LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 45

Chương 1: TẠP UẨN

Phẩm 8: BÀN VỀ TƯ, phần 4

* Thế nào là tánh phàm phu? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này:

Đáp: Là nhằm ngăn chận Tông chỉ của người khác và chỉ rõ nghĩa chánh. Nghĩa là: Hoặc có lối chấp: Mười tùy miên nơi cõi dục do kiến khổ đoạn là tánh phàm phu, như phái Độc Tử Bộ. Họ nói: Tánh phàm phu là thuộc cõi dục, là tánh nhiễm ô, là do kiến đạo đoạn, là thuộc hành uẩn tương ưng. Nay để ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ tánh phàm phu thuộc ba cõi, là do tu đạo đoạn trừ, là không nhiễm ô và thuộc về hành uẩn bất tương ưng.

Hoặc lại có lối chấp: Tánh phàm phu không có thật Thể, như phái Thí dụ chẳng hạn. Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó và chỉ rõ tự Thể của tánh phàm phu là thật có.

Vì nhằm ngăn chận những lối chấp dị biệt của các Bộ ấy và chỉ rõ chánh lý nên tạo ra phần Luận này.

Trong bản Luận này nói là tánh phàm phu, còn trong Luận Phẩm Loại Túc nói là pháp phàm phu. Như nói: Thế nào là pháp phàm phu? Nghĩa là địa ngục, bàng sinh, cõi quỷ, châu Bắc-câu-lô, trời Vô tưởng, nghiệp và sự sống của các cõi kia. Đó gọi là pháp phàm phu.

Hỏi: Vì sao trong Bản luận này nói tánh phàm phu, không phải là pháp phàm phu, còn Luận Phẩm Loại Túc nói là pháp phàm phu, không phải là tánh phàm phu?

Đáp: Vì đây là ý của người tạo luận muốn như vậy. Lại nữa, cả hai Luận kia đều là nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, hai Luận đây kia đều nói một loại hỗ tương hiển bày. Lại nữa, tánh phàm phu là hơn, không phải là pháp phàm phu. Trong bản Luận này đã căn cứ vào chỗ hơn hẳn để nói. Vì Luận này đã nói về tánh phàm phu, nên luận Luận Phẩm Loại Túc không nói lại nữa. Vì Luận này chưa nói về pháp phàm phu, nên Luận Phẩm Loại Túc mới nói đến. Điều ấy chứng tỏ Luận kia tạo ra sau Luận này.

Có thuyết nói: Vì Luận kia đã nói pháp phàm phu nên Luận này không lập lại. Vì Luận kia chưa nói về tánh phàm phu, nên Luận này mới nói đến. Việc ấy chứng tỏ Luận kia tạo ra trước Luận này.

Hỏi: Vì sao gọi là tánh phàm phu?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Có thể khiến cho hữu tình sinh khởi kiến loại khác, phiền não loại khác, tạo nghiệp loại khác, thọ quả loại khác, sinh nơi loại khác, nên gọi là tánh phàm phu. Lại nữa, vì có thể khiến cho hữu tình rơi vào cõi khác, đi đến nẻo khác, thọ nhận đời sống khác, nên gọi là tánh phàm phu. Lại nữa, vì có thể khiến cho hữu tình tin ở Sư khác, tạo nên tướng khác, thọ nhận pháp khác, hành theo hạnh khác, cầu mong quả khác, nên gọi là tánh phàm phu.

Đại đức nói: Có thể khiến cho hữu tình dựa vào sinh hữu của nẻo, cõi loại khác, phát khởi vô số các thứ phiền não điên đảo, tạo tác tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp của thân sau, luân chuyển nơi sinh tử, không có phần hạn, nên gọi là tánh phàm phu.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Vì phần của phàm phu, vì thể của phàm phu, nên gọi là tánh phàm phu.

Tôn giả Diệu Âm nói: Vì là loại của phàm phu, nên gọi là tánh phàm phu.

Hiếp Tôn giả nói: Vì là chỗ nương dựa của phàm phu, làm chướng ngại tánh Thánh, nên gọi là tánh phàm phu.

Hỏi: Vì sao gọi là pháp phàm phu?

Đáp: Vì các người phàm phu có pháp này, nên gọi là pháp phàm phu. Ví như pháp của quan, pháp của vua thế gian.

Hỏi: Các pháp phàm phu Thánh giả cũng có, vì sao chỉ lập tên pháp phàm phu?

Đáp: Các pháp phàm phu bậc Thánh phần nhiều không có, nếu như có một ít thì không gọi là pháp Thánh, do Thánh giả đối với pháp đó tuy được, nhưng không thành tựu trong thân, không hiện tiền. Chỉ có hàng phàm phu đối với các pháp đó thì được, cũng thành tựu trong thân, cũng hiện tiền, nên gọi là pháp phàm phu.

Lại nữa, phàm phu thành tựu pháp đó, có thể khiến pháp đó nhận lấy quả cho quả, nên gọi là pháp phàm phu. Thánh giả tuy có thành tựu pháp phàm phu kia, nhưng vì không như vậy, nên không gọi là pháp Thánh.

Lại nữa, vì phàm phu thành tựu pháp đó, có thể khiến pháp đó đi đến nẻo khác, cõi khác, xứ khác, đời sống khác, thọ nhận quả khác, nên gọi là pháp phàm phu. Thánh giả tuy thành tựu pháp phàm phu kia, nhưng vì không như vậy, nên không gọi là pháp Thánh.

Lại nữa, tánh phàm phu là hữu lậu, pháp phàm phu cũng là hữu lậu, nên gọi là pháp phàm phu. Tánh Thánh là vô lậu, pháp kia không phải là vô lậu, nên không gọi là pháp Thánh.

Lại nữa, phàm phu vì bị pháp phàm phu che lấp, bị trói buộc, bị lừa dối khiến mê lầm, nên gọi là pháp phàm phu. Thánh giả không như vậy, nên không gọi là pháp Thánh.

Lại nữa, các loài phàm phu vì tùy thuận nơi pháp ấy, sinh trưởng pháp ấy, nên gọi là pháp phàm phu. Thánh giả không như vậy, nên không gọi là pháp Thánh.

Hỏi: Tánh phàm phu, pháp phàm phu có gì khác nhau?

Đáp: Tánh phàm phu chỉ là phi sắc, còn pháp phàm phu chung cho cả sắc, phi sắc. Tánh phàm phu chỉ là không thấy, còn pháp phàm phu chung cho cả có thấy, không thấy. Tánh phàm phu chỉ là không đối, còn pháp phàm phu chung cho cả có đối, không đối. Tánh phàm phu chỉ là không tương ưng, pháp phàm phu chung cho tương ưng, không tương ưng. Tánh phàm phu chỉ là không đối tượng nương dựa, không đối tượng duyên, không có hành tướng, còn pháp phàm phu chung cho cả hai thứ. Tánh phàm phu chỉ là không nhiễm ô, không có tội, không có dị thục, pháp phàm phu đều chung cho cả hai thứ.

Lại nữa, tánh phàm phu chỉ là vô ký, còn pháp phàm phu chung cho cả thiện, bất thiện, vô ký. Tánh phàm phu thuộc chung nơi ba cõi, còn pháp phàm phu chỉ thuộc nơi cõi dục, cõi sắc. Tánh phàm phu chỉ do tu đạo đoạn trừ, còn pháp phàm phu chung cả kiến đạo, tu đạo đoạn trừ.

Lại nữa, tánh phàm phu là nhân, pháp phàm phu là quả. Như nhân – quả, chủ thể tạo tác – đối tượng tạo tác cũng như thế.

Lại nữa, tánh phàm phu thuộc về pháp giới, pháp xứ, hành uẩn, còn pháp phàm phu thuộc về mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.

Lại nữa, tánh phàm phu lúc đạt khổ pháp trí nhẫn thì xả bỏ, còn pháp phàm phu thì xả bỏ vào lúc khác.

Các môn như thế gọi là khác nhau.

Như Đức Thế Tôn nói: Tùy tín – Tùy pháp hành vượt qua địa phàm phu, chưa được quả Dự lưu, định rõ là không mạng chung.

Hỏi: Vì sao gọi là địa phàm phu?

Đáp: Tất cả Thánh giả đều gọi là đồng sinh. Vì sự sinh của phàm phu khác với Thánh, nên gọi là phàm phu. Vì dung nạp các phàm phu nên gọi là địa phàm phu.

Hỏi: Nếu vậy vì Thánh giả khác với phàm phu, nên gọi là phàm phu chăng?

Đáp: Tất cả Thánh giả đồng hợp ở chân lý, vì đồng kiến giải, đồng sự mong muốn, nên gọi là đồng sinh. Phàm phu thì không như vậy, vì có thể chán bỏ sự thấp kém, nên đặt ra danh từ phàm phu. Không nên nêu vấn nạn về điều ấy

Tôn giả Thế Hữu nói: Vì dung nạp dấy khởi kiến giải khác, phiền não loại khác, tiếp nhận gây tạo nghiệp khác, tiếp nhận việc bị đọa vào cõi khác, đi đến nẻo khác v.v… thọ sinh, nên gọi là địa phàm phu. Lại nữa, vì dung nạp sự tin tưởng nơi Sư khác, nói rộng cho đến mong cầu quả khác, nên gọi là địa phàm phu.

Đại đức nói: Vì khác với chánh pháp và Tỳ-nại-da mà thọ sinh, nên gọi là phàm phu. Các phàm phu này sinh trưởng đều nương dựa vào nơi chốn, nên gọi là địa phàm phu.

Hỏi: Thế nào là tánh phàm phu?

Đáp: Nếu đối với pháp Thánh, noãn Thánh, kiến Thánh, nhẫn Thánh, dục Thánh, tuệ Thánh, các thứ không đạt được, đã không đạt được, sẽ không đạt được. Đó gọi là tánh phàm phu.

Hỏi: Vì không đạt được khổ pháp trí nhẫn là tánh phàm phu hay là vì không đạt được tất cả pháp Thánh là tánh phàm phu? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Nếu không đạt được khổ pháp trí nhẫn là tánh phàm phu, thì đạo loại trí đã sinh, bỏ khổ pháp trí nhẫn, bấy giờ khổ pháp trí nhẫn là không được, nên là tánh phàm phu, thế thì người trụ nơi tu đạo, vô học đạo, cũng nên gọi là phàm phu chăng? Nếu không đạt được tất cả pháp Thánh là tánh phàm phu, thì tất cả hữu tình đều gọi là phàm phu. Không có Thánh giả thành tựu tất cả pháp Thánh, nghĩa là cho đến Đức Phật cũng không thành tựu pháp Thánh của Nhị thừa và pháp học của thừa mình, cũng nên gọi là phàm phu.

Có thuyết nói: Không đạt được khổ pháp trí nhẫn là tánh phàm phu.

Hỏi: Nếu vậy đạo loại trí đã sinh, bỏ khổ pháp trí nhẫn, bấy giờ khổ pháp trí nhẫn không phải là được, nên là tánh phàm phu, thế thì người trụ nơi tu đạo, vô học đạo, cũng nên gọi là phàm phu chăng?

Đáp: Lúc khổ pháp trí nhẫn sinh, loại trừ chỗ không phải là được kia, khiến đối với sự nối tiếp của chính nó vĩnh viễn không còn sinh nữa. Người trụ nơi tu đạo, vô học đạo, tuy không thành tựu khổ pháp trí nhẫn, nhưng không gọi là không được, cũng không gọi là được. Như lúc nhãn căn sinh, loại trừ chỗ không phải là được kia, khiến đối với sự nối tiếp của chính nó vĩnh viễn không còn sinh nữa. Nhãn căn diệt rồi, tuy không thành tựu, nhưng không gọi là không được, cũng không gọi là được. Đây cũng như thế, nên không có lỗi trước. Lại nữa, đạo loại trí đã sinh, khổ pháp trí nhẫn tuy không thành tựu, nhưng vì thành tựu quả đẳng lưu kia, nên không gọi là phàm phu.

Lại có thuyết cho: Không đạt được tất cả pháp Thánh là tánh phàm phu.

Hỏi: Nếu vậy tất cả hữu tình đều nên gọi là phàm phu và không có Thánh giả nào thành tựu tất cả pháp Thánh?

Đáp: Tuy không có Thánh giả thành tựu đầy đủ tất cả pháp Thánh, nhưng không phải là phàm phu, vì pháp Thánh kia không phải được nhưng xen lẫn với Thánh được. Nghĩa là, nếu trong thân, pháp Thánh không phải là được không xen lẫn với được là tánh phàm phu. Vì pháp Thánh trong thân Thánh giả, không phải là được nhưng xen lẫn với Thánh được, nên không phải là tánh phàm phu, vì sự được, không phải được kia luôn cùng sinh liền nhau.

Lại nữa, sự không phải là được kia có hai thứ: 1. Chung. 2. Không chung. Không chung là tánh phàm phu. Chung không phải là tánh phàm phu. Pháp Thánh trong thân Thánh giả không phải là được nhưng vì hoàn toàn là chung nên không có lỗi trước.

Lại nữa, sự không phải là được kia có hai thứ: 1. Chưa bị loại bỏ. 2. Đã bị loại bỏ. Chưa bị loại bỏ là tánh phàm phu. Đã bị loại bỏ không phải là tánh phàm phu. Pháp Thánh trong thân Thánh giả không phải là được vì đều đã bị loại bỏ, nên không có lỗi trước.

Lại nữa, tất cả pháp Thánh không phải là được, có hai: 1. Dựa vào sự nối tiếp của phàm phu hiện khởi. 2. Dựa vào sự nối tiếp của Thánh giả hiện khởi. Trước là tánh phàm phu, sau không phải là tánh phàm phu, nên không có Thánh giả gọi là chung với phàm phu.

Hỏi: Pháp Thánh, noãn Thánh, kiến Thánh, nhẫn Thánh, dục Thánh, tuệ Thánh có gì khác nhau?

Đáp: Có thuyết nói: Sáu câu trong đây đều hiển bày chung về khổ pháp trí nhẫn: Câu một là nêu chung, năm câu sau là nêu riêng. Câu một là tóm lược, năm câu sau là nêu rộng. Câu một là không phân biệt, năm câu sau là phân biệt. Nghĩa là vì khổ pháp trí nhẫn khiến chủng tử của uẩn đều khô héo, nên gọi là noãn Thánh. Tìm cầu về lý của đế nên gọi là kiến Thánh. Chấp nhận lý của đế nên gọi là nhẫn Thánh. Vì yêu chuộng lý của đế nên gọi là dục Thánh. Vì quyết định lựa chọn về lý của đế nên gọi là tuệ Thánh. Lại nữa, khổ pháp trí nhẫn khiến cho chủng tử của Hữu đều tàn lụi nên gọi là noãn Thánh. Tìm cầu hành chuyển biến nên gọi là kiến Thánh. Có thể nhận lấy hành chuyển biến nên gọi là nhẫn Thánh. Yêu thích giải thoát nên gọi là dục Thánh. Nhận biết về lý của đế nên gọi là tuệ Thánh.

Có thuyết cho: Sáu địa nơi khổ pháp trí nhẫn tức là sáu câu đã nêu rõ trong đây.

Có thuyết nêu: Sáu tánh nơi khổ pháp trí nhẫn tức ở đây là sáu câu đã hiển bày.

Lại có thuyết biện: Sáu câu trong đây đều hiển bày chung về tất cả pháp Thánh. Tức là nghĩa của các pháp Thánh có chung và riêng. Câu một là chung, năm câu sau là riêng. Trong năm câu hai lần đã giải thích như trước, nên biết.

Có thuyết cho: Sáu tánh nơi tất cả pháp Thánh tức là sáu câu đã nói rõ trong đây.

Có thuyết nêu: Pháp học, vô học của ba thừa tức là sáu câu đã nêu rõ trong đây.

Có Sư khác nói: Trong đây đã chỉ rõ hai thứ pháp Thánh là chân thật và tương tợ. Pháp Thánh tương tợ tức là bốn pháp thuận phần quyết định lựa chọn như noãn v.v… Pháp Thánh là pháp Thánh chân thật, tức đạo vô lậu. Noãn Thánh là pháp noãn. Kiến Thánh là pháp đảnh. Nhẫn Thánh là pháp nhẫn phẩm hạ, trung. Dục Thánh là pháp nhẫn tăng thượng. Tuệ Thánh là pháp thế đệ nhất. Nếu chưa tu đạt được bốn pháp như noãn v.v…, nên biết người đó là toàn phần phàm phu. Nếu được noãn v.v… cũng được gọi là Thánh giả. Như Đức Thế Tôn nói: Nếu có người thành tựu căn thiện như noãn v.v… Ta nói người đó gọi là Thánh giả tương tợ. Nhưng tánh phàm phu chỉ là pháp Thánh chân thật, không phải là được, không phải là không được.

Hỏi: Ngoài ra người kia không nên nói noãn v.v… Nghĩa là tánh phàm phu này với noãn v.v… nên nói là thiện, bất thiện hay vô ký?

Đáp: Nên nói là vô ký. Nghĩa là vô phú vô ký, vì tánh không phải là được, vì tất cả pháp không phải là được đều gồm thâu trong tánh vô phú vô ký.

Hỏi: Tánh này thuộc về vô ký nào trong bốn vô ký như Dị thục sinh v.v..?

Đáp: Không phải thuộc về bốn thứ, chỉ là đẳng lưu vô phú vô ký.

Hỏi: Vì sao vô ký này không phải là hữu phú vô ký?

Đáp: Vì không phải lúc lìa nhiễm là bỏ tánh ấy.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không phải là thiện?

Đáp: Vì pháp thiện hoặc do gia hạnh nên được, hoặc do các duyên khác nên được, nên không đặt ra gia hạnh mong cầu làm phàm phu. Lại, lúc đoạn thiện thì pháp thiện đều bỏ, được tánh của các pháp thiện không thành tựu. Nếu tánh của phàm phu là tánh thiện, thì kẻ đoạn trừ căn thiện tức không phải là phàm phu, không phải là lời trực tiếp để nói về nghĩa của tánh phàm phu được lập. Thế nên lại đặt ra hỏi đáp để hiển bày không phải là thiện v.v…

Trong đây, có thuyết nói: Pháp thiện hoặc do gia hạnh nên được: Là làm rõ do gia hạnh đã sinh khởi các điều thiện. Hoặc do duyên khác nên được: Là chỉ rõ người đó đã tu các việc thiện ở vị lai.

Lại nữa, pháp thiện hoặc do gia hạnh nên được: Là chỉ rõ do gia hạnh mà được thiện. Hoặc do duyên khác nên được: Là hiển bày do lìa nhiễm mà được thiện.

Lại nữa, pháp thiện hoặc do gia hạnh nên được: Là làm rõ thuận với phần quyết định lựa chọn và phần thắng tấn trong thiện của gia hạnh đạt được. Hoặc do duyên khác nên được: Là chỉ rõ thuận nơi phần an trụ, thuận theo phần thoái chuyển trong thiện của gia hạnh đạt được.

Hỏi: Nếu vậy vì sao trong đây không nói về thiện sinh đắc?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, vì trong đây chỉ nói pháp thiện thù thắng khó đạt được. Các thiện do sinh đắc dễ được, vì thấp kém nên không nói đến. Lại nữa, các tánh phàm phu đều là sinh đắc. Nếu trong đây nói thiện sinh đắc thì không khác với điều kia, nên không nói đến.

Có thuyết nói: Pháp thiện hoặc do gia hạnh nên được: Là chỉ rõ thiện do gia hạnh đạt được. Hoặc do duyên khác nên được: Là làm sáng tỏ thiện do sinh đắc. Lại nữa, pháp thiện hoặc do gia hạnh nên được: Là chỉ rõ lúc thắng tấn đã được các thiện. Hoặc do duyên khác nên được: Là chỉ rõ đã được các thiện lúc thoái chuyển.

Trong đây, nên nêu ra bốn trường hợp để phân biệt:

1. Hoặc có pháp thiện do gia hạnh nên được không phải do duyên khác: Như noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, thế tục trí hiện quán biên, kiến đạo, đạo loại trí, tâm bất động giải thoát, nguyện trí vô tránh, định biên tế v.v…

2. Hoặc có pháp thiện do duyên khác nên được không phải do gia hạnh: Như thiện của sinh đắc.

3. Hoặc có pháp thiện do gia hạnh nên được cũng do duyên khác nên được: Như bốn quả Sa-môn, tĩnh lự vô sắc, vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v…

4. Hoặc có pháp thiện không phải do gia hạnh nên được cũng không phải do duyên khác nên được: Là không có.

Không đặt ra gia hạnh cầu làm phàm phu: Là làm rõ tánh phàm phu không phải là thiện do gia hạnh đạt được. Nghĩa là, tất không có sự kiện trước đây không phải là phàm phu, về sau do cầu chứng mới được quả vị thấp kém đó, vì từ vô thỉ đến nay đã là phàm phu.

Lại nữa, lúc đoạn điều thiện, pháp thiện đều bỏ v.v…: Là làm rõ tánh phàm phu không phải là thiện do sinh đắc. Tức là lúc đoạn thiện, chính là đoạn thiện do sinh đắc, không phải do gia hạnh được.

Nếu đoạn căn thiện không phải là phàm phu: Là rất trái với chánh lý, vì kẻ kia rất ác, chớ nên nói điều lỗi lầm như thế, do vậy tánh phàm phu quyết định không phải là thiện.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không phải là bất thiện?

Đáp: Vì lúc lìa nhiễm nơi cõi dục, bất thiện đều bỏ hết, được tánh của pháp bất thiện không thành tựu. Nếu tánh phàm phu là bất thiện, các phàm phu lìa nhiễm nơi cõi dục nên không phải là phàm phu. Nếu không phải phàm phu, về sau này, họ sẽ không nên sinh trở lại vào cõi dục. Thánh đã lìa nhiễm nơi cõi dục, tất không còn thọ sinh vào cõi dục nữa. Lại nữa, nếu như vậy thì ở cõi sắc, cõi vô sắc nên không có phàm phu, là phạm sai lầm lớn. Thế nên tánh phàm phu nhất định không phải là bất thiện. Do vậy, tánh phàm phu kia chỉ là vô phú vô ký.

Hỏi: Tánh phàm phu này nên nói là thuộc về cõi dục, cõi sắc hay cõi vô sắc?

Đáp: Nên nói hoặc thuộc về cõi dục, hoặc thuộc về cõi sắc, hoặc thuộc về cõi vô sắc. Vì không phải chỉ dùng lờ itrực tiếp để nói về nghĩa của tánh phàm phu liền được thiết lập. Do vậy, nên đặt ra hỏi, đáp nhằm chỉ rõ lần nữa về nghĩa này.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không phải chỉ thuộc về cõi dục?

Đáp: Vì khi chết ở cõi dục, sinh nơi cõi vô sắc, các pháp của cõi dục đều bỏ, đạt được tánh của pháp cõi dục không thành tựu. Nếu tánh phàm phu chỉ thuộc về cõi dục, các phàm phu nơi cõi dục chết, sinh nơi cõi vô sắc, nên không phải là phàm phu. Nếu không phải là phàm phu, tức nên sinh mà không bị thoái đọa. Thánh giả sinh lên cõi trên tất không có thoái chuyển để thọ sinh nơi địa dưới. Tuy ở cõi dục chết, sinh nơi cõi sắc, cũng xả bỏ pháp cõi dục, nhưng không phải xả bỏ hoàn toàn, vì vẫn còn tạo thành tâm biến hóa nơi cõi dục, do đó chỉ nói sinh nơi cõi vô sắc.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không phải chỉ thuộc cõi sắc?

Đáp: Lúc ở cõi sắc chết, sinh nơi cõi vô sắc, các pháp của cõi sắc đều bỏ, đạt được tánh của pháp cõi sắc không thành tựu. Nếu tánh phàm phu chỉ thuộc về cõi sắc, các phàm phu ở cõi sắc chết, sinh nơi cõi vô sắc, nên không phải là phàm phu. Nếu không phải là phàm phu, Mãnh Hi Tử v.v… không nên sinh ở cõi dưới. Nhưng vì Thánh thì không như vậy. Tuy người từ cõi sắc chết, sinh nơi cõi dục, cũng xả bỏ pháp cõi sắc, nhưng không phải là bỏ hoàn toàn, vì họ cũng còn trở thành pháp phiền não v.v… của cõi sắc, do vậy chỉ nói sinh nơi cõi vô sắc.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không phải chỉ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Vì nhập chánh tánh ly sinh, trước là hiện quán khổ của cõi dục, về sau mới kết hợp hiện quán khổ của cõi sắc, cõi vô sắc. Thánh đạo khởi, trước hết là làm xong việc của cõi dục, về sau kết hợp hoàn tất công việc của cõi sắc, cõi vô sắc, thế nên tánh phàm phu không phải chỉ thuộc về cõi vô sắc. Pháp nên là như vậy. Nếu thành tựu tánh phàm phu của địa này, tất trước hết là hiện quán về khổ đế của địa này. Lại, Thánh đạo khởi hiện, trước là đối trị với tánh phàm phu nên nói như thế.

Hỏi: Nếu như vậy tánh phàm phu nên chỉ thuộc về cõi dục?

Đáp: Chỉ thuộc về cõi dục là có lỗi lầm ở trước. Thế nên nói là thuộc chung cả ba cõi.

Hỏi: Tánh phàm phu này nên nói do kiến đạo đoạn hay do tu đạo đoạn?

Đáp: Nên nói là do tu đạo đoạn. Không phải chỉ dùng lời trực tiếp để nói về nghĩa của tánh phàm phu liền được lập, nên phải đặt ra hỏi – đáp nhằm hiển bày nghĩa này lần nữa.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không phải do kiến đạo đoạn?

Đáp: Vì pháp do kiến đạo đoạn đều là nhiễm ô. Còn tánh phàm phu thì không nhiễm ô. Các pháp nhiễm ô theo bộ theo phẩm dần dần đoạn trừ, được tánh của các phàm phu không thành tựu. Do khổ pháp trí nhẫn trong một lúc được xả bỏ tức khắc, tùy theo lực của đạo vô gián thứ chín nơi địa, một lúc đoạn trừ tức khắc, nên không phải là nhiễm ô. Lại nữa, pháp thế đệ nhất đang diệt, khổ pháp trí nhẫn đang sinh, bấy giờ xả bỏ tánh phàm phu nơi ba cõi, được tánh của pháp kia không thành tựu, không phải là vào lúc ấy pháp do kiến đạo đoạn có xả bỏ. Nếu tánh phàm phu là do kiến đạo đoạn, nên trong phần vị này chưa bỏ tánh phàm phu đó, tức là kẻ bị trói buộc đủ, khi trụ nơi khổ pháp trí nhẫn, nên thành tựu tánh phàm phu, vì pháp do kiến đạo đoạn đã thành tựu đủ, và người trụ nơi phần vị này nên gọi là Thánh, cũng gọi là phàm phu, liền thành tạp loạn. Thế nên tánh phàm phu không phải do kiến đạo đoạn.

Hỏi: Bấy giờ, chỉ nên bỏ tánh phàm phu của cõi dục, còn tánh phàm phu của hai cõi trên vì trước đã không thành tựu, thì sao lại nói là bỏ cả ba cõi?

Đáp: Nên nói bấy giờ tùy theo chỗ thích hợp bỏ một tánh phàm phu trong ba cõi, được tánh không thành tựu của cõi đó. Nhưng nói là bỏ tánh phàm phu của ba cõi: Là vì nêu đầy đủ ba số, nên nói như thế. Nghĩa là tánh phàm phu của hai cõi trên, trước không thành tựu, nay lại bỏ tánh phàm phu của cõi dục, vì ba số là gồm đủ, nên nói như vậy.

Có thuyết nói: Tánh phàm phu của hai cõi trên, tuy trước không thành tựu, nay lại không thành tựu, nên cũng nói là bỏ. Vì sao trước không thành tựu, nay lại không thành tựu? Là vì chuyển biến và xa cách.

Có thuyết cho: Tánh phàm phu ở cõi dục có thể hỗ trợ, có thể dẫn sinh tánh phàm phu của hai cõi trên, làm cửa ngõ, làm gia hạnh cho cõi ấy. Nên nếu lúc bỏ tánh phàm phu của cõi dục, cũng nói là bỏ hai cõi đó.

Có thuyết nêu: Lúc thành tựu tánh phàm phu của cõi dục, các tánh phàm phu của cõi sắc, cõi vô sắc tiếp nhận, sẽ hiện khởi và làm nơi chốn nương dựa đầy đủ, yên ổn cho tánh phàm phu của cõi dục. Nên nếu lúc bỏ tánh phàm phu của cõi dục, là đã đoạn dứt con đường sống của hai cõi kia, nên cũng nói là bỏ.

Có thuyết nói: Lúc ấy, các tánh phàm phu ba cõi đã đạt được phi trạch diệt.

Nên nói như vầy: Bấy giờ, các tánh phàm phu của chín địa trong ba cõi tức khắc đạt được phi trạch diệt. Do nghĩa ấy, nên có người hỏi: Từng có pháp cùng một lúc xả bỏ chín lúc đoạn dứt chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là tánh phàm phu cùng một lúc xả bỏ là lúc khổ pháp trí nhẫn sinh. Chín lúc đoạn dứt là lìa nhiễm nơi cõi dục, cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đều ở nơi đạo vô gián thứ chín.

Hỏi: Từng có nơi tánh phàm phu đã được trạch diệt nhưng chưa đạt được phi trạch diệt chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có tánh phàm phu đã được trạch diệt nhưng chưa đạt được phi trạch diệt: Nghĩa là các phàm phu đã lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ.

2. Hoặc có tánh phàm phu đã được phi trạch diệt nhưng chưa được trạch diệt: Nghĩa là các Thánh giả chưa lìa nhiễm nơi cõi dục.

3. Hoặc có tánh phàm phu đã được trạch diệt và phi trạch diệt: Nghĩa là các Thánh giả đã lìa nhiễm của cõi dục cho đến nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

4. Hoặc có tánh phàm phu chưa được trạch diệt và phi trạch diệt: Nghĩa là các phàm phu chưa lìa nhiễm nơi cõi dục.

Hỏi: Từng có tánh phàm phu chưa đoạn nhưng không thành tựu chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có tánh phàm phu chưa đoạn nhưng không thành tựu: Nghĩa là các phàm phu sinh ở cõi dục, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, tánh phàm phu của tám địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, tánh phàm phu của bảy địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu. Cho đến đã lìa đến nhiễm của Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của một địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu.

Nếu sinh ở tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, tánh phàm phu của bảy địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, tánh phàm phu của sáu địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu. Cho đến đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của một địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu. Cho đến nếu sinh lên Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của một địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu.

Nếu các Thánh giả chưa lìa nhiễm của cõi dục, tánh phàm phu của chín địa kia chưa đoạn và không thành tựu. Đã lìa nhiễm của cõi dục, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, tánh phàm phu của tám địa trên chưa đoạn và không thành tựu. Cho đến đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, chưa lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu của một địa trên kia chưa đoạn và không thành tựu.

2. Hoặc có tánh phàm phu đã thành tựu nhưng không phải là chưa đoạn: Nghĩa là các phàm phu sinh nơi cõi dục, đã lìa nhiễm của cõi dục, tánh phàm phu của cõi dục kia đã thành tựu nhưng không phải là chưa đoạn. Cho đến sinh nơi cõi Vô sở hữu xứ, đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của Vô sở hữu xứ đó đã thành tựu nhưng không phải là chưa đoạn.

3. Hoặc có tánh phàm phu chưa đoạn cũng thành tựu: Nghĩa là các phàm phu chưa lìa nhiễm của cõi dục, tánh phàm phu của cõi dục đó chưa đoạn cũng thành tựu. Cho đến sinh nơi cõi Vô sở hữu xứ, chưa lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của Vô sở hữu xứ kia chưa đoạn cũng thành tựu. Nếu sinh lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tánh phàm phu của Phi tưởng phi phi tưởng xứ đó chưa đoạn cũng thành tựu.

4. Hoặc có tánh phàm phu không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu: Nghĩa là các phàm phu sinh nơi cõi dục, đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, tánh phàm phu của tĩnh lự thứ nhất kia không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu. Cho đến đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của tĩnh lự thứ nhất kia cho đến tánh phàm phu của Vô sở hữu xứ không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu.

Nếu sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, tánh phàm phu của cõi dục kia không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, tánh phàm phu của cõi dục kia và của tĩnh lự thứ hai không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu. Cho đến đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, tánh phàm phu của cõi dục kia và tánh phàm phu của tĩnh lự thứ hai, cho đến tánh phàm phu của Vô sở hữu xứ không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu. Cho đến nếu sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tánh phàm phu của cõi dục kia, cho đến tánh phàm phu của Vô sở hữu xứ không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu.

Nếu các Thánh giả đã lìa nhiễm của cõi dục, chưa lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, tánh phàm phu của cõi dục kia không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu. Đã lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ hai, tánh phàm phu của cõi dục kia và của tĩnh lự thứ nhất không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu. Cho đến đã lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tánh phàm phu của chín địa trong ba cõi không phải là chưa đoạn cũng không phải là thành tựu.

Hỏi: Từng có tánh phàm phu đã đoạn nhưng thành tựu chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp: Nghĩa là trường hợp thứ hai ở trước làm trường hợp thứ nhất ở đây. Trường hợp thứ nhất ở trước làm trường hợp thứ hai ở đây. Trường hợp thứ tư ở trước làm trường hợp thứ ba ở đây. Trường hợp thứ ba ở trước làm trường hợp thứ tư ở đây. Căn cứ theo như trước đã nói, nên biết về tướng của chúng.

Hỏi: Tánh phàm phu gọi là pháp gì?

Đáp: Là tâm bất tương ưng hành không nhiễm ô của ba cõi.

Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Nghĩa là trước nói không được pháp Thánh, gọi là tánh phàm phu, hoặc có kẻ sinh nghi: Không được pháp Thánh là không thật có Thể, như chưa được của cải. Vì muốn cho nghi này được quyết định và chỉ rõ tánh phàm phu là pháp thật có, thuộc về hành uẩn, nên tạo ra phần Luận này.

Có thuyết nói: Trước đây tuy đã chỉ rõ Tướng của tánh phàm phu, nhưng chưa biện luận về Thể, nay vì muốn nói đến Thể đó, nên tạo ra phần Luận này.

Có Sư khác cho: Trước đây tuy đã nói rõ về Thể của tánh phàm phu, nhưng chưa biện luận về Tướng, nay vì muốn nói đến Tướng đó, nên tạo ra phần Luận này.

Hoặc có thuyết nêu: Trước đã chỉ rõ pháp đối trị của tánh phàm phu, nay vì muốn nói về Thể của tánh phàm phu, nên tạo ra phần Luận này.

Nói ba cõi: Là để ngăn chận kiến giải cho tánh phàm phu chỉ hệ thuộc nơi cõi dục.

Không nhiễm ô: Là nhằm ngăn chận kiến giải cho tánh phàm phu là pháp nhiễm ô và do kiến đạo đoạn.

Tâm bất tương ưng: Là nhằm ngăn chận kiến giải cho tánh phàm phu là tâm sở pháp.

Hành: Là nhằm ngăn chận kiến giải cho tánh phàm phu không phải là pháp thật có, là pháp giả nên lý không phải thuộc về hành uẩn.

Đây chính là ngăn chận lối chấp khác biệt để chỉ rõ Thể của tánh phàm phu.

Tôn giả Diệu Âm nói: Tánh phàm phu tức là chúng đồng phần, như các chúng đồng phần của bò, dê v.v… tức gọi là tánh của bò, dê v.v… Như thế Thể của chúng đồng phần nơi phàm phu gọi là tánh phàm phu.

Có Sư khác cho: Riêng có một pháp là tâm bất tương ưng hành không nhiễm ô thuộc về hành uẩn, như mạng căn v.v… gọi là tánh phàm phu.

Nay nhằm ngăn chận lối chấp đó, như trước đã nói tánh phàm phu gọi là không được pháp Thánh, không được tức là tánh không thành tựu.

Hỏi: Vì duyên gì không thừa nhận tức chúng đồng phần của phàm phu và có pháp riêng gọi là tánh phàm phu, mà thừa nhận tánh không thành tựu pháp Thánh gọi là tánh phàm phu?

Đáp: Chúng đồng phần của phàm phu không phải là chỗ mâu thuẫn trực tiếp với pháp Thánh. Còn riêng có một pháp không thể nhận biết, không phải như tánh không thành tựu pháp Thánh, là mâu thuẫn trực tiếp với pháp Thánh, có tướng có thể nhận biết, gọi là tánh phàm phu. Về lý là khéo thành lập.

***

* Các pháp tương ưng với tà kiến, các pháp ấy có tương ưng với tà tư duy chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao sau tánh phàm phu lại nói về chi tà?

Đáp: Vì hai thứ này lần lượt nâng đỡ cho nhau. Nghĩa là tánh phàm phu nâng đỡ chi tà, chi tà này lại có thể nâng đỡ tánh phàm phu. Lại nữa, Hành giả vì nhàm chán tánh phàm phu và tám chi tà mà tu Thánh đạo, nên sau phần nói về tánh phàm phu lại phân biệt về chi tà.

Hỏi: Các pháp tương ưng với tà kiến, các pháp ấy có tương ưng với tà tư duy chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, tà kiến là nơi tất cả địa có, không phải là tất cả tâm nhiễm ô. Trong tụ như hữu thân kiến v.v… không có. Tà tư duy là nơi tất cả tâm nhiễm ô có, không phải nơi tất cả địa, vì tĩnh lự trung gian trở lên thì không có. Do hai thứ này cùng đối chiếu, nên nêu ra bốn trường hợp lớn:

1. Có pháp tương ưng với tà kiến không phải là tà tư duy: Nghĩa là tà kiến tương ưng với tà tư duy và tà tư duy khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà kiến.

Trong đây:

Tà kiến tương ưng với tà tư duy: Là nơi cõi dục, định vị chí và tĩnh lự thứ nhất tà kiến đều cùng tìm cầu, các thứ kia chỉ tương ưng với tà kiến không phải là tà tư duy. Tự tánh cùng với tự tánh do ba nhân duyên nên không tương ưng: a. Không có hai tư duy cùng lúc dấy khởi. b. Tư duy trước sau không hòa hợp. c. Tự tánh của các pháp không tự quán xét. Tức là phải chờ pháp khác sinh, không đợi tự tánh.

Và tà tư duy khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà kiến: Là từ tĩnh lự trung gian cho đến cõi Hữu đảnh, pháp tương ưng với tà kiến tức là chín pháp đại địa, chín pháp đại phiền não địa, tâm hôn trầm và tứ.

2. Có pháp tương ưng với tà tư duy không phải là tà kiến: Nghĩa là tà tư duy tương ưng với tà kiến và tà kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà tư duy.

Trong đây:

Tà tư duy tương ưng với tà kiến: Là tà kiến nơi cõi dục, định vị chí, tĩnh lự thứ nhất, các thứ kia chỉ tương ưng với tà tư duy không phải là tà kiến. Tự tánh cùng với tự tánh không tương ưng, như trước đã nói có ba nhân duyên.

Và tà kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà tư duy: Là trừ tụ tà kiến nơi cõi dục, định vị chí, tĩnh lự thứ nhất, nhận lấy pháp tương ưng với tà tư duy trong tụ nhiễm ô khác. Tức hữu thân kiến, biên chấp kiến, giới cấm thủ, kiến thủ, nghi, tham, giận, mạn, vô minh không chung tương ưng với pháp tương ưng của tà tư duy trong tụ. Nghĩa là mười pháp đại địa v.v… như lý nên biết.

3. Có pháp tương ưng với tà kiến cũng là tà tư duy: Nghĩa là trừ tà kiến tương ưng với tà tư duy và trừ tà tư duy tương ưng với tà kiến, còn lại là các pháp tương ưng với tà kiến, tà tư duy. Nghĩa là pháp tương ưng với tà tư duy, tà kiến trong tụ tà kiến nơi cõi dục, định vị chí, tĩnh lự thứ nhất. Tức chín pháp đại địa, chín pháp đại phiền não địa, không hổ, không thẹn, tâm hôn trầm, thùy miên, tứ.

4. Có pháp không phải tương ưng với tà kiến cũng không phải là tà tư duy: Nghĩa là tà kiến không tương ưng với tà tư duy, tà tư duy không tương ưng với tà kiến, và các tâm tâm sở pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Trong đây:

Tà kiến không tương ưng với tà tư duy: Nghĩa là nơi cõi dục, định vị chí và tĩnh lự thứ nhất, trừ tụ tà kiến, nhận lấy tà tư duy trong tụ nhiễm ô khác, chúng đều không tương ưng, vì tụ đó không có tà kiến, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh.

Tà tư duy không tương ưng với tà kiến: Nghĩa là tà kiến của tĩnh lự trung gian cho đến Hữu đảnh, tà kiến đó đều cùng không tương ưng, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh. Vì địa kia không có tư duy.

Và các tâm tâm sở pháp khác: Nghĩa là tĩnh lự trung gian cho đến Hữu đảnh, trừ tụ tà kiến, đã nhận lấy tâm tâm sở pháp nhiễm ô khác và tất cả thiện vô phú vô ký.

Sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành: Nghĩa là tất cả sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Các pháp như thế đều cùng không tương ưng. Do tụ kia không có tà kiến, địa kia không có tư duy, không nhiễm ô, không phải là pháp tương ưng.

Hỏi: Các pháp tương ưng với tà kiến, các pháp ấy có tương ưng với tà tinh tấn chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, tà kiến nơi tất cả địa đều có, không phải nơi tất cả tâm nhiễm ô. Tà tinh tấn nơi tất cả địa và tất cả tâm nhiễm ô đều cùng có. Do chúng cùng đối chiếu nên nêu ra bốn trường hợp vừa:

1. Có pháp tương ưng với tà kiến không phải là tà tinh tấn: Nghĩa là tà kiến tương ưng với tà tinh tấn. Trong đây, tà kiến tương ưng với tà tinh tấn: Là sự lười biếng trong tụ tà kiến chỉ tương ưng với tà kiến, không phải là tà tinh tấn, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh.

2. Có pháp tương ưng với tà tinh tấn không phải là tà kiến: Nghĩa là tà kiến cùng với tà kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà tinh tấn.

Trong đây:

Tà kiến: Là các tà kiến đều cùng tương ưng với tà tinh tấn không phải với tà kiến, vì tụ đó nhất định có tà tinh tấn, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh.

Và tà kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà tinh tấn: Là tất cả địa, trừ tụ tà kiến, nhận lấy pháp tương ưng với tà tinh tấn trong tụ nhiễm ô khác.

3. Có pháp tương ưng với tà kiến cũng là tà tinh tấn: Nghĩa là trừ tà kiến tương ưng với tà tinh tấn, còn lại là các pháp tương ưng với tà kiến.

Trong đây, trừ tà kiến tương ưng với tà tinh tấn: Là do số lượng nơi thể của tà tinh tấn rất nhiều.

Trong đây chỉ trừ pháp tương ưng với tà kiến: Là vì không có sự lẫn lộn khác, nên không phải là chỗ trừ ở đây.

Các pháp tương ưng với tà kiến khác: Là trừ tà tinh tấn trong tụ tà kiến và thể của tà kiến, nhận lấy tâm tâm sở pháp khác, đều cùng tương ưng với tà kiến kia, tức chín pháp đại địa, tám pháp đại phiền não địa, không hổ, không thẹn, hôn trầm, thùy miên, tầm, tứ và tâm.

4. Có pháp không phải tương ưng với tà kiến cũng không phải là tà tinh tấn: Nghĩa là tà kiến không tương ưng với tà tinh tấn, và các tâm tâm sở pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Ở đây:

Tà kiến không tương ưng với tà tinh tấn: Là hữu thân kiến v.v… tương ưng với tà tinh tấn, chúng đều cùng không tương ưng, do trong tụ kia không có tà kiến, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh.

Và các tâm tâm sở pháp khác: Là tất cả tâm tâm sở pháp thiện, vô phú vô ký, không phải có nhiễm ô.

Sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành: Là tất cả sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Các pháp như thế đều cùng không tương ưng và không nhiễm ô, nên không phải là pháp tương ưng.

Như lấy tà kiến đối chiếu với tà tinh tấn, thì lấy tà kiến đối chiếu với tà niệm, tà định cũng như vậy. Trong đây, nên nêu ra bốn trường hợp trong hai thứ, do tà niệm, tà định, như tà tinh tấn, đều hiện hữu khắp tất cả địa và hết thảy tâm nhiễm ô.

Như lấy tà kiến đối chiếu với tà tinh tấn, tà niệm, tà định, thì lấy tà tư duy đối chiếu với tà tinh tấn, tà niệm, tà định cũng như vậy. Trong đây, nên nêu ra bốn trường hợp trong ba thứ, do tà tư duy không hiện hữu khắp tất cả địa, như tà kiến không hiện hữu khắp hết thảy tâm nhiễm ô.

Hỏi: Các pháp tương ưng với tà tinh tấn, các pháp ấy có tương ưng với tà niệm chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, hai pháp đều cùng hiện hữu khắp tất cả địa, nơi tất cả tâm nhiễm ô. Do hai pháp này cùng đối chiếu, nên nêu ra bốn trường hợp nhỏ:

1. Có pháp tương ưng với tà tinh tấn không phải là tà niệm: Nghĩa là tà niệm. Trong đây, tà niệm tất cùng với tà tinh tấn tương ưng, không phải là tà niệm luôn cùng có, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh.

2. Có pháp tương ưng với tà niệm không phải là tà tinh tấn: Nghĩa là tà tinh tấn. Ở đây, tà tinh tấn tất tương ưng với tà niệm, không phải tà tinh tấn luôn cùng có, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh.

3. Có pháp tương ưng với tà tinh tấn cũng là tà niệm: Nghĩa là pháp tương ưng với tà tinh tấn và tà niệm. Trong đây, trừ thể của tà tinh tấn và thể của tà niệm, nhận lấy tâm tâm sở pháp nhiễm ô khác. Tức chín pháp đại địa, tám pháp đại phiền não địa, mười pháp tiểu phiền não địa, không hổ, không thẹn, tham, giận, mạn, nghi, hôn trầm, thùy miên, ố tác, sợ sệt, tầm, tứ và tâm. Các pháp như thế là nhiễm ô: Là hai thứ đều cùng tương ưng, vì luôn cùng có.

4. Có pháp không phải tương ưng với tà tinh tấn cũng không phải là tà niệm: Nghĩa là các tâm tâm sở pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Trong đây: Các tâm tâm sở pháp khác: Là tất cả tâm tâm sở pháp thiện, vô phú, vô ký, không phải có nhiễm ô, ngoài ra như trước đã nói.

Như dùng tà tinh tấn đối chiếu với tà niệm, thì dùng tà tinh tấn đối chiếu với tà định cũng như thế. Như dùng tà tinh tấn đối chiếu với tà niệm, tà định, thì dùng tà niệm đối chiếu với tà định cũng như vậy. Trong đây, nên nêu ra bốn trường hợp nhỏ trong hai thứ, vì khắp tất cả địa và hết thảy tâm nhiễm ô đều có. Ở đây không nói đến ba thứ như tà ngữ v.v… vì không phải là pháp tương ưng.

Hỏi: Trong tám chi tà này, có bao nhiêu chi thuộc về cõi dục, bao nhiêu chi thuộc về cõi sắc, bao nhiêu chi thuộc về cõi vô sắc?

Đáp: Tà kiến, tà tinh tấn, tà niệm, tà định đều thuộc chung cả ba cõi. Tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng chỉ thuộc về cõi dục, cõi sắc. Trong cõi sắc chỉ có nơi tĩnh lự thứ nhất, vì địa trên không có.

Có thuyết nói: Cõi sắc cũng không có tà mạng, vì người ở cõi đó không vì mạng sống mà khởi hai nghiệp thân, ngữ.

Lời bình: Trong đây, thuyết trước là đúng. Do tham của cõi kia đã khởi hai nghiệp thân, ngữ, gọi là tà mạng.

Hỏi: Trong tám chi tà này, có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn?

Đáp: Một thứ do kiến đạo đoạn là tà kiến. Ba thứ do tu đạo đoạn là tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng. Bốn chi còn lại chung cho cả kiến đạo, tu đạo đoạn.

Hỏi: Trong chương Tạp Uẩn này, vì sao trước nói pháp thanh tịnh sau nói pháp tạp nhiễm?

Đáp: Vì muốn chỉ rõ quả Sĩ dụng của pháp thế đệ nhất. Nghĩa là pháp thế đệ nhất có khả năng dẫn sinh kiến đạo, vĩnh viễn đoạn trừ tà kiến, là quả Sĩ dụng kia. Thanh tịnh tức là pháp thế đệ nhất v.v…

Tạp nhiễm, tức là tám chi tà kiến v.v…

HẾT – QUYỂN 45