LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 100

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ THA TÂM TRÍ, phần 2

Các loại hữu tình, có kẻ là lưu chuyển, có kẻ là hoàn diệt. Kẻ lưu chuyển: Tức là lại thọ sinh. Kẻ hoàn diệt: Tức là hướng đến Niết-bàn.

Nếu các hữu tình sinh vào cõi dục, cõi sắc và các phàm phu sinh vào cõi vô sắc, tu tha tâm trí, đối với các tâm, tâm sở pháp ấy do hai việc nên chứng được tha tâm trí, đó là khả năng duyên và hiện khởi. Nếu các hữu tình nhập Niết-bàn và các bậc Thánh sinh vào cõi vô sắc, tu tha tâm trí, đối với các tâm, tâm sở pháp ấy chỉ do một sự để đạt được tha tâm trí, tức chỉ có khả năng duyên, không thể hiện khởi.

Hỏi: Nếu các bậc Thánh sinh vào cõi vô sắc thì có thể tu được tha tâm trí ở địa dưới không?

Đáp: Có thuyết nói: Không tu. Vì các bậc ấy hoàn toàn không có nghĩa khởi.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tuy nhất định là không khởi nhưng có thể tu, vì sinh ở địa trên có thể tu vô lậu ở địa dưới, như pháp trí phẩm nói không trái lý. Còn phàm phu sinh vào cõi đó thì không tu theo nghĩa này.

Hoặc có loại tâm, tâm sở pháp là cảnh nơi tha tâm trí của Phật không phải của Độc giác, Thanh văn.

Hoặc có loại tâm, tâm sở pháp là cảnh nơi tha tâm trí của Phật và của Độc giác, không phải là của các Thanh văn.

Hoặc có loại tâm, tâm sở pháp là cảnh nơi tha tâm trí của Phật, Độc giác và Thanh văn.

Như Khế kinh nói: Các Bí-sô nên biết! Trong núi Đại Tuyết có những chỗ như thế cả loài khỉ lẫn người đều không thể đi được. Có chỗ như thế chỉ có khỉ đi được, người không thể đi được. Có chỗ như thế cả khỉ lẫn người đều đi được.

Trong kinh đó, nói về núi Đại Tuyết: Là chỉ rõ về pháp của đối tượng nhận biết. Còn chỗ như thế: Là chỉ rõ ở nơi kiến đạo trong mười lăm sát-na. Khỉ: Là chỉ cho Độc giác. Người: Là chỉ cho Thanh văn. Có thể đi được và không thể đi được: Là hiển bày các tha tâm trí. Nhưng tha tâm trí có thể nhận biết được các tâm, tâm sở pháp của đồng loại, không phải là không đồng loại. Nghĩa là hữu lậu thì chỉ nhận biết về hữu lậu, vô lậu thì nhận biết về vô lậu. Từng được chỉ nhận biết về từng được, chưa từng được chỉ nhận biết về chưa từng được. Pháp trí phẩm chỉ nhận biết về pháp trí phẩm, loại trí phẩm chỉ nhận biết về loại trí phẩm.

Tha tâm trí của Thanh văn đối với kiến đạo chỉ nhận biết được hai tâm sát-na. Tha tâm trí của Độc giác đối với kiến đạo chỉ nhận biết được ba tâm sát-na. Tha tâm trí của Phật đối với kiến đạo thứ lớp nhận biết được mười lăm tâm sát-na. Vì sao? Vì tha tâm trí của Phật không do các gia hạnh mà hiện tiền. Tha tâm trí của Độc giác do gia hạnh ở bậc dưới mà hiện tiền. Tha tâm trí của Thanh văn phải do gia hạnh ở bậc trung hoặc bậc thượng mới hiện tiền.

Nghĩa là người tu quán, khi sắp nhập kiến đạo, như bậc Thanh văn muốn biết tâm kiến đạo ấy, trước phải tu pháp trí làm gia hạnh cho tha tâm trí. Nếu người tu quán kia đã nhập nơi kiến đạo, tức là gia hạnh của tha tâm trí ấy đã được trọn đủ, liền có thể nhận biết rõ hai tâm sát-na. Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn và khổ pháp trí cùng kết hợp với tâm. Còn khi người tu quán kia nhập vào loại trí phẩm, mà Thanh văn lại tu loại trí phẩm làm gia hạnh cho tha tâm trí, phải trải qua mười ba sát-na gia hạnh mới gồm đủ, liền có thể nhận biết được tâm thứ mười sáu. Nghĩa là vốn muốn biết được tâm thứ ba thì nay mới biết nó là tâm thứ mười sáu kia . Thế nên tha tâm trí của Thanh văn chỉ mới nhận biết được hai tâm đầu của kiến đạo.

Nếu người tu quán, khi sắp nhập kiến đạo, bậc Độc giác muốn biết tâm kiến đạo ấy, trước hết phải tu pháp trí phẩm làm gia hạnh cho tha tâm trí. Nếu người tu quán kia đã nhập nơi kiến đạo, tức là gia hạnh của tha tâm trí ấy đã được trọn đủ, liền có thể nhận biết rõ tâm hai sát-na. Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn và khổ pháp trí cũng kết hợp với tâm. Còn khi người tu quán kia nhập vào loại trí phẩm, mà Độc giác lại tu loại trí phẩm làm gia hạnh cho tha tâm trí, phải trải qua năm sát-na gia hạnh mới trọn đủ, liền có thể nhận biết được tâm thứ tám kia. Nghĩa là vốn muốn biết được tâm thứ ba thì nay mới biết được là tập loại trí cùng kết hợp với tâm.

Có thuyết nói: Biết rõ tâm thứ mười lăm kia phải trải qua mười hai sát-na gia hạnh mới trọn đủ.

Có thuyết cho: Độc giác có thể nhận biết được bốn tâm. Nghĩa là biết rõ được hai tâm đầu, tâm thứ tám và thứ mười bốn.

Có Sư khác nêu: Biết được hai tâm đầu, tâm thứ mười một và mười hai. Tức là diệt loại trí nhẫn và diệt loại trí cùng kết hợp với tâm. Còn tha tâm trí của Phật không do gia hạnh nên nhận biết đầy đủ mười lăm sát-na tâm của kiến đạo.

