LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 60

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ NHẤT HÀNH, phần 5

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, là trước gồm thâu sau hay sau gồm thâu trước?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì một lần nữa nhằm ngăn chận loại trừ chỗ chấp về gồm thâu tánh khác của Luận giả Phân Biệt và mở bày lần nữa, nhằm làm rõ thuyết gồm thâu tự tánh của Luận giả Ứng Lý, khiến chuyển biến phân minh, nên tạo ra phần Luận này.

Để đáp: Ba kiết, ba căn bất thiện: Không gồm thâu lẫn nhau, vì tự tánh đều khác.

Ba kiết, ba lậu: Ba kiết và phần ít của hai lậu gồm thâu lẫn nhau. Phần còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là hữu thân kiến, giới cấm thủ, nghi trong ba kiết cùng với dục lậu, hữu lậu là cùng gồm thâu, vì tự tánh đồng. Cùng với vô minh lậu và phần ít của hai lậu đều cùng không gồm thâu, vì tự tánh khác. Phần sau, căn cứ theo đây, nên biết.

Ba kiết, bốn bộc lưu: Ba kiết và phần ít của ba bộc lưu gồm thâu lẫn nhau. Số còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là hữu thân kiến, giới cấm thủ, nghi trong ba kiết cùng với bộc lưu dục hữu kiến là gồm thâu lẫn nhau cùng với bộc lưu vô minh và phần ít của ba bộc lưu là không gồm thâu lẫn nhau.

Như đối với bốn bộc lưu, thì đối với bốn ách cũng vậy, vì tự tánh đồng.

Ba kiết, bốn thủ: Ba kiết, ba phần ít của một thủ đều gồm thâu lẫn nhau. Số còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là ba kiết cùng với giới cấm thủ và nghi, hữu thân kiến trong ba thủ còn lại đều gồm thâu lẫn nhau, cùng với phần ít của ba thủ còn lại cùng không gồm thâu.

Ba kiết, bốn thứ trói buộc thân: Một kiết, một thứ trói buộc thân đều gồm thâu lẫn nhau. Số còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là kiết giới cấm thủ cùng với giới cấm thủ trói buộc thân thì gồm thâu lẫn nhau, cùng với ba thứ trói buộc thân còn lại không gồm thâu lẫn nhau.

Ba kiết, năm cái: Phần ít của một kiết và một cái gồm thâu lẫn nhau. Số còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là bất thiện trong kiết nghi cùng với cái nghi gồm thâu lẫn nhau. Cùng với bốn cái còn lại là không cùng gồm thâu.

Ba kiết, năm kiết: Không gồm thâu lẫn nhau, vì tự tánh khác.

Ba kiết, năm kiết thuận phần dưới: Ba kiết, ba kiết thuận phần dưới đều gồm thâu lẫn nhau. Các kiết còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là ba kiết cùng với kiết hữu thân kiến, kiết giới cấm thủ, kiết nghi trong năm kiết thuận phần dưới đều gồm thâu lẫn nhau. Cùng với hai kiết còn lại không cùng gồm thâu.

Ba kiết, năm kiết thuận phần trên: Không gồm thâu lẫn nhau, vì tự tánh khác.

Ba kiết, năm kiến: Hai kiết, hai kiến đều cùng gồm thâu. Kiến, kiết còn lại không gồm thâu. Nghĩa là hai kiết trước cùng với hữu thân kiến, giới cấm thủ trong năm kiến là cùng gồm thâu. Cùng với ba kiến còn lại không gồm thâu lẫn nhau.

Ba kiết, sáu ái thân: Không cùng gồm thâu, vì tự tánh khác.

Ba kiết, bảy tùy miên: Ba kiết, một phần ít của một tùy miên là gồm thâu lẫn nhau. Số còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là ba kiết cùng với tùy miên nghi và hữu thân kiến, giới cấm thủ trong tùy miên kiến là gồm thâu lẫn nhau. Cùng với năm tùy miên còn lại và ba kiến khác trong tùy miên kiến không cùng gồm thâu.

Ba kiết, chín kiết: Ba kiết, hai phần ít của một kiết thì gồm thâu lẫn nhau. Số còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là ba kiết cùng với kiết nghi trong chín kiết và hữu thân kiến trong kiết kiến, giới cấm thủ trong kiết thủ đều gồm thâu lẫn nhau, cùng với sáu kiết còn lại và hai kiến khác trong kiết kiến, giới cấm thủ trong kiết thủ đều không cùng gồm thâu.

Ba kiết, chín mươi tám tùy miên: Ba kiết và hai mươi mốt tùy miên thì gồm thâu lẫn nhau. Tùy miên còn lại không cùng gồm thâu. Nghĩa là ba kiết cùng với ba tùy miên hữu thân kiến, sáu tùy miên giới cấm thủ, mười hai tùy miên nghi trong chín mươi tám tùy miên đều cùng gồm thâu. Cùng với bảy mươi bảy tùy miên còn lại là không cùng gồm thâu. Như thế cho đến chín kiết, chín mươi tám tùy miên, bảy kiết, chín mươi tám tùy miên đều cùng gồm thâu. Số còn lại thì không cùng gồm thâu. Nghĩa là bảy kiết trước trong chín kiết cùng với chín mươi tám tùy miên đều gồm thâu lẫn nhau. Hai kiết sau cùng với tùy miên thì không cùng gồm thâu, vì hai kiết này đều không phải là tánh của tùy miên.

Trong đây, nêu lên ba kiết đầu, nêu dẫn chín kiết sau, cùng với phần gồm thâu nhau ở sau đã được biện minh rộng.

Ba căn bất thiện cho đến bảy tùy miên, so với phần cùng gồm thâu ở sau đã lược bớt không nói, vì tướng dễ hiểu.

***

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thứ khiến dục hữu nối tiếp nhau? Bao nhiêu thứ khiến sắc hữu nối tiếp nhau? Bao nhiêu thứ khiến vô sắc hữu nối tiếp nhau?

Đáp: Tất cả nên phân biệt.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì để ngăn chận tông chỉ của người khác, nhằm bày tỏ nghĩa của mình. Nghĩa là hoặc có người chấp tâm không nhiễm ô, cũng khiến cho hữu nối tiếp nhau, như Luận giả Phân biệt.

Hỏi: Vì sao Luận giả kia đã tạo lối chấp này?

Đáp: Vì phái Luận Phân biệt kia đã dựa vào Khế kinh, nên tạo ra lối chấp ấy. Nghĩa là Khế kinh nói: Bồ-tát đã nhận biết đúng đắc sự việc vào thai mẹ, nhận biết đúng đắc sự việc ở nơi thai mẹ, nhận biết đúng đắn khi xuất thai mẹ. Đã có nhận biết đúng đắn lúc vào thai mẹ. Nhận biết đúng đắn, tức ở nơi tâm không nhiễm ô. Tức tâm không nhiễm ô cũng khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Vì nhằm ngăn chận ý của Luận giả kia, đồng thời nêu rõ, chỉ tâm nhiễm ô mới có thể khiến hữu nối tiếp nhau, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Làm sao thông suốt đối với phần Khế kinh do Luận giả kia đã dẫn?

