay tạo phương tiện để thâu nhận họ, nên Đức Phật nói lời ấy. Nghĩa là do vua ác là Tỳ-lư-trạch-ca đã tàn sát các người họ Thích trong thành Kiếp-tỷ-la-phiệt-tốt-đổ. Những người họ Thích sống sót do sợ hãi nên nương theo ngoại đạo xuất gia để giữ lấy thân mạng. Đức Phật vì họ nên nói: Các ngươi do sợ hãi nên nương theo ngoại đạo xuất gia, thọ pháp phục của họ. Nay không còn lo sợ nữa, tất nên trở về quy y nơi pháp Phật. Vì vậy Đức Phật ra lệnh cho các đệ tử đặc biệt độ những người đó, nhân đấy vô lượng người họ Thích từ ngoại đạo trở về quy y pháp Phật.

Có thuyết nói: Đây là nhằm dẫn dụ những người họ Thích tăng thượng mạn, chưa vào pháp Phật khiến họ được vào. Nghĩa là có những người họ Thích tâm bị buộc chặt nơi tăng thượng mạn, nên sống trọn với chúng đồng phạn, không đến yết kiến Đức Phật. Đức Như Lai nói lời ấy rồi liền bát Niết bàn. Những người kia nghe lời nói của Phật sẽ khởi suy nghĩ: Đức Phật đâu không xem chúng ta là quyến thuộc của Ngài? Cho nên khi sắp bát Niết bàn cũng còn rủ lòng thương xót. Do vậy không người nào là không phát khởi tâm thuần tịnh đến quy y pháp Phật, xuất gia thọ giới.

Tôn giả Thế Hữu nói: Đức Như Lai muốn khiến cho các quyến thuộc thuộc dòng họ Thích tích tập tăng nhiều căn thiện thù thắng, nên khi sắp Niết bàn đã vì họ mà dặn dò các đệ tử.

***

* Như Khế kinh nói: Bấy giờ, Đức Thế Tôn để trần phần thân trên nói với chúng Bí-sô: Các vị nên nhìn xem Ta. Các vị nên quán xét Ta. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khó có thể xuất hiện, khó có thể được thấy, còn hơn hoa Âu-đàm-bạt-la.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn để trần phần thân trên nói với các Bísô: Các vị nên nhìn xem Ta, cho đến nói rộng?

Đáp: Giả như có người hành tập về Xa-ma-tha đủ mười hai năm, phẩm thiện phát sinh, không bằng công đức đạt được do quán xét thân tướng hảo của Đức Phật trong giây lát. Ở đây lời Đức Phật nói có nghĩa: Như Lai nơi ba vô số kiếp đã tích tập khối phước đức, cho đến khi chưa trở thành nhóm tro tàn, các vị phải nên hết lòng ngưỡng mộ, quán xét để cầu pháp kiên cố.

Hỏi: Nói: Các vị nên nhìn xem Ta và các vị nên quán xét Ta có gì khác nhau?

Đáp: Nói: Các vị nên nhìn xem Ta: Nghĩa là dùng nhãn thức. Các vị nên quán xét Ta: Nghĩa là dùng ý thức.

Lại nữa, nên nhìn xem Ta: Nghĩa là dùng tâm không phân biệt.

Nên quán xét Ta: Nghĩa là dùng tâm có phân biệt.

Lại nữa, nên nhìn xem Ta: Nghĩa là đối với hiện tại. Nên quán xét Ta: Nghĩa là đối với vị lai.

Lại nữa, nên nhìn xem Ta: Nghĩa là đối với sinh thân. Nên quán xét Ta: Nghĩa là đối với pháp thân.

Lại nữa, nên nhìn xem Ta: Nghĩa là xem về sự tích tập. Nên quán xét Ta: Nghĩa là xét về sự chứng đắc.

Lại nữa, nên nhìn xem Ta: Nghĩa là xem về chỗ chán bỏ. Nên quán xét Ta: Nghĩa là xét về chỗ vui thích.

Lại nữa, nên nhìn xem Ta: Nghĩa là xem về tướng tốt. Nên quán xét Ta: Nghĩa là xét về công đức.

Đó gọi là nhìn xem và quán xét có sai biệt.

***

* Như Khế kinh nói: Các Bí-sô hãy nên yên lặng, quán các hành là pháp tận diệt. Đây là lời chỉ dạy sau cùng của Đức Thế Tôn.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói lời ấy?

Đáp: Vì các Bí-sô, do Đức Phật sắp bát Niết-bàn, nên tâm ý hết sức sầu não, lần lượt gào khóc. Đức Phật muốn ngăn dứt tâm bi ai ấy khiến phát sinh hành quán, nên nói lời ấy.

Ở đây, nói: Các Bí-sô hãy nên yên lặng: Là khiến trụ vào chánh niệm. Quán các hành là pháp tận diệt: Là khiến khởi chánh tri.

Lại nữa, hãy nên yên lặng: Là khiến tu Xa-ma-tha. Quán các hành: Là khiến tu Tỳ-bát-xá-na.

Lại nữa, hãy nên yên lặng: Là khiến dứt sầu bi. Quán các hành: Là khiến khởi hành quán.

Tôn giả Diệu Âm nói: Các Bí-sô hãy nên yên lặng: Là muốn dứt bỏ tâm bi ai của người khác. Quán các hành là pháp tận diệt: Là hiển bày tự thành tựu pháp không quên mất. Trong đây, lời Phật nói có nghĩa là: Ta thành Phật chưa lâu, đã nói như thế này:

Các hành vô thường

Pháp có sinh diệt

Do khởi đã hết

Tịch ấy là vui.

Nay lại dựa vào đấy để nói: Các hành là pháp tận diệt, há chẳng phải là Ta đã thành tựu pháp không quên mất sao?

HẾT – QUYỂN 191