Trí của Phật đối với ba đạo (ba thừa) đều có thể nhận biết rõ tự tướng và cộng tướng. Trí của Độc giác đối với thừa Độc giác và Thanh văn có thể nhận biết rõ được tự tướng và cộng tướng, nhưng đối với Phật thừa chỉ có thể nhận biết rõ cộng tướng, không nhận biết tự tướng. Trí của Thanh văn đối với thừa Thanh văn có thể nhận biết rõ được tự tướng và cộng tướng, nhưng đối với Phật và Độc giác thừa chỉ nhận biết được cộng tướng, không nhận biết được tự tướng.

Hỏi: Thanh văn khi nhập hiện quán có thể hiện quán được Phật và Độc giác thừa chăng? Nếu nói như thế thì có lỗi gì? Nếu có thể hiện quán thì vì sao tha tâm trí của Thanh văn không thể nhận biết được tâm của Phật và Độc giác? Còn nếu không thể hiện quán thì vì sao cũng được duyên với nó mà chứng tịnh, lại khi hiện quán thì không quán khắp về đạo đế?

Đáp: Nên nói như vầy: Thanh văn khi nhập hiện quán cũng có thể hiện quán được đối với Phật và Độc giác thừa.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao tha tâm trí của Thanh văn lại không thể nhận biết được tâm của Phật và Độc giác?

Đáp: Vì khi nhập hiện quán chỉ nhận biết được cộng tướng, không nhận biết được tự tướng của hai thừa ấy, nên tha tâm trí là chủ thể hiện quán chỉ nhận biết được tự tướng, tức tha tâm trí ấy không thể nhận biết được tâm của Phật và Độc giác.

Hỏi: Trong sự nối tiếp của một hữu tình, các tha tâm trí hiện có thể nhận biết rõ các tâm, tâm sở pháp của tất cả các hữu tình tùy chỗ thích ứng của họ, thì trí này đối với các tâm, tâm sở pháp kia là nhận biết chung về vật loại hay nhận biết riêng từng sát-na? Nếu nói như thế thì có lỗi gì?

Nếu nhận biết chung các vật loại không phải là riêng từng sátna thì đối với sát na riêng làm sao có thể nhận biết?

Còn nếu nhận biết riêng từng sát-na thì vì sao chỗ dựa của trí này không nhiều? Nghĩa là nhóm tha tâm trí của mình có hai mươi mốt pháp duyên nơi một sát-na thọ nhận của một hữu tình. Như một sát-na thọ nhận, tất cả các sát-na thọ nhận cũng thế. Như vô lượng vô biên sát-na thọ nhận, tất cả các sát-na nơi tâm, tâm sở pháp của những thứ khác cũng thế. Như vô lượng vô biên các sát-na nơi tâm, tâm sở pháp của một hữu tình, tất cả các sát-na nơi tâm, tâm sở pháp của tất cả hữu tình cũng thế.

Như vậy, tâm, tâm sở pháp của mình tức là nhiều, còn các loại hữu tình khác, do có nhiều trí nên chỗ nương dựa cũng phải nhiều.

Đáp: Có thuyết nói: Nhận biết chung về các vật loại, không phải nhận biết riêng từng sát-na.

Hỏi: Nếu như thế làm sao nhận biết riêng từng sát-na được?

Đáp: Không thể có việc đó được, song vì phân biệt nên giả sử là có khả năng nhận biết được. Vì khi vật loại trí đã dứt thì không còn muốn nhận biết các sát-na khác, nếu muốn nhận biết cũng không thể được. Nếu trí ấy chưa dứt mà muốn nhận biết thì liền nhận biết. Lại, vật loại trí không muốn nhận biết riêng từng sát-na, giả như muốn nhận biết riêng thì cũng không thể nhận biết, vì các sự muốn nhận biết hay không là do ở vật loại.

Lại có thuyết cho: Nhận biết riêng từng sát-na.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao chỗ nương dựa của trí này không nhiều?

Đáp: Không có lỗi về đây, kia v.v… như thế. Như nhóm hai mươi mốt pháp tha tâm trí của mình có vô lượng vô biên sát-na, đối với tất cả các tâm, tâm sở pháp của hết thảy các hữu tình khác, mỗi mỗi sát-na đều có thể duyên riêng. Như thế, nhóm tha tâm trí của tất cả hữu tình khác cũng có vô lượng, vô biên sát na, đối với hết thảy tâm, tâm sở pháp của tất cả hữu tình khác, mỗi mỗi sát-na đều có thể duyên riêng. Cho nên nếu chỗ nương dựa của trí có nhiều thì cũng không có lỗi.

Lời bình: Nên biết ở đây thuyết nêu sau là đúng, vì đối tượng duyên của tâm, tâm sở pháp là nhất định.

Hỏi: Các tha tâm trí có thể duyên chung cho cả ba đời hay chỉ duyên nơi hiện tại?

Đáp: Các tha tâm trí chỉ duyên nơi hiện tại.

Hỏi: Nếu như thế thì nơi Luận nói làm sao thông? Như nói: Pháp quá khứ vị lai do chín trí nhận biết, trừ diệt trí.

Đáp: Nên nói như vầy: Pháp quá khứ vị lai có tám trí nhận biết, trừ diệt trí và tha tâm trí. Pháp hiện tại có chín trí nhận biết, trừ diệt trí. Đáng lẽ nói như thế nhưng không nói, nên biết là có ý sâu xa riêng. Nghĩa là các chủng loại mà chín trí ấy nhận biết được, nếu ở quá khứ tức là tha tâm trí quá khứ nhận biết. Cũng thế, nếu ở vị lai không có pháp sinh, thì tha tâm trí nhận biết. Nếu ở vị lai thì chỉ tha tâm trí ở vị lai nhận biết. Nếu pháp ở hiện tại thì chỉ tha tâm trí ở hiện tại nhận biết. Cũng thế, nếu ở vị lai không có pháp sinh, thì tha tâm trí nhận biết. Dựa vào ý này nên nói: Pháp ở quá khứ, vị lai có chín trí nhận biết, không nói pháp quá khứ vị lai là tha tâm trí ở hiện tại nhận biết rõ.

Lại như có người muốn khiến tha tâm trí khi hiện tiền có thể nhận biết rõ được tâm nối tiếp nơi ba sát-na của người khác. Tức là khi hiện tiền thì tiếp theo pháp trước diệt liền có pháp sau sinh. Luận dựa vào đây mà nói thì cũng không trái nhau.

Lời bình: Người kia không nên nói như thế, vì tha tâm trí chỉ nhận biết tâm, tâm sở pháp hiện tại của người khác không phải là các pháp khác.

