LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 146

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ CĂN, phần 5

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng?

Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận thuyết cho: Pháp nhân duyên là không thật có, cùng hiển bày pháp nhân duyên quyết định là thật có. Cũng là để ngăn chận kẻ ngu đối với pháp tương ưng chấp cho là không thật có khiến họ nhận biết pháp tương ưng là có thật, nên tạo ra phần Luận này.

Có thuyết nói: Ở trong nghĩa này chỉ dựa vào một nhân để tạo luận, tức là nhân tương ưng. Do đó, trong đây nói về tương ưng và căn cứ vào ý nghĩa sâu xa ấy để giải thích phần văn này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng?

Đáp: Có mười bốn. Đó là ý căn, năm thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Đây là tự thể của nhân tương ưng. Căn cùng với tự thể của nhân tương ưng là pháp tương ưng, nên gọi là nhân tương ưng.

Hỏi: Có bao nhiêu căn là nhân không tương ưng?

Đáp: Có tám. Tức là bảy sắc căn và mạng căn.

Hỏi: Tám căn này đã không phải là thể của nhân tương ưng, vì sao lại nói là nhân không tương ưng?

Đáp: Tám căn này tuy không phải là thể của nhân tương ưng, nhưng cùng với thể của nhân tương ưng không tương ưng, nên gọi là nhân không tương ưng, điều ấy đâu có lỗi gì.

Hỏi: Có bao nhiêu căn là nhân tương ưng và nhân không tương ưng?

Đáp: Tức mười bốn thứ trước, phần ít là nhân tương ưng, phần ít là nhân không tương ưng. Phần ít là nhân tương ưng: Tức là tự tánh đối với tha tánh. Phần ít là nhân không tương ưng: Tức là tự tánh đối với tự tánh.

Hỏi: Có bao nhiêu căn không phải là nhân tương ưng, không phải là nhân không tương ưng?

Đáp: Tức mười bốn thứ trước, phần ít không phải là nhân tương ưng, phần ít không phải là nhân không tương ưng. Phần ít không phải là nhân tương ưng: Tức là tự tánh đối với tự tánh. Phần ít không phải là nhân không tương ưng: Tức là tự tánh đối với tha tánh.

Có thuyết cho: Trong đây là dựa vào hai nhân để tạo luận, tức là nhân tương ưng và nhân câu hữu, do hai nhân này không cùng với pháp kia không lìa nhau. Dựa vào ý sâu xa ấy để giải thích phần văn này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng?

Đáp: Có mười bốn. Đây là tự thể của hai nhân. Căn cùng với tự thể của hai nhân là pháp tương ưng, nên gọi là nhân tương ưng. Về ba hỏi đáp sau theo như trước, nên biết.

Có thuyết biện: Trong đây là dựa vào ba nhân để tạo luận, tức là nhân tương ưng, nhân câu hữu và nhân đồng loại, do ba nhân này là chung cả ba tánh.

Có thuyết nêu: Trong đây là dựa vào bốn nhân để tạo luận, tức là trừ hai nhân đồng loại và biến hành, do bốn nhân này là chung cả ba đời.

Có thuyết cho: Ở đây là dựa vào năm nhân để tạo luận, tức là trừ nhân năng tác, do chung với vô vi và không phải là sự thân cận thù thắng.

Có thuyết nói: Trong đây là dựa vào sáu nhân để tạo luận. Do đấy nói về nhân là nói chung. Nhưng pháp tương ưng hoặc làm tự thể của sáu nhân, hoặc làm tự thể của năm nhân, hoặc làm tự thể của bốn nhân, như nơi chương Đại Chủng Uẩn đã nói rộng. Dựa vào ý sâu xa ấy để giải thích phần văn này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng?

Đáp: Có mười bốn. Nghĩa là tự thể của sáu nhân, căn cùng với tự thể của sáu nhân làm pháp tương ưng. Tự thể của năm nhân, căn cùng với tự thể của năm nhân làm pháp tương ưng. Tự thể của bốn nhân, căn cùng với tự thể của bốn nhân làm pháp tương ưng, nên gọi là nhân tương ưng. Về ba hỏi đáp sau theo như trước, nên biết.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là duyên có duyên?

Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận thuyết cho sở duyên duyên là không có thật cùng làm sáng rõ sở duyên duyên là có thật, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là duyên có duyên?

Đáp: Là phần ít của mười ba căn. Tức là phần ít của ý căn, lạc căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Pháp có đối tượng duyên làm đối tượng duyên ấy, nên nói đây là trường hợp duyên có duyên. Như người mắt sáng nhìn thấy người mắt sáng thì người mắt sáng kia lại có những thứ được thấy khác. Trường hợp duyên có duyên nên biết cũng như thế.

Hỏi: Có bao nhiêu căn duyên không duyên?

Đáp: Có một căn và phần ít của mười ba căn. Một tức là khổ căn. Phần ít của mười ba căn như trước đã nói. Pháp không có đối tượng duyên làm đối tượng duyên ấy, nên nói đây là trường hợp duyên không duyên. Như người mắt sáng nhìn thấy người mù thì người mù kia lại không có thấy các thứ khác. Trường hợp duyên không duyên nên biết cũng như thế.

Hỏi: Có bao nhiêu căn duyên có duyên và duyên không duyên?

Đáp: Có phần ít của mười ba căn, như trước đã nói. Pháp có đối tượng duyên và pháp không có đối tượng duyên làm đối tượng duyên ấy, nên nói đây là trường hợp duyên có duyên và duyên không duyên. Như người mắt sáng nhìn thấy người mắt sáng và người mù, người mắt sáng kia lại có thấy còn người mù thì không có thấy. Trường hợp duyên có duyên, duyên không duyên nên biết cũng như thế.

Có nơi khác cho: Đây là nghĩa của trường hợp thứ ba, tức hợp hai trường hợp một và hai vì thể không khác. Điều nói ấy là không đúng, vì trái với bản luận. Như ở phẩm Mười môn nói: Pháp duyên có duyên là hữu vi duyên nơi tùy miên tùy tăng. Pháp duyên không duyên là tất cả các tùy miên tùy tăng. Pháp duyên có duyên, duyên không duyên là hữu vi duyên nơi tùy miên tùy tăng. Pháp không phải duyên có duyên, không phải duyên không duyên là hữu lậu duyên nơi tùy miên tùy tăng, nhưng có ý thức cùng pháp tương ưng, trong khoảng một sát-na duyên chung với pháp có duyên và pháp không duyên. Thế nên như trước đã nói là đúng.

Hỏi: Có bao nhiêu căn không phải duyên có duyên, không phải duyên không duyên?

Đáp: Có tám, tức là bảy sắc căn và mạng căn. Do các căn này không duyên với pháp có đối tượng duyên và pháp không có đối tượng duyên, nên nói đây là trường hợp không phải duyên có duyên, không phải duyên không duyên. Như người mù bẩm sinh đều không thấy gì cả. Trường hợp này cũng như thế.

Trong đây lược nêu về hai mươi hai căn gồm bốn trường hợp như duyên có duyên v.v… có sai biệt như nơi phẩm Mười môn đã nói.

Mười tám giới cũng nên lấy bốn trường hợp này để phân biệt. Nghĩa là trong mười tám giới, mười sắc giới là trường hợp thứ tư, năm thức giới là trường hợp thứ hai, ý giới, ý thức giới là ba trường hợp trước, còn pháp giới gồm đủ bốn trường hợp.

Trong mười hai xứ, mười sắc xứ là trường hợp thứ tư, ý xứ là ba trường hợp trước, còn pháp xứ là gồm đủ bốn trường hợp.

Trong năm uẩn, sắc uẩn là trường hợp thứ tư, thọ, tưởng, thức uẩn là ba trường hợp trước, còn hành uẩn là gồm đủ bốn trường hợp.

Như uẩn, thủ uẩn cũng vậy.

Trong sáu giới, năm sắc giới là trường hợp thứ tư, thức giới là ba trường hợp trước.

Pháp có sắc, pháp có thấy, pháp có đối, pháp vô vi, diệt đế là trường hợp thứ tư. Pháp không sắc, pháp không thấy, pháp không đối, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại, pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký, pháp thuộc cõi dục, pháp thuộc cõi sắc, pháp thuộc cõi vô sắc, pháp học, pháp vô học, pháp phi học phi vô học, pháp do kiến đạo đoạn, pháp do tu đạo đoạn và pháp không đoạn, khổ tập đạo đế, tĩnh lự và vô sắc đều gồm đủ bốn trường hợp.

Trong bốn vô lượng, nếu giữ lấy tự tánh, duyên trụ nơi tâm đồng phần hữu tình tức là trường hợp thứ ba. Nếu duyên không trụ nơi tâm đồng phần hữu tình là trường hợp thứ hai. Nếu cùng giữ lấy tương ưng tùy chuyển, duyên trụ nơi tâm đồng phần hữu tình là trường hợp thứ ba và thứ tư. Nếu duyên không trụ nơi tâm đồng phần hữu tình là trường hợp thứ hai và thứ tư.

Ba giải thoát đầu, tám thắng xứ trước, tám biến xứ trước, nếu giữ lấy tự tánh là trường hợp thứ hai. Nếu cùng giữ lấy tương ưng tùy chuyển là trường hợp thứ hai và thứ tư.

Diệt thọ tưởng giải thoát là trường hợp thứ tư. Bốn giải thoát còn lại gồm đủ bốn trường hợp. Hai biến xứ sau là trường hợp thứ ba và thứ tư. Diệt trí, đẳng trì vô tướng là trường hợp thứ hai. Tha tâm trí là trường hợp thứ nhất. Sáu trí còn lại và hai đẳng trì kia là ba trường hợp trước.

Trong các môn phiền não, năm thức tương ưng là trường hợp thứ hai. Ý thức tương ưng là ba trường hợp trước. Ở đây các thứ sai khác nên suy nghĩ nói rộng.

Hỏi: Các căn nơi pháp này thì căn ấy là phàm phu chăng? Nếu như các căn là của phàm phu thì căn ấy là nơi pháp này chăng?

Đáp: Các căn nơi pháp này thì căn ấy không phải là phàm phu. Các căn là của phàm phu thì căn ấy không phải là nơi pháp này.

Hỏi: Thế nào gọi là pháp này? Thế nào gọi là phàm phu?

Đáp: Pháp này tức là bậc Thánh. Phàm phu tức là phàm phu. Các căn nơi pháp này, căn ấy không phải là phàm phu: Nghĩa là các căn vô lậu, chỉ có bậc Thánh mới thành tựu không phải là các phàm phu. Các căn là của phàm phu, căn ấy không phải là pháp này: Nghĩa là căn do kiến đạo đoạn chỉ có phàm phu thành tựu không phải là các bậc Thánh.

Có thuyết nói: Pháp này tức là trụ nơi khổ pháp trí nhẫn. Phàm phu tức là trụ nơi pháp thế đệ nhất.

Các căn nơi pháp này, căn ấy không phải là phàm phu: Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn cùng sinh các căn, chỉ trụ nơi khổ pháp trí nhẫn mới hiện khởi, không phải trụ nơi pháp thế đệ nhất.

Các căn là của phàm phu, căn ấy không phải là pháp này: Nghĩa là pháp thế đệ nhất cùng sinh các căn, chỉ trụ nơi pháp thế đệ nhất mới hiện khởi, không phải trụ nơi khổ pháp trí nhẫn.

Có thuyết nêu: Pháp này tức là trụ nơi luật nghi. Phàm phu tức là trụ nơi không phải luật nghi. Các căn trụ nơi luật nghi phát khởi, tức căn ấy không trụ nơi không luật nghi để khởi. Các căn trụ nơi không luật nghi phát khởi, tức các căn ấy không trụ nơi luật nghi dể khởi.

Có thuyết cho: Pháp này tức là căn không thiếu sót. Phàm phu tức là căn thiếu sót. Như hàng Phiến bán trạch ca không hình, hai hình. Các căn nơi người có căn không thiếu sót khởi lên, căn ấy không phải do người có căn thiếu sót khởi lên. Các căn nơi người có căn thiếu sót khởi lên, căn ấy không phải do người có căn không thiếu sót khởi lên.

Có thuyết nói: Pháp này tức là không đoạn dứt căn thiện. Phàm phu tức là đoạn dứt căn thiện. Các căn như tín v.v… là do người không đoạn dứt căn thiện khởi lên, căn ấy không phải do người đoạn dứt căn thiện khởi lên. Các căn do tà kiến cùng sinh là do người đoạn dứt căn thiện khởi lên, căn ấy không phải do người không đoạn dứt căn thiện khởi lên.

Có thuyết nêu: Pháp này tức là trụ vào tụ chánh định. Phàm phu tức là trụ vào tụ tà định. Các căn do người trụ vào tụ chánh định khởi lên, căn ấy không phải do người trụ vào tụ tà định khởi lên. Các căn do người trụ vào tụ tà định khởi lên, căn ấy không phải do người trụ vào tụ chánh định khởi lên.

Có thuyết biện: Pháp này tức là trụ nơi năm tịnh cư. Phàm phu tức là trụ nơi năm xứ phàm phu. Các căn do người trụ nơi năm tịnh cư khởi lên, căn ấy không phải do người trụ nơi năm xứ phàm phu khởi lên. Các căn do người trụ nơi năm xứ phàm phu khởi lên, căn ấy không phải do người trụ nơi năm tịnh cư khởi lên.

Hỏi: Sắc uẩn gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Bảy căn. Tức là bảy sắc căn như nhãn v.v…

Hỏi: Thọ uẩn gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Năm căn và phần ít của ba căn. Năm căn tức là năm thọ căn. Phần ít của ba căn tức là phần ít của ba căn vô lậu. Do ba căn vô lậu lấy chín pháp làm thể, ở đây chỉ gồm thâu ba, nên gọi là phần ít.

Hỏi: Tưởng uẩn gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Không có. Vì tưởng không phải là căn.

Hỏi: Hành uẩn gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Sáu căn và phần ít của ba căn. Sáu căn tức là mạng căn và năm căn như tín v.v… Phần ít của ba căn tức là phần ít của ba căn vô lậu. Do ba căn vô lậu lấy chín pháp làm thể, ở đây chỉ gồm thâu năm, nên gọi là phần ít.

Hỏi: Thức uẩn gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Một căn và phần ít của ba căn. Một căn tức là ý căn. Phần ít của ba căn tức là phần ít của ba căn vô lậu. Do ba căn vô lậu lấy chín pháp làm thể, ở đây chỉ gồm thâu một, nên gọi là phần ít.

Hỏi: Căn thiện gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu tám giới, hai xứ, ba uẩn. Tám giới tức là bảy tâm giới và pháp giới. Hai xứ tức là ý xứ và pháp xứ. Ba uẩn là thọ uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu căn thiện, có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Không có.

Hỏi: Căn bất thiện gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu tám giới, hai xứ và hai uẩn. Tám giới tức là bảy tâm giới và pháp giới. Hai xứ tức là ý xứ và pháp xứ. Hai uẩn tức là thọ uẩn và thức uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu căn bất thiện, có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Không có.

Hỏi: Căn hữu phú vô ký gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu sáu giới, hai xứ và hai uẩn. Sáu giới tức là nhãn thức giới, nhĩ thức giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới, pháp giới. Hai xứ tức là ý xứ và pháp xứ. Hai uẩn tức là thọ uẩn và thức uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu căn hữu phú vô ký, có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Không có.

Hỏi: Căn vô phú vô ký gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu mười ba giới, bảy xứ, bốn uẩn. Mười ba giới tức là mười hai giới bên trong và pháp giới. Bảy xứ tức là sáu xứ bên trong và pháp xứ. Bốn uẩn tức trừ tưởng uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu căn vô phú vô ký, có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Có năm giới, năm xứ, không uẩn. Năm giới tức là năm giới của sắc căn như nhãn v.v… Năm xứ tức là năm xứ của sắc căn như nhãn v.v… Không uẩn tức là không có uẩn, chỉ có vô phú vô ký.

Hỏi: Pháp căn gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu mười ba giới, bảy xứ, bốn uẩn. Mười ba giới tức là mười hai giới bên trong và pháp giới. Bảy xứ tức là sáu xứ bên trong và pháp xứ. Bốn uẩn tức trừ tưởng uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu pháp căn có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Có mười hai giới, sáu xứ, hai uẩn. Mười hai giới tức là mười hai giới bên trong. Sáu xứ tức là sáu xứ bên trong. Hai uẩn tức là thọ uẩn và thức uẩn.

Hỏi: Pháp không phải là căn gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu sáu giới, sáu xứ, ba uẩn. Sáu giới tức là sáu giới bên ngoài. Sáu xứ tức là sáu xứ bên ngoài. Ba uẩn tức là sắc uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu pháp không phải là căn có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Có năm giới, năm xứ, một uẩn. Năm giới tức là năm sắc giới bên ngoài. Năm xứ tức là năm sắc xứ bên ngoài. Một uẩn tức là tưởng uẩn.

Hỏi: Pháp căn, không phải là căn gồm thâu bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.

Hỏi: Chỉ gồm thâu pháp căn, không phải là căn có bao nhiêu giới, bao nhiêu xứ, bao nhiêu uẩn?

Đáp: Có một giới, một xứ, hai uẩn. Một giới tức là pháp giới.

Một xứ tức là pháp xứ. Hai uẩn tức là sắc uẩn và hành uẩn.

***

* Từng có căn làm duyên sinh ra căn chăng? Cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Ở đây có một nêu lên, một giải thích, một giải thích rộng.

Như nói: Từng có căn làm duyên sinh ra căn chăng? Là nêu lên.

Từng có nhãn căn làm duyên sinh ra nhãn căn chăng? Là giải thích.

Nhãn căn cùng với nhãn căn làm bao nhiêu duyên? Là giải thích rộng.

Có thuyết nêu: Trong đây có ba nêu lên, ba giải thích và ba giải thích rộng.

Như nói: Từng có căn làm duyên sinh ra căn chăng? Là nêu lên.

Đáp: Có sinh, là giải thích. Sinh không phải là căn chăng v.v…, là giải thích rộng.

Từng có nhãn căn làm duyên sinh ra nhãn căn chăng? Là nêu lên.

Đáp: Có sinh, là giải thích. Sinh nhĩ căn cho đến sinh cụ tri căn

v.v… là giải thích rộng.

Nhãn căn cùng với nhãn căn làm bao nhiêu duyên? Là nêu lên.

Đáp: Làm nhân duyên, tăng thượng duyên, là giải thích. Cho đến cùng với cụ tri căn làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên, là giải thích rộng.

Có thuyết nói: Trong đây có ba nêu lên và ba giải thích.

Như nói: Từng có căn làm duyên sinh ra căn chăng? Là nêu lên.

Đáp: Có sinh v.v… là giải thích.

Từng có nhãn căn làm duyên sinh ra nhãn căn chăng? Là nêu lên.

Đáp: Có sinh v.v… là giải thích.

Nhãn căn cùng với nhãn căn làm bao nhiêu duyên? Là nêu lên.

Đáp: Làm nhân duyên, tăng thượng duyên là giải thích.

Hỏi: Từng có căn làm duyên sinh ra căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương sinh ra ý căn, ba thọ và năm căn như tín v.v… Hoặc mắt làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, bốn thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu.

Hỏi: Từng có căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương sinh ra tưởng, tư, xúc, tác ý v.v… Hoặc mắt làm đối tượng duyên sinh ra tưởng, tư, xúc, tác ý, cùng ố tác, thùy miên v.v…

Hỏi: Từng có căn làm duyên sinh ra căn, không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương sinh ra ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…, tưởng, tư, xúc, tác ý v.v… Hoặc mắt làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, bốn thọ, năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu, tưởng, tư, xúc, tác ý, cùng ố tác, thùy miên v.v…

Hỏi: Từng có không phải căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Như sắc làm đối tượng duyên sinh ra tưởng, tư, xúc, tác

ý, cùng ố tác, thùy miên v.v…

Hỏi: Từng có không phải căn làm duyên sinh ra căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như sắc làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, năm thọ, năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu.

Hỏi: Từng có không phải căn làm duyên sinh ra căn, không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như sắc làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, năm thọ, năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu, tưởng, tư, xúc, tác ý, cùng ố tác, thùy miên v.v…

Hỏi: Từng có căn, không phải căn làm duyên sinh ra căn, không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương, sắc làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…, tưởng, tư, xúc, tác ý v.v… Hỏi: Từng có căn, không phải căn làm duyên sinh ra căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm làm chỗ nương, sắc làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…

Hỏi: Từng có căn, không phải căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm làm chỗ nương, sắc làm đối tượng duyên sinh ra tưởng, tư, xúc, tác ý v.v…

* Có nơi khác đối với việc này đã nêu ra phần văn thứ hai:

Hỏi: Từng có căn làm duyên chỉ sinh ra căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn này cũng sinh ra không phải là căn.

Hỏi: Từng có căn làm duyên chỉ sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn này cũng sinh ra căn.

Hỏi: Từng có căn làm duyên chỉ sinh ra căn và không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương sinh ra ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…, tưởng, tư, xúc, tác ý v.v…

Hỏi: Từng có không phải căn làm duyên chỉ sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do không phải căn này cũng sinh ra căn.

Hỏi: Từng có không phải căn làm duyên chỉ sinh ra căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do không phải căn này cũng sinh ra không phải căn.

Hỏi: Từng có không phải căn làm duyên chỉ sinh ra căn và không phải căn chăng?

Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như sắc làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, năm thọ, năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu, tưởng, tư, xúc, tác ý v.v… cùng ố tác, thùy miên v.v…

Hỏi: Từng có căn, không phải căn làm duyên chỉ sinh ra căn và không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương, sắc làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…, tưởng, tư, xúc, tác ý v.v…

Hỏi: Từng có căn, không phải căn làm duyên chỉ sinh ra căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn và không phải căn này cũng sinh ra không phải căn.

Hỏi: Từng có căn, không phải căn làm duyên chỉ sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn và không phải căn này cũng sinh ra căn.

* Có nơi khác đối với việc này đã nêu ra phần văn thứ thứ ba:

Hỏi: Từng có chỉ căn làm duyên sinh ra căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn này cũng duyên với không phải căn sinh ra.

Hỏi: Từng có chỉ căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do không phải căn này cũng duyên với không phải căn sinh ra.

Hỏi: Từng có chỉ căn làm duyên sinh ra căn và không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn và không phải căn này cũng duyên với không phải căn sinh ra.

Hỏi: Từng có chỉ không phải căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do không phải căn này cũng duyên với căn sinh ra.

Hỏi: Từng có chỉ không phải căn làm duyên sinh ra căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn này cũng duyên với căn sinh ra.

Hỏi: Từng có chỉ không phải căn làm duyên sinh ra căn và không phải căn chăng?

Đáp: Không sinh. Do căn và không phải căn này cũng duyên với căn sinh ra.

Hỏi: Từng có chỉ căn và không phải căn làm duyên sinh ra căn và không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh. Nói rộng như trên.

Hỏi: Từng có chỉ căn và không phải căn làm duyên sinh ra căn chăng?

Đáp: Có sinh. Nói rộng như trên.

Hỏi: Từng có chỉ căn và không phải căn làm duyên sinh ra không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh. Nói rộng như trên.

Hỏi: Từng có nhãn căn làm duyên sinh ra nhãn căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Tức là sinh không trở ngại và chỉ là không trở ngại.

Hỏi: Từng có nhãn căn làm duyên sinh ra nhĩ căn, cho đến cụ tri căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào?

Đáp: Như mắt làm chỗ nương sinh ra ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v… Hoặc mắt làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, bốn thọ, năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu. Hoặc nhãn căn hủy báng bị đọa vào các nẻo ác thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, khổ căn. Hoặc nhãn căn tin tưởng sinh lên các nẻo thiện thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn. Đó gọi là nhãn căn làm duyên sinh ra nhĩ căn, cho đến cụ tri căn.

Như nhãn căn, thì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, mạng căn cũng vậy. Nhưng có sai khác: Là nam căn và nữ căn không phải là chỗ dựa của khổ căn, năm căn như tín v.v…, và mạng căn không phải là chỗ dựa của tất cả căn.

Hỏi: Từng có ý căn làm duyên sinh ra ý căn chăng? Sinh ra nhãn căn cho đến cụ tri căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Sinh như thế nào?

Đáp: Như ý căn làm chỗ nương sinh ra ý căn, năm thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Hoặc ý căn làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, bốn thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Hoặc ý căn hủy báng bị đọa vào các nẻo ác thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, khổ căn. Hoặc ý căn tin tưởng sinh lên các nẻo thiện thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn. Lại, ý căn có thiện và bất thiện. Nếu là thiện, đối với nẻo thiện thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn. Nếu là bất thiện, đối với nẻo ác thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, khổ căn.

Như ý căn, thì năm thọ, năm căn như tín v.v… cũng như thế. Nhưng có sai khác: Tất cả không phải là chỗ nương dựa. Khổ căn đối với chính mình không phải là đối tượng duyên. Năm căn như tín v.v… không phải là bất thiện.

Hỏi: Từng có vị tri đương tri căn làm duyên sinh ra vị tri đương tri căn chăng? Sinh ra nhãn căn, cho đến cụ tri căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Sinh như thế nào?

Đáp: Như vị tri đương tri căn làm chỗ nương sinh ra vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v… Hoặc vị tri đương tri căn làm đối tượng duyên sinh ra ý căn, bốn thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Hoặc vị tri đương tri căn hủy báng bị đọa vào các nẻo ác thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, khổ căn. Hoặc vị tri đương tri căn tin tưởng sinh lên các nẻo thiện thọ nhận dị thục của các sắc căn, mạng căn, ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn.

Như vị tri đương tri căn, thì dĩ tri căn, cụ tri căn cũng như thế. Nhưng có sai khác: Dĩ tri căn làm chỗ nương sinh ra dĩ tri căn, cụ tri căn, ý căn, ba thọ và năm căn như tín v.v… Cụ tri căn làm chỗ nương sinh ra cụ tri căn, ba thọ, năm căn như tín v.v…

Hỏi: Nhãn căn cùng với nhãn căn làm bao nhiêu duyên? Cùng với nhĩ căn cho đến cụ tri căn làm bao nhiêu duyên? Cho đến cụ tri căn cùng với cụ tri căn làm bao nhiêu duyên? Cùng với nhãn căn cho đến dĩ tri căn làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhãn căn cùng với nhãn căn làm hai duyên, là nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân duyên có một nhân là nhân đồng loại. Tăng thượng duyên nghĩa là sinh không chướng ngại và hoàn toàn không có chướng ngại. Nghĩa của tăng thượng ở sau đều đồng với đây.

Cùng với sắc căn còn lại, mạng căn, khổ căn làm một duyên là tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác làm hai duyên là sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Các căn khác: Tức là ý căn, bốn thọ, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu.

Như nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt căn cũng như thế.

Thân căn cùng với thân căn, nam căn, nữ căn làm nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là nhân đồng loại.

Cùng với sắc căn còn lại, mạng căn, khổ căn làm tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác làm sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Các căn khác: Như trước đã nói.

Nữ căn cùng với nữ căn, thân căn làm nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là đồng loại.

Cùng với sắc căn còn lại, mạng căn, khổ căn làm tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác làm sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Các căn khác: Như trước đã nói.

Như nữ căn, nam căn cũng vậy.

Mạng căn cùng với mạng căn làm hai duyên là nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là đồng loại.

Cùng với bảy sắc căn, khổ căn làm tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác làm sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Các căn khác: Như trước đã nói.

Ý căn cùng với ý căn làm bốn duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành, dị thục. Về đẳng vô gián duyên tức ý căn làm đẳng vô gián cho ý căn hiện tiền. Về sở duyên duyên nghĩa là ý căn cùng với ý căn làm đối tượng duyên. Các nghĩa của đẳng vô gián duyên và sở duyên duyên đều căn cứ theo đây để nói.

Cùng với bảy sắc căn, mạng căn làm nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là dị thục.

Cùng với khổ căn làm ba duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên, không có sở duyên duyên. Về nhân có năm nhân, là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành và dị thục. Về đẳng vô gián, tức là ý căn làm đẳng vô gián cho khổ căn hiện tiền. Không phải sở duyên duyên vì khổ căn duyên với sắc, ý căn không phải là sắc.

Cùng với các căn khác làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Các căn khác: Tức là lạc căn, hỷ căn, xả căn, ưu căn, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Đây là căn cứ vào đủ duyên nên nói chung. Nhưng về nhân có khác. Nghĩa là cùng với lạc, hỷ, xả căn làm năm nhân là năm nhân như tương ưng v.v… Cùng với ưu căn làm bốn nhân, tức trừ nhân dị thục. Cùng với năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu làm ba nhân, tức là tương ưng, câu hữu và đồng loại.

Như ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như tín v.v… cũng thế. Nên biết, đây là căn cứ vào số duyên như nhau nên theo tổng tướng mà nói. Nhưng do nhân, duyên có sai khác, lại sợ lời văn xa cách, nên nay phân biệt đầy đủ. Tức là:

Lạc căn cùng với lạc căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân, tức đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là dị thục.

Cùng với ý căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có năm nhân, tức nhân tương ưng v.v…

Cùng với khổ căn làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên, không có sở duyên duyên. Về nhân có hai nhân là đồng loại và dị thục. Không có sở duyên duyên vì khổ căn duyên với sắc, còn lạc căn không phải là sắc.

Cùng với hỷ căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có hai nhân là đồng loại và dị thục.

Cùng với ưu căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là đồng loại.

Cùng với xả căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân, tức đồng loại, biến hành, dị thục.

Cùng với năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Hỷ căn cùng với hỷ căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm hai duyên, tức nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là dị thục.

Cùng với ý căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có năm nhân, tức là nhân tương ưng v.v…

Cùng với lạc căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với khổ căn làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên và không có sở duyên duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với ưu căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có hai nhân là đồng loại và biến hành.

Cùng với xả căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Xả căn cùng với xả căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm hai duyên, là nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là dị thục.

Cùng với ý căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có năm nhân tức là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với lạc căn và hỷ căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với khổ căn làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, không có sở duyên duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với ưu căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có hai nhân là đồng loại, biến hành.

Cùng với năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Tín căn cùng với tín căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là đồng loại.

Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm hai duyên là nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân tức là nhân dị thục.

Cùng với ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có bốn nhân, tức trừ nhân biến hành.

Cùng với khổ căn làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, không có sở duyên duyên. Về nhân có ba nhân, tức là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Cùng với ưu căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là tương ưng, câu hữu và đồng loại.

Cùng với bốn căn như tinh tấn v.v… và ba căn vô lậu làm bốn duyên, tức nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân tức là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Như tín căn, bốn căn như tinh tấn v.v… cũng như thế.

Khổ căn cùng với khổ căn làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, không có sở duyên duyên. Về nhân có hai nhân là đồng loại và dị thục. Không có Sở duyên duyên, vì khổ căn duyên với sắc nhưng khổ căn không phải là sắc.

Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm hai duyên, tức nhân duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là nhân dị thục.

Cùng với ba căn vô lậu làm hai duyên, là sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về sở duyên duyên, nghĩa là cùng với phẩm khổ nhẫn khổ trí và tập nhẫn tập trí làm đối tượng duyên.

Cùng với các căn khác làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Các căn khác: Tức là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, ưu căn, năm căn như tín v.v… Đây cũng do đủ duyên như nhau nên nói chung. Nhưng về nhân thì có khác. Nghĩa là khổ căn cùng với ý căn làm bốn nhân, tức là trừ nhân biến hành. Khổ căn cùng với lạc căn, hỷ căn, xả căn làm hai nhân, tức là nhân đồng loại và dị thục. Khổ căn cùng với ưu căn làm một nhân là nhân đồng loại. Khổ căn cùng với năm căn như tín v.v… làm ba nhân là tương ưng, câu hữu và đồng loại.

Ưu căn cùng với ưu căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Về nhân có hai nhân là đồng loại và biến hành.

Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm nhân duyên, tăng thượng duyên. Về nhân có một nhân là nhân dị thục.

Cùng với khổ căn làm ba duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, không có sở duyên duyên. Về nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành và dị thục.

Cùng với ba căn vô lậu làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Sở duyên duyên: Nghĩa là cùng với phẩm khổ nhẫn khổ trí, tập nhẫn tập trí làm đối tượng duyên.

Cùng với các căn khác làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Các căn khác: Là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như tín v.v… Đây cũng do gồm đủ duyên như nhau nên nói chung. Nhưng về nhân có khác. Nghĩa là cùng với ý căn làm năm nhân, tức năm nhân như tương ưng v.v… Cùng với lạc căn, hỷ căn, xả căn làm ba nhân, tức nhân đồng loại, biến hành, dị thục. Cùng với năm căn như tín v.v… làm ba nhân tức nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Vị tri đương tri căn cùng với vị tri đương tri căn làm bốn duyên, là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại. Về sở duyên duyên: Nghĩa là cùng với phẩm đạo nhẫn đạo trí làm đối tượng duyên.

Cùng với cụ tri căn làm nhân duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, không có đẳng vô gián duyên. Về nhân có một nhân là nhân đồng loại. Về sở duyên duyên: Nghĩa là cùng với phẩm đạo nhẫn đạo trí làm đối tượng duyên. Không có đẳng vô gián duyên: Do vị tri đương tri căn làm đẳng vô gián, cụ tri căn không hiện tiền.

Cùng với bảy sắc căn, mạng căn, khổ căn làm một tăng thượng duyên.

Cùng với ưu căn làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Các căn khác: Là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như tín v.v…, dĩ tri căn. Đây cũng do gồm đủ duyên như nhau nên nói chung. Nhưng về nhân có khác. Nghĩa là cùng với chín căn như ý v.v… làm ba nhân, là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại. Cùng với dĩ tri căn làm một nhân là nhân đồng loại.

Dĩ tri căn cùng với dĩ tri căn làm bốn duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Cùng với bảy sắc căn, mạng căn, khổ căn làm một tăng thượng duyên.

Cùng với ưu căn, vị tri đương tri căn làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Các căn khác: Là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như tín v.v…, cụ tri căn. Đây cũng do gồm đủ duyên như nhau nên nói chung. Nhưng về nhân có khác. Nghĩa là cùng với chín căn như ý v.v… làm ba nhân, là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại. Cùng với cụ tri căn làm một nhân là nhân đồng loại.

Cụ tri căn cùng với cụ tri căn làm làm bốn duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Về nhân có ba nhân là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Cùng với bảy sắc căn, mạng căn, khổ căn làm một tăng thượng duyên.

Cùng với ưu căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Cùng với các căn khác làm nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Các căn khác: Là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như tín v.v… Về nhân có ba nhân là nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại. Về đẳng vô gián duyên: Nghĩa là cụ tri căn đẳng vô gián, khiến chín căn như ý căn v.v… hiện tiền. Về sở duyên duyên: Nghĩa là cụ tri căn cùng với chín căn như ý căn v.v… làm đối tượng duyên. Về tăng thượng duyên: Nghĩa là sinh không chướng ngại và hoàn toàn không chướng ngại.

HẾT – QUYỂN 146