LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 88

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 18

Ý căn duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi: Ý căn chung cho cả năm bộ, chín địa của ba cõi, chung nơi hữu lậu, vô lậu và hai phẩm pháp trí, loại trí làm đối tượng duyên cho mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu vi và các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

6 –> 15. Như năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi dục, thì nơi cõi sắc, cõi vô sắc mỗi cõi đều có năm bộ thức duyên nơi hữu vi như thế, hợp lại thành mười lăm thức.

16. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập đạo pháp loại trí. Thức này không phải là tùy miên tùy tăng, nên nói ý căn duyên nơi thức duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Ý căn duyên nơi thức duyên cũng làm đối tượng duyên cho mười sáu thức: Ý căn này duyên nơi thức duyên theo tùy miên tùy tăng, cũng như nói về ý căn duyên nơi thức.

Do đó nói ý căn duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng, thì xả căn cũng như thế. Tức xả căn cũng chung cho cả năm bộ, chín địa của ba cõi, gồm chung pháp hữu lậu, vô lậu và các phẩm pháp loại trí như ý căn.

Lạc căn duyên nơi thức, thuộc bốn bộ nơi cõi dục, ở cõi sắc duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành duyên nơi thức duyên. Ở cõi dục và cõi vô sắc có bốn bộ, ở cõi sắc duyên nơi hữu vi. Lạc căn chung nơi cõi dục, tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự thứ ba.

Về cõi dục: Là tương ưng với năm thức thân.

Về tĩnh lự thứ nhất: Là tương ưng với ba thức thân.

Hai thứ này chỉ là hữu lậu, do tu đạo đoạn trừ.

Về tĩnh lự thứ ba: Là ý thức tương ưng chung cho cả hữu lậu và vô lậu. Nếu hữu lậu thì chung cho cả năm bộ, nếu vô lậu thì chung nơi phẩm pháp loại trí. Nên lạc căn này làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trứ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức. Thức này ở cõi sắc do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu vi và các tùy miên biến hành tùy tăng.

8. Ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

9. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

10. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Thức này ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

11. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện. Thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

12. Thức vô lậu tức các phẩm khổ tập đạo pháp loại trí. Thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói lạc căn duyên nơi thức thuộc bốn bộ ở cõi dục, duyên nơi hữu vi ở cõi sắc, thuộc hai bộ của cõi vô sắc và tùy miên biến hành tùy tăng.

Lạc căn duyên nơi thức làm đối tượng duyên cho mười bốn thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Nơi cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức và các phẩm khổ tập đạo pháp trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức, nên thức ấy ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Nơi cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi vô lậu tương ưng với thức và thức vô lậu của các phẩm đạo loại trí, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

8. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nên thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

9 –> 13. Ở cõi sắc có năm bộ thức duyên nơi hữu vi. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên và tùy chỗ thích ứng nơi thức hữu lậu vô lậu, nên thức này theo chỗ thích hợp ở cõi sắc duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng. Năm bộ này cộng chung với tám thứ thành mười ba thức.

14. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Lạc căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi lạc căn duyên và thức hữu lậu vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói lạc căn duyên nơi thức duyên ở cõi dục và cõi vô sắc có bốn bộ, ở cõi sắc duyên nơi hữu vi, là tùy miên tùy tăng.

Hỷ căn duyên nơi thức ở cõi dục, cõi sắc, duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có hai bộ và biến hành. Duyên nơi thức duyên ở cõi dục, cõi sắc duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có bốn bộ. Hỷ căn chung nơi cõi dục và hai tĩnh lự đầu, chỉ tương ưng với ý thức.

Ở cõi dục: Chỉ là hữu lậu, chung nơi năm bộ.

Ở hai tĩnh lự đầu: Là chung nơi hữu lậu và vô lậu. Nếu là hữu lậu thì chung cho cả năm bộ, nếu là vô lậu thì chung cho cả phẩm pháp loại nhẫn trí. Nên hỷ căn này làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu vi và các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

6 –> 10. Như năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi dục, năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi sắc cũng như vậy hợp lại là mười thức.

11. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Thức này ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

12. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện. Thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

13. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập đạo pháp loại trí. Thức này không phải là tùy miên tùy tăng. Do đó nói hỷ căn duyên nơi thức ở cõi dục và cõi sắc duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có hai bộ cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

Hỷ căn duyên nơi thức làm đối tượng duyên cho mười lăm thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên, theo bộ của mình hay bộ của người khác, theo sự thích ứng với thức hữu lậu, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên, theo bộ của mình và bộ của người khác, tùy chỗ thích ứng nơi thức hữu lậu, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên theo bộ của mình, theo tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu vi và các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên theo bộ của mình, theo tất cả tùy miên tương ưng với thức và phẩm khổ tập đạo pháp trí, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên. Nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

6 –> 10. Như năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi dục, năm bộ thức duyên nơi hữu vi ở cõi sắc cũng như vậy hợp lại thành mười thức.

11. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

12. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

13. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, cùng phẩm khổ tập đạo loại trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ tất cả, cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

14. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên. Nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nên thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

15. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Hỷ căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hỷ căn duyên và các thức hữu lậu, vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng. Do đó nói hỷ căn duyên nơi thức duyên, ở cõi dục, cõi sắc duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có bốn bộ tùy miên tùy tăng.

Ưu căn duyên nơi thức, ở cõi dục duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc là biến hành và do tu đạo đoạn trừ, duyên nơi thức duyên. Nơi cõi dục duyên với hữu vi nơi cõi sắc có ba bộ, biến hành nơi cõi vô sắc và do tu đạo đoạn trừ. Tức là ưu căn chỉ ở cõi dục, là ý thức hữu lậu tương ưng chung cho cả năm bộ, làm đối tượng duyên cho bảy thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu vi và các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu và các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký. Thức này ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập pháp trí, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói ưu căn duyên nơi thức, ở cõi dục duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc là biến hành và do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Ưu căn duyên nơi thức làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên theo tự bộ và bộ khác, tùy chỗ thích ứng nơi thức hữu lậu, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên theo tự bộ và bộ khác, tùy chỗ thích ứng nơi thức hữu lậu, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên theo tự bộ và các tùy miên duyên nơi hữu vi tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu vi và các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên, theo tự bộ và tùy miên duyên nơi hữu lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các thứ duyên nơi hữu lậu và các tùy miên biến hành tùy tăng.

5. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên. Nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức v.v…, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

6. Ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên. Nơi cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi sắc do kiến khổ đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

7. Ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên. Nơi cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi sắc do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

8. Ở cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên. Nơi cõi sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

9. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên. Nơi cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện và vô phú vô ký, nên thức này ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

10. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Ưu căn này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ưu căn duyên, theo thức hữu lậu vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói ưu căn duyên nơi thức duyên, ở cõi dục duyên nơi hữu vi, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc là biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Năm căn như tín v.v… duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên theo bốn bộ của ba cõi. Năm căn như tín v.v… chung cho cả hữu lậu và vô lậu. Về hữu lậu thì chung cho cả chín địa nơi ba cõi chỉ do tu đạo đoạn trừ. Về vô lậu thì chung nơi chín địa và phẩm pháp loại trí. Nên năm căn như tín v.v… làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5 –> 12. Như bốn bộ thức ở cõi dục, thì ở cõi sắc, vô sắc mỗi cõi đều có bốn bộ thức cũng như thế, hợp lại thành mười hai thức.

13. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập đạo pháp loại trí, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói năm căn như tín v.v… duyên nơi thức ở cả ba cõi có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Năm căn như tín v.v… duyên nơi thức cũng làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Năm căn như tín v.v… này duyên nơi thức duyên, duyên nơi năm căn như tín v.v… duyên theo bộ của mình, bộ của người khác, tùy chỗ thích ứng nơi thức hữu lậu, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Năm căn như tín v.v… này duyên nơi thức duyên, duyên nơi năm căn như tín v.v… duyên theo bộ của mình, bộ của người khác, tùy chỗ thích ứng nơi thức hữu lậu, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức. Năm căn như tín v.v… này duyên nơi thức duyên, duyên nơi năm căn như tín v.v… duyên theo bộ mình và tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, tương ưng với phẩm khổ tập đạo pháp trí, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Năm căn như tín v.v… này duyên nơi thức duyên, duyên nơi năm căn như tín v.v… duyên, nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức v,v,,,, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5 –> 12. Như bốn bộ thức ở cõi dục, thì cõi sắc, vô sắc mỗi cõi đều có bốn bộ thức cũng như thế, hợp lại thành mười hai thức.

13. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Năm căn như tín v.v… này duyên nơi thức duyên, duyên nơi năm căn như tín v.v… duyên là thức hữu lậu, vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói năm căn như tín v.v… duyên nơi thức duyên ở ba cõi có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Ba căn vô lậu duyên nơi thức ở hai bộ của ba cõi và các biến hành duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ. Là ba căn vô lậu đều chung nơi phẩm khổ tập diệt đạo pháp loại trí, làm đối tượng duyên cho bảy thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện. Thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

3 –> 6. Như hai bộ thức ở cõi dục, thì ở cõi sắc, vô sắc mỗi cõi đều có hai bộ thức cũng như thế, hợp lại thành sáu thức.

7. Thức vô lậu tức là phẩm đạo pháp loại trí, nên thức này không phải là tùy miên tùy tăng.

Do đó nói ba căn vô lậu duyên nơi thức ở ba cõi có hai bộ cùng các biến hành là tùy miên tùy tăng.

Ba căn vô lậu duyên nơi thức cũng làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Ba căn vô lậu này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ba căn vô lậu duyên, nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả và do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức. Ba căn vô lậu này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ba căn vô lậu duyên, nơi cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả và do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tùy tăng.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức. Ba căn vô lậu này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ba căn vô lậu duyên. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức và phẩm đạo pháp trí tương ưng với thức, nên thức này ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Ba căn vô lậu này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ba căn vô lậu duyên. Nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện v.v…, nên thức này ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành tùy tăng.

5 –> 12. Như bốn bộ thức ở cõi dục, các cõi sắc, vô sắc mỗi cõi đều có bốn bộ thức cũng như thế, hợp lại thành mười hai thức.

13. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Ba căn vô lậu này duyên nơi thức duyên, duyên nơi ba căn vô lậu duyên, có thức hữu lậu, vô lậu, nên thức này không phải là tùy miên biến hành.

Do đó nói ba căn vô lậu duyên nơi thức duyên gồm bốn bộ nơi ba cõi là tùy miên tùy tăng.

Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc, thanh, xúc giới duyên nơi thức, ở cõi dục, cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc là biến hành và do tu đạo đoạn. Duyên nơi thức duyên, nơi bốn bộ của ba cõi, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc, thanh, xúc xứ, sắc thủ uẩn, năm giới trước cùng với pháp có kiến, có đối cũng như vậy. Các pháp như thế đều chung nơi năm địa của cõi dục, cõi sắc, chỉ do tu đạo đoạn, như nhãn căn v.v… về tướng nên biết.

Hương vị tỷ thiệt thức giới, duyên với ba bộ thức nơi cõi dục, ở cõi sắc là biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, cõi sắc có ba bộ, cõi vô sắc là biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ. Hương xứ, vị xứ cũng như thế. Các pháp như vậy đều chỉ ở cõi dục, do tu đạo đoạn trừ. Như nữ căn, về tướng nên biết.

Nhãn, nhĩ, thân thức giới duyên nơi thức ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ. Duyên nơi thức duyên ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ cùng các biến hành. Các pháp như thế chung nơi cõi dục và tĩnh lự thứ nhất chỉ do tu đạo đoạn trừ, làm đối tượng duyên cho bảy thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

4 –> 6. Như ba bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc có ba bộ thức cũng như thế, hợp lại thành sáu thức.