Hỏi: Các tha tâm trí là duyên nơi một vật hay duyên nơi cả nhóm tâm, tâm sở cùng sinh? Nếu nói như thế thì có lỗi gì? Nếu chỉ duyên nơi một vật thì điều nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như Khế kinh nói: Đối với tâm có tham thì nhận biết như thật đấy là tâm có tham, cho đến nói rộng. Nếu trong một lúc nhận biết cả tham và tâm thì há không phải là duyên nơi cả nhóm. Và điều nơi kinh khác nói làm sao thông? Như Đức Thế Tôn bảo: Một lần Ta tác ý thì nhận biết khắp tất cả ý nghĩ nơi tâm của các Bí-sô. Còn nếu duyên nơi cả nhóm thì vì sao tha tâm trí lại có riêng ba niệm trụ?

Đáp: Nên nói như vầy: Trong khoảng một sát-na khi tha tâm trí khởi lên thì chỉ duyên nơi một vật.

Hỏi: Nếu như thế thì điều nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như nói: Đối với tâm có tham thì nhận biết như thật đấy là tâm có tham v.v…

Đáp: Tâm có tham, nghĩa là tham tương ưng với tâm. Nhưng khi nhận biết tham tức không nhận biết tâm. Còn khi nhận biết tâm thì lại không nhận biết tham. Cũng như khi xem áo cáu bẩn, nếu khi xem chỗ cáu bẩn thì không xem áo, khi xem áo thì không xem chỗ cáu bẩn. Việc này cũng như thế, nên không trái nhau.

Hỏi: Nếu như vậy thì điều nơi các kinh khác nói làm sao thông? Như Đức Thế Tôn nói: Một lần Ta tác ý thì nhận biết khắp tất cả ý nghĩ nơi tâm của các Bí-sô.

Đáp: Kinh ấy không nói tha tâm trí, chỉ nói về trí so sánh (tỷ trí). Nghĩa là trước hết Phật dùng một tha tâm trí để quán xét các ý nghĩ nơi tâm một Bí-sô, sau đó Phật mới dùng tỷ trí để xét chung các ý nghĩ nơi tâm các Bí-sô, biết rõ họ đều đang trụ vào chánh hạnh tịch tĩnh.

Có thuyết cho: Đây không phải là tha tâm trí, cũng không phải là trí so sánh, mà là nguyện trí, biết chung về tâm niệm của tất cả Bí-sô.

Lại có thuyết nói: Đây không phải là tha tâm trí, cũng không phải là trí so sánh, hay nguyên trí, mà do tận trí của Đức Thế Tôn khi hiện tiền có được. Đối với các chủng loại ở cõi dục như thế chưa từng được tâm, tâm sở pháp vô phú vô ký, không nhập tĩnh lự, cũng không khởi thần thông, một khi tác ý thì có thể nhận biết khắp tất cả ý niệm nơi tâm tất cả các Bí-sô.

Có thuyết nêu: Đây là tâm thiện ở cõi dục, khi tận trí khởi thì có được, tức là tư tuệ thù thắng.

Có Sư khác nói: Các tha tâm trí đều có thể duyên nơi nhóm tâm, tâm sở cùng sinh ra.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao tha tâm trí có riêng ba thứ niệm trụ?

Đáp: Khi mới dẫn phát thì có ba thứ niệm trụ. Sau này, khi đã thành tựu trọn đủ thì duyên chung với các tâm, tâm sở pháp cùng khởi, làm duyên nhiều thứ cho pháp niệm trụ.

Lời bình: Tất cả các tha tâm trí, trong khoảng một sát-na chỉ duyên nơi một pháp, chỉ duyên nơi vật thật, chỉ quán xét tự tướng, chỉ quán xét trong thời hiện tại, chỉ quán xét sự nối tiếp của người khác, chỉ quán xét các tâm, tâm sở không ở trong kiến đạo, không phải đi chung với Tam-ma-địa không và vô tướng, cũng không phải thuộc về tận trí và vô sinh trí. Vì trong đạo vô gián, không tu, không khởi hiện là thuộc chủng loại của đạo gồm thâu an lạc.

Hỏi: Thế nào là Túc trụ tùy niệm trí?

Đáp: Nếu là trí do tu tạo thành, là quả của sự tu tập, nương dựa vào tu, đã được không mất, có khả năng hiện nhớ biết các sự việc đã qua ở đời trước với các thứ hình dáng, hoạt động, ngôn thuyết. Đó gọi là túc trụ tùy niệm trí.

Ở đây, nếu là trí do tu tạo thành: Tức là lấy tuệ do tu tạo thành làm tự tánh.

Là quả của sự tu tập: Tức quả của bốn chi, năm chi tĩnh lự.

Nương dựa vào tu: Tức dựa vào sự tu tập nhiều lần nên thành tựu.

Đã được không mất: Tức khi đã chứng đắc thì không bỏ.

Hỏi: Vì sao không nói chưa được đã mất?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, tức biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu do trí này gọi là thành tựu túc trụ thông thì ở đây nêu bày. Nhưng chưa được đã mất thì các trí túc trụ không có nghĩa như thế, nên không nói.

Có khả năng hiện nhớ biết các sự việc đã qua ở đời trước: Tức trí này có khả năng nhớ biết rõ các đời trong quá khứ, các sự việc nối tiếp của mình và người khác nơi cõi dục và cõi sắc.

Các thứ hình dáng, hoạt động, ngôn thuyết: Tức là sinh hữu, bản hữu, tử hữu, gọi là các thứ hình dáng tướng trạng, có thể hiển bày các diện mạo riêng. Trung hữu gọi là các ngôn thuyết vì trung hữu vi tế, chỉ có thể ngôn thuyết, không thể chỉ rõ tướng trạng riêng.

Có thuyết nói: Trung hữu gọi là các thứ tướng trạng, giống với bản hữu. Sinh hữu, bản hữu, tử hữu gọi là các ngôn thuyết, vì có thể nói về chủng tánh riêng như Sát-đế-lợi v.v… Lại, khi là bản hữu có thể dấy khởi các thứ ngôn luận.

Lại có thuyết nói: Các thứ tướng trạng là lược nói về đời sống ở kiếp trước. Còn những ngôn thuyết là làm rõ rộng các sự việc nơi đời sống ngày xưa.

Có Sư khác nói: Các thứ tướng trạng là chỉ rõ các sự việc đã nêu bày, do đối tượng được giảng nói ở đời quá khứ. Còn các ngôn thuyết là hiển bày các sự việc do chủ thể giảng nói ở đời quá khứ.

Như trong Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Nếu có tướng trạng và ngôn thuyết thì có thể nêu đặt, có sắc thân gọi là thân. Nếu không có tướng trạng và ngôn thuyết để có thể nêu đặt, thì có tăng ngữ xúc, có đối xúc không? Tôn giả A-nan bạch: Thưa không.

Trong đó, sáu nội xứ gọi là tướng trạng, còn sáu ngoại xứ gọi là các ngôn thuyết.

Có thuyết nói: Sáu ngoại xứ gọi là tướng trạng, còn sáu nội xứ gọi là ngôn thuyết. Vì sao? Vì căn cứ vào sáu nội xứ thì có thể nói sáu thức và xúc, tức là nói nhãn thức và nhãn xúc v.v… cho đến nói ý thức và ý xúc.

Lại như Khế kinh nói: Do tướng trạng như thế mà nhập vào tĩnh lự thứ nhất, an trụ đầy đủ. Ở đây, tướng nghĩa là tướng của gia hạnh. Còn trạng nghĩa là hình dáng của đối tượng duyên.

Cũng như luận đã nói: Trừ tướng nêu trước. Tướng là tên được gọi của đối tượng. Như tụng nói:

Nếu thành tựu tám trí

Và mười sáu hành tướng

Như vàng ròng Thiệm-bộ

Không lỗi lầm để nói.

Trong đây, tiếng tướng là nói tuệ vô lậu. Nên biết các việc nơi đời trước ở đây có các thứ tướng trạng và ngôn thuyết v.v… đều chỉ rõ về cảnh của túc trụ tùy niệm trí cả. Tức là đời sống trong quá khứ và sự thay đổi về năm uẩn hữu lậu của mình và của người khác ở trong hai cõi dục và Sắc.

Túc trụ tùy niệm trí này hoặc nên nói có một thứ: Tức là sức thông sáng của túc trụ tùy niệm trí. Hoặc nên nói có hai thứ: Tức là từng được và chưa từng được.

Hoặc nên nói có ba thứ: Tức là ba phẩm hạ trung thượng. Hoặc nên nói có bốn thứ: Tức là quả của bốn tĩnh lự.

Hoặc nên nói có sáu thứ: Tức là từng được và chưa từng được, mỗi thứ có ba phẩm. Hoặc nên nói có tám thứ: Tức là quả của bốn tĩnh lự, mỗi thứ lại có từng được và chưa từng được.

Hoặc nên nói có chín thứ: Tức là từ phẩm hạ hạ lên đến phẩm thượng thượng. Hoặc nên nói có mười hai thứ: Tức là quả của bốn tĩnh lự, mỗi thứ có ba phẩm.

Hoặc nên nói có mười tám thứ: Tức là từng được và chưa từng được, mỗi thứ lại có chín phẩm. Hoặc nên nói có hai mươi bốn thứ: Tức là quả của bốn tĩnh lự, mỗi quả có từng được và chưa từng được, mỗi thứ lại có ba phẩm.

Hoặc nên nói có ba mươi sáu thứ: Tức là quả của bốn tĩnh lự, mỗi thứ có chín phẩm. Hoặc nên nói có bảy mươi hai thứ: Tức là quả của bốn tĩnh lự, mỗi quả có từng được và chưa từng được, mỗi thứ này lại có chín phẩm.

Nếu lấy từng sát-na của thân để phân biệt thì nên nói là vô lượng vô biên. Ở đây, nói chung là một túc trụ tùy niệm trí.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy tuệ làm tự tánh. Đó gọi là tự tánh, là bản tánh, tướng phần, tự thể ngã vật của túc trụ tùy niệm trí.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là Túc trụ tùy niệm trí? Trí ấy là nghĩa gì?

Đáp: Năm uẩn hữu lậu trong các đời quá khứ gọi là túc trụ. Do sức mạnh của tùy niệm tức có thể nhận biết rõ được chúng, nên gọi là túc trụ tùy niệm trí. Nghĩa là trong tụ này, tuy có nhiều pháp, nhưng vì sức của niệm tăng, nên nói là tùy niệm. Như trong bốn niệm trụ, tuy tuệ là Thể, nhưng vì sức của niệm tăng, nên gọi là niệm trụ. Như trong trì tức niệm, tuy tuệ là Thể, nhưng vì sức của niệm tăng, nên gọi là trì tức niệm. Như trong trí bản tánh niệm sinh, tuy tuệ là Thể, nhưng vì sức của niệm tăng, nên gọi là trí bản tánh niệm sinh. Lại như Phục trừ sắc tưởng, tuy tuệ là Thể, nhưng vì sức của tưởng tăng, nên gọi là Phục trừ sắc tưởng. Ở đây cũng như thế, tuy Thể là tuệ, nhưng vì sức của niệm tăng, nên gọi là Túc trụ tùy niệm trí.

Túc trụ tùy niệm trí này: Về cõi: Là cõi sắc.

Hỏi: Vì sao ở cõi vô sắc không có túc trụ tùy niệm trí?

Đáp: Vì cõi ấy không phải là nơi chốn thích hợp để tiếp nhận, cho đến nói rộng.

Lại nữa, túc trụ tùy niệm trí nương vào sắc để dẫn phát, ở cõi vô sắc không có sắc, nên không có trí này.

Về địa: Chỉ ở nơi bốn tĩnh lự căn bản, không có cận phần, vô sắc, vì ở địa ấy không thể phát sinh năm thông.

Hỏi: Ở tĩnh lự trung gian, các sự việc đời trước (túc trụ) phải nương vào trí nơi địa nào để có thể tùy niệm nhận biết được?

Đáp: Có thuyết nói: Trí tùy niệm phẩm thượng ở tĩnh lự thứ nhất có thể nhận biết được.

Có thuyết cho: Trí tùy niệm phẩm hạ ở tĩnh lự thứ hai có thể nhận biết được.

Lời bình: Nên nói như vầy: Trí tùy niệm của ba phẩm ở tĩnh lự thứ nhất đều có thể nhận biết được. Vì sao? Vì đều thuộc một địa.

Về chỗ nương dựa: Trí ấy chỉ dựa vào thân ở cõi dục, cõi sắc để khởi.

Về hành tướng: Tạo hành tướng không rõ, không thuộc về mười sáu hành tướng.

Về đối tượng duyên: Túc trụ tùy niệm trí của tĩnh lự thứ nhất chỉ duyên nơi năm uẩn hữu lậu ở đời trước của cõi dục và tĩnh lự thứ nhất v.v… cho đến túc trụ tùy niệm trí của tĩnh lự thứ tư chỉ duyên nơi năm uẩn hữu lậu ở đời trước của cõi dục và bốn tĩnh lự. Trí này không thể duyên các sự việc đời trước ở cõi vô sắc, vì địa kia cao hơn.

Như túc trụ tùy niệm trí của tĩnh lự thứ nhất không thể nhận biết được các sự việc đời trước của tĩnh lự thứ hai trở lên v.v… Cho đến túc trụ tùy niệm trí của tĩnh lự thứ ba không thể nhận biết được các sự việc đời trước của tĩnh lự thứ tư trở lên. Thế nên, túc trụ tùy niệm trí của tĩnh lự thứ tư không thể nhận biết được các sự việc đời trước ở cõi vô sắc.

Hỏi: Từng sinh ở cõi dục và Sắc, khởi lên các sự việc đời trước ở cõi vô sắc, có phải là đối tượng duyên của trí này không?

Đáp: Không phải là đối tượng duyên của trí này, vì như quả đã không nhận biết thì nhân cũng không nhận biết.

Hỏi: Nếu túc trụ tùy niệm trí không nhận biết được các sự việc đời trước ở cõi vô sắc, thì các điều nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như Khế kinh nói: Đức Thế Tôn đối với các sự việc đời trước ở quá khứ, hoặc có sắc hoặc không sắc, hoặc có tưởng hoặc không tưởng, tất cả mọi thứ hình dạng, hoạt động và lời nói đều có thể nhớ biết rõ.

Đáp: Có thuyết nói: Hoặc có sắc: Nghĩa là sinh hữu, bản hữu, tử hữu nơi cõi dục, cõi sắc có sắc tướng thô trọng. Hoặc không sắc: Nghĩa là sắc của phần vị trung hữu là vi tế.

Lời bình: Vị kia không nên nói như thế. Vì sao? Vì nói như thế thì hàng Thanh văn cũng nhận biết rõ, không khác gì Phật, nhưng Tôn giả Xá-lợi-tử lại lấy điều đó để tán thán Phật là bậc Đức vô thượng. Nên nói như vầy: Hoặc có sắc: Tức là cõi dục và cõi sắc. Hoặc không sắc: Tức là cõi vô sắc. Nhưng Đức Phật không dùng túc trụ tùy niệm trí để nhận biết rõ các sự việc đời trước ở cõi vô sắc, mà chỉ dùng tỷ trí để nhận biết rõ các sự việc đời trước ở cõi vô sắc.

Hỏi: Nếu như thế thì các ngoại đạo và hàng Thanh văn cũng có tỷ trí cùng với Phật không khác, nhưng vì sao Tôn giả Xá-lợi-tử lại lấy việc đó để tán thán Phật là bậc Đức vô thượng?

Đáp: Nên biết tỷ trí này lược có ba thứ: Một là của ngoại đạo. Hai là của Thanh văn. Ba là của Phật.

Ngoại đạo khi muốn quán xét các sự việc đời trước, nếu quán xét các sự việc nơi cõi dục, cõi sắc, hoặc ở hai vạn kiếp không thấy, hoặc ở bốn vạn kiếp, ở sáu vạn kiếp, tám vạn kiếp đều không thấy, nên cho là đoạn diệt.

Thanh văn khi muốn quán xét các sự việc đời trước, nếu quán xét các sự việc nơi cõi dục và cõi sắc ở hai vạn kiếp không thấy, liền cho là người ấy đã sinh vào Không vô biên xứ, nhưng người ấy hoặc sinh ở địa trên, thọ mạng chưa hết lại qua đời. Hoặc quán xét các sự việc nơi cõi dục và cõi sắc ở bốn vạn kiếp không thấy, liền cho là người ấy đã sinh vào Thức vô biên xứ, nhưng người ấy hoặc lại sinh vào Không vô biên xứ, hoặc sinh vào địa trên, thọ mạng chưa hết lại qua đời. Hoặc quán xét các sự việc nơi cõi dục và cõi sắc ở sáu vạn kiếp không thấy, liền cho là người ấy đã sinh vào Vô sở hữu xứ, nhưng người ấy hoặc ba lần sinh vào Không vô biên xứ, hoặc một lần hay nửa lần sinh vào Thức vô biên xứ, hoặc sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ mạng chưa hết lại qua đời. Hoặc quán xét các sự việc nơi cõi dục và cõi sắc ở tám vạn kiếp không thấy, liền cho là người ấy đã sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng người ấy hoặc bốn lần sinh vào Không vô biên xứ, hoặc sinh lại ở Thức vô biên xứ, hoặc một phần của một đời sinh vào Vô sở hữu xứ.

Đức Thế Tôn khi muốn quán xét các sự việc nơi đời trước, như muốn quán xét các tâm khi mạng chung hoặc tâm khi kiết sinh ở cõi dục và cõi sắc tức nhận biết như thật: Hữu tình như thế sẽ sinh vào Không vô biên xứ. Hoặc từ cõi đó qua đời, hữu tình như thế sẽ sinh vào Thức vô biên xứ. Hoặc từ cõi đó qua đời, hữu tình như thế sẽ sinh vào Vô sở hữu xứ. Hoặc từ cõi đó qua đời, hữu tình như thế sẽ sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc từ cõi đó qua đời. Trong bốn cõi này, hoặc thọ mạng đã hết mà qua đời hay thọ mạng chưa hết mà qua đời đều nhận biết như thật. Thế nên, tỷ trí của ngoại đạo thì cho là kẻ ấy đã đoạn diệt. Tỷ trí của Thanh văn thì thấy đúng hoặc không đúng như sự việc. Tỷ trí của Phật thì sáng, sạch, thắng diệu, nên đều nhận biết đúng như thật. Tỷ trí của hàng phàm phu nội pháp và của Độc giác đối với sự việc của đời trước ở cõi vô sắc thì tướng của chúng giống như của Thanh văn, nên biết.

Hỏi: Ở tĩnh lự thứ tư khởi túc trụ tùy niệm trí, thì trong một sát-na duyên chung hết các sự việc đời trước của năm địa hay duyên riêng từng địa một? Nêu bày như thế thì có lỗi gì? Nếu duyên chung hết các sự việc của năm địa làm sao nhận biết được các sự việc thô tế cùng trong một lúc? Còn nếu duyên nơi sự việc từng địa riêng vì sao nói trí này có thể duyên nơi năm địa?

Đáp: Nên nói như vầy: Là duyên nơi sự việc từng địa riêng.

Hỏi: Nếu như thế vì sao nói trí này có thể duyên nơi năm địa?

Đáp: Chỉ nói trí này có thể duyên nơi năm địa, không nói là trong cùng một lúc, thì đâu có lỗi gì! Ba tĩnh lự dưới căn cứ theo đây, nên biết.

Có thuyết nói: Nếu mới dẫn khởi thì duyên nơi sự việc từng địa riêng, nhưng khi đã thuần thục, đầy đủ, thì trong một lúc có thể duyên nơi năm địa.

Về niệm trụ: Chỉ là tạp duyên với pháp niệm trụ.

Tôn giả Diệu Âm nói: Trí ấy chung cho cả bốn niệm trụ, như Khế kinh nói: “Ta nhớ cả thọ lạc, thọ khổ ở quá khứ v.v…”. Đã nhớ biết được lạc, khổ thì đó là thọ niệm xứ.

Lời bình: Nên nói thế này: Nhớ lại các việc lạc khổ ở đời quá khứ, tức đã đủ để gọi là thọ lạc khổ, không phải chỉ duyên nơi thọ, nên không phải là chứng. Tuy nhiên, túc trụ tùy niệm trí khi xem xét chung các phần vị sai khác của đời trước thì chỉ thuộc về tạp duyên với pháp niệm trụ.

Về trí: Chỉ là thế tục trí.

Tôn giả Diệu Âm nói: Trí này chung cho cả sáu trí, tức trong tám trí trừ tha tâm trí và diệt trí. Trừ tha tâm trí, vì nó chỉ duyên nơi hiện tại, còn trí này chỉ duyên nơi quá khứ. Trừ diệt trí, vì nó duyên nơi vô vi, còn trí này duyên nơi hữu vi.

Lời bình: Nên nói như vầy: Đây chỉ là thế tục trí duyên nơi sự việc đời trước.

Về cùng hành với Tam-ma-địa: Không cùng hành với Tam-mađịa, vì nó chỉ là hữu lậu.

Về căn tương ưng: Tương ưng với ba căn là lạc, hỷ, xả.

Về ba đời: Là ba đời.

Về duyên nơi ba đời: Ở quá khứ, hiện tại thì duyên nơi quá khứ. Ở vị lai thì duyên cả ba thứ.

Về thiện, bất thiện, vô ký: Chỉ là thiện.

Về duyên với thiện, bất thiện, vô ký: Là duyên với cả ba thứ.

Về thuộc, không thuộc cõi nào: Chỉ thuộc cõi sắc.

Về duyên nơi thuộc và không thuộc cõi nào: Chỉ duyên nơi thuộc cõi dục và cõi sắc.

Về học, vô học, phi học phi vô học: Chỉ là phi học phi vô học.

Về duyên nơi học, vô học, phi học phi vô học: Chỉ duyên nơi phi học phi vô học.

Về do kiến đạo, tu đạo đoạn và không đoạn: Chỉ do tu đạo đoạn.

Về duyên nơi do kiến đạo, tu đạo đoạn và không đoạn: Duyên nơi do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Về duyên nơi danh, nghĩa: Duyên chung cho cả danh, nghĩa.

Về duyên nơi sự nối tiếp và không nối tiếp của mình và của người khác: Duyên nơi sự nối tiếp của mình và của người khác.

Về do gia hạnh được và lìa nhiễm được: Chung cho cả do gia hạnh được và lìa nhiễm được.

Lìa nhiễm được: Nghĩa là ở tĩnh lự thứ nhất, khi lìa nhiễm ở cõi dục là được. Cho đến ở tĩnh lự thứ tư, khi lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ ba là được. Hoặc khi lìa nhiễm ở địa mình và ở địa trên, cũng cho là do tu được.

Do gia hạnh được: Là khi tu tập các gia hạnh thắng tấn nên được cùng dấy khởi các gia hạnh khiến hiện tiền. Tức các Thanh văn dùng gia hạnh phẩm trung và thượng, Độc giác chỉ dùng gia hạnh ở phẩm hạ, riêng Đức Phật không dùng gia hạnh trí ấy vẫn có thể hiện tiền.

Ở đây, chứng được trí này là chỉ do tu tạo thành, ở nơi định có được.

Về từng được và chưa từng được: Tất cả bậc Thánh và hàng phàm phu nội pháp đều chung cho cả từng được và chưa từng được. Còn hàng phàm phu ngoại pháp chỉ là từng được.

Có thuyết nói: Trụ nơi thân sau cùng, phàm phu và bậc Thánh chung cho cả từng được và chưa từng được. Còn các phàm phu khác thì chỉ là từng được.

Hỏi: Thế nào là tu gia hạnh của túc trụ tùy niệm trí?

Đáp: Luận Thi Thiết nói: Người mới tu tập thì khi đối với định thế tục đã được tự tại, nên luôn khởi hiện tiền khiến càng trở nên sáng lanh. Trước phải nhớ nghĩ xét kỹ về tâm trước vừa diệt tùy niệm nhận biết rồi, kế đó nhớ nghĩ xét kỹ về tâm diệt đã lâu, theo niệm nhận biết, lần lượt cho đến khi gia hạnh thành đủ.

Trong đây, có thuyết nói: Dần dần nhớ nghĩ xét đoán, cho đến tâm cách một sát-na trước khi nhập thai mẹ, mới gọi là gia hạnh thành đủ.

Nếu nói như vậy thì không phải là khéo thành đủ. Vì sao? Vì tâm cách một sát-na trước khi vào thai mẹ là phần vị của trung hữu, trung hữu tức là thuộc về đời này, do chúng đồng phần không có sai biệt, vì vẫn còn nhớ sự việc ở đời này thì đâu phải là khéo thành đủ. Nên nói như vầy: Lần lượt nhớ nghĩ xét đoán, cho đến tâm cách một sát-na trước khi là trung hữu ấy, gọi là gia hạnh đã thành đủ, vì nó là tâm của đời trước mạng chung, có thể tùy niệm nhận biết mới gọi là khéo thành đủ.

Hỏi: Khi tu gia hạnh này, dần dần nhớ nghĩ là do sát-na hay do phần vị?

Đáp: Đây là do phần vị, không phải là do sát-na. Nếu do sát-na lần lượt nhớ nghĩ đến nửa đời chưa hết tức liền mạng chung, đâu có thể tu cho đến khi gia hạnh được thành đủ. Nghĩa là trước phải nhớ nghĩ các sự việc trong thời lão niên của đời này, kế đó lại nhớ nghĩ các sự việc nơi thời trung niên của đời này, rồi nhớ nghĩ về thời thiếu niên, tiếp sau là thời nhi đồng, thời hài nhi, tiếp theo là thời Bát-laxa-khư, thời Kiện-nam, thời Bế-thi, thời Át-bộ-đàm, thời Yết-lạtlam, kế đấy là thời vào thai mẹ, tiếp sau là thời trụ nơi trung hữu, kế nữa là nhớ nghĩ lúc mới thọ nhận phần vị trung hữu, sau cùng là nhớ nghĩ lúc mạng chung ở đời trước, bấy giờ gia hạnh của trí này mới thành đủ.

Hỏi: Khi tu gia hạnh này thì nương vào sự nối tiếp của mình hay nương vào sự nối tiếp của người khác?

Đáp: Có thuyết nói: Nương vào sự nối tiếp của mình. Nếu như vậy thì đời trước của mình ở cõi dục và cõi sắc thì có thể như thế, nhưng nếu đời trước của mình ở cõi vô sắc thì làm sao có thể nương dựa?

Lại có thuyết cho: Nương vào sự nối tiếp của người khác. Nếu như thế thì đời trước của người khác ở cõi dục và cõi sắc thì có thể được, nhưng nếu đời trước của người ấy ở cõi vô sắc thì làm thế nào?

Lời bình: Nên nói như vầy: Khi tu gia hạnh này cũng nương vào sự nối tiếp của mình và của người khác.

Nương vào sự nối tiếp của mình tu gia hạnh: Nếu đời trước của mình ở cõi dục và cõi sắc, tức nương vào sự nối tiếp của mình gia hạnh thành đủ. Nếu đời trước của mình ở cõi vô sắc thì chuyển nương vào sự nối tiếp của người khác gia hạnh sẽ thành đủ.

Nương vào sự nối tiếp của người khác tu gia hạnh: Nếu đời trước của người khác ở cõi dục và cõi sắc, tức nương vào sự nối tiếp của người khác gia hạnh thành đủ. Nếu đời trước của người khác ở cõi vô sắc thì chuyển nương vào sự nối tiếp của mình gia hạnh sẽ thành đủ.

Hỏi: Khi tu gia hạnh này thì nương vào cõi dục hay nương vào cõi sắc?

Đáp: Ở đây có bốn cách:

1. Hoặc có khi mới đầu nương vào cõi dục tu gia hạnh, về sau nương vào cõi sắc để gia hạnh thành đủ: Nghĩa là trước cùng với đám người bạo ác khó cùng trụ, đồng trụ một xứ, khởi suy nghĩ: Đây tất là đời trước của mình từ cõi dục mạng chung. Dần dần nhớ nghĩ xét đoán đây mới là đời trước của mình từ cõi sắc mạng chung.

2. Hoặc có khi lúc đầu nương vào cõi sắc tu gia hạnh, về sau nương vào cõi dục để gia hạnh thành đủ: Nghĩa là trước cùng với nhóm người thiện dễ cùng trụ, đồng trụ một xứ, khởi suy nghĩ: Đây tất là đời trước của mình từ cõi sắc mạng chung. Dần dần nhớ nghĩ xét đoán đây mới là đời trước của mình từ cõi dục mạng chung.

3. Hoặc có khi mới đầu nương vào cõi dục tu gia hạnh, về sau trở lại nương vào cõi dục để gia hạnh được thành đủ: Nghĩa là cùng với đám người bạo ác khó cùng trụ, đồng trụ một xứ, khởi suy nghĩ: Đây tất là đời trước của mình từ cõi dục mạng chung. Dần dần nhớ nghĩ xét đoán quả này là đời trước của mình từ cõi dục mạng chung.

4. Hoặc có khi lúc đầu nương vào cõi sắc tu gia hạnh, rồi trở lại nương vào cõi sắc để gia hạnh được thành đủ: Nghĩa là cùng với nhóm người hiền lành dễ cùng trụ, đồng trụ một xứ, khởi suy nghĩ: Đây tất là đời trước của mình từ cõi sắc mạng chung. Dần dần nhớ nghĩ xét đoán quả này là đời trước của mình từ cõi sắc mạng chung.

Như nương vào cõi tu gia hạnh có khác nhau, nương vào các nẻo v.v… cũng như vậy.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này là chỉ nhớ biết được các sự việc đã từng trải hay chỉ là các sự việc chưa từng trải?

Đáp: Đây chỉ là nhớ biết các sự việc đã từng trải.

Hỏi: Nếu như thế thì trí này tức nên không nhớ biết được các sự việc của xứ Năm Tịnh cư, vì từ vô thỉ đến nay chưa sinh vào cõi đó?

Đáp: Sự việc đã từng trải tóm lược có hai thứ:

  1. Đã từng được thấy.
  2. Đã từng được nghe.

Tuy chưa từng được thấy sự việc ở xứ Năm Tịnh cư (Xứ trời Ngũ Tịnh cư), nhưng đã từng nghe, nên cũng có thể nhớ biết được.

Còn những sự việc khó nhận biết, rất xa, rất thù thắng khác ở các cõi dục và cõi sắc cũng căn cứ theo đây, nên biết.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này một lần nhập định thì nhận biết một đời hay một lần nhập định có thể nhận biết được nhiều đời?

Đáp: Lúc mới dẫn phát nếu một lần nhập định thì chỉ nhận biết một đời. Về sau, khi đã thành thục, một lần nhập định nhận biết được cả trăm ngàn đời. Đức Thế Tôn một lần nhập định dù là đầu hay sau đều có thể nhận biết trăm ngàn đời.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này có thể bỏ qua các sự việc gần nơi trăm ngàn đời mà nhận biết được các sự việc xa nơi trăm ngàn đời chăng?

Đáp: Khi mới dẫn phát thì không thể, nhưng khi đã thành thục thì có thể. Đức Thế Tôn hoặc đầu hoặc sau đều được cả.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này lần lượt nhớ biết vô lượng các sự việc xưa ở đời trước rồi, khi muốn lui xuất thì nương nơi chỗ nhập vào trước đây để lui xuất dần dần hay lui xuất tức khắc?

Đáp: Có thuyết nói: Tất nương vào chỗ nhập trước mà lui xuất dần dần.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tùy theo ý vui thích, hoặc là từ từ, hoặc là nhanh chóng lui xuất đều được cả.

Hỏi: Có thể dùng trí túc trụ nhớ biết các sự việc xưa ở đời trước, theo đó do không gián đoạn lại tiếp khởi trí sinh tử để quán sát các sự việc sinh tử ở đời sau được chăng?

Đáp: Chỉ riêng có Đức Phật thì được, ngoài ra thì không. Vì công đức của chư Phật nên không cần gia hạnh trí kia vẫn hiện tiền. Hàng Độc giác, Thanh văn và các ngoại đạo cần phải có gia hạnh mới có thể khởi hiện.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này trong khoảng một sát-na có thể nhận biết được bao nhiêu đời?

Đáp: Có thể nhận biết được một đời. Do đâu biết được? Do có Thánh giáo.

Như nơi Tỳ-nại-da nói: Tôn giả Tịnh Diệu nói với các Bí-sô: Khi một lần khởi tâm, tôi có thể nhớ biết được các sự việc của năm trăm đời quá khứ.

Khi ấy, các Bí-sô đều cùng quở trách, đuổi đi, bảo: Ông đã tự xưng là được pháp hơn người, vậy đừng nên ở chung, làm gì có chuyện khởi tâm trong một sát-na nhận biết được nhiều đời!

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Bí-sô: Các vị không nên quở trách đuổi Bí-sô Tịnh Diệu, đó là do theo thật tưởng nên không phạm tội nặng. Nghĩa là Bí-sô Diệu Tịnh đã từng sinh nơi cõi trời Vô tưởng hữu tình, thọ mạng năm trăm kiếp, nay nhớ lại sự việc ấy. Tức là có năm trăm đời tùy theo thật tưởng nên không phạm trọng tội. Do đấy là chứng cứ để biết trong khoảng một sát-na chỉ nhận biết được một đời.

Hỏi: Túc trụ tùy niệm trí này trong khoảng một sát-na có thể nhận biết được bao nhiêu nẻo?

Đáp: Có thuyết nói: Trí này trong khoảng một sát-na chỉ nhận biết có một nẻo. Tức là hoặc chỉ nhận biết có nẻo địa ngục, cho đến hoặc chỉ nhận biết có nẻo trời.

Lại có thuyết cho: Trong khoảng một sát-na, trí này có thể nhận biết được hai nẻo. Tức là hoặc nhận biết được nẻo địa ngục và nẻo bàng sinh. Hoặc nhận biết được nẻo quỷ và nẻo bàng sinh. Hoặc nhận biết được nẻo người và nẻo bàng sinh. Hoặc nhận biết được nẻo trời và nẻo bàng sinh.

Lời bình: Nên nói như vầy: Trong khoảng một sát-na, tùy theo chỗ thích ứng, trí này có thể nhận biết được nhiều nẻo. Nghĩa là khi nhớ nghĩ tới sự việc của Chuyển luân vương, trong khoảng một sátna, trí này có thể nhận biết được ba nẻo là nẻo người, quỷ và bàng sinh. Nếu nhận biết được về Luân vương, các quan và hàng quyến thuộc gọi là nhận biết được nẻo người. Nếu nhận biết về khả năng chuyển luân và thọ nhận việc cúng tế các quỷ v.v… gọi là nhận biết được nẻo quỷ. Nếu nhận biết được voi, ngựa v.v… gọi là nhận biết được nẻo bàng sinh. Nếu có thể nhớ nghĩ tới sự việc vua Mạn-đà-đa và trời Đế thích cùng nhau hội họp v.v… tức có thể nhận biết được bốn nẻo chỉ trừ địa ngục. Nhận biết về ba nẻo còn lại, nói rộng như trước. Nhận biết về nẻo trời: Nghĩa là nhận biết được trời Đế thích và các quyến thuộc của ông ấy. Giả sử cả năm nẻo cùng tập hợp ở một xứ, trong khoảng một sát-na đều có thể nhớ biết. Thế nên trí này trong khoảng một sát-na, tùy chỗ thích ứng, có thể nhận biết được nhiều nẻo.

Như Khế kinh nói: Phái Thường Kiến Luận cho: Nhớ biết các sự việc ở đời trước có ba thứ khác nhau:

1. Có phái Thường kiến luận có thể nhớ biết các sự việc trong hai vạn kiếp.

2. Có phái Thường kiến luận có thể nhớ biết các sự việc trong bốn vạn kiếp.

3. Có phái Thường kiến luận có thể nhớ biết các sự việc trong tám vạn kiếp.

Lại có tụng khác cho: Loại thứ ba nhớ biết các sự việc trong sáu vạn kiếp.

Hỏi: Do những yếu tố nào phái Thường kiến luận cho là họ có thể nhớ biết được các sự việc từ hai vạn kiếp cho đến bốn vạn kiếp, tám vạn kiếp?

Đáp: Phái Thường kiến luận cho là do nơi căn trí có ba bậc: Nếu là hạng hạ căn thì có thể nhớ biết được các sự việc trong hai vạn kiếp. Nếu là hạng trung căn thì có thể nhớ biết được bốn vạn kiếp. Nếu là hạng thượng căn thì có thể nhớ biết được tám vạn kiếp.

Lại nữa, phái Thường kiến luận còn có thể nhớ biết được các sự việc của ba kiếp hoại: Nếu có thể nhớ biết các sự việc hủy hoại của kiếp hỏa thì có thể nhớ biết được hai vạn kiếp. Nếu có thể nhớ biết các sự việc hủy hoại của kiếp thủy thì có thể nhớ biết được bốn vạn kiếp. Nếu có thể nhớ biết các sự việc hủy hoại của kiếp phong thì có thể nhớ biết được tám vạn kiếp.

Lại nữa, phái Thường kiến luận có thể nhớ biết được các sự việc hủy hoại của ba căn: Nếu có thể nhớ biết các sự việc hủy hoại của căn hỷ thì có thể nhớ biết được hai vạn kiếp. Nếu có thể nhớ biết các sự việc hủy hoại của căn lạc thì có thể nhớ biết được bốn vạn kiếp. Nếu có thể nhớ biết các sự việc hủy hoại của căn xả thì có thể nhớ biết được tám vạn kiếp.

Lại nữa, phái Thường kiến luận có chủng tánh của ba thừa khác nhau: Nếu người có chủng tánh của thừa Thanh văn thì có thể nhớ biết được các sự việc trong hai vạn kiếp. Nếu người có chủng tánh của thừa Độc giác thì có thể nhớ biết được các sự việc trong bốn vạn kiếp. Nếu người có chủng tánh của Phật thừa thì có thể nhớ biết các sự việc trong tám vạn kiếp.

Đó gọi là ba thứ duyên của nhớ biết khác nhau.

HẾT – QUYỂN 100