LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 89

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 19

Các khổ đế, tập đế duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi và thế tục trí cũng như thế.

Các khổ đế, tập đế v.v… đều chung nơi năm bộ, chín địa của ba cõi, chỉ là hữu lậu, như bốn thủ uẩn sau, nên biết về tướng.

Diệt đế duyên nơi thức, ở ba cõi có hai bộ và các biến hành, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi, như pháp vô vi, nên biết về tướng.

Đạo đế duyên nơi thức, ở ba cõi có hai bộ và các biến hành, duyên nơi thức duyên ở ba cõi có bốn bộ.

Bốn trí khổ tập diệt đạo và ba thứ Tam-ma-địa cũng thế: Tức như ba căn vô lậu, nên biết về tướng.

Bốn tĩnh lự duyên nơi thức, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành, duyên nơi thức duyên, ở cõi dục và Vô sắc có bốn bộ, ở cõi sắc có duyên nơi hữu vi. Bốn tĩnh lự chung nơi hữu lậu và vô lậu. Về hữu lậu, chỉ ở cõi sắc chung nơi năm bộ. Về vô lậu, chung nơi phẩm pháp loại trí của bốn đế.

Bốn tĩnh lự làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

5 –> 9. Bốn thức này, cùng với năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi sắc, hợp thành chín thức.

10. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

11. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

12. Thức vô lậu, tức là phẩm khổ tập loại trí và phẩm đạo pháp loại trí.

Bốn tĩnh lự duyên nơi thức, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành là tùy miên tùy tăng.

Bốn tĩnh lự duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười bốn thức trong mười sáu thức, trừ thức ở cõi dục và Vô sắc, đều do kiến diệt đoạn trừ và trừ thức duyên nơi vô vi ở cõi sắc. Trong thức vô lậu chỉ giữ lấy các phẩm khổ tập đạo trí.

Bốn tĩnh lự duyên nơi thức duyên ở cõi dục và cõi vô sắc có bốn bộ, ở cõi sắc duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Các vô lượng Từ, Bi, Xả duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, cõi vô sắc có bốn bộ.

Các thứ tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước cũng như thế.

Ba thứ vô lượng kia chung nơi bốn địa ở cõi sắc. Tịnh giải thoát v.v… chỉ ở nơi tĩnh lự thứ tư, đều chỉ là hữu lậu do tu đạo đoạn trừ, làm đối tượng duyên cho tám thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

7. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

8. Thức vô lậu, tức là ba phẩm khổ tập loại trí.

9 –> 11. Ba thứ vô lượng kia duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng. Ba thứ vô lượng kia duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức. Tức các thức ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ. Ở cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi cõi đều có bốn bộ thức, trừ thức do kiến diệt đoạn. Ở trong phần do kiến đạo đoạn trừ, chỉ giữ lấy các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Ở cõi vô sắc trong phần do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ chỉ giữ lấy các tùy miên biến hành tương ưng với thức, hợp lại thành mười một thức.

12. Là thức vô lậu của các phẩm khổ tập đạo trí.

Ba thứ vô lượng kia duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc và cõi vô sắc có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Hỷ vô lượng duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành.

Hai thứ giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước cũng như vậy.

Hỷ vô lượng, chỉ có ở hai tĩnh lự đầu là hữu lậu do tu đạo đoạn trừ, làm đối tượng duyên cho bảy thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

4. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

5. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

7. Thức vô lậu, tức các phẩm khổ tập loại trí.

Hỷ vô lượng duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ là tùy miên tùy tăng.

Hỷ vô lượng duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức. Nghĩa là ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập, tu đạo đoạn trừ thức và bốn bộ thức ở cõi sắc, trừ thức do kiến diệt đoạn. Trong phần do kiến đạo đoạn trừ, chỉ giữ lấy tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, hợp thành bảy thức.

8. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

9. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

10. Là thức vô lậu của các phẩm khổ tập đạo trí.

Hỷ vô lượng duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành là tùy miên tùy tăng.

Ba vô sắc trước duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu vi.

Ba vô sắc trước chung nơi hữu lậu và vô lậu. Về hữu lậu, chỉ chung nơi năm bộ ở cõi vô sắc. Về vô lậu, thì chung nơi phẩm loại trí của bốn đế, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

Như ba bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc có ba bộ thức cũng như thế. Và ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức cùng năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi vô sắc, hợp thành mười hai thức.

11. Thức vô lậu, tức là các phẩm khổ tập đạo loại trí.

Ba vô sắc trước duyên nơi thức, cũng làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức. Tức là các thức ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập, tu đạo đoạn trừ và bốn bộ thức ở cõi sắc, trừ thức do kiến diệt đoạn trừ, cùng với năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi vô sắc hợp thành mười hai thức.

12. Thức vô lậu của ba phẩm khổ tập đạo trí.

Ba vô sắc trước duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, đều ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ và ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu lậu. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ và cõi vô sắc có duyên nơi hữu vi.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ chỉ là hữu lậu, chung nơi năm bộ, nên làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

Như ba bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc có ba bộ thức cũng như thế, và ở cõi vô sắc có năm bộ thức duyên nơi hữu lậu hợp thành mười một thức.

13. Là thức vô lậu, tức các phẩm khổ tập đạo trí.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau: Tức các thức ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập, tu đạo đoạn trừ, và bốn bộ thức ở cõi sắc, trừ thức do kiến diệt đoạn trừ. Nơi phần do kiến đạo đoạn trừ, chỉ giữ lấy các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, cùng với năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi vô sắc hợp thành mười hai thức.

14. Thức vô lậu của ba phẩm khổ tập đạo trí.

Phi tưởng phi phi xứ duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Các giải thoát của Không và Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có bốn bộ. Ba giải thoát này chung nơi hữu lậu và vô lậu. Về hữu lậu, chỉ ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thuộc về gia hạnh thiện. Về vô lậu, chỉ là phẩm loại trí, làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

Như ba bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc có ba bộ thức cũng như thế, và ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, hợp thành bảy thức.

1. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

4. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

15. Thức vô lậu tức phẩm khổ tập đạo loại trí.

Ba giải thoát này duyên nơi thức, cũng làm đối tượng duyên cho mười hai thức: Tức là các thức ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, cõi vô sắc, mỗi cõi có bốn bộ thức, trừ thức do kiến diệt đoạn, hợp thành mười một thức.

16. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí.

Ba giải thoát này duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên, đều ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc và cõi vô sắc có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Hai giải thoát sau cùng hai biến xứ sau duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ. Duyên nơi thức duyên ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có bốn bộ. Bốn pháp này chỉ ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thuộc về gia hạnh thiện làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

Như ba bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc có ba bộ thức cũng như thế hợp thành sáu thức.

1. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức

2. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức

3. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

17. Thức vô lậu tức là ba phẩm khổ tập loại trí.

Bốn pháp này duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ là tùy miên tùy tăng.

Bốn pháp này duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức. Tức là các thức ở ba cõi đều do kiến khổ, kiến tập, tu đạo đoạn và cõi sắc, cõi vô sắc đều do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, cùng với thức vô lậu của các phẩm khổ tập đạo trí.

Bốn pháp này duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc và cõi vô sắc có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Pháp trí duyên nơi thức, ở cõi dục có hai bộ và các biến hành, ở cõi sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn.

Pháp trí ở tại sáu địa, làm đối tượng duyên cho bốn thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

3. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

18. Thức vô lậu, tức là các phẩm đạo pháp trí.

Pháp trí duyên nơi thức, ở cõi dục có hai bộ và các biến hành, ở cõi sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Pháp trí duyên nơi thức làm đối tượng duyên cho chín thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

5. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

7. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

8. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

9. Thức vô lậu của ba phẩm khổ tập đạo trí.

Pháp trí duyên nơi thức duyên ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn là tùy miên tùy tăng.

Loại trí duyên nơi thức, ở cõi sắc, vô sắc có hai bộ và các biến hành, ở cõi dục có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có bốn bộ.

Loại trí ở tại chín địa, nên trong mười sáu thức, làm đối tương duyên cho sáu thức: Tức ở cõi sắc, vô sắc đều do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Thức thiện ở ba cõi đều do tu đạo đoạn trừ hợp thành năm thức. Thứ sáu là thức vô lậu tức các phẩm đạo loại trí.

Loại trí duyên nơi thức, ở cõi sắc, vô sắc có hai bộ và các biến hành, ở cõi dục có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Loại trí này duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức. Nghĩa là trong ba cõi đều do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức và các thức thiện, nhiễm ô cùng vô phú vô ký do tu đạo đoạn. Ở cõi sắc, vô sắc đều do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức, hợp thành mười một thức. Mười hai là thức vô lậu của các phẩm khổ tập đạo trí.

Loại trí duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Hỏi: Nơi cõi nào, địa nào tà kiến do kiến đạo đoạn trừ có duyên với phẩm nào địa nào nơi Thánh đạo?

Đáp: Có thuyết nói: Tà kiến kia chỉ duyên nơi Thánh đạo của đối trị đoạn. Nếu nói như thế thì tà kiến ở cõi dục chỉ duyên nơi Thánh đạo thuộc về định vị chí. Còn tà kiến ở tĩnh lự thứ nhất chỉ duyên với Thánh đạo thuộc về ba địa. Tà kiến ở tĩnh lự thứ hai chỉ duyên với Thánh đạo thuộc về bốn địa. Tà kiến ở tĩnh lự thứ ba chỉ duyên với Thánh đạo thuộc về năm địa. Tà kiến ở tĩnh lự thứ tư và ở cõi vô sắc, đều chỉ duyên với Thánh đạo thuộc về sáu địa.

Lại có thuyết cho: Tà kiến đó cũng duyên nơi Thánh đạo của đối trị chán hoại. Nếu nói như thế thì tà kiến ở cõi dục, cõi sắc đều chỉ duyên với Thánh đạo thuộc về sáu địa. Tà kiến của Không vô biên xứ duyên với Thánh đạo thuộc về bảy địa. Tà kiến của Thức vô biên xứ chỉ duyên với Thánh đạo thuộc về tám địa. Tà kiến của Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều duyên với Thánh đạo thuộc về chín địa.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tà kiến ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ duyên với Thánh đạo của tất cả phẩm pháp trí ở sáu địa. Tà kiến ở cõi sắc, vô sắc do kiến đạo đoạn trừ đều duyên với Thánh đạo của tất cả phẩm loại trí ở chín địa, do chủng loại giống nhau.

Tha tâm trí duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành. Duyên nơi thức duyên ở ba cõi có bốn bộ. Tha tâm trí chung cho cả hữu lậu và vô lậu. Nếu hữu lậu, thì chung cho cả bốn địa của cõi sắc, chỉ thuộc về gia hạnh thiện và do tu đạo đoạn trừ. Nếu vô lậu, thì chung nơi phẩm đạo pháp loại trí của địa bốn tĩnh lự. Tha tâm trí làm đối tượng duyên cho mười một thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

5. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

6. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tướng ứng với thức.

7. Ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

8. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

9. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

10. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

19. Thức vô lậu, tức là ba phẩm khổ tập loại trí và các phẩm đạo pháp loại trí.

Tha tâm trí duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành là tùy miên tùy tăng.

Tha tâm trí duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức. Tức là ở ba cõi đều có bốn bộ thức, trừ thức do kiến diệt đoạn trừ. Trong thức ở cõi vô sắc do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ, chỉ giữ lấy tùy miên biến hành tương ưng với thức, hợp thành mười hai thức. Mười ba: Là thức vô lậu của ba phẩm khổ tập đạo trí.

Tha tâm trí duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Ba lớp Tam-ma-địa duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ. Duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ. Ba lớp Tam-ma-địa này chung nơi chín địa của ba cõi, thuộc về gia hạnh thiện, chỉ do tu đạo đoạn trừ, làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

Như ba bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc, vô sắc đều có ba bộ thức cũng như thế hợp thành chín thức.

20. Thức vô lậu, tức là bốn phẩm khổ tập pháp loại trí.

Ba lớp Tam-ma-địa duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ là tùy miên tùy tăng.

Ba lớp Tam-ma-địa duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức. Tức ở ba cõi đều có bốn bộ thức, trừ thức do kiến diệt đoạn trừ, hợp thành mười hai thức. Mười ba: Là thức vô lậu của ba phẩm khổ tập đạo trí.

Ba lớp tám ma địa duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Kiết hữu thân kiến duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ. Tức kiết này duyên nơi thức, ở ba cõi đều có ba bộ, do kiến khổ, kiến tập, tu đạo đoạn trừ, là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ. Nghĩa là kiết này duyên nơi thức duyên, ở ba cõi đều có bốn bộ là tùy miên tùy tăng, trừ hữu thân kiến do kiến diệt đoạn.

Về hữu thân kiến, biên chấp kiến trong kiết thuận phần dưới cũng như vậy. Nghĩa là hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến trong năm kiến duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên là tùy miên tùy tăng, cũng như kiết hữu thân kiến trong ba kiết đã nói.

Kiết giới cấm thủ duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ, và duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn trừ. Tức kiết này duyên nơi thức, ở ba cõi đều có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ. Nghĩa là kiết này duyên nơi thức duyên, ở ba cõi đều có bốn bộ là tùy miên tùy tăng, trừ bộ do kiến diệt đoạn trừ.

Về giới cấm thủ và giới cấm thủ thuộc trói buộc thân, giới cấm thủ nơi các kiết thuận phần dưới, cùng giới cấm thủ cũng như vậy. Nghĩa là giới cấm thủ trong bốn thủ, giới cấm thủ của bốn thứ trói buộc thân, giới cấm thủ trong năm kiết thuận phần dưới, giới cấm thủ của năm kiến, duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên là tùy miên tùy tăng, cũng như nói về kiết giới cấm thủ trong ba kiết.

Kiết nghi duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu. Nghĩa là kiết này duyên nơi thức, ở ba cõi đều có năm bộ duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi. Nghĩa là kiết này duyên nơi thức duyên, ở ba cõi đều có năm bộ duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Vô minh lậu, bộc lưu, ách, kiến thủ, chấp điều này là thật nơi trói buộc thân, kiết tham, mạn, nghi nơi năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ, ý xúc sinh ra ái thân, các tùy miên mạn, vô minh, kiến, nghi, các kiết ái, mạn, vô minh, kiến thủ, nghi… cũng như vậy. Nghĩa là vô minh trong ba lậu, vô minh trong bốn bộc lưu, ách, kiến thủ trong bốn thủ, chấp điều này là thật nơi bốn thứ trói buộc thân, tham mạn trong năm kiết, nghi của năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ trong năm kiến, ý xúc sinh ra ái trong sáu thứ ái thân, mạn, vô minh, kiến, nghi trong bảy tùy miên, ái mạn, vô minh, kiến của chín kiết, và thủ, nghi… duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên là tùy miên tùy tăng. Cũng như nói về kiết nghi trong ba kiết.

Ba căn bất thiện và dục lậu duyên nơi thức, ở cõi dục có duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có biến hành cùng do tu đạo đoạn. Nghĩa là bốn pháp này duyên nơi thức, ở cõi dục có năm bộ duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có duyên nơi hữu vi, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là bốn pháp này duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có năm bộ, duyên nơi hữu vi, ở cõi sắc có ba bộ, do kiến khổ, kiến tập và tu đoạn trừ, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Bộc lưu dục, ách, thủ, hai thứ trói buộc thân trước, trừ ố tác, còn lại là các cái, kiết sân, hai kiết thuận phần dưới trước, các tùy miên dục tham, sân hận và kiết giận dữ cũng như vậy. Nghĩa là dục trong bốn bộc lưu, ách, thủ, hai thứ trước của bốn thứ trói buộc thân, trong năm cái trừ ố tác là các cái còn lại, kiết giận trong năm kiết, hai kiết trước trong năm kiết thuận phần dưới, tùy miên dục tham, sân hận trong bảy tùy miên, kiết giận trtong chín kiết … khi duyên nơi thức là tùy miên tùy tăng, cũng như nói về ba căn bất thiện và dục lậu.

Hữu lậu duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có duyên nơi hữu lậu. Nghĩa là hữu lậu duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, vô sắc đều có năm bộ duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có duyên nơi hữu vi. Nghĩa là hữu lậu duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, vô sắc đều có năm bộ, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Bộc lưu hữu, ách, ngã ngữ thủ, tùy miên hữu tham… cũng như thế. Nghĩa là hữu trong bốn bộc lưu, ách, ngã ngữ thủ trong bốn thủ, tùy miên hữu tham trong bảy tùy miên… khi duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên là tùy miên tùy tăng, cũng như nói về hữu lậu trong ba lậu.

Cái ố tác duyên nơi thức ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là cái này duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là cái này duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, ở cõi sắc có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Các kiết tật, xan, do mũi lưỡi chạm xúc sinh ra ái thân, các kiết tật, xan cũng như vậy. Nghĩa là kiết tật, xan trong năm kiết, mũi lưỡi chạm xúc sinh ra ái thân trong sáu thứ ái thân, kiết tật, xan trong chín kiết, khi duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên là tùy miên tùy tăng, cũng như nói về cái ố tác.

Sắc tham nơi các kiết thuận phần trên duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là các kiết này duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là kiết này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, cõi vô sắc đều có bốn bộ là tùy miên tùy tăng, trừ phần do kiến diệt đoạn.

Bốn kiết thuận phần trên sau, duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ. Nghĩa là kiết này khi duyên nơi thức, ở ba cõi đều có ba bộ, do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, cõi vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là kiết này duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, vô sắc đều có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, là tùy miên tùy tăng.

Các thứ mắt, tai, thân chạm xúc sinh ái thân, duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ. Nghĩa là ái thân này khi duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc đều có ba bộ, do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn. Nghĩa là ái thân này, khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục và cõi sắc đều có bốn bộ, trừ bộ do kiến diệt đoạn, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi dục do kiến khổ, kiến tập và tu đạo đoạn trừ các tùy miên… duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là các tùy miên này duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc là biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là tùy miên này duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, ở cõi sắc có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ và do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có biến hành và do tu đạo đoạn. Nghĩa là tùy miên này duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn, cùng do kiến diệt đoạn duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có biến hành và do tu đạo đoạn là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có duyên nơi hữu vi, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn. Nghĩa là tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có năm bộ, duyên nơi hữu vi, ở cõi sắc có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, cùng do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là các tùy miên này duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, cùng do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có các biến hành, cùng do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có các biến hành, cùng do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là các tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, trừ bộ do kiến diệt đoạn, ở cõi sắc có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi sắc do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là tùy miên này ở cõi dục và cõi sắc đều có ba bộ, do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, cõi vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, cõi vô sắc đều có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, là tùy miên tùy tăng

Ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở cõi dục, cõi sắc có ba bộ và ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các duyên nơi hữu lậu, ở cõi vô sắc có các biến hành và do tu đạo đoạn. Nghĩa là tùy miên này khi duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc đều có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là tùy miên này duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc có năm bộ, có duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có bốn bộ trừ bộ do kiến diệt đoạn, là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở cõi dục cõi sắc có ba bộ, cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu, ở cõi vô sắc có các biến hành, cùng do tu đạo đoạn trừ. Nghĩa là tùy miên này duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc đều có ba bộ, do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn, ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu, ở cõi vô sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc và cõi vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là các tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, vô sắc đều có bốn bộ, trừ bộ do kiến diệt đoạn, là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi vô sắc do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ. Nghĩa là các tùy miên này duyên nơi thức, ở ba cõi đều có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, cõi vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là các tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, vô sắc đều có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, là tùy miên tùy tăng

Ở cõi vô sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ, và ở cõi vô sắc do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu. Nghĩa là tùy miên này khi duyên nơi thức, ở ba cõi đều có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn, ở cõi vô sắc do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu vi. Nghĩa là tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, ở cõi vô sắc có năm bộ duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ, và ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu. Nghĩa các tùy miên này khi duyên nơi thức, ở nơi ba cõi đều có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, cùng ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc có bốn bộ. Nghĩa là tùy miên này khi duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ, ở cõi sắc, vô sắc đều có bốn bộ, trừ phần do kiến diệt đoạn, là tùy miên tùy tăng.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói duyên nơi thức và duyên nơi thức duyên, không nói duyên duyên nơi thức duyên?

Đáp: Vì muốn ngăn chận lỗi do lần lượt mở ra không cùng. Nghĩa là nếu nói đến thức của duyên thứ ba, tức phải nói đến thức của duyên thứ tư. Như thế là lần lượt tức là vô cùng.

Lại nữa, như đẳng vô gián duyên chỉ nên suy nghĩ đến lần chuyển thứ hai, không nên suy xét đến lần chuyển thứ ba. Về sở duyên duyên cũng nên như thế.

Lại nữa, các pháp duyên nơi thức, cùng duyên nơi thức duyên là tùy miên tùy tăng phần nhiều có khác nhau, nên nhất định phải nói như thế. Còn các tùy miên tùy tăng của lần thứ ba chuyển, phần nhiều không khác nhau, nên không nói nữa.

Lại nữa, A-tỳ-đạt-ma tóm lược chỉ rõ về biên vực khiến người trí đã mở bày lần lượt ngộ nhập, nên không nói lại lần chuyển thứ ba.

***

* Ý căn cho đến tùy miên vô minh của cõi vô sắc do tu đạo đoạn, ở trong mười lăm bộ tâm của ba cõi, mỗi mỗi đẳng vô gián sinh ra bao nhiêu tâm?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần luận này?

Đáp: Là để ngăn chận, loại bỏ thuyết của người khác, nhằm hiển bày chánh lý. Nghĩa là có thuyết cho tâm làm đẳng vô gián duyên với tâm, không phải là tâm sở, tâm sở làm đẳng vô gián duyên với tâm sở, không phải là tâm, như phái Thí Dụ. Để ngăn chận ý tưởng đó và làm sáng tỏ tâm và tâm sở lần lượt có thể làm đẳng vô gián duyên cho nhau, không phải chỉ là giống nhau, nên tạo ra phần Luận này. Ở đây, muốn làm rõ đẳng vô gián duyên, nên chỉ hỏi về tâm và tâm sở pháp.

Hỏi: Trong đây vì sao chỉ hỏi về tâm hữu lậu sinh mà không hỏi về tâm vô lậu sinh?

Đáp: Vì đây là kiết uẩn, chỉ tâm hữu lậu là có thể làm cho các kiết tăng trưởng, nên nói riêng.

Hỏi: Khi phân biệt các kiết dựa vào năm bộ, nay vì sao lại hỏi về mười lăm tâm?

Đáp: Do nay trong số các uẩn này, không phải chỉ có kiết uẩn, lại cũng muốn trình bày rõ về sự việc của kiết vì chúng chung cho cả ba cõi nên hỏi về mười lăm bộ tâm trong ba cõi. Trong tâm tâm sở, thì tâm là tối thắng, nên ở đây chỉ hỏi riêng về tâm không hỏi về tâm sở. Chữ “sinh ra” ở trong đây là nói lúc đang sinh ra khi có tác dụng của đẳng vô gián duyên.

Nói tất cả tâm gồm có mười sáu tâm, tức mười lăm tâm trước và tâm vô lậu.

Hỏi: Trong mười sáu tâm này, chúng lần lượt cùng đối chiếu, đều từ bao nhiêu thứ sinh ra và lại đều sinh ra bao nhiêu thứ?

Đáp: Ở cõi dục, bốn bộ tâm trước, đều từ mười lăm tâm sinh ra, trừ tâm vô lậu, chỉ có thể sinh ra năm bộ tâm ở cõi dục. Tâm nhiễm ô ở địa dưới không thể sinh ra tâm ở địa trên, nên tâm nhiễm ô cũng không thể sinh ra tâm vô lậu.

Tâm ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ, từ mười sáu tâm sinh ra, lại có thể sinh ra mười sáu tâm.

Bốn bộ tâm trước ở cõi sắc, từ mười một tâm sinh ra, trừ bốn bộ tâm trước ở cõi dục và tâm vô lậu, chỉ có thể sinh ra mười tâm ở cõi dục và cõi sắc.

Tâm ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ, từ mười hai tâm sinh ra, trừ bốn bộ tâm trước ở cõi dục, lại có thể sinh ra mười sáu tâm.

Bốn bộ tâm trước ở cõi vô sắc từ bảy tâm sinh ra. Nghĩa là năm bộ tâm của tự cõi và hai tâm ở cõi dục, cõi sắc do tu đạo đoạn trừ, lại có thể sinh ra mười lăm tâm, trừ tâm vô lậu.

Tâm ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ, từ tám tâm sinh ra. Nghĩa là năm bộ tâm của tự cõi, hai tâm ở cõi dục và cõi sắc do tu đạo đoạn trừ và tâm vô lậu, lại có thể sinh ra mười sáu tâm.

Tâm vô lậu từ bốn tâm sinh ra, lại có thể sinh ra bốn tâm. Nghĩa là ở ba cõi, mỗi cõi có một tâm do tu đạo đoạn trừ và tâm vô lậu. Không phải tâm vô lậu cùng với tâm nhiễm ô cùng xuất nhập.

Trong đây là căn cứ chung nơi tất cả hữu tình, hoặc nơi tất cả thời cùng có mà nói, không phải chỉ nói riêng về một Bổ-đặc-già-la trong một sát na có các sự việc như thế.

Ý căn cùng không gián đoạn sinh ra mười lăm tâm: Là trong mười sáu tâm, trừ tâm vô lậu không nói tới. Đây tức là nói chung. Có sai khác: Nếu chưa lìa nhiễm ở cõi dục, thì ý căn của cõi dục cũng không gián đoạn cùng sinh ra sáu tâm, là năm tâm ở cõi dục và một tâm ở cõi dục do tu đạo đoạn, tức là tâm thiện của gia hạnh nơi định vị chí.

Đã lìa nhiễm ở cõi dục, chưa lìa nhiễm nơi cõi sắc thì ý căn của cõi dục không gián đoạn cùng sinh ra mười tâm, là năm tâm của cõi dục như lúc thoái chuyển và năm tâm ở cõi sắc như lúc đang nối tiếp sinh ra.

Nếu đã lìa nhiễm ở cõi sắc, thì ý căn ở cõi dục cùng không gián đoạn sinh ra mười một tâm, là năm tâm ở cõi dục như lúc thoái chuyển, một tâm ở cõi sắc như lúc nhập định, và năm tâm ở cõi vô sắc như lúc nối tiếp sinh.

Nếu chưa lìa nhiễm ở cõi sắc, thì ý căn ở cõi sắc cùng không gián đoạn cùng sinh ra mười một tâm. Nghĩa là năm tâm ở cõi dục, như lúc nối tiếp sinh hoặc lúc thoái chuyển, ở cõi sắc có năm tâm và ở cõi vô sắc có một tâm do tu đạo đoạn trừ, tức là tâm thiện của gia hạnh nơi cận phần của Không vô biên xứ như lúc nhập định.

Nếu đã lìa nhiễm ở cõi sắc, thì ý căn của cõi sắc cùng không gián đoạn cùng sinh ra mười một tâm. Đó là cõi dục có một tâm do tu đạo đoạn trừ, tức tâm thọng quả. Cõi sắc có năm tâm như lúc thoái chuyển. Cõi vô sắc có năm tâm như lúc nối tiếp sinh. Ý căn ở cõi vô sắc cùng không gián đoạn cùng sinh ra mười lăm tâm. Nghĩa là cõi dục có năm tâm như lúc nối tiếp sinh, cõi sắc có năm tâm như lúc nối tiếp sinh, hoặc lúc thoái chuyển và ở cõi vô sắc có năm tâm.

Về xả căn và năm căn như tín cũng như thế: Tức cùng sinh ra mười lăm tâm như ý căn.

Về lạc căn cùng không gián đoạn sinh ra mười một tâm, tức là ở cõi dục, cõi sắc mỗi cõi đều có năm tâm, ở cõi vô sắc có một tâm do tu đạo đoạn trừ, là lạc căn ở tĩnh lự thứ ba cùng không gián đoạn vượt nhập vào định hữu lậu của Không vô biên xứ. Nên bốn thọ như lạc v.v… và năm thức thân tất không mạng chung cùng không gián đoạn, chẳng sinh ra bốn bộ tâm trước ở cõi vô sắc.

Khổ căn cùng không gián đoạn sinh ra năm tâm, là năm tâm ở cõi dục.

Ưu căn cũng như thế, tức cũng sinh ra năm tâm như khổ căn, nên không thể từ ưu căn, khổ căn nhập vào tâm định vì chúng cùng với tâm định là hết sức trái nhau.

Hỷ căn cùng không gián đoạn sinh ra mười tâm. Nghĩa là ở cõi dục và cõi sắc mỗi cõi đều có năm bộ tâm. Hỷ căn ở cõi dục sinh ra năm tâm của cõi dục. Hỷ căn ở cõi sắc thì sinh ra năm tâm của cõi sắc. Không có việc hỷ căn ở cõi dục cùng không gián đoạn sinh ra tâm nhiễm ô và vui mừng cùng chung ở cõi sắc. Cũng không có việc hỷ căn ở cõi sắc cùng không gián đoạn sinh ra tâm nhiễm ô và vui mừng cùng chung ở cõi dục. Vì hỷ căn chỉ có thể dẫn khởi các phiền não của địa mình. Trong đây có thuyết nói: Hỷ căn ở cõi sắc cùng không gián đoạn sinh ra tâm thiện và vô ký ở cõi dục. Hỷ căn của cõi dục cùng không gián đoạn không sinh ra tâm thiện và vô ký ở cõi sắc.

Chỉ có xả căn ở cõi dục cùng không gián đoạn mới có thể sinh ra các tâm ở cõi sắc.

Vị tri đương tri căn cùng không gián đoạn không sinh ra tâm, là không sinh mười lăm tâm nơi ba cõi. Tức do nghĩa này, nên kinh nói kiến đạo gọi là vô tướng, là không gián đoạn không sinh ra tâm hữu lậu.

Dĩ tri câu tri căn cùng không gián đoạn sinh ra ba tâm, tức là tâm thiện ở ba cõi do tu đạo đoạn trừ.

Trong đó, những vị đã chứng quả Dự lưu và Nhất lai rồi, hoặc do tâm ở cõi dục mà xuất, hoặc do tâm của định vị chí mà xuất. Khi đã được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào định vị chí cũng do hai tâm này mà xuất. Nếu dựa vào năm địa còn lại đều do địa của mình mà xuất. Khi chứng quả A-la-hán rồi, nếu dựa vào định vị chí, thì hoặc do tâm của cõi dục mà xuất, hoặc do tâm nơi định vị chí mà xuất. Nếu dựa vào Vô sở hữu xứ thì hoặc do tâm của Vô sở hữu xứ mà xuất, hoặc do tâm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà xuất. Nếu dựa vào các địa khác, đều do tâm của địa mình mà xuất.

Các giới mắt, tai, thân thức sinh ra mười tâm, tức ở cõi dục, cõi sắc mỗi cõi đều có năm bộ tâm và chỉ sinh ra ở cõi của mình.

Các giới mũi, lưỡi, thức, sinh ra năm tâm, tức là năm bộ tâm ở cõi dục.

Pháp vô lậu sinh ra ba tâm, tức là tâm nơi ba cõi do tu đạo đoạn. Pháp quá khứ sinh ra hai tâm, đó là tâm ở cõi sắc, vô sắc do tu đạo đoạn. Tức là ra khỏi tâm diệt định vô tưởng dị thục, vô tưởng định, đến lúc sinh ra tác dụng, ở quá khứ có thể nhập vào tâm và tâm sở pháp. Bấy giờ, mới có đẳng vô gián duyên nhận lấy và cho dụng của quả.

Hỏi: Vượt khỏi tâm vô tưởng dị thục là chung nơi năm bộ tâm ở cõi sắc, hay chỉ do tu đạo đoạn? Nếu nói như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu chung nơi năm bộ của cõi sắc thì vì sao ở đây không nói? Tức trong đây nên nói về quá khứ sinh ra sáu tâm, vì sao chỉ nói quá khứ sinh ra hai tâm? Còn nếu chỉ do tu đạo đoạn thì nơi phần Căn Uẩn đã nói nên làm sao thông tỏ? Như nói: Các hữu tình kia đã khởi các tưởng ấy rồi, từ xứ kia mất thì tưởng ấy nên nói là thiện hoặc vô ký, đối với các tưởng ở cõi sắc đó có duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng chăng?

Đáp: Nên nói là khi vượt khỏi tâm vô tưởng dị thục, thì chung nơi năm bộ ở cõi sắc.

Hỏi: Nếu như thế thì vì sao ở đây không nói?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, trong đây chỉ nói vượt khỏi tâm vô tưởng diệt định, phải nhờ sức của công dụng gia hạnh đã dẫn khởi, trong khi vượt khỏi tâm vô tưởng dị thục thì không cần sức của công dụng gia hạnh dẫn khởi, nên ở đây không nói.

Lại nữa, trong đây chỉ nói có tâm thiện, còn vượt khỏi tâm vô tưởng dị thục thì có cả hoặc thiện, hoặc nhiễm, hoặc vô ký, nên ở đây không nói.

Có thuyết cho: Vượt khỏi tâm vô tưởng dị thục chỉ do tu đạo đoạn trừ.

Hỏi: Nếu vậy thì nơi phần Căn Uẩn đã nói làm sao thông?

Đáp: Câu văn đó tức nên nói như thế này: Đối với các tưởng nơi cõi sắc kia có biến hành là tùy miên tùy tăng. Nhưng vì muốn ngăn chận duyên nơi vô lậu, nên nói duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Lời bình: Trong hai thuyết này thì thuyết trước là đúng.

Hỏi: Vì sao tưởng kia không phải là duyên nơi vô lậu là tùy miên tùy tăng?

Đáp: Vì những kẻ kia chấp vô tưởng là Niết-bàn, chấp định vô tưởng là Thánh đạo. Thế nên lúc đó không khởi tà kiến bác bỏ cho là không có diệt đạo. Từ đây trở về sau thì cùng khởi tà kiến.

Pháp vị lai không sinh ra tâm, vì không phải là đẳng vô gián duyên.

Bốn vô lượng sinh ra sáu tâm. Đó là năm bộ tâm ở cõi sắc và một tâm ở cõi dục do tu đạo đoạn. Vì duyên với cõi dục, vì duyên nơi hữu tình, nên không thể dẫn khởi tâm ở cõi vô sắc.

Hai giải thoát trước, bốn thắng xứ trước, nên biết cũng như thế vì duyên nơi cõi dục.

Giải thoát thứ tư và thứ năm sinh ra sáu tâm, đó là năm bộ ở cõi vô sắc và tâm ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ.

Tha tâm trí sinh ra sáu tâm, đó là năm bộ tâm ở cõi sắc, và tâm ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ. Cả năm thứ đều chung nơi cùng không gián đoạn nên không thể dẫn khởi các tâm ở cõi vô sắc.

Giải thoát thứ ba, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước sinh ra năm tâm. Tức là năm bộ tâm ở cõi sắc, đều là sự việc cần quán riêng, nên không thể dẫn khởi tâm ở cõi vô sắc.

Hai biến xứ sau sinh ra năm tâm, đó là năm bộ tâm ở cõi vô sắc, là quán giả tưởng nên không thể dẫn khởi các tâm định ở cõi sắc.

Giải thoát thứ tám không sinh tâm, vì tuy là tâm cùng không gián đoạn nhưng không phải là tâm nơi đẳng vô gián duyên.

Pháp trí sinh ra hai tâm, đó là tâm trừ ở hai cõi dục và Sắc do tu đạo đoạn. Vì duyên với bốn đế ở cõi dục nên không thể dẫn khởi các tâm ở cõi vô sắc.

Sắc tham thuộc kiết thuận phần trên sinh ra hai tâm, là hai tâm ở cõi dục, cõi sắc do tu đạo đoạn trừ. Vì tâm nhiễm ở địa dưới không sinh ra tâm ở địa trên.

Bốn kiết thuận phần trên sau sinh ra ba tâm, là tâm nơi ba cõi do tu đạo đoạn trừ. Do năm kiết này trong thân bậc Bất hoàn mới hiện hành.

Phần văn còn lại dễ hiểu nên không phân biệt.

HẾT – QUYỂN 89