7. Thức vô lậu tức là phẩm khổ tập pháp loại trí.

Nhãn, nhĩ, thân thức giới duyên nơi thức, ở cõi dục, cõi sắc có ba bộ là tùy miên tùy tăng, duyên nơi thức như thế làm đối tượng duyên cho mười một thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả các tùy miên tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

5 –> 8. Như bốn bộ thức của cõi dục, ở cõi sắc có bốn bộ thức cũng như thế, hợp lại thành tám thức.

9. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

10. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

11. Thức vô lậu tức phẩm khổ tập đạo pháp loại trí.

Các nhãn, nhĩ, thân thức giới duyên nơi thức duyên, ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành là tùy miên tùy tăng.

Ý giới, ý thức giới, duyên nơi thức, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi cùng với ý xứ và bốn uẩn sau, pháp hữu vi, pháp quá khứ, vị lai, hiện tại cũng vậy. Tức các pháp như thế, đều chung nơi ba cõi, chín địa, năm bộ hữu lậu và vô lậu, các phẩm pháp loại trí, như ý căn nên biết về tướng. Pháp giới duyên nơi thức ở ba cõi là tất cả, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi, cùng với pháp xứ, các pháp thiện không sắc, không thấy, không đối, cũng như thế. Trong các pháp này, trừ pháp thiện, các pháp khác đều chung nơi năm bộ, chín địa của ba cõi, hữu lậu và vô lậu, các phẩm pháp loại trí cùng với ba vô vi làm đối tượng duyên cho mười sáu thức. Các duyên nơi thức này cũng làm đối tượng duyên cho mười sáu thức, chỉ trừ các vô vi. Pháp thiện duyên nơi thức thì chung cho hữu lậu và vô lậu. Về hữu lậu thì chung cho ba cõi, chín địa, chỉ do tu đạo đoạn trừ. Về vô lậu chung nơi các phẩm pháp loại trí cùng với trạch diệt, nên pháp thiện này cũng làm đối tượng duyên cho mười sáu thức. Nhưng trong phần do kiến khổ, tập đoạn trừ chỉ giữ lấy tùy miên biến hành tương ưng với thức, còn trong phần do kiến diệt, đạo đoạn trừ, chỉ giữ lấy tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Pháp thiện này khi duyên nơi thức cũng làm đối tượng duyên cho mười sáu thức, chỉ trừ vô vi duyên nơi thức, nên các pháp này duyên nơi thức, trong ba cõi có tất cả các tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng. Sắc uẩn duyên nơi thức… ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các biến hành.

Duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ, pháp có sắc cũng như thế. Sắc uẩn và pháp có sắc đều cùng chung nơi hữu lậu và vô lậu. Nếu hữu lậu, thì chung nơi năm địa của cõi dục và Sắc, chỉ do tu đạo đoạn trừ. Nếu vô lậu, thì chung nơi phẩm pháp loại trí của sáu địa. Nên làm đối tượng duyên cho mười một thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

4. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

5 –> 8. Như bốn bộ thức ở cõi dục, ở cõi sắc có bốn bộ thức cũng như thế, hợp thành tám thức.

9. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

10. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

11. Thức vô lậu tức là năm phẩm khổ tập đạo pháp loại trí.

Sắc uẩn v.v… duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có hai bộ và các thứ biến hành là tùy miên tùy tăng.

Sắc uẩn này duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức. Tức là ở ba cõi, mỗi cõi có bốn bộ thức, trừ thức do kiến diệt đoạn trừ. Nhưng ở cõi vô sắc, trong phần do kiến khổ, tập đoạn trừ, chỉ giữ lấy các tùy miên biến hành tương ưng với thức, hợp thành mười hai thức. Mười ba là thức vô lậu của các phẩm khổ tập đạo trí, nên sắc uẩn v.v… duyên nơi thức, duyên ở ba cõi có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Bốn thủ uẩn sau duyên nơi thức duyên nơi hữu lậu, duyên nơi thức duyên duyên nơi hữu vi, thức giới, pháp hữu lậu, pháp do kiến đạo đoạn trừ cũng như thế. Trong các pháp này, trừ do kiến đạo đoạn, các pháp còn lại khác đều chung nơi năm bộ, chín địa của ba cõi, chỉ có pháp hữu lậu do kiến đạo đoạn trừ chung nơi bốn bộ trước, chín địa của ba cõi, chỉ là hữu lậu, đều là đối tượng duyên của mười sáu thức. Nhưng trừ thức duyên nơi vô lậu do kiến diệt đạo đoạn trừ, các pháp này duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Pháp vô lậu duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ và biến hành. Duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi và pháp không đoạn trừ cũng như thế. Về pháp vô lậu và pháp không đoạn trừ, tức là diệt đế, đạo đế và hư không phi trạch diệt. Nên làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô vi tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến đạo đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

4 –> 9. Như ba bộ thức ở cõi dục, thì ở cõi sắc, vô sắc, mỗi cõi đều có ba bộ thức cũng như thế, hợp làm chín thức.

10. Thức vô lậu, tức là các phẩm diệt đạo pháp loại trí. Nên hai pháp này duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ và các biến hành là tùy miên tùy tăng. Hai pháp này duyên nơi thức làm đối tương duyên cho mười sáu thức, trong đó chỉ trừ thức duyên nơi vô vi, nên hai pháp này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng. Pháp vô vi duyên nơi thức, ở ba cõi có hai bộ và các biến hành, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi. Pháp của ba vô vi làm đối tượng duyên cho bảy thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ tùy miên duyên nơi vô vi tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

3 –> 6. Như hai bộ thức của cõi dục, các cõi sắc, vô sắc mỗi cõi đều có hai bộ thức cũng như thế, hợp thành sáu thức.

7. Thức vô lậu, tức ba phẩm diệt pháp loại trí.

Pháp vô vi duyên nơi thức, ở ba cõi có hai bộ và các biến hành là tùy miên tùy tăng.

Pháp vô vi duyên nơi thức làm đối tượng duyên cho mười sáu thức. Trong đó chỉ trừ thức duyên nơi vô vi. Nên pháp vô vi duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Pháp bất thiện duyên nơi thức, ở cõi dục duyên nơi hữu lậu, ở cõi sắc có biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục duyên nơi hữu vi, ở cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc là biến hành cùng do tu đạo đoạn trừ.

Pháp thuộc cõi dục cũng như thế.

Pháp bất thiện v.v…… chỉ ở cõi dục, chung nơi năm bộ, như ưu căn ở trước, nên biết về tướng.

Pháp vô ký duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc, vô sắc duyên nơi hữu lậu. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc, vô sắc duyên với hữu vi. Pháp vô ký chung cho cả ba cõi. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ và trong phần do kiến khổ đoạn trừ có các phẩm hữu thân kiến, biên chấp kiến. Ở cõi sắc, vô sắc chung cho cả năm bộ và hai vô vi.

Pháp vô ký làm đối tượng duyên cho mười bốn thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

4 –> 13. Ở cõi sắc, vô sắc, mỗi cõi đều có năm bộ thức, trong đó chỉ trừ thức duyên nơi vô lậu, hợp thành mười ba thức.

14. Thức vô lậu, tức là bốn phẩm khổ tập pháp loại trí. Nên pháp vô ký duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc và cõi vô sắc duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Pháp vô ký duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười lăm thức trong mười sáu thức trừ thức ở cõi dục do kiến diệt đoạn trừ. Ở cõi sắc, vô sắc, mỗi cõi đều có năm bộ thức, trong đó trừ thức duyên nơi vô vi. Nên pháp vô ký duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có bốn bộ, ở cõi sắc, vô sắc duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Pháp thuộc cõi sắc duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc duyên nơi hữu lậu, ở cõi vô sắc là biến hành và do tu đạo đoạn trừ. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có bốn bộ. Nên pháp thuộc cõi sắc là chung cho năm bộ, làm đối tượng duyên cho mười thức trong mười sáu thức như sau.

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3 –> 8. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện và ở cõi sắc có năm bộ thức duyên nơi hữu lậu, hợp thành tám thức.

9. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

10. Thức vô lậu, tức là phẩm khổ tập loại trí. Nên pháp thuộc cõi sắc duyên nơi thức, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc duyên nơi hữu lậu, ở cõi vô sắc có các biến hành do tu đạo đoạn trừ là tùy miên tùy tăng.

Pháp thuộc cõi sắc duyên nơi thức làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức như sau.

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tất cả tùy miên tương ưng với thức.

3 –> 8. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký. Ở cõi sắc có năm bộ thức, duyên nơi hữu vi hợp thành tám thức.

9. Ở cõi vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

10. Ở cõi vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thức.

11. Ở cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức.

12. Ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ thức thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

13. Thức vô lậu của ba phẩm khổ tập đạo trí. Nên pháp thuộc cõi sắc duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có duyên nơi hữu vi, ở cõi vô sắc có bốn bộ là tùy miên tùy tăng.

Pháp thuộc cõi vô sắc duyên nơi thức, ở cõi dục và Sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu lậu. Duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu vi. Pháp thuộc cõi vô sắc chung cho cả năm bộ, làm đối tượng duyên cho mười hai thức trong mười sáu thức như sau:

1. Ở cõi dục do kiến khổ đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

2. Ở cõi dục do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác tương ưng với thức.

3. Ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ thức thiện.

4 –> 11. Như ở cõi dục có ba bộ thức, ở cõi sắc có ba bộ thức cũng như thế hợp thành sáu thức. Ở cõi vô sắc có năm bộ thức duyên nơi hữu lậu, hợp thành mười một thức.

12. Thức vô lậu, tức là ba phẩm khổ tập loại trí. Nên pháp thuộc cõi vô sắc duyên nơi thức, ở cõi dục và cõi sắc có ba bộ, ở cõi vô sắc có duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Pháp thuộc cõi vô sắc duyên nơi thức, làm đối tượng duyên cho mười ba thức trong mười sáu thức. Tức ở cõi dục do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn trừ có ba bộ thức, ở cõi sắc có bốn bộ thức, trừ thức do kiến diệt đoạn. Đối với phần thức do kiến đạo đoạn trừ, chỉ giữ lại tùy miên duyên nơi vô lậu tương ưng với thức. Ở cõi vô sắc có năm bộ thức duyên nơi hữu vi, hợp thành mười hai thức.

13. Thức vô lậu của phẩm khổ tập đạo trí. Nên pháp thuộc cõi vô sắc duyên nơi thức duyên, ở cõi dục có ba bộ, ở cõi sắc có bốn bộ, ở cõi vô sắc duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Pháp học, vô học duyên nơi thức, ở ba cõi có hai bộ và các biến hành. Duyên nơi thức duyên ở ba cõi có bốn bộ.

Pháp học, vô học chỉ có vô lậu, chung nơi phẩm pháp loại trí của bốn đế, như ba căn vô lậu, nên biết về tướng.

Pháp phi học phi vô học duyên nơi thức, ở ba cõi có bốn bộ, và do kiến đạo đoạn trừ duyên nơi hữu lậu, duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi. Pháp này chung nơi năm bộ của ba cõi, chỉ là hữu lậu, làm đối tượng duyên cho mười sáu thức, chỉ trừ thức duyên nơi vô lậu do kiến đạo đoạn. Nên pháp phi học phi vô học duyên nơi thức, ở ba cõi có bốn bộ, và do kiến đạo đoạn trừ các thức duyên nơi hữu lậu là tùy miên tùy tăng.

Pháp này duyên nơi thức cũng làm đối tượng duyên cho mười sáu thức, nhưng trừ thức duyên nơi vô vi, nên pháp này duyên nơi thức duyên, duyên nơi hữu vi là tùy miên tùy tăng.

Pháp do tu đạo đoạn trừ duyên nơi thức, ở ba cõi có ba bộ, duyên nơi thức duyên, ở ba cõi có bốn bộ.

Pháp do tu đạo đoạn trừ chung cho cả chín địa nơi ba cõi, như mạng căn, nên biết về tướng.

HẾT – QUYỂN 88