LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 24

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 3: NÓI VỀ BỔ ĐẶC GIÀ LA, phần 2

Hỏi: Lạc thọ và thọ không khổ không lạc cùng với ái làm duyên, sự việc ấy có thể như vậy. Vì ái vướng mắc nơi thọ này nên dong ruổi khắp bốn phương tìm cầu điều vừa ý. Thế sao khổ thọ cũng cùng với ái làm duyên nhưng kinh này đều nói chung là thọ duyên ái?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói như vầy: Khổ làm duyên cho ái hơn hẳn hai thọ còn lại. Do vậy, Đức Thế Tôn nói: Vì khổ thọ bức bách nên ái ưa thích vật dụng. Ái ưa thích vật dụng nên liền ở nơi lạc thọ khởi tùy miên tham, nối tiếp tăng trưởng.

Có Sư khác cho: Ba thọ cùng với ái đều tạo duyên hơn hết. Nói với nghĩa lạc thọ, bảo: Tôi có khả năng khởi ái khiến hữu nối tiếp nhau hơn hẳn hai thọ còn lại. Nghĩa là các loài hữu tình tham chấp nơi tôi nên tìm cầu khắp chốn, tạo hành thiện ác, do đấy các hữu nối tiếp không cùng. Nói với nghĩa khổ thọ, bảo: Tôi có khả năng khởi ái khiến hữu nối tiếp hơn hẳn hai thọ còn lại. Nghĩa là các loài hữu tình bị Tôi bức bách nên tham ái lạc thọ, tìm cầu khắp nơi, tạo hành thiện ác, do đấy các hữu nối tiếp không dứt. Nói với nghĩa thọ không khổ không lạc, bảo: Tôi có khả năng khởi ái khiến hữu nối tiếp nhau hơn hẳn hai thọ còn lại. Nghĩa là ở cõi dục, ba tĩnh lự dưới, Tôi hãy còn khởi ái tạo hành thiện ác, khiến hữu nối tiếp nhau, huống chi là ở địa trên là xứ không khổ không lạc mà không thể khởi được sao?

Hiếp Tôn giả nói: Ba thọ đều có khả năng làm duyên khởi ái.

Luận Thân Thức nói: Nếu có ba thọ chưa đoạn, chưa nhận biết, có thể khởi các ái, đưa đến các khổ. Thế nên biết ba thọ đều là duyên của ái.

Hỏi: Vì sao ba thọ đều có khả năng khởi ái?

Đáp: Ái có năm thứ: 1. Ái hòa hợp. 2. Ái không hòa hợp. 3. Ái biệt ly. 4. Ái không biệt ly. 5. Ái ngu.

Lạc thọ chưa sinh, khởi ái hòa hợp. Lạc thọ đã sinh, khởi ái không biệt ly. Khổ thọ chưa sinh, khởi ái không hòa hợp. Khổ thọ đã sinh, khởi ái biệt ly. Thọ không khổ không lạc chưa sinh, khởi ái hòa hợp. Thọ không khổ không lạc đã sinh, khởi ái không biệt ly, trong đó phần nhiều sinh trưởng ái ngu.

Hỏi: Ái tức được gồm thâu nơi thủ, vì sao Kinh này nói ái duyên thủ?

Đáp: Vì ở phần vị ái mới sinh dùng tiếng ái để nói. Phần vị ái rộng thêm gọi là thủ.

Lại nữa, phẩm hạ gọi là ái, phẩm thượng gọi là thủ, nên không có lỗi.

Hỏi: Thọ duyên ái, ái duyên thủ, hai thứ này có sai khác gì?

Đáp: Nếu ái lấy thọ làm nhân, gọi là thọ duyên ái. Nếu ái lấy ái làm nhân, gọi là ái duyên thủ.

Lại nữa, nếu ái là quả của thọ, gọi là thọ duyên ái. Nếu ái là quả của ái, gọi là ái duyên thủ. Như nhân quả sinh – đã sinh, nuôi nấng – đã nuôi nấng, thêm – đã thêm, dẫn khởi – đã dẫn khởi, chuyển – tùy chuyển, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, nếu ái là nhân của ái, gọi là thọ duyên ái. Nếu ái là nhân của nghiệp, gọi là ái duyên thủ.

Lại nữa, nếu ái lấy ái làm quả, gọi là thọ duyên ái. Nếu ái lấy nghiệp làm quả, gọi là ái duyên thủ. Như nhân quả sinh – đã sinh, nuôi nấng – đã nuôi nấng, thêm – đã thêm, dẫn khởi – đã dẫn khởi, chuyển – tùy chuyển, nên biết cũng như thế.

Hỏi: Vì sao duyên khởi của đời trước thì vô minh đứng đầu, còn duyên khởi của biên vực sau thì ái đứng đầu?

Đáp: Hai phiền não này đều là gốc. Nghĩa là vô minh là gốc của biên vực trước, hữu ái là gốc của biên vực sau.

Lại nữa, phần vị phiền não của biên vực trước đã hoại diệt, khó có thể nhận biết rõ, nên gọi là vô minh. Phần vị phiền não của biên vực sau đang hiện ở trước, vì đang mong cầu hữu, nên gọi là ái.

Lại nữa, vì vô minh có bảy sự việc nên nói là đứng đầu nơi duyên khởi của biên vực trước: 1. Bao gồm năm bộ. 2. Hiện hữu khắp sáu thức. 3. Chung cả ba cõi. 4. Là tánh của tùy miên. 5. Có thể khởi nghiệp thân ngữ nặng. 6. Cùng với việc đoạn căn thiện làm gia hạnh hơn hết. 7. Là tánh biến hành. Vì ái chỉ có sáu sự việc nên nói là đứng đầu nơi duyên khởi của biên vực sau: Nghĩa là trong bảy sự việc trước trừ tánh biến hành.

Lại nữa, vì vô minh có ba sự việc nên nói là đứng đầu nơi duyên khởi của biên vực trước: 1. Thường là đứng đầu. 2. Tương ưng với tất cả phiền não. 3. Là tánh biến hành. Ái đối với thân đời sau có khả năng dẫn dắt hơn hẳn nên nói là đứng đầu nơi duyên khởi của biên vực sau.

Lại nữa, vô minh có bốn sự việc nên nói là đứng đầu nơi duyên khởi của biên vực trước: 1. Duyên nơi hữu lậu, vô lậu. 2. Duyên nơi hữu vi, vô vi. 3. Là biến hành, không phải là biến hành. 4. Duyên nơi tự giới, tha giới. Ái chỉ duyên nơi hữu lậu, duyên nơi hữu vi, không phải là biến hành, chỉ duyên nơi tự giới, nên nói là đứng đầu nơi duyên khởi của biên vực sau. (Lại có nghĩa khác, phần sau sẽ nói rộng).

Thủ duyên hữu: Nghĩa là nếu phiền não hữu lại có khả năng phát khởi nghiệp dẫn dắt đến quả của thân sau, không phải là không có phiền não.

Hữu duyên sinh: Nghĩa là nếu hữu có khả năng dẫn dắt các nghiệp của thân sau thì thân sau sẽ sinh, không phải là không có dẫn nghiệp.

Sinh duyên lão tử: Nghĩa là nếu có sinh là có lão tử.

Hỏi: Vì sao trong ba tướng hữu vi thì sinh lập riêng một chi, còn lão tử cùng lập một chi?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Đức Thế Tôn đối với công năng có sai biệt của các pháp có khả năng khéo nhận biết rõ, người khác không có khả năng ấy. Nên về sự việc này khỏi phải chất vấn.

Lại có thuyết nói: Các pháp lúc sinh, sinh có tác dụng, nên lập riêng một chi. Các pháp khi diệt, lão tử vô thường đều có tác dụng, nên hợp lập một chi.

Có Sư khác cho: Sinh khiến các pháp nối tiếp nhau tăng trưởng, nên lập riêng một chi. Lão tử khiến các pháp không nối tiếp, không tăng trưởng, nên lập chung một chi.

Hoặc lại có thuyết nêu: Sinh khiến các pháp có tác dụng hòa hợp, nên lập riêng một chi. Lão tử khiến các pháp lìa tan vô dụng, nên hợp lập một chi.

Tôn giả Thế Hữu nói: Sinh khiến các pháp từ vị lai đi vào hiện tại, nên lập riêng một chi. Lão tử khiến các pháp từ hiện tại đi vào quá khứ, nên hợp lập một chi.

Tôn giả Diệu Âm nói: Vì tác dụng của sinh là hơn, riêng làm xong một sự việc, nên lập riêng một chi. Tác dụng của lão tử yếu kém, phải cùng làm xong một sự việc, nên hợp lập một chi. Như người có sức mạnh riêng làm xong một sự việc, người yếu thì không như thế.

Hỏi: Vì sao bệnh không lập hữu chi?

Đáp: Vì không có tướng của hữu chi. Lại nữa, nếu pháp có mặt nơi tất cả thời, tất cả xứ, tất cả hữu, nên lập hữu chi, còn bệnh thì không như thế, nên không lập hữu chi. Như Tôn giả Bạc-củ-la nói: “Tôi xuất gia trong pháp Phật, đã hơn tám mươi tuổi hãy còn không nhớ mình có chút bệnh nhức đầu, huống chi là thân bệnh khác”. Tôn giả kia sinh ở châu Thiệm bộ thuộc cõi dục hãy còn không có chút bệnh nào huống chi là ở cõi khác, xứ khác. Vì bệnh không hiện hữu khắp nên không lập hữu chi.

Hỏi: Khế kinh này nói: Lão tử duyên nơi sầu bi khổ ưu não. Vì sao sầu v.v… không lập hữu chi?

Đáp: Không có tướng của chi. Nghĩa là năm thứ như sầu v.v… làm tan hoại hữu chi như sương mưa đá làm hại lúa mạ. Lại nữa, sầu v.v… không phải là ở tất cả thời, tất cả xứ, tất cả hữu cũng như tật bệnh, nên sầu v.v… không lập hữu chi.

Hỏi: Năm thứ như sầu v.v… không phải chỉ nói lão tử làm duyên mà do mười hai hữu chi như vô minh v.v… làm duyên sinh ra?

Đáp: Kinh này nên nói vô minh duyên hành và năm thứ như sầu v.v… cho đến sinh duyên lão tử và năm thứ như sầu v.v… nhưng không nói vì ở đây nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nên biết kinh này lấy sau cùng hiển bày khởi đầu. Lão tử là duyên đã sinh sầu v.v… nên biết cho đến vô minh cũng như thế.

Lại nữa, trong phần vị lão tử, phần nhiều khởi sầu buồn v.v… thế nên nói riêng.

Lại nữa, trong phần vị lão tử, đã khởi sầu buồn v.v… đa số là phẩm thượng thế nên nói riêng.

Lại nữa, kẻ tạo nghiệp ác, người phá hủy tịnh giới, ở trong phần vị này phần nhiều sinh sầu buồn v.v…, thế nên nói riêng.

Như Khế kinh nói: Nếu người nam hay nữ gây tạo ba thứ hành ác của thân, ngữ, ý, hoặc phá hủy Thi la, khi sắp mạng chung, tướng nẻo ác hiện ra, như mặt trời sắp lặn, đưa bóng của đỉnh núi lớn phủ trùm toàn thân họ. Bấy giờ, thân tâm sợ hãi, sinh khổ não dữ, cho đến nói rộng. Do vậy, nên chỉ nói lão tử làm duyên.

Hỏi: Vô minh là có nhân chăng? Lão tử là có quả chăng? Nêu ra như thế thì có lỗi gì? Nếu có thì chi duyên khởi nên có mười ba hoặc mười bốn. Nếu không thì vô minh không nhân, lão tử không quả, nên là vô vi chăng?

Đáp: Nên nói như vầy: Vô minh, lão tử tuy có nhân quả, nhưng không phải là hữu chi, nên không có lỗi là có chi mười ba, mười bốn. Nhân của vô minh là tác ý không như lý. Quả của lão tử là những sầu buồn khổ ưu não.

Lại có thuyết cho: Vô minh có nhân, nghĩa là vô minh trước. Lão tử có quả, nghĩa là lão tử sau. Vô minh trong quá khứ, vị lai và lão tử có nhiều sát-na, nên không có lỗi là có chi mười ba, mười bốn.

Có Sư khác nêu: Vô minh có nhân, nghĩa là lão tử trước. Lão tử có quả, nghĩa là vô minh sau. Vì ái thủ của hiện tại tức là vô minh trong quá khứ. Danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ trong hiện tại tức là lão tử ở vị lai. Như nói thọ duyên ái, tức là nói lão tử duyên nơi vô minh. Cũng như bánh xe trên dưới cùng xoay chuyển, sau cùng mà lại khởi đầu. Như thế hữu chi từ vô thỉ nối tiếp nhau, tuy có nhân quả nhưng không có lỗi là có chi mười ba, mười bốn.

Lại nữa, Đức Thế Tôn vì những người thọ nhận sự hóa độ, đã thiết lập pháp duyên khởi ít, nhiều không nhất định. Nghĩa là: Hoặc có xứ giảng nói một duyên khởi: Tức là tất cả pháp hữu vi gọi chung là duyên khởi. Như nói: Thế nào là duyên khởi? Nghĩa là tất cả pháp hữu vi. Hoặc lại có xứ giảng nói hai duyên khởi: Nghĩa là nhân và quả. Hoặc lại có xứ giảng nói ba duyên khởi: Nghĩa là ba đời riêng khác. Hoặc là nghiệp, phiền não và sự việc là ba: Vô minh, ái, thủ, gọi là phiền não, hành hữu là nghiệp, chi khác là sự việc. Hoặc lại có xứ giảng nói bốn duyên khởi: Nghĩa là vô minh, hành và sinh, lão tử gồm thâu tám chi trong hiện tại, nhập nơi bốn thứ. Tức ái, thủ nhập nơi vô minh. Hữu nhập nơi hành. Thức nhập nơi sinh. Danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ nhập nơi lão tử. Hoặc lại có xứ giảng nói năm duyên khởi: Nghĩa là ái, thủ, hữu và sinh, lão tử gồm thâu bảy chi của biên vực trước nhập nơi năm duyên khởi này. Tức vô minh nhập nơi ái, thủ. Hành nhập nơi hữu. Thức nhập nơi sinh. Danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ nhập nơi lão tử. Hoặc lại có xứ giảng nói sáu duyên khởi: Nghĩa là trong ba đời đều có nhân, quả. Hoặc lại có xứ giảng nói bảy duyên khởi: Nghĩa là vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu xứ, xúc và thọ gồm thâu năm chi của biên vực sau nhập nơi bảy duyên khởi này. Tức ái, thủ nhập nơi vô minh. Hữu nhập nơi hành. Sinh nhập nơi thức. Lão tử nhập nơi danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ. Hoặc lại có xứ giảng nói tám duyên khởi: Nghĩa là tám chi hiện tại, bốn chi quá khứ, vị lai nhập vào tám duyên khởi này. Tức vô minh nhập nơi ái, thủ, hành nhập nơi hữu, sinh nhập nơi thức, lão tử nhập nơi danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ. Hoặc lại có xứ giảng nói chín duyên khởi: Như Kinh Đại Nhân Duyên Pháp Môn nói. Hoặc lại có xứ giảng nói mười duyên khởi: Như Kinh Thành Dụ nói. Hoặc lại có xứ giảng nói mười một duyên khởi: Như trong Trí Sự nói. Hoặc lại có xứ giảng nói mười hai duyên khởi: Như trong vô lượng Khế kinh khác nói.

Lại nữa, mười hai chi pháp duyên khởi này tức nghiệp, phiền não, khổ lần lượt làm duyên. Nghĩa là phiền não sinh nghiệp, nghiệp sinh khổ, khổ sinh khổ, khổ sinh phiền não, phiền não sinh phiền não, phiền não sinh nghiệp, nghiệp sinh khổ, khổ sinh khổ. Trong đó: Phiền não sinh nghiệp: Là vô minh duyên hành. Nghiệp sinh khổ: Là hành duyên thức. Khổ sinh khổ: Là thức duyên danh sắc cho đến xúc duyên thọ. Khổ sinh phiền não: Là thọ duyên ái. Phiền não sinh phiền não: Là ái duyên thủ. Phiền não sinh nghiệp: Là thủ duyên hữu. Nghiệp sinh khổ: Là hữu duyên sinh. Khổ sinh khổ: Là sinh duyên lã tử.

Lại nữa, mười hai chi pháp duyên khởi này có hai nối tiếp và ba phần. Hai nối tiếp: Nghĩa là thức cùng với sinh có khả năng nối tiếp sinh khởi. Ba phần: Nghĩa là phiền não, nghiệp, sự. Vô minh, ái, thủ là phiền não. Hành hữu là nghiệp. Các chi khác là sự.

Có Sư khác cho: Hai nối tiếp: Nghĩa là hành, hữu nối tiếp hữu đời sau. Ba phần: Nghĩa là ba đời.

Lại, mười hai chi thâu làm ba tụ (nhóm): Nghĩa là phiền não, nghiệp và khổ. Như thế gọi là ba tụ, cũng gọi là ba tập, ba hữu, ba đạo, tùy thuộc vào tướng, nên biết.

Lại nữa, mười hai chi pháp duyên khởi này có rễ, có thân, có cành, có lá, có hoa, có quả, cũng như đại thọ. Trong đây, rễ là vô minh, hành, thân là thức, danh sắc, cành là sáu xứ, là xúc, thọ, hoa là ái, thủ, hữu, quả là sinh, lão tử. Cây mười hai chi pháp duyên khởi này hoặc có hoa có quả, hoặc không hoa không quả. Có hoa có quả là phàm phu và hữu học. Không hoa không quả là A-la-hán.

Hỏi: Mười hai chi pháp duyên khởi này có bao nhiêu thứ là sátna, bao nhiêu thứ là nối tiếp?

Đáp: Hai thứ là sát-na, nghĩa là thức và sinh. Ngoài ra đều là nối tiếp.

Hỏi: Mười hai chi pháp duyên khởi này bao nhiêu thứ là nhiễm ô, bao nhiêu thứ là không nhiễm ô?

Đáp: Có thuyết nói: Có năm thứ là nhiễm ô, nghĩa là vô minh, thức, ái, thủ và sinh. Còn lại là chung cho cả nhiễm ô, không nhiễm ô.

Lời bình: Thuyết kia không nên nói như vậy, vì ở đây là nói về duyên khởi phần vị, nên nói như vầy: Tất cả đều chung cho nhiễm ô, không nhiễm ô. Trước đây đã nói tâm tâm sở pháp trong năm chi chỉ là nhiễm ô. Ngoài ra chung cả nhiễm ô và không nhiễm ô.

Có thuyết nói: Tâm tâm sở pháp của hai chi thức, sinh nhất định là nhiễm ô, ngoài ra đều không nhất định.

Hỏi: Mười hai chi pháp duyên khởi này bao nhiêu thứ là dị thục, bao nhiêu thứ không phải là dị thục?

Đáp: Có thuyết cho: Năm thứ không phải là dị thục, bảy thứ là dị thục.

Lời bình: Vị kia không nên nói như vậy, vì trong Luận này nói về duyên khởi phần vị, nên nói như vầy: Tất cả đều chung cho dị thục và không phải dị thục. Nhưng khi vô minh, thức, ái, thủ, sinh, thì tâm tâm sở pháp nhất định không phải là dị thục, ngoài ra chung cho cả hai thứ.

Có thuyết nêu: Tâm tâm sở pháp của hai chi thức, sinh, nhất định không phải dị thục, ngoài ra đều không nhất định.

Hỏi: Mười hai chi pháp duyên khởi này, bao nhiêu thứ có dị thục, bao nhiêu thứ không có dị thục?

Đáp: Có thuyết nói: Hai chi hành, hữu nhất định có dị thục, các chi khác đều chung cả hai thứ.

Lời bình: Người kia không nên nói như vậy, vì trong đây nói về duyên khởi phần vị, nên nói như vầy: Tất cả đều chung cho cả hai thứ.

Hỏi: Mười hai chi pháp duyên khởi này, bao nhiêu thứ ở nơi cõi dục, bao nhiêu thứ ở nơi cõi sắc, bao nhiêu thứ ở nơi cõi vô sắc?

Đáp: Có thuyết biện: Cõi dục có đủ mười hai chi. Cõi sắc có mười một chi, trừ danh sắc. Cõi vô sắc có mười chi, trừ danh sắc và sáu xứ. Cõi sắc nên nói như vầy: Thức duyên sáu xứ, cõi ấy không có lúc nào chưa khởi bốn căn. Ở cõi vô sắc nên nói như vầy: Thức duyên xúc vì cõi đó không có sắc và năm căn.

Lời bình: Nên nói như vầy: Ba cõi đều có đủ mười hai hữu chi.

Hỏi: Lúc ở cõi sắc sinh, các căn sinh khởi tức khắc, làm sao có phần vị danh sắc. Ở cõi vô sắc, không có sắc, không có năm căn, làm sao có phần vị của danh sắc và sáu xứ?

Đáp: Năm căn của cõi sắc tuy nhất định sinh khởi tức khắc, nhưng sinh chưa lâu, các căn không mạnh mẽ, nhạy bén, bấy giờ chỉ thuộc về chi danh sắc. Cõi vô sắc tuy không có sắc và năm căn, nhưng có danh và ý căn. Việc đó nên nói như vầy: Thức duyên nơi danh, danh duyên nơi ý xứ, ý xứ duyên nơi xúc, thế nên ba cõi đều có đủ mười hai chi.

Lại nữa, hữu chi giống nhau, lại khiến hữu chi giống nhau nối tiếp. Nghĩa là hữu chi của cõi dục trở lại khiến hữu chi của cõi dục nối tiếp. Hữu chi của cõi sắc, cõi vô sắc cũng như thế, chỉ trừ phần vị thọ. Phần vị thọ này hoặc có thể khiến cho hữu chi không giống nhau nối tiếp. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, nếu chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, khởi ái, thủ, hữu của cõi dục hiện ở trước, dẫn dắt đến sinh, lão tử ở vị lai. Người đó nơi hiện tại có một ái, một thủ, một hữu, nơi vị lai có một sinh, một lão tử. Nếu đã lìa nhiễm nơi cõi dục, chưa lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, khởi ái, thủ, hữu của tĩnh lự thứ nhất hiện ở trước, dẫn dắt đến sinh, lão tử ở vị lai. Người kia nơi hiện tại có hai ái, hai thủ, hai hữu, nơi vị lai có hai sinh, hai lão tử. Như thế, cho đến đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, chưa lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khởi ái, thủ, hữu của Phi tưởng phi phi tưởng xứ hiện ở trước, dẫn đến sinh, lão tử nơi vị lai. Người kia nơi hiện tại có chín ái, chín thủ, chín hữu, nơi vị lai có chín sinh, chín lão tử.

Người kia từ cõi dục mất, sinh lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Khi xưa ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ, ái, thủ của hiện tại, nay là vô minh của quá khứ. Hữu của hiện tại, nay là hành của quá khứ. Sinh của vị lai, nay là thức của hiện tại. Lão tử ở vị lai, nay là danh, ý, xúc, thọ của hiện tại.

Lúc xưa ở địa khác, các chi hoặc hiện tại, hoặc vị lai, nay không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại. Vì sao? Vì nhân quả lần lượt cùng so sánh nên nói là có, vì nhân quả của địa kia đều không thành tựu, nên không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Người kia từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ mất, sinh nơi Vô sở hữu xứ. Lúc xưa ở Vô sở hữu xứ, ái, thủ của hiện tại, nay là vô minh của quá khứ. Hữu của hiện tại, nay là hành của quá khứ. Sinh của vị lai, nay là thức của hiện tại. Lão tử của vị lai, nay là danh, ý, xúc, thọ của hiện tại.

Khi xưa ở địa khác, các chi hoặc hiện tại, hoặc vị lai, nay không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại. Vì sao? Vì nhân quả lần lượt cùng so sánh nên nói là có, vì nhân quả của địa kia đều không thành tựu, nên không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Người kia từ Vô sở hữu xứ mất, lần lượt cho đến trở lại sinh vào cõi dục. Khi xưa ở cõi dục, ái, thủ của hiện tại, nay là vô minh của quá khứ. Hữu của hiện tại, nay là hành của quá khứ. Sinh của vị lai, nay là thức của hiện tại. Lão tử của vị lai, nay là danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ của hiện tại.

Khi xưa ở địa khác, các chi hoặc hiện tại, hoặc vị lai, nay không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại. Vì sao? Vì nhân quả lần lượt cùng so sánh nên nói là có, vì nhân, uả của địa kia đều không thành tựu, nên không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Lại nữa, nếu sinh ở cõi dục, các căn thành tựu, khả năng tạo nghiệp, khả năng dẫn dắt nghiệp của đời sau, phần vị của vô minh kia lúc hiện ở trước, có một chi hiện tại là vô minh, các chi khác thuộc về vị lai.

Lúc từ phần vị vô minh đến phần vị hành, có hai chi hiện tại là vô minh và hành, các chi khác thuộc về vị lai.

Lúc từ phần vị hành đến phần vị thức, có hai chi quá khứ là vô minh và hành, một chi hiện tại là thức, các chi khác thuộc vị lai.

Lúc từ phần vị thức đến phần vị danh sắc, có hai chi quá khứ là vô minh và hành, hai chi hiện tại là thức và danh sắc, các chi khác thuộc về vị lai.

Như thế cho đến lúc từ phần vị thủ đến phần vị hữu, có hai chi quá khứ là vô minh và hành, tám chi hiện tại là thức cho đến hữu, hai chi vị lai là sinh, lão tử.

Lúc từ phần vị hữu đến phần vị sinh, có mười chi quá khứ là vô minh cho đến hữu, một chi hiện tại là sinh, một chi vị lai là lão tử.

Lúc từ phần vị sinh đến phần vị lão tử, có mười chi quá khứ là vô minh cho đến hữu, hai chi hiện tại là sinh và lão tử.

Tôn giả Vọng Mãn nói: Lúc phần vị vô minh, hành hiện tiền, có hai chi hiện tại là vô minh và hành, mười chi vị lai: tám chi ở kế đời sau là thức cho đến hữu, hai chi ở đời thứ ba là sinh và lão tử. Lúc phần vị sinh, lão tử hiện tiền, có hai chi hiện tại là sinh và lão tử, mười chi quá khứ: tám chi ở kế đời trước là từ thức cho đến hữu, hai chi ở đời thứ ba là vô minh và hành. Lúc tám phần vị như thức v.v… hiện tiền, có tám chi hiện tại là từ thức cho đến hữu, hai chi thuộc quá khứ là vô minh và hành, hai chi ở vị lai là sinh và lão tử. Như nói sinh nơi cõi dục, nói sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, trong các Khế kinh, Đức Phật vì đối tượng được giáo hóa giảng nói pháp duyên khởi, hoặc lấy nhân làm môn, hoặc lấy quả làm môn, hoặc dùng cả hai làm môn.

Hỏi: Vì giáo hóa đối tượng nào dùng nhân làm môn giảng nói pháp duyên khởi? Cho đến vì giáo hóa đối tượng nào dùng cả hai thứ nhân – quả làm môn giảng nói pháp duyên khởi?

Đáp: Vì kẻ ngu tối về nhân nên dùng nhân làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì kẻ ngu tối về quả nên dùng quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì người ngu tối cả nhân quả nên dùng cả hai thứ nhân quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi.

Lại nữa, vì kẻ mới tu học nên dùng quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì kẻ đã vượt lên tác ý nên dùng nhân làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì những người quen hành tập nên dùng cả hai thứ nhân quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi.

Lại nữa, vì kẻ ưa thích giản lược nên dùng nhân làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì kẻ ưa thích bàn rộng nên dùng quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì những người ưa thích vừa rộng, vừa lược nên dùng cả hai thứ nhân quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi.

Lại nữa, vì những hàng lợi căn nên dùng nhân làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì những kẻ độn căn nên dùng quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Vì hạng căn tánh trung bình nên dùng cả nhân quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi.

Hỏi: Nếu vì hàng độn căn dùng quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi, những kẻ ấy liền được hiểu. Vậy Bồ-tát nơi thân sau với các hữu tình căn tánh là tối thắng vì sao lại dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi?

Đáp: Nơi quá khứ Bồ-tát đã trải qua nhiều kiếp như số cát sông Hằng đều dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi. Ở đời vị lai cũng như thế. Thế nên hiện tại Bồ-tát trụ nơi thân sau cùng, cũng theo pháp quán này.

Lại nữa, Bồ-tát cũng quán vô minh duyên hành, lần lượt cho đến sinh duyên lão tử. Quán thuận như thế, phần nhiều là ở nơi Nhị thừa. Hoặc lại có lúc tu tập quán nghịch, nên không thể nói là chỉ dùng quả làm môn.

Lại nữa, Bồ-tát hiện thấy già, bệnh là khổ nên khởi suy nghĩ: Già, bệnh, chết này là do duyên gì mà có? Biết là do sinh mà có. Lại tư duy: Sinh là do duyên gì mà có? Biết là do hữu mà có, cho đến nói rộng. Do trước thấy quả, nên khởi quán này.

Lại nữa, có trời Tịnh cư vì nhằm làm cho Bồ-tát khởi tâm nhàm chán hữu, nên hiện ra cảnh già, bệnh, chết. Bồ-tát trông thấy nên nhàm chán hữu, xuất gia. Xuất gia rồi thuận theo điều đã thấy từ trước nên dùng quả làm môn quán pháp duyên khởi.

Lại nữa, vì thuận với hiện quán. Nghĩa là về sau, lúc Bồ-tát hiện quán đế, trước hết là quán khổ đế. Nay là học hiện quán, nên trước là quán quả.

Lại nữa, trước đã nói: Vì người mới tu tập nên dùng quả làm môn để giảng nói pháp duyên khởi. Bồ-tát cũng là người mới tu tập, nên dùng quả làm môn quán pháp duyên khởi. Bồ-tát tuy đã từ vô lượng kiếp đến nay tu quán duyên khởi, nhưng nơi thân sau cùng là mới khởi môn này, nên gọi là mới tu tập.

Lại nữa, Bồ-tát nơi kiếp quá khứ, lúc bắt đầu tu hành, đã dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi. Nay tuy thường xuyên hành tập, nhưng quen pháp khi xưa đã tu, nên dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi. Như người đối với cây tuy luôn leo lên ở trên cao, nhưng về sau nếu khi leo lên phải trở lại leo từ gốc.

Lại nữa, vì nhằm hiện bày việc đốt cháy cây sinh tử. Như người đốt cây, trước đốt cháy cành, lá, sau mới đến gốc. Bồ-tát cũng như thế, dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi, tùy theo xứ của đối tượng quán khiến vĩnh viễn không sinh.

Hiếp Tôn giả nói: Không nên xem việc Bồ-tát dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi mà cho là độn căn. Nhưng người hành quán nói tổng quát có hai thứ: 1. Hành theo ái. 2. Hành theo kiến. Hành theo ái: Là dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi, dựa vào Tam-ma-địa vô nguyện, nhập chánh tánh ly sinh. Hành theo kiến: Là dùng nhân làm môn để quán pháp duyên khởi, dựa vào Tamma-địa không, nhập chánh tánh ly sinh. Chỉ trừ Bồ-tát. Bồ-tát tuy là bậc hành theo ái, dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi, nhưng có khả năng dựa vào Tam-ma-địa không, nhập chánh tánh ly sinh, nên có người nêu câu hỏi.

Hỏi: Từng có người hành theo ái, dùng quả làm môn để quán pháp duyên khởi, dựa vào Tam-ma-địa không, nhập chánh tánh ly sinh chăng?

Đáp: Có, như các Bồ-tát.

Như Khế kinh nói: Phật bảo Bí-sô: Lúc Ta chưa chứng đắc Tam Bồ-đề, một mình ở nơi tịch tĩnh, suy nghĩ như vầy: Chúng sinh ở thế gian tuy luôn bị các khổ sinh già chết bức hại, nhưng không thể nhận biết rõ như thật về pháp xuất ly khỏi khổ kia. Ta lại suy nghĩ: Vì cái gì có nên già chết có. Già chết này do gì làm duyên? Suy niệm như thế xong, liền khởi hiện quán: Vì sinh có nên già chết có. Già chết này do sinh làm duyên. Lại khởi suy niệm: Cái gì có nên sinh có? Sinh này lấy gì làm duyên? Suy niệm như thế rồi, lại khởi hiện quán: Vì hữu có nên sinh có. Sinh này do hữu làm duyên. Như thế cho đến lại khởi suy nghĩ: Cái gì có nên danh sắc có? Danh sắc này lấy gì làm duyên? Suy niệm như thế rồi, liền khởi hiện quán: Vì thức có nên danh sắc có. Danh sắc này lấy thức làm duyên. Lại khởi suy nghĩ: Cái gì có nên thức có? Thức này lấy gì làm duyên? Suy niệm như thế xong, liền khởi hiện quán: Vì danh sắc có nên thức có. Thức này lấy danh sắc làm duyên. Liền khởi suy nghĩ thế này: Ta ngang với thức này, tâm nên chuyển trở lại. Vì sao? Vì danh sắc duyên nơi thức, thức duyên nơi danh sắc. Danh sắc duyên nơi sáu xứ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Bồ-tát lúc quán pháp duyên khởi này, là chưa được tuệ vô lậu đích thực của kiến đạo làm sao được gọi là khởi hiện quán?

Đáp: Bấy giờ chưa được hiện quán chân thật, nhưng do thế tục trí hiện thấy duyên khởi giống với hiện quán, nên lập tên gọi hiện quán.

Hỏi: Bồ-tát vì sao quán nghịch về duyên khởi chỉ đến nơi thức thì tâm liền chuyển trở lại? Là vì lực của trí cùng tận hay là cảnh giới của trí cùng tận? Nêu ra như thế thì có lỗi gì? Nếu là do lực của trí cùng tận thì không hợp với chánh lý, vì trí kiến của Bồ-tát là không biên vực. Nếu là do cảnh giới của trí cùng tận thì cũng không đúng lý, vì hành và vô minh vẫn còn chưa quán?

Đáp: Nên nói như vầy: Không phải do lực của trí cùng tận, cũng không phải cảnh giới của trí cùng tận, chỉ do Bồ-tát đối với hành, vô minh trước đã quán. Nghĩa là trước quán hữu, tức đã quán hành, trước quán ái, thủ là đã quán vô minh.

Hỏi: Trước quán về lão tử là đã quán danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ. Trước quán sinh là đã quán thức, nên đối với danh sắc v.v… không quán lại chăng?

Đáp: Trước lược, sau rộng, trước chung, sau riêng, không có lỗi quán lần nữa.

Hỏi: Nếu thế, sinh, thức không khác nhau về rộng, lược, thì quán lại làm gì?

Đáp: Vì chán, sợ sinh nên quán lại không có lỗi. Nghĩa là Đức Thế Tôn của ta, trước kia lúc còn ở quả vị Bồ-tát, nhàm chán cảnh già, bệnh, chết nên đã vượt thành xuất gia, tư duy thế này: Khổ về già, chết này do đâu mà có? Tức liền hiện thấy do tâm nối tiếp sinh.

Lại suy nghĩ: Tâm này do gì sinh khởi? Liền nhận biết là do nghiệp. Lại tư duy: Nghiệp này từ đâu sinh? Liền nhận biết là từ phiền não. Lại suy nghĩ: Phiền não này dựa vào gì sinh? Liền nhận biết là dựa vào sự việc. Lại suy nghĩ: Sự việc này do gì mà chuyển? Liền nhận biết chuyển này là do tâm kiết sinh. Bấy giờ Bồ-tát liền khởi suy niệm: Hết thảy lỗi lầm tai hại đều do tâm này, nên đối với tâm này càng sinh khởi nhàm chán dị biệt, sâu đậm. Tuy không rộng, lược, nhưng cần quán lại lần nữa. Về nghĩa ngang nơi thức, chuyển trở lại thuộc về pháp quán này.

Hỏi: Vô minh đã lược, sao lại không quán?

Đáp: Vì ngăn cách với chi hành. Nghĩa là quán duyên khởi tất căn cứ vào thứ lớp, nên không thể vượt hành mà quán vô minh.

Có thuyết nói: Trước, lúc quán hữu duyên nơi sinh là đã quán danh sắc của nghiệp. Sau, lúc quán danh sắc duyên nơi thức tức quán danh sắc của dị thục. Nếu lại quán hành duyên nơi thức, cũng là quán danh sắc của nghiệp, vì so với trước không khác nên không quán lại nữa.

Có Sư khác cho: Trước, lúc quán hữu duyên nơi sinh là đã quán duyên xa. Sau, lúc quán danh sắc duyên nơi thức tức quán duyên gần. Nếu lại quán hành duyên nơi thức, cũng là quán duyên xa, vì không khác với trước nên không quán lại nữa. Như gần – xa, thì ở đây – ở kia, hiện tiền – không hiện tiền, chúng đồng phần này – chúng đồng phần khác, nên biết cũng như thế.

Hoặc có thuyết nêu: Trước, lúc quán hữu duyên nơi sinh là đã quán duyên của đời trước. Sau, lúc quán danh sắc duyên nơi thức tức quán duyên cùng sinh. Nếu lại quán hành duyên nơi thức, cũng là quán duyên của đời trước, do không khác với trước nên không quán lại nữa.

Hoặc lại có thuyết biện: Trước, lúc quán hữu duyên nơi sinh là đã quán duyên chuyển. Sau, lúc quán danh sắc duyên nơi thức tức quán duyên tùy chuyển. Nếu lại quán hành duyên nơi thức cũng là quán duyên chuyển, vì so với trước không khác nên không quán lại nữa.

Hoặc lại có thuyết cho: Vì nhằm tránh lỗi vô cùng nên không quán lại. Nghĩa là trước quán lão tử tức quán danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ của đời này. Trước quán sinh tức quán thức của đời này. Sau quán danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ tức quán lão tử của đời thứ hai trước. Sau quán thức tức quán sinh của đời thứ hai trước. Nếu lại quán vô minh, hành nên quán đời thứ ba trước. Nếu thế cũng nên quán đời thứ tư, lần lượt sẽ là vô cùng, nên không quán lại vô minh và hành.

Tôn giả Thế Hữu nói: Vì sao ngang nơi thức tâm liền chuyển trở lại? Do thức ưa thích trụ trong thức trụ, nghĩa là thức không muốn bỏ nơi thức trụ. Thức trụ tức là danh sắc, nên quán thức rồi trở lại quán danh sắc.

Lại có thuyết nêu: Thức cùng với danh sắc cùng làm duyên.

Lại có thuyết cho: Vì hai thứ thức và danh sắc này lần lượt làm nhân quả lẫn nhau.

Đại đức nói: Vì sao ngang nơi thức tâm liền chuyển trở lại? Vì vượt qua chi thức không có đối tượng duyên. Cũng như con sâu nhỏ bò trên đầu ngọn cỏ, không có gì để dựa vào tức liền lùi lại và rớt xuống. Tâm quán cũng như thế, chỉ nên vừa đến thức, ngoài ra đều không phải là cảnh của thức, nên liền thoái lui trở lại.

Hiếp Tôn giả nói: Vì sao ngang nơi thức tâm liền chuyển trở lại? Vì duyên nơi chuyển trở lại. Nghĩa là như trước đã nói. Thức duyên nơi danh sắc, nay lại nói danh sắc duyên nơi thức, thì trước làm nhân, nay chuyển làm quả, vì cảnh chuyển trở lại, nên tâm cũng chuyển trở lại.

Tôn giả Diệu Âm nói: Vì sao ngang nơi thức tâm liền chuyển trở lại? Vì thức là gốc của các khổ nơi sinh tử. Nghĩa là Bồ-tát của ta đã nhàm chán sinh tử khổ nên vượt thành xuất gia để suy tìm cái gì là cội rễ của khổ, già, bệnh, chết nơi thế gian? Nghĩa là do tâm kiết sinh. Lại suy niệm: Tâm này do gì dẫn phát? Nghĩa là do nghiệp. Lại suy tư: Nghiệp này do gì sinh? Nghĩa là do phiền não. Lại suy xét: Phiền não này dựa vào gì để khởi? Nghĩa là dựa vào sự việc. Lại suy nghĩ: Sự việc này lấy gì làm gốc? Nghĩa là do tâm kiết sinh, luôn làm cội gốc của các khổ nơi sinh tử thật đáng chán bỏ. Ngang nơi đây nên trở lại tu tập pháp đối trị đích thực.

Tôn giả Thiết-ma-đạt-ma nói: Vì sao ngang nơi thức tâm liền chuyển trở lại? Vì nơi đời vị lai có thể so sánh nhận biết. Nghĩa là trước lúc quán thấy hữu duyên nơi sinh, nhận biết hiện tại sinh là gốc của các khổ. Sau lại quán thấy danh sắc duyên nơi thức, nhận biết sinh của quá khứ là gốc của các khổ, liền khởi suy niệm: Các khổ sinh tử của quá khứ, hiện tại do đã sinh làm gốc, vị lai cũng thế, nên không cần quán lại cảnh khác, vì vậy nên ngang nơi thức tâm liền chuyển trở lại.

Do các hữu chi đều có ba đời, tức nghĩa theo Tôn giả Vọng Mãn nói được thành tựu. Như nói: Phần vị vô minh, hành lúc hiện ở trước có hai chi hiện tại, cho đến nói rộng. Như Khế kinh nói: Phật bảo Bí-sô: Bấy giờ Ta suy niệm như thế này: Vì cái gì không có nên già chết không có? Vì cái gì diệt nên già chết diệt? Suy niệm như thế rồi liền khởi hiện quán: Vì sinh không có nên già chết không có. Vì sinh diệt nên già chết diệt. Như thế cho đến suy niệm như thế này: Vì cái gì không có nên hành không có, vì cái gì diệt nên hành diệt. Suy nghĩ như thế rồi, liền khởi hiện quán: Vì vô minh không có nên hành không có. Vì vô minh diệt nên hành diệt. Vì hành diệt nên thức diệt, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì duyên gì Bồ-tát trong phần Lưu chuyển chỉ quán mười chi, còn trong phần Hoàn diệt quán đủ mười hai chi?

Đáp: Do Bồ-tát chán ghét lưu chuyển nên chỉ quán mười chi, vì yêu thích hoàn diệt nên quán đủ mười hai chi.

Lại nữa, trong phần lưu chuyển, phần nhiều là những lỗi lầm tai hại, lôi kéo tâm yếu kém, nên chỉ quán mười chi. Trong phần hoàn diệt, phần nhiều là các công đức dẫn dắt tâm thù thắng, nên quán mười hai chi.

Trong các Khế kinh, hoặc nói duyên khởi như chiếc đèn, hoặc nói duyên khởi như đống lửa, hoặc nói duyên khởi như thành trì .

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói pháp duyên khởi như chiếc đèn, như đống lửa, như thành trì?

Đáp: Tùy theo đối tượng hiện thấy, tức dùng đấy làm dụ. Nghĩa là chúng sinh được hóa độ hiện thấy chiếc đèn, Đức Thế Tôn liền dùng đèn làm dụ nhằm hiển bày pháp duyên khởi. Nếu chúng sinh được hóa độ hiện thấy đống lửa, Đức Thế Tôn liền dùng đống lửa làm dụ để chỉ rõ pháp duyên khởi. Nếu chúng sinh được hóa độ hiện thấy thành trì, Đức Thế Tôn liền dùng thành trì làm dụ để hiển bày pháp duyên khởi.

Lại nữa, nếu chúng sinh được giáo hóa nghe nói dụ về chiếc đèn liền hiểu được nghĩa duyên khởi, tức Đức Phật giảng nói như chiếc đèn. Nếu chúng sinh được giáo hóa nghe nói đến đống lửa liền hiểu được duyên khởi, tức Đức Phật giảng nói như đống lửa. Nếu chúng sinh được giáo hóa nghe nói như thành trì liền hiểu được duyên khởi, tức Đức Phật giảng nói như thành trì.

Lại nữa, nếu chúng sinh được hóa độ có ái, thủ thuộc phẩm hạ, tức Đức Phật sẽ vì họ giảng nói pháp duyên khởi như chiếc đèn. Nếu chúng sinh được hóa độ có ái, thủ thuộc phẩm trung, tức Đức Phật sẽ vì họ giảng nói pháp duyên khởi như đống lửa. Nếu chúng sinh được hóa độ có ái, thủ thuộc phẩm thượng, tức Đức Phật sẽ vì họ giảng nói pháp duyên khởi như thành trì. Như ba phẩm nơi ái, thủ, ba căn, ba sự vui thích, nên biết cũng như thế.

***

* Như Đức Thế Tôn nói: Vô minh duyên hành, thủ duyên hữu, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Nghĩa là như Khế kinh nói: Vô minh duyên hành, thủ duyên hữu. Tuy nói thế nhưng không biện luận rộng. Kinh là nơi nương dựa căn bản của Luận này, những điều Kinh kia chưa biện luận nay nên phân biệt.

Lại nữa, vì khiến cho kẻ nghi có được quyết định: Nghĩa là Thể của hành và hữu đều là nghiệp.

Hoặc có người sinh nghi: Thể của chúng không riêng khác. Nay làm sáng tỏ là có sai biệt, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là vô minh duyên hành? Thế nào là thủ duyên hữu?

Đáp: Vô minh duyên hành: Đây là chỉ rõ về nghiệp trong đời khác từ trước đã tạo tác làm tăng trưởng, nên nay có dị thục cùng đã thọ nhận dị thục.

Thủ duyên hữu: Đây là chỉ rõ nghiệp trong đời hiện tại đang tạo tác làm tăng trưởng, sẽ có được dị thục.

Đây là chỉ rõ về nghiệp: Là ở đây Đức Phật – Thế Tôn đã khai thị làm rõ tất cả nghiệp hữu lậu bất thiện, thiện đã tạo, đang tạo.

Trong đời khác từ trước: Là chỉ rõ nghiệp này ở trong chúng đồng phần khác của đời trước đã hết, đã diệt, đã lìa, đã biến đổi.

Tạo tác làm tăng trưởng: Là hiển bày nghiệp này đã phát khởi đầy đủ, từ phiền não sinh có thể đạt được quả.

Được nay có dị thục: Là chỉ rõ nghiệp này chiêu cảm được dị thục của các quả nơi đời này.

Cùng đã thọ nhận dị thục: Là chỉ rõ nghiệp này đã thọ nhận các quả dị thục của đời trước đã có. Đời trước đã tạo tác tăng trưởng những nghiệp thiện, bất thiện nên quả dị thục của người đó hoặc nay đang thục (chín), hoặc đã thục, nên biết đều ở trong phần chi hành.

Trong đời hiện tại: Là làm rõ nghiệp này, chỉ ở trong chúng đồng phần của đời này tạo tác, tăng trưởng, không phải trong đời khác.

Sẽ có được dị thục: Là làm rõ nghiệp này sẽ được dị thục của các quả ở đời vị lai sẽ có. Đời này tạo tác, tăng trưởng các nghiệp thiện, bất thiện nên quả dị thục của kẻ kia ở trong đời này chưa thục, nên biết đều ở trong phần chi hữu.

Hỏi: Vì sao nghiệp đã tạo trong đời quá khứ, quả đã chín gọi là hành. Nghiệp đã tạo nơi đời hiện tại, ở trong đời này quả chưa chín gọi là hữu?

Đáp: Nghiệp đã tạo trong đời quá khứ, quả đã chín, nghĩa là đã suy yếu, hư nát, đã thọ dụng, đã cho quả, đã làm xong công việc, không có uy lực, không thể dẫn dắt lần nữa đến dị thục của hữu sau. Nhưng vì đã tạo tác, đã dời đổi nên gọi là hành. Nghiệp đã tạo trong đời hiện tại, ở trong đời này quả chưa chín, nghĩa là trái với nghiệp kia nên gọi là hữu.

Có thuyết nói: Nghiệp đã tạo trong đời quá khứ, quả đã chín: Là nghiệp cũ nên gọi là hành. Nghiệp đã tạo trong đời hiện tại, ở trong đời này quả chưa chín: Là nghiệp mới nên gọi là hữu.

Có Sư khác nói: Nghiệp đã tạo trong đời quá khứ, quả đã chín: Là vì đã cho quả nên gọi là hành. Nghiệp đã tạo trong đời hiện tại, ở trong đời này quả chưa chín: Là vì chưa cho quả nên gọi là hữu.

Hỏi: Tạo tác, tăng trưởng có gì khác nhau?

Đáp: Có thuyết nói: Hai sự việc này không khác nhau, vì Thể của nghiệp được hiển bày là không sai khác.

Có thuyết cho: Hai sự việc này cũng có khác nhau. Nghĩa là tên gọi đã khác nhau, vì gọi là tạo tác, gọi là tăng trưởng. Lại nữa, về nghĩa cũng có khác nhau. Tức là có trường hợp do một hành thiện, ác, sinh nơi nẻo thiện, ác. Có trường hợp do ba hành thiện, ác sinh vào nẻo thiện, ác. Trường hợp do một hành: Nghĩa là lúc gia hạnh, chỉ có tạo tác, khi thành xong thì đủ cả hai thứ (Tạo tác, tăng trưởng). Trường hợp do ba hành: Nghĩa là tạo một, hai chỉ có tạo tác. Nếu tạo ba hành là đủ cả hai thứ.

Lại nữa, có trường hợp do một nghiệp vô gián bị đọa địa ngục. Có trường hợp do năm nghiệp vô gián bị đọa địa ngục. Do một: Là lúc gia hạnh chỉ có tạo tác. Khi thành xong thì đủ cả hai thứ. Do năm: Là tạo bốn hành trở lại là chỉ tạo tác. Nếu tạo năm hành là đủ cả hai thứ. Mười nghiệp đạo thiện, bất thiện cũng như thế.

Lại nữa, có trường hợp do nhiều nghiệp chiêu cảm quả của một đời: Như các vị Bồ-tát. Do ba ngàn hai trăm nghiệp phước nên chiêu cảm thân sau cùng. Tạo ba ngàn một trăm nghiệp phước trở lại chỉ là tạo tác. Tạo đủ ba ngàn hai trăm nghiệp phước thì gồm cả hai thứ.

Lại nữa, trường hợp cố suy nghĩ tạo nghiệp là đủ cả hai thứ. Không cố suy nghĩ thì chỉ là tạo tác.

Lại nữa, suy nghĩ trước rồi tạo nghiệp là đủ hai thứ. Đột nhiên gây tạo thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp có gia hạnh là đủ cả hai thứ. Nghiệp không có gia hạnh thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp ba thời nhất định là đủ cả hai thứ. Thời không nhất định thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp xứ nhất định thọ là đủ cả hai thứ. Xứ không nhất định thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp nhất định thọ quả là đủ cả hai thứ. Không nhất định thọ quả thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp bất thiện thọ nhận nẻo ác là đủ cả hai thứ. Nghiệp thọ nhận nẻo người, trời thì chỉ có tạo tác. Nghiệp thiện thọ nhận nẻo người, trời là đủ cả hai thứ. Nghiệp thọ nhận nẻo ác thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp bất thiện lấy nghiệp bất thiện làm quyến thuộc là đủ cả hai thứ. Dùng nghiệp thiện làm quyến thuộc thì chỉ có tạo tác. Nghiệp thiện lấy nghiệp thiện làm quyến thuộc là đủ cả hai thứ. Dùng nghiệp bất thiện làm quyến thuộc thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp bất thiện ở trong thân tà kiến, ngu tối về nhân quả là đủ cả hai thứ. Ở trong thân chánh kiến, không ngu tối về nhân quả thì chỉ có tạo tác. Nghiệp thiện thì trái với nghiệp bất thiện nêu trên.

Lại nữa, nghiệp bất thiện ở trong thân phá giới, phá kiến là đủ cả hai thứ. Ở trong thân kẻ phá giới không phá kiến thì chỉ có tạo tác.

Nghiệp thiện ở trong thân đủ giới, đủ kiến là đủ cả hai thứ. Ở trong thân không đủ giới chỉ đủ kiến thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nghiệp bất thiện ở trong thân hủy hoại gia hạnh, hủy hoại ý lạc là đủ cả hai thứ. Ở trong thân hủy hoại gia hạnh, không hủy hoại ý lạc thì chỉ có tạo tác.

Nghiệp thiện ở trong thân đủ gia hạnh, đủ ý lạc là đủ cả hai thứ. Ở trong thân đủ ý lạc không đủ gia hạnh thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp đã tạo rồi không bỏ, không loại trừ hẳn, không dựa vào pháp đối trị là đủ cả hai thứ. Nếu nghiệp đã tạo rồi có thể bỏ, loại trừ hết dựa vào pháp đối trị thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp trong ba thời luôn nhận biết rõ là đủ cả hai thứ. Nếu không như thế thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp đã tạo rồi không biến đổi, ăn năn là có đủ cả hai thứ. Nếu nghiệp tạo rồi có biến đổi ăn nan thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp đã tạo rồi luôn nhớ nghĩ là đủ cả hai thứ. Nếu nghiệp đã tạo rồi không luôn nhớ nghĩ thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp tạo sự việc trọn vẹn là đủ cả hai thứ. Nếu nghiệp tạo sự việc không trọn vẹn thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp thường hành tác là đủ cả hai thứ. Nếu không thường hành tác thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, nếu nghiệp đã tạo rồi hoan hỷ, tán thán, hồi hướng về quả là đủ cả hai thứ. Nếu không như thế thì chỉ có tạo tác.

Lại nữa, tâm sáng rõ lúc tạo nghiệp là đủ cả hai thứ. Nếu tâm không sáng tỏ thì chỉ có tạo tác.

Những sự việc như thế, gọi là sai khác.

HẾT – QUYỂN 24