LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 78

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 8

Như Khế kinh nói: Tôn giả Xá-lợi-tử nói như vầy: Các pháp thiện sinh ra đều thuộc về bốn Thánh đế và hướng về bốn Thánh đế.

Hỏi: Ba đế hữu vi nói sinh là có thể được, còn diệt đế là vô vi, có nghĩa không sinh, làm sao có thể cho các pháp thiện sinh ra đều thuộc về bốn đế?

Đáp: Kinh này ý nói: Các pháp thiện sinh ra không có thứ nào là không gồm thâu trong bốn Thánh đế, không nói là bốn đế, mỗi mỗi đều thâu nhận các pháp thiện đã sinh ra, nên đối với lý là không trái.

Lại nữa, sinh có hai thứ: Một là có tự tánh nên gọi là sinh. Hai là từ duyên khởi nên gọi là sinh. Có tự tánh nên gọi là sinh: Tức nói sinh là nhằm hiển bày về Thể không phải là nghĩa hoại diệt. Từ duyên khởi nên gọi là sinh: Tức nói sinh là nhằm hiển bày về nghĩa từ duyên khởi sinh ra. Trong các pháp thiện đều có đủ hai thứ sinh ấy và thuộc về ba đế. Còn vì có tự tánh nên gọi là sinh, thì sinh này thuộc về diệt đế, nên điều kinh nói cũng không trái với lý.

Lại nữa, sinh có hai thứ: Một là sinh do tác dụng. Hai là sinh do chính nó có được. Trong các pháp thiện đều có đủ hai thứ sinh ấy và thuộc về ba đế. Chỉ có thứ sinh do chính nó có được thì thuộc về diệt đế. Trạch diệt tuy không sinh nhưng là được sinh ra.

Hiếp Tôn giả nói: Trong Khế kinh này nói các thứ nhẫn trí gọi là pháp thiện sinh ra. Các nhẫn trí ấy tùy chỗ ứng hợp mà được thâu giữ trong bốn Thánh đế, không nói là thâu giữ khắp.

Nói hướng về các đế: Là nghĩa duyên nơi đế. Nghĩa là khổ nhẫn, khổ trí thuộc về đạo đế và duyên với khổ đế. Tập nhẫn, tập trí thuộc về đạo đế và duyên nơi tập đế. Diệt nhẫn, diệt trí thuộc về đạo đế và duyên nơi diệt đế. Đạo nhẫn, đạo trí cũng thuộc về đạo đế và duyên nơi đạo đế.

Như Khế kinh nói: Phật bảo các Bí-sô: Tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều giảng nói pháp cứu độ, tức là bốn Thánh đế. Tuyên nói, nêu bày, chỉ rõ pháp bốn Thánh đế để cứu độ các loài hữu tình ra khỏi sinh tử.

Hỏi: Vì sao nói pháp cứu độ này?

Đáp: Vì muốn làm sáng tỏ điều cốt yếu, là do chính mình siêng năng tu đạo có nghĩa của cứu độ, không phải do người khác tu giúp.

Làm sao nhận biết được? Là do Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Có Bà-la-môn tên là Đạo-đức-ca đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi hai chân Đức Thế Tôn xong, chấp tay cung kính đọc tụng:

Kính lạy Đấng Thế Tôn

Bậc Phạm chí oai dũng

Tịnh nhãn quán chiếu khắp

Giúp con dẹp trừ nghi.

Hỏi: Nay trong tụng này muốn hiển bày ý nghĩa gì?

Đáp: Vị Bà-la-môn ấy bẩm tánh lười biếng, ỷ lại, cho là người khác tu đạo pháp có thể trừ được mê lầm của mình, nên đối trước Đức Phật đọc tụng ca ngợi Đức Thế Tôn là bậc Phạm chí lớn, nhân nơi nguyện lực mạnh mẽ, tự nguyện sinh vào nhân gian cứu độ loài hữu tình đã tu Thánh đạo, cúi mong Ngài thương xót giúp diệt trừ cho mình tâm nghi ngờ. Đức Thế Tôn liền đọc tụng đáp:

Ta trừ nghi cho ông

Tất không lực tự tại

Chính ông thấy thắng pháp

Mới vượt khỏi dòng thác.

Nay trong tụng này, Đức Thế Tôn muốn chỉ rõ không có việc người khác tu đạo mà đoạn dứt được mê lầm của mình. Nếu có nghĩa này thì khi ta ngồi nơi cội Bồ-đề tu tập Thánh đạo, tất cả phiền não của hết thảy hữu tình đều đã đoạn dứt. Ta đối với tất cả, tâm từ bi luôn rộng lớn, nhưng mê lầm của hữu tình đâu có nhanh chóng đoạn dứt hết. Thế nên không bao giờ có nghĩa người khác tu đạo mà đoạn trừ được mê lầm của mình. Cũng như người khác uống thuốc thì bệnh mình làm sao hết được. Điều cần yếu là mình phải uống thuốc thì bệnh mới khỏi. Do đó nên biết, điều chính yếu là mình phải tu đạo mới cứu được mình, không phải là do người khác tu, vì thế Đức Phật mới nói pháp cứu độ. Pháp cứu độ này chính là Tứ Thánh đế, là muốn khiến tất cả hữu tình dựa vào đấy tu đạo, thấy bốn Thánh đế, đoạn dứt các nghi ngờ, lầm lạc của mình.

Hỏi: Nói pháp cứu độ là có nghĩa gì?