Đáp: Vì dựa vào tưởng không điên đảo, nên nói là nhận biết đúng đắn (Chánh tri). Nghĩa là các hữu tình phần nhiều khởi tưởng điên đảo mà vào thai mẹ. Lúc người nam (Thân trung hữu) vào thai, đối với mẹ thì khởi ái, đối với cha thì khởi giận. Người nữ lúc vào thai, đối với cha khởi ái, đối với mẹ thì khởi giận. Nghĩa là người kia cùng với mình là có thuận, trái. Bồ-tát của hữu sau, khi nhập thai mẹ, tâm không điên đảo: Đối với cha khởi tưởng là cha, đối với mẹ khởi tưởng là mẹ. Tuy đều cùng thân ái, nhưng không có tâm khác. Vì có thân ái, nên tâm có nhiễm ô, vì không có tưởng điên đảo, nên gọi là nhận biết đúng đắn.

Vì thế Khế kinh kia không trái với nghĩa ở đây. Lại nữa, sở dĩ tạo ra phần Luận này là vì hoặc có người chấp: Chỉ ái với giận là khiến cho hữu nối tiếp nhau, như phái Thí dụ nói.

Hỏi: Vì sao phái Thí dụ kia tạo ra lối chấp ấy?

Đáp: Vì dựa vào Khế kinh. Nghĩa là Khế kinh nói: Vì ba sự hòa hợp nên được vào thai mẹ:

  1. Cha mẹ hòa hợp giáo ái.
  2. Thân mẹ khi ấy điều hòa, thích hợp.
  3. Kiện-đạt-phược (Thân trung hữu) chính thức hiện ở trước.

Lúc Kiện-đạt-phược hiện có là hai tâm đều cùng khởi, nghĩa là tâm ái, giận đều cùng có. Do đấy, nên biết chỉ ái với giận đã khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Vì ngăn chận ý đó, nhằm chỉ rõ, tất cả phiền não đều làm cho hữu nối tiếp nhau, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Làm sao thông suốt phần Khế kinh do phái Thí dụ kia đã dẫn?

Đáp: Khế kinh nói: Tâm của phần vị trung hữu kia lúc chính thức kiết sinh, vì không phải chỉ có ái, giận, nên ở đây đã nói không trái với Khế kinh kia.

Lại nữa, sở dĩ tạo ra phần Luận này, là vì hoặc có người chấp: Nẻo ác chỉ dùng tâm giận là kiết sinh, nẻo thiện chỉ dùng tâm ái là kiết sinh.

Vì ngăn chận ý tưởng kia, nhằm chỉ rõ ba mươi sáu tùy miên nơi tất cả xứ của cõi dục, mỗi mỗi đều hiện ở trước khiến sự sinh nối tiếp nhau. Ba mươi mốt tùy miên nơi tất cả xứ của cõi sắc, mỗi mỗi đều hiện ở trước, khiến sự sinh nối tiếp nhau. Ba mươi mốt tùy miên nơi tất cả xứ của cõi vô sắc, mỗi mỗi đều hiện ở trước, khiến sự sinh nối tiếp nhau, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, không những chỉ ngăn chận tông chỉ của người khác, bày tỏ nghĩa của mình, nhưng còn nhằm chỉ rõ chánh lý của các pháp để khai ngộ hữu tình, nên tạo ra phần Luận này.

Tuy nhiên, các tiếng hữu được nêu bày có nhiều thứ nghĩa, Trong đây: Hữu là nói về chúng đồng phần cùng năm uẩn của số hữu tình thuận theo chúng đồng phần. Như nói: Các người tử sinh ở cõi dục, đều thọ nhận dục hữu chăng? Thuyết kia cũng nói: Chúng đồng phần cùng năm uẩn của số hữu tình thuận theo chúng đồng phần. Như nói: Vì bị các triền trói buộc, nên thọ nhận hữu v.v… của địa ngục. Thuyết kia cũng nói: Chúng đồng phần cùng năm uẩn của số hữu tình thuận theo chúng đồng phần. Như nói: Khi thọ nhận dục hữu, đầu tiên được bao nhiêu nghiệp xuất sinh căn v.v…? Thuyết kia cũng nói: Chúng đồng phần cùng năm uẩn của số hữu tình thuận theo chúng đồng phần. Như nói: Bốn hữu nghĩa là bản hữu, tử hữu, trung hữu, sinh hữu. Thuyết kia cũng nói: Chúng đồng phần cùng năm uẩn của số hữu tình thuận theo chúng đồng phần. Như nói: Các người bỏ dục hữu, thọ nhận dục hữu, tất cả pháp của cõi dục kia diệt, pháp của cõi dục hiện ở trước chăng? Thuyết kia cũng nói: Chúng đồng phần cùng năm uẩn của số hữu tình thuận theo chúng đồng phần. Như nói: Thế nào là pháp có? Nghĩa là tất cả pháp hữu lậu. Thuyết kia nói: Tất cả pháp hữu lậu gọi là hữu. Như nói: Phả-lặc-cụ-na nên biết! Thức thực có thể khiến cho hữu sau sinh khởi. Thuyết kia nói: Kiết sinh tâm cùng quyến thuộc gọi là hữu. Như nói: A-la-đà nên biết! Nếu nghiệp có thể khiến cho hữu sau nối tiếp nhau, đó gọi là hữu, tức thuyết kia có thể dẫn tư của hữu sau, gọi là hữu. Như nói: Thủ duyên hữu.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Thuyết kia cho năm uẩn nơi thời phần gọi là hữu.

Tôn giả Diệu Âm đã nêu rõ: Thuyết kia nói, các nghiệp có thể dẫn đến hữu sau, gọi là hữu. Như nói: Bảy hữu: 1. Địa ngục hữu. 2. Bàng sinh hữu. 3. Ngạ quỷ hữu. 4. Thiên hữu. 5. Nhân hữu. 6. Nghiệp hữu. 7. Trung hữu.

Thuyết kia nói năm nẻo và nhân của nẻo đó, phương tiện của nẻo đó, gọi là hữu. Nghĩa là địa ngục hữu v.v…, tức là năm nẻo. Nghiệp hữu là nhân của nẻo đó. Trung hữu là phương tiện của nẻo đó. Như nói: Thế nào là dục hữu? Nghĩa là các nghiệp hệ thuộc cõi dục, thủ làm duyên, có thể hướng đến sinh sau, cho đến nói rộng. Thuyết kia nói: Nghiệp cùng dị thục, gọi là hữu, không nói thủ duyên.

Hỏi: Nếu như vậy thì nơi môn luận đã nói nên thông suốt như thế nào? Như nói: Dục hữu là tất cả tùy miên tùy tăng của cõi dục. Sắc hữu là tất cả tùy miên tùy tăng của cõi sắc. Vô sắc hữu là tất cả tùy miên tùy tăng của cõi vô sắc. Dục hữu thì có thể như vậy. Vì sao? Vì nghiệp của năm bộ nơi cõi dục đều có thể chiêu cảm dị thục. Nghiệp nơi cõi dục kia chấp nhận tất cả tùy miên đã tùy tăng của cõi dục. Sắc hữu, vô sắc hữu vì sao có thể thế? Vì sao? Vì hai cõi kia chỉ có nghiệp do tu đạo đoạn, chiêu cảm dị thục.

Đáp: Trong môn Luận kia, nên nói dục hữu là tất cả tùy miên tùy tăng của cõi dục. Sắc hữu là biến hành và tùy miên tùy tăng của cõi sắc do tu đạo đoạn. Vô sắc hữu là biến hành và tùy miên tùy tăng của cõi vô sắc do tu đạo đoạn. Nhưng không nói như vậy là có ý nghĩa sâu xa riêng. Nghĩa là tâm hữu của năm bộ kiết là quyến thuộc của hữu, tức cũng giả nêu là hữu, nên nói tất cả tùy miên tùy tăng.

Có thuyết cho: Luận kia có chương, có môn, vì trong chương chỉ nói nghiệp và dị thục, gọi là hữu, không nói thủ duyên. Trong môn thì nói đủ nghiệp dị thục kia và nói thủ duyên, nên nói tất cả tùy miên tùy tăng.

Lời bình: Người kia không nên nêu bày như thế. Vì sao? Vì Luận sư kia trước đã lập nghĩa của chương, sau dùng môn để thông hợp, vì sao trong môn lại nói khác với chương? Thế nên, về lý thuyết trước là tốt.

Hỏi: Vì sao gọi là hữu?

Đáp: Vì có tăng có giảm nên gọi là hữu.

Hỏi: Nếu vậy, Thánh đạo có tăng giảm, tức nên cũng gọi là hữu chăng?

Đáp: Nếu có tăng giảm, cũng có thể nuôi lớn gồm thâu lợi ích, nhận giữ hữu, thì gọi là hữu. Thánh đạo tuy có tăng giảm, nhưng là tổn hại, trái bỏ, phá trừ các hữu, nên không gọi là hữu. Lại nữa, nếu có tăng giảm, cũng khiến cho sinh, lão, bệnh, tử của các hữu không đoạn dứt, thì gọi là hữu. Thánh đạo tuy có tăng giảm, nhưng khiến cho sinh lão bệnh tử của các hữu đều đoạn dứt, không nối tiếp nhau, nên không gọi là hữu.

Lại nữa, nếu có tăng giảm cũng là hướng đến hành khổ tập, hướng đến có hành tập sinh, lão, bệnh, tử của thế gian, thì gọi là hữu. Thánh đạo tuy có tăng giảm, nhưng là hướng đến hành khổ diệt, hướng đến có hành diệt sinh, lão, bệnh, tử của thế gian, nên không gọi là hữu.

Lại nữa, nếu có tăng giảm, cũng là sự của Tát ca da kiến, sự của điên đảo, sự của ái, sự của tùy miên, là xứ an đủ của tham, giận, si, có cấu, có độc, có lỗi, có mũi nhọn đâm, có vẩn đục, ngã đổ, có khổ tập đế, thì gọi là hữu. Thánh đạo tuy có tăng giảm, nhưng vì mâu thuẫn với tất cả sự này, nên không gọi là hữu.

Lại có thuyết nêu: Ở đây vì đáng sợ hãi, nên gọi là hữu.

Hỏi: Nếu như vậy thì Niết-bàn cũng đáng sợ hãi, tức nên cũng gọi là hữu? Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Phàm phu không hiểu biết, do ngu si nên sợ hãi Niết-bàn, nói là ở nơi xứ này ngã không có, ngã sở cũng không có, ngã sẽ không có, ngã sở cũng sẽ không có?

Đáp: Nếu có sợ hãi là người chánh kiến khởi nói, gọi là có Niết-bàn. Tuy có sợ hãi, nhưng là người tà kiến khởi, nên không gọi là hữu.

Lại nữa, nếu có sợ hãi chung cho phàm phu và Thánh giả khởi nói, gọi là có Niết-bàn. Tuy có sợ hãi, nhưng là phàm phu không phải là Thánh giả khởi, nên không gọi là hữu.

Có thuyết nói: Là đồ đựng của khổ, nên gọi là hữu.

Hỏi: Hữu cũng là pháp khí của lạc, như Khế kinh nói: Đại Danh nên biết! Nếu sắc hoàn toàn là khổ, không phải là lạc, không phải là đối tượng tùy thuận của lạc, không có một ít lạc hỷ để khiến theo đuổi, tức nên không có hữu tình vì cầu tìm lạc mà nhiễm vướng nơi sắc. Đại Danh nên biết! Do sắc không phải hoàn toàn là khổ, cũng là lạc, cũng là đối tượng tùy thuận của lạc, là một ít lạc hỷ đã khiến theo đuổi nên có các hữu tình, vì cầu tìm lạc mà nhiễm vướng nơi sắc. Lại, Khế kinh nói: Quyết định kiến lập ba thọ không có lẫn lộn: 1. Lạc. 2. Khổ. 3. Không phải khổ lạc. Lại, Khế kinh nói: Đạo dựa vào vật dụng của đạo, Niết-bàn dựa nơi đạo, do đạo là lạc nên chứng Niết-bàn an lạc. Vì thế các hữu không phải chỉ đồ đựng của khổ, đâu thể dùng đồ đựng của khổ để giải thích tên hữu.

Đáp: Trong pháp sinh tử, tuy có một ít lạc, nhưng vì khổ nhiều, nên lập tên là đồ đựng của khổ, thế nên các hữu chỉ gọi là đồ đựng của khổ. Như nhỏ một giọt mật trong bình thuốc độc, không do giọt mật này mà gọi là bình mật, chỉ gọi là bình thuốc độc, do thuốc độc nhiều. Hữu cũng như thế, là chỗ dựa của nhiều khổ, nên chỉ gọi là đồ đựng của khổ.

Nhưng các loại nối tiếp nhau, lược có năm thứ:

  1. Nối tiếp nhau của trung hữu.
  2. Nối tiếp nhau của sinh hữu.
  3. Nối tiếp nhau của thời phần.
  4. Nối tiếp nhau của pháp tánh.
  5. Nối tiếp nhau của sát na.

Nối tiếp nhau của trung hữu: Nghĩa là uẩn của tử hữu diệt, uẩn của trung hữu sinh. Uẩn của trung hữu này nối tiếp uẩn của tử hữu, thế nên gọi là Nối tiếp nhau của trung hữu.

Nối tiếp nhau của sinh hữu: Nghĩa là uẩn của trung hữu diệt, hoặc uẩn của tử hữu diệt, uẩn của sinh hữu sinh. Uẩn của sinh hữu này nối tiếp uẩn của trung hữu, hoặc nối tiếp uẩn của tử hữu, thế nên gọi là Nối tiếp nhau của sinh hữu.

Nối tiếp nhau của thời phần: Nghĩa là uẩn của thời phần Yếtlặt-lam cho đến tuổi cường tráng diệt, uẩn của thời phần từ Át-bộđàm cho đến lúc tuổi già sinh. Uẩn của thời phần Át-bộ-đàm này cho đến tuổi già đã nối tiếp uẩn của thời phần từ Yết-lặt-lam cho đến tuổi cường tráng. Thế nên gọi là Nối tiếp nhau của thời phần.

Nối tiếp nhau của pháp tánh: Nghĩa là pháp thiện vô gián thì pháp bất thiện, hoặc pháp vô ký sinh. Pháp bất thiện hoặc pháp vô ký này nối tiếp pháp thiện trước. Pháp bất thiện, hoặc pháp vô ký vô gián, nói rộng cũng như vậy. Thế nên gọi là Nối tiếp nhau của pháp tánh.

Nối tiếp nhau của sát-na: Nghĩa là sát-na trước trước vô gián thì sát-na sau sau sinh. Sát-na sau sau này nối tiếp sát-na trước trước. Thế nên gọi là Nối tiếp nhau của sát-na.

Năm nối tiếp nhau này cũng được gồm thâu ở trong hai nối tiếp nhau, vì ba thứ nối tiếp nhau trước không lìa hai nối tiếp nhau của pháp tánh, sát-na, và pháp tánh cũng được nhập trong sát-na, do tất cả đều là tánh của sát-na.

Năm nối tiếp nhau này: Về cõi: Cõi dục đủ năm. Cõi sắc chỉ bốn, trừ thời phần. Cõi vô sắc chỉ ba, trừ trung hữu và thời phần.

Về nẻo: Địa ngục chỉ bốn, trừ thời phần. bốn nẻo còn lại đều đủ năm.

Về sinh: Bốn sinh (Loài) đều đủ năm thứ nối tiếp nhau.

Trong đây chỉ dựa vào hai hữu là trung hữu, sinh hữu nối tiếp nhau để tạo luận.

Nghĩa là: Ba kiết khiến cho ba hữu nối tiếp nhau. Đây là căn cứ vào chủng loại chung để nói. Nhưng ba kiết này hệ thuộc chung nơi ba cõi. Hệ thuộc cõi dục: Là khiến dục hữu nối tiếp nhau. Hệ thuộc cõi sắc: Là khiến sắc hữu nối tiếp nhau. Hệ thuộc cõi vô sắc: Là khiến vô sắc hữu nối tiếp nhau. Sát-na đầu tiên của trung hữu, sinh hữu, tùy theo một hiện tiền mà kiết sinh. Số còn lại theo bản luận, như lý nên nhận biết.

Hỏi: Tùy miên có thể khiến các hữu nối tiếp nhau, chẳng phải là triền, chẳng phải là cấu, vì không bền chắc. Phiền não của ý địa khiến cho hữu nối tiếp nhau, không phải năm thức thân, vì khi kiết đang sinh, nhất định có ý thức, không có năm thức. Do đâu bản luận nói năm cái, kiết ganh ghét, kiết keo kiệt, ái thân do tỷ, thiệt xúc sinh ra đã khiến dục hữu nối tiếp nhau. Ái thân do nhãn, nhĩ thân xúc sinh ra đã khiến cho dục, sắc hữu nối tiếp nhau. Trạo cử nơi kiết thuận phần trên đã khiến sắc hữu, vô sắc hữu nối tiếp nhau?

Đáp: Bản luận nên nói cái tham dục, giận dữ, nghi, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Tham, mạn, vô minh nơi kiết thuận phần trên đã khiến sắc hữu, vô sắc hữu nối tiếp nhau. Ái thân do ý xúc sinh ra đã khiến ba hữu nối tiếp nhau. Hai cái còn lại, kiết ganh ghét, keo kiệt, trạo cử nơi kiết thuận phần trên, ái thân do năm xúc trước sinh ra, không khiến hữu nối tiếp nhau. Nhưng không nói như thế nên biết văn này có ý nghĩa riêng. Nghĩa là chưa giải thoát khỏi hai cái còn lại v.v… thì mạng chung, sẽ sinh trở lại nơi dục hữu v.v…, nên nói câu: Các thứ kia có thể nối tiếp dục hữu. Nhưng khi kiết sinh thì không phải do sức của dục hữu kia.

Lại nữa, do ba duyên, nên nói các phiền não khiến cho hữu nối tiếp nhau:

  1. Chưa đoạn.
  2. Có thể chiêu cảm quả dị thục của hữu.
  3. Khi kiết sinh có thể làm thấm nhuần hữu.

Các tùy miên bất thiện ở nơi ý địa đều có đủ ba duyên. Tùy miên vô ký không thể chiêu cảm hữu, chỉ có hai duyên. Các tùy miên bất thiện ở nơi năm thức không thể làm thấm nhuần hữu, chỉ có hai duyên. Tùy miên vô ký chỉ có một duyên là chưa đoạn, không có hai duyên còn lại. Triền cấu bất thiện chỉ có hai duyên, không có duyên có thể làm thấm nhuần hữu. Triền cấu vô ký chỉ có một duyên, nghĩa là chưa đoạn. Cái hôn trầm v.v… do chưa đoạn, hoặc chiêu cảm hữu, nên nói là có thể nối tiếp hữu, không phải có thể làm thấm nhuần hữu, về lý thì không trái.

***

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên dựa vào định nào diệt?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn hiển bày vào thời kỳ chư Phật xuất thế đã có sự việc thù thắng. Luận Thi Thiết nói: Chung quanh châu Thiệm-bộ, có con đường của Chuyển luân vương, rộng một du-thiện-na. Vào thời không có Chuyển luân vương, con đường này luôn bị nước biển phủ lên, không ai có thể nhìn thấy. Nếu khi Chuyển luân vương xuất hiện ở đời, thì nước biển cả giảm xuống một du-thiện-na, con đường của Chuyển luân vương này mới bày ra, cát vàng ròng trải khắp, do các thứ châu báu trang nghiêm, dùng nước hương chiên đàn rưới lên con đường ấy. Chuyển luân Thánh vương tuần du nơi châu bãi, cùng với bốn thứ quân đều cùng đi trên con đường này.

Như thế, vào thời chư Phật chưa ra đời, chỗ dựa của địa căn bản, không ai có thể trông thấy. Các hữu tình đoạn kiết đều dựa vào biên địa. Nếu gồm đủ mười lực, thì Chuyển pháp Luân vương xuất hiện ở đời, chỗ dựa của địa căn bản lúc ấy mới xuất hiện, cát vàng ròng là pháp phần Bồ-đề được trải khắp, vô số các công đức là các thứ châu báu trang nghiêm. Nước của bốn chứng tịnh dùng rưới lên con đường đó. Đức Phật cùng với vô lượng, vô biên quyến thuộc đều cùng du hành trên con đường ấy, đi tới thành Niết-bàn.

Do nhân duyên như thế, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, vì nhằm ngăn chận phái Luận Phân biệt chủ trương có các phiền não không dựa vào định diệt. Họ nói như thế này: Nếu có Thánh giả sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ, ở nơi xứ đó không có nghĩa Thánh đạo hiện ở trước, khi thọ lượng đã hết, thì các phiền não cũng được dứt hết, thành A-la-hán, gọi là Tề đảnh.

Vì ngăn chận lối chấp đó của Luận Phân biệt, nhằm chỉ rõ không có phiền não nào không dựa vào định diệt, nên tạo ra phần Luận này.

Trong đây nói định, là làm rõ về đạo đối trị. Nghĩa là đạo đối trị, hoặc nói là định, hoặc nói là đạo, hoặc gọi là đối trị, hoặc gọi là tác ý, hoặc nói là hành. Lời nói tuy có khác, nhưng về nghĩa thì không riêng khác. Ở đây nói diệt, là chỉ rõ về đoạn trừ vĩnh viễn. Nghĩa là sự đoạn trừ vĩnh viễn này hoặc nói là diệt, hoặc nói là tận, hoặc gọi là lìa nhiễm, hoặc gọi là lìa trói buộc, hoặc gọi là giải thoát. Lời nói tuy có khác, nhưng về nghĩa thì không có khác biệt.

Xưa, trong pháp này có hai Luận sư: 1. Tên Thị Tỳ La. 2. Tên Cù Sa Phạt Ma. Tôn giả Thị Tỳ La nêu bày như thế này: Trong đây nói “Đoạn trừ vĩnh viễn” là đoạn trừ trọn vẹn, đoạn trừ rốt ráo, đoạn trừ không còn có chút ảnh tượng. Như thế, đoạn trừ vĩnh viễn là Thánh giả đoạn, không phải là phàm phu, là khả năng của Thánh đạo, không phải là đạo thế tục. Vì sao? Vì nhân nơi Kinh Thất Y để tạo ra Luận này. Kinh kia chỉ nói bảy địa căn bản, nghĩa là bốn tĩnh lự và ba vô sắc dưới, chẳng phải là địa căn bản có đạo thế tục có thể đoạn trừ phiền não. Nên biết chỉ là Thánh giả dùng đạo vô lậu để đoạn. Tôn giả Cù Sa Phạt Ma thì nói: Ở đây nói đoạn trừ vĩnh viễn, là đoạn trừ trọn vẹn, đoạn trừ rốt ráo, đoạn trừ không còn chút ảnh tượng. Như thế, đoạn trừ vĩnh viễn là Thánh giả cũng là phàm phu, là khả năng của Thánh đạo, cũng là đạo thế tục.

Hỏi: Há không phải là Luận này đã nhân nơi kinh Thất Y, vì sao phàm phu dựa vào địa căn bản khởi đạo thế tục, có nghĩa đoạn trừ vĩnh viễn?

Đáp: Do nhân duyên ấy, nên nói là A-tỳ-đạt-ma đã soi chiếu rõ về Khế kinh v.v…, cũng như ngọn đèn sáng. Những điều nơi Khế kinh v.v… chưa nói, thì trong Luận này nói đến. Những pháp nào chưa được hiện bày, thì trong Luận này thể hiện. Kinh kia nói chưa đầy đủ, còn Luận này thì nêu trọn vẹn. Thế nên, Thánh giả và các phàm phu đều căn cứ vào bảy địa căn bản và tám biên địa để khởi Thánh đạo và đạo thế tục, đều cùng có thể đoạn trừ vĩnh viễn kiết.

Như thế, cả hai thuyết đều cùng được khéo thông suốt, vì văn của bản Luận này cùng có hai nghĩa.

Ba kiết, hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí diệt. Bốn nghĩa là địa của bốn tĩnh lự. Vị chí nghĩa là địa vị chí và tĩnh lự trung gian. Hai địa này cùng gọi là địa vị chí.

Hỏi: Vì sao địa này gọi là vị chí?

Đáp: Vì địa này chưa nhập căn bản nhưng có thể hiện ở trước, dứt trừ các phiền não nên gọi là vị chí.

Hỏi: Khế kinh chỉ nói căn bản là chỗ dựa, chẳng phải là địa vị chí, vì sao trong đây nói ba kiết hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí diệt?

Đáp: Trong đây nên nói: Hoặc dựa vào bốn, hoặc vị chí diệt. Không nên nói dựa vào vị chí diệt. Nhưng nói dựa vào vị chí diệt là có ý nghĩa riêng. Nghĩa là câu nói: Sau dựa vào là lại nói về căn bản. Trong đây ý nói ba kiết hoặc dựa vào bốn diệt, hoặc dựa vào bốn căn bản diệt, hoặc dựa vào vị chí diệt, hoặc vị chí dựa vào bốn căn bản mà diệt. Như có kẻ hỏi người khác: Ông là vào thành làm sự việc này, hay là chưa vào thành mà làm sự việc này? Ở đây: Một thành trước sau lại nói. Câu nói dựa cũng như vậy, về lý thì không trái.

Lại nữa, câu nói dựa vào là có chung và có riêng. Riêng, là chỉ nói các địa căn bản, như kinh Thất Y. Chung, là nói chung về căn bản và biên địa, như trong đây nói. Thế nên, ở đây câu nói dựa vào cũng không trái lý. Tuy nhiên, ba kiết này dựa vào cõi dục, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đều có thể đạt được. Cõi dục: Là chỉ dựa vào vị chí diệt. Tĩnh lự thứ nhất: Hoặc căn cứ tĩnh lự thứ nhất, hoặc dựa vào vị chí diệt. Tĩnh lự thứ hai: Hoặc dựa vào hai tĩnh lự, hoặc dựa vào vị chí diệt. Tĩnh lự thứ ba: Hoặc dựa vào ba tĩnh lự, hoặc nương dựa vị chí diệt. Tĩnh lự thứ tư và bốn vô sắc: Hoặc nương dựa bốn tĩnh lự, hoặc nương dựa vị chí diệt. Vì sao? Vì ba kiết đã đoạn trừ vĩnh viễn, là đoạn trừ trọn vẹn, đoạn trừ rốt ráo, đoạn trừ không còn chút ảnh tượng, tất do kiến đạo, nhưng các kiến đạo chỉ dựa vào sáu địa, nghĩa là bốn tĩnh lự, định vị chí và tĩnh lự trung gian. Nếu nương dựa nơi định vị chí thì nhập chánh tánh ly sinh. Như thế, ba kiết dựa vào vị chí diệt, cho đến hoặc dựa vào tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh. Ba kiết như thế dựa vào tĩnh lự thứ tư diệt, tuy chỉ có tĩnh lự thứ tư và bốn địa vô sắc. Ba kiết hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào vị chí diệt, nhưng là nương dựa nơi chủng loại chung để nói, về phần còn lại cũng không có lỗi. Tuy dựa vào biên của tám địa khởi đạo thế tục, cũng phần đoạn ba kiết, nhưng vì không phải là đoạn trừ vĩnh viễn, nên ở đây không nói.

Rõ ràng, ba kiết này được đoạn trừ vĩnh viễn, chỉ khi ở nơi đạo loại nhẫn. Nếu nói riêng, thì hữu thân kiến được đoạn trừ vĩnh viễn chỉ ở nơi khổ loại nhẫn, nên nói dựa nơi bốn, dựa nơi vị chí diệt.

Ba căn bất thiện và dục lậu dựa vào vị chí diệt: Là khi lìa dục nhiễm, chúng được đoạn trừ vĩnh viễn. Hoặc phàm phu, hoặc Thánh giả, hoặc đạo hữu lậu, hoặc đạo vô lậu, đều cùng nương dựa vị chí để lìa dục nhiễm.

Hữu lậu, vô minh lậu, hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí diệt. Bảy, nghĩa là bốn tĩnh lự và ba vô sắc dưới, tức bảy. Dựa vào định vị chí, nghĩa là định vị chí và tĩnh lự trung gian, vì hai định này đều cùng gọi là địa vị chí. Ở đây, hữu lậu từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều có thể đạt được. Vô minh lậu từ cõi dục cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều có thể đạt được. Hai lậu này đều cùng lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, bấy giờ mới được đoạn trừ vĩnh viễn. Nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ kia dựa vào đạo của chín địa mà được lìa vĩnh viễn, nên nói: Hoặc nương dựa bảy, hoặc nương dựa vị chí diệt. Nhưng vô minh lậu nơi cõi dục chỉ dựa vào vị chí diệt. Về hữu lậu, vô minh lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, dựa vào tĩnh lự thứ nhất, hoặc dựa vào vị chí diệt. Tĩnh lự thứ hai thì dựa vào hai tĩnh lự, hoặc dựa vào vị chí diệt. Cho đến Thức vô biên xứ dựa vào bốn tĩnh lự và hai vô sắc dưới, hoặc dựa vào vị chí diệt. Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ dựa vào bốn tĩnh lự và ba vô sắc dưới, hoặc dựa vào vị chí diệt. Dựa vào chủng loại chung cũng được nói là chủng loại. Phần còn lại hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào vị chí diệt. Trong đây chỉ nói hai xứ đoạn trừ vĩnh viễn, nên chỉ là đạo vô lậu của Thánh giả đoạn, tức là định kim cang dụ sau cùng. Pháp khác, tùy theo đối tượng ứng hợp, như bản luận đã nói. Sự khác biệt về đoạn trừ vĩnh viễn giữa phàm phu, Thánh giả, đạo thế tục, Thánh đạo, như lý nên biết.

***

Các kiết quá khứ, các kiết đó đã trói buộc chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận tông chỉ người khác và vì để bày tỏ chánh lý. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Quá khứ, vị lai không thật có Thể. Hoặc lại có thuyết nói: Phiền não đoạn xong, hoàn toàn không thoái chuyển.

Vì nhằm ngăn chận thuyết đó, đồng thời chỉ rõ, quá khứ vị lai là thật có và làm rõ phiền não đoạn trừ xong cũng có thoái chuyển, nên tạo ra phần Luận này.

Nên biết trong đây, trước gọi là đã trói buộc, sau gọi là sẽ trói buộc, hiện tại gọi là nay trói buộc. Lại nữa, ở đây có thuyết nói: Công dụng của kiết gọi là trói buộc.

Có thuyết nói: Đắc của kiết gọi là trói buộc. Nhưng kiết đối với đắc có ba chủng loại:

  1. Như Ngưu vương dẫn đắc đi trước.
  2. Như nghé con thuận theo đắc đi sau.
  3. Như hình chất cùng với bóng thì đắc đều cùng có.

Như Ngưu vương: Là kiết trước, đắc sau. Như nghé con: Là đắc trước, kiết sau. Như hình chất: Là kiết cùng với đắc đều cùng có.

Hỏi: Các kiết quá khứ, các kiết đó đã trói buộc chăng?

Đáp: Các kiết quá khứ, các kiết đó là đã trói buộc. Nghĩa là kiết ở quá khứ, đắc kia cũng ở quá khứ. Vì đã từng bị trói buộc, nên gọi là đã trói buộc.

Có kiết đã trói buộc, kiết ấy không phải là quá khứ: Nghĩa là kiết vị lai, hiện tại đã trói buộc, tức các kiết ở vị lai, hiện tại. Đắc của kiết kia ở quá khứ, đã từng bị trói buộc. Kiết này như nghé con thuận theo đắc, đi sau.

Hỏi: Các kiết vị lai, các kiết ấy sẽ trói buộc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp vì nghĩa không nhất định:

1. Có kiết vị lai, kiết đó không phải là sẽ trói buộc. Nghĩa là kiết vị lai đã đoạn, đã nhận biết khắp, đã diệt, đã loại bỏ nhất định sẽ không thoái chuyển. Ở đây, đã đoạn: Là đã được đoạn nhận biết khắp. Đã nhận biết khắp: Là đã được trí nhận biết khắp. Đã diệt: Là đã được trạch diệt. Đã loại bỏ: Là đã đoạn trừ được trói buộc, đã chứng, lìa được trói buộc.

Có thuyết cho: Đã đoạn, đã nhận biết khắp, đã diệt, đã loại trừ đều đồng hiển bày nghĩa xả bỏ. Nhất định sẽ không thoái chuyển: Nghĩa là A-la-hán của pháp không thoái chuyển, nơi kiết của ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn ở vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. A-la-hán của pháp thoái chuyển, nơi kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn ở vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. Bất hoàn của pháp không thoái chuyển, nếu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn và kiết của tám địa dưới do tu đạo đoạn ở vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. Cho đến nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn và kiết của cõi dục do tu đạo đoạn, ở vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. Bất hoàn của pháp thoái chuyển cùng Dự lưu, Nhất lai, kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn, nơi vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. Phàm phu của pháp không thoái chuyển, nếu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, như Bồtát, kiết của tám địa dưới do kiến đạo, tu đạo đoạn ở vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. Cho đến nếu đã lìa nhiễm cõi dục, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, kiết của một địa do kiến đạo, tu đạo đoạn ở vị lai nhất định sẽ không thoái chuyển. Đó gọi là có kiết vị lai, kiết đó không phải là sẽ trói buộc.

2. Có kiết sẽ trói buộc kiết đó không phải là vị lai. Nghĩa là kiết quá khứ đã đoạn, đã nhận biết khắp, đã diệt, đã loại trừ, nhất định sẽ thoái chuyển. Trong đây, các câu nghĩa như trước đã giải thích. Nhất định sẽ thoái chuyển: Nghĩa là A-la-hán của pháp thoái chuyển nơi kiết của ba cõi do tu đạo đoạn, nơi quá khứ có nhất định sẽ thoái chuyển. Bất hoàn của pháp thoái chuyển, nếu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, kiết của tám địa dưới do tu đạo đoạn, nơi quá khứ có nhất định sẽ thoái chuyển. Cho đến nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, kiết của một địa do tu đạo đoạn, nơi quá khứ có nhất định sẽ thoái chuyển. Phàm phu của pháp thoái chuyển, nếu đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, kiết của tám địa dưới do kiến đạo, tu đạo đoạn, nơi quá khứ có nhất định sẽ thoái chuyển. Cho đến nếu đã lìa nhiễm cõi dục, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, kiết của một địa do kiến đạo, tu đạo đoạn, nơi quá khứ có nhất định sẽ thoái chuyển. Đó gọi là có kiết sẽ trói buộc kiết đó không phải là vị lai.

3. Có kiết vị lai kiết đó cũng sẽ trói buộc. Nghĩa là kiết vị lai đã đoạn, đã nhận biết khắp, đã diệt, đã loại bỏ, nhất định sẽ thoái chuyển. Trong đây, đã đoạn v.v…: Như giải thích của trường hợp đầu. Nhất định sẽ thoái chuyển: Như giải thích của trường hợp thứ hai. Nhưng trước nói quá khứ, nay nói vị lai.

4. Có kiết không phải là vị lai kiết đó cũng không phải là sẽ trói buộc. Nghĩa là kiết quá khứ đã đoạn, đã nhận biết khắp, đã diệt, đã loại trừ, nhất định là sẽ không trói buộc và kiết hiện tại. Trong đây, các trường hợp: Như giải thích của trường hợp đầu. Nhưng trước nói vị lai, nay nói quá khứ. Và kiết hiện tại: Nghĩa là kiết hiện tại, cũng không phải vị lai, vì là hiện tại, cũng không phải sẽ trói buộc, vì đang trói buộc.

Hỏi: Các kiết hiện tại, các kiết đó nay đang trói buộc chăng?

Đáp: Các kiết hiện tại, các kiết đó nay đang trói buộc. Nghĩa là các kiết hiện tại, nhất định có đắc của hiện tại, như hình chất và bóng, tất đều cùng có.

Có kiết nay đang trói buộc, kiết ấy không phải là hiện tại. Nghĩa là kiết quá khứ, vị lai. Nay đang trói buộc: Tức kiết quá khứ, vị lai, có đắc của hiện tại. Kiết quá khứ: Như ngưu vương dẫn đắc đi trước. Kiết vị lai: Như nghé con theo đắc đi sau. Đắc kia là hiện tại nên gọi là nay đang trói buộc.

***

* Các dụng nơi đạo này đoạn trừ kiết cõi dục. Khi thoái chuyển nơi đạo này, trở lại đắc, thì kiết kia có trói buộc không?

Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì ngăn chận tông chỉ người khác, nhằm làm rõ chánh lý. Nghĩa là hoặc có người chấp: Nhất định không có nghĩa thoái chuyển khởi các phiền não, như phái Luận Phân Biệt.

Họ dẫn hiện dụ của thế gian để làm chứng, nghĩa là nói như thế này: Như chiếc bình bể rồi, chỉ còn có sành vỡ, không lại làm bình được. Các A-la-hán cũng nên như thế. Định kim cang dụ đã phá trừ phiền não xong, không còn thoái chuyển khởi các phiền não. Như cây gỗ đã đốt rồi, chỉ có số tro thừa, không trở lại làm thành gỗ. Các A-la-hán cũng nên như thế. Lửa của trí vô lậu đã đốt cháy phiền não xong, không còn thoái chuyển khởi các phiền não.

Phái Luận Phân Biệt kia đã dẫn các hiện dụ của thế gian này để chứng minh không có nghĩa thoái chuyển khởi các phiền não.

Vì nhằm ngăn chận lối chấp ấy, đồng thời chỉ rõ có nghĩa thoái chuyển khởi các phiền não. Nếu không thoái chuyển thì trái với Khế kinh, như Khế kinh nói: A-la-hán có hai loại: 1. Pháp thoái chuyển. 2. Pháp không thoái chuyển.

Lại, Khế kinh nói: Do năm nhân duyên khiến A-la-hán Thời giải thoát thoái chuyển, ẩn mất, quên hẳn. Những gì là năm? Đó là:

1. Gây tạo nhiều sự nghiệp. 2. Ưa thích các hý luận. 3. Ưa cùng tranh chấp. 4. Vui thích băng qua đường dài. 5. Thân luôn nhiều bệnh.

Lại, Khế kinh nói: Có A-la-hán tên Cù-để-ca, là thời giải thoát, sáu lần thoái chuyển xong, đối với thời thứ bảy, e lại thoái mất, nên dùng dao tự hại mà bát Niết-bàn. Do đó, nên biết nhất định có thoái chuyển khởi phiền não.

Hỏi: Nếu có nghĩa thoái chuyển thì các hiện dụ do phái Luận Phân Biệt đã dẫn làm sao thông hợp?

Đáp: Bất tất cần phải thông. Vì sao? Vì các thí dụ đó không phải là Tố-đát-lãm, không phải là Tỳ-nại-da, không phải là A-tỳ đạtma. Đấy chỉ là hiện dụ thô cạn của thế gian. Lại, pháp thế gian khác, pháp Hiền Thánh khác, không nên dẫn pháp thế gian để vấn nạn về pháp Hiền Thánh. Nếu cần phải thông hợp, thì nên nói dụ qua dụ. Đã có vượt qua, là chứng minh không thành. Như chiếc bình đã bể rồi, tất có sành vỡ thừa. Đắc A-la-hán xong, là có phiền não thừa không? Nếu có phiền não, tức nên không phải là A-la-hán. Nếu không có phiền não, tức nghĩa cùng với dụ là riêng khác, không nên làm chứng. Như đốt gỗ xong, nhất định có tro thừa. Chứng đắc A-lahán rồi, có phiền não thừa không? Nếu có phiền não tức nên không phải là A-la-hán? Nếu không có phiền não, tức nghĩa cùng với dụ là khác biệt, không nên làm chứng. Tuy nhiên, gỗ của thế gian không có nghĩa bị đốt, chỉ vì cực vi của gỗ cùng với cực vi của lửa làm nhân đã diệt. Cực vi của lửa này cùng với cực vi của tro làm nhân đã diệt.

Nên nói như thế này: Gỗ là nhân của lửa, lửa là nhân của tro. Nhưng thế gian tưởng cho là lửa đốt gỗ, khiến gỗ trở thành tro. Gỗ đã tắt rồi, cũng có tro thừa, không phải hoàn toàn không có vật, nên dụ cùng với pháp nghĩa không giống nhau.

Lại, A-la-hán đoạn các phiền não, chẳng phải khiến cho hoàn toàn không có tánh, tướng của phiền não quá khứ, vị lai, vì chúng cũng là có thật. Nếu trong sự cùng nối tiếp, phiền não chống trái đạo chưa hiện ở trước, bấy giờ gọi là phiền não chưa đoạn. Nếu trong sự nối tiếp nhau, phiền não đều trái ngược, nhưng đạo đã hiện ở trước, đoạn dứt các trói buộc, được chứng đắc, lìa trói buộc, phiền não không gây tạo gọi là phiền não đã đoạn.

Nên nêu bày như thế này: Tu tập Thánh đạo là sự kiện ít có. Nay, A-la-hán tuy đã đoạn phiền não, nhưng không khiến cho chúng không có. Thế nên, Tôn giả Diệu Âm nói: Phiền não không ở trong thân mình hiện hành, gọi là đoạn, không phải là khiến cho chúng hoàn toàn không có. Như nói Thiên Thọ không có trong nhà, không phải cho là ở chỗ khác cũng không có ông ta. Lúc phiền não đoạn, nên biết cũng như vậy. Vì quá khứ có, nếu gặp phải duyên thoái chuyển làm nhân dẫn sinh phiền não vị lai, nên tất có nghĩa thoái chuyển khởi phiền não.

Hỏi: Phái Luận Phân biệt làm sao giải thích thông hợp nơi Khế kinh do phái Luận Ứng lý đã dẫn chứng?

Đáp: Phái ấy nói là khi thoái chuyển, đạo thoái chuyển không phải là quả, vì quả Sa môn là vô vi.

Hỏi: Đã thừa nhận có thoái chuyển, vậy đạo thoái chuyển so với quả thoái chuyển có khác biệt gì mà nói là quả không có thoái chuyển? Lại nữa, thuyết kia đã thừa nhận, khi thoái chuyển đạo vô học là được đạo học hay là hoàn toàn không được? Nếu được đạo học thì quả cũng nên thoái chuyển, vì không phải quả vô học trở thành đạo học? Nếu hoàn toàn không được tức có lỗi lầm lớn là thoái chuyển đạo vô học, không được đạo học. Nếu như vậy, tức nên trụ nơi phần vị phàm phu. Nếu không phải là phàm phu và hàng học, vô học, tức nên lìa phàm, Thánh, có hữu tình riêng được thừa nhận, tức không phải là đệ tử của Đức Thế Tôn, nên thừa nhận có thoái chuyển khởi phiền não?

Đáp: Phái Luận Phân biệt lại nói tùy miên là chủng tử của triền, tự tánh của tùy miên không tương ưng với tâm, tự tánh của các triền thì tương ưng với tâm. Triền theo tùy miên sinh, vì triền hiện tiền nên thoái chuyển. Các A-la-hán đã đoạn trừ tùy miên, triền đã không sinh, A-la-hán kia vì sao thoái chuyển? Nên nói không có thoái chuyển, là hợp với chánh lý.

Các thuyết kia nói như thế, là quả của vô tri, là quả đen tối, là quả của vô minh, là quả của phương tiện không siêng năng. Nhưng thật ra là có nghĩa khởi phiền não.

Vì ngăn chận chủ trương của các phái kia, và nhằm chỉ rõ pháp thoái chuyển tương ưng với chánh lý, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thoái chuyển dùng pháp nào làm tự tánh?

Đáp: Có thuyết nói: Nếu khởi phiền não, các triền như thế, vì chúng hiện ở trước nên thoái chuyển, tức dùng pháp này làm tự tánh của sự thoái chuyển.

Hoặc có thuyết cho: Thoái chuyển dùng pháp bất thiện hữu phú vô ký làm tự tánh.

Có Sư khác nêu: Nếu khi thoái thất mà thuận theo kẻ thoái chuyển, thì đó là tự tánh của thoái chuyển.

Hoặc có thuyết nói: Dùng tất cả pháp làm tự tánh của thoái chuyển. Do khi thoái mất, thì các pháp đều có nghĩa thuận theo thoái chuyển.

Tôn giả của phái Thí dụ nói như thế này: Thoái chuyển không có tự tánh, chỉ là giả nêu đặt. Vì sao? Vì trong thân trước đây có các công đức thiện, nay vì gặp phải duyên thoái chuyển, nên đã thoái mất pháp này, đâu có tự tánh gì? Như người có của cải, bị đám cướp đoạt lấy, có người hỏi: Nay ông mất của cải lấy gì làm Thể? Chủ đáp: Trước đây tôi có của cải, hiện nay vì bị giặc cướp đoạt mất, nên chỉ không có của cải, nào biết có Thể tánh gì? Như người có mặc y phục, vì bị người khác cướp giựt, bèn đứng lõa hình. Có người hỏi: Nay ông không mặc y phục, lấy gì làm Thể? Chủ y phục đáp: Trước đây tôi có y phục, nay vì bị người ta cướp đoạt đem đi, đâu biết có Thể gì? Như người mặc áo rách, có người hỏi: Nay áo ông đã rách, dùng gì làm tánh? Người mặc áo rách nói: Áo của tôi trước đây là lành lặn, nay áo đã rách nát, đâu biết có tánh gì? Như thế, trong thân trước có đức hơn hẳn, hiện nay chỉ thoái mất, đâu có tự tánh?

Lời bình: Tự tánh của thoái chuyển là pháp vô phú vô ký không thành tựu, tức là phi đắc, thuộc về uẩn của tâm bất tương ưng hành. Tức hiện tại, lại có chỗ thừa. Loại pháp như thế được gồm thâu trong tâm bất tương ưng. Nên biết thoái chuyển là khác với pháp thuận theo thoái chuyển. Thoái chuyển dùng phi đắc không thành tựu làm tự tánh. Thuộc về uẩn của tâm bất tương ưng hành vô phú vô ký. Pháp thuận theo thoái chuyển, dùng tất cả pháp bất thiện hữu phú vô ký làm tự tánh. Như Tăng phá vỡ khác với tội phá hoại Tăng. Tăng phá vỡ, là dùng sự không hòa hợp làm tự tánh, thuộc về uẩn của tâm bất tương ưng hành vô phú vô ký. Tội phá hoại Tăng, dùng lời nói hư dối làm tự tánh. Tăng tạo nên sự phá hoại, thì người phá hoại Tăng tạo nên tội. Như thế, thoái chuyển so với pháp thuận theo thoái chuyển là khác nhau. Tự tánh của thoái chuyển quyết định là thật có, là thuộc về uẩn của bất tương ưng hành, tức là phi đắc, lý ấy là cực thành.

HẾT – QUYỂN 60