Đáp: Từ chốn hiểm nạn hướng dẫn hữu tình đặt chân vào nơi yên tĩnh, nên gọi là pháp cứu độ. Chốn hiểm nạn: Tức là tánh phàm phu, giống như hầm sâu, hang thẳm, chóp núi cao v.v… tức là các nơi chốn đáng sợ. Nơi yên tĩnh: Tức là tánh các Hiền Thánh, giống như đường vua đi. Do Đức Phật diễn giảng pháp bốn Thánh đế nên từ tánh phàm phu tức là chốn rất hiểm nạn, dẫn dắt các hữu tình đặt chân vào tánh Hiền Thánh là nơi rất bình yên, là khiến vào đạo, chứng đắc đạo quả, nên gọi là pháp cứu độ.

Lại nữa, từ chỗ bình đẳng dẫn nhập vào tánh chân chánh, nên gọi là pháp cứu độ. Chỗ bình đẳng: Tức là pháp thế đệ nhất. Tánh chân chánh: Tức là khổ pháp trí nhẫn. Do Đức Phật tuyên nói pháp bốn Thánh đế để dẫn dắt các hữu tình từ pháp thế đệ nhất nhập vào khổ pháp trí nhẫn, nên gọi là pháp cứu độ.

Lại nữa, từ chốn khổ lớn dẫn dắt các hữu tình đặt vào nơi rất an vui, nên gọi là pháp cứu độ. Chốn khổ lớn: Tức là sinh tử. Nơi rất an vui: Đó là Niết-bàn. Do Đức Phật tuyên nói pháp bốn Thánh đế để dẫn dắt các hữu tình khiến thoát khỏi sinh tử, chứng được Đại Niếtbàn, nên gọi là pháp cứu độ.

Hỏi: Vì sao bốn đế gọi là pháp cứu độ, không phải là giới, xứ, uẩn?

Đáp: Vì quán bốn Thánh đế thì được vào đạo, chứng quả, lìa nhiễm, dứt các lậu v.v… Còn quán giới, xứ, uẩn thì không như thế.

Lại nữa, quán bốn Thánh đế thì khiến người được hóa độ sẽ gần gũi việc nhập Thánh đạo, gần gũi việc chứng pháp thân. Quán giới, xứ, uẩn là gia hạnh xa. Nghĩa là người tu hành trong việc tu gia hạnh xa ở phần vị mới bắt đầu tu tập thì quán mười tám giới. Ở phần vị đã tu tập thường xuyên thì quán mười hai xứ. Khi ở phần vị vượt tác ý thì quán năm uẩn. Còn trong việc tu gia hạnh gần như các vị noãn, đảnh, nhẫn thì mới quán bốn đế, có thể nhập vào Thánh đạo, chứng quả pháp thân, nên chỉ có bốn đế mới được gọi là pháp cứu độ.

Hỏi: Nói là Thánh đế thì có nghĩa gì? Vì là thiện nên gọi là Thánh đế, vì là vô lậu nên gọi là Thánh đế hay là do bậc Thánh thành tựu nên gọi là Thánh đế? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả ba đều có lỗi. Vì sao?

Vì nếu là thiện nên gọi là Thánh đế, thì trong bốn đế chỉ hai đế sau mới có thể gọi là Thánh đế, vì chúng chỉ là thiện, còn hai đế trước đã chung cho cả ba thứ, vì sao cũng gọi là Thành đế?

Nếu là vô lậu nên gọi là Thánh đế, thì trong bốn đế chỉ hai đế sau mới có thể gọi là Thánh đế, vì chúng là vô lậu, còn hai đế trước đã là hữu lậu, làm sao gọi là Thánh đế?

Còn nếu do bậc Thánh thành tựu nên gọi là Thánh đế, thì những vị không phải là Thánh cũng đã thành tựu nhiều pháp, vì sao chỉ riêng gọi đây là Thánh đế?

Như nói ai đã thành tựu khổ, tập đế? Nghĩa là tất cả hữu tình. Ai đã thành tựu diệt đế? Nghĩa là người không gồm đủ trói buộc.

Đáp: Nên nói như vầy: Do bậc Thánh thành tựu nên gọi là Thánh đế.

Hỏi: Như thế là khéo thông suốt hai thứ vấn nạn nêu trước, còn vấn nạn thứ ba làm sao thông?

Đáp: Bậc Thánh thành tựu đủ bốn đế nên gọi là Thánh đế. Phàm phu thì không như thế.

Hỏi: Cũng có bậc Thánh không thành tựu đủ bốn đế, như vị còn đủ các thứ trói buộc, tâm mới thấy đạo, đối với diệt đế bấy giờ vẫn chưa thành tựu chăng?

Đáp: Do chỉ có phần ít thời gian nên không phải như phàm phu. Nghĩa là những vị còn đủ các thứ trói buộc tâm mới thấy đạo, tuy chưa thành tựu cả bốn, nhưng sau đấy tất thành tựu đủ cả bốn đế. Phàm phu thì luôn không thành tựu đủ cả bốn đế. Thế nên các đế như khổ v.v… được riêng gọi là Thánh đế.

Lại nữa, trong phẩm Thánh giả thì có thành tựu đủ bốn đế nên gọi là Thánh đế. Còn trong phẩm Phàm phu thì không có thành tựu đủ bốn thứ nên không phải là đế.

Lại nữa, nếu đối với các Thánh pháp ấy luôn ấn chứng nối tiếp được tên là bậc Thánh thì các đế của vị ấy đạt được đều gọi là Thánh đế.

Lại nữa, nếu đã đạt được các thứ giới được bậc Thánh mến mộ gọi là Thánh giả thì các đế của vị này hiện có đều gọi là Thánh đế.

Lại nữa, nếu đã đạt được Thánh tuệ gọi là bậc Thánh thì các đế của vị này hiện có đều gọi là Thánh đế.

Lại nữa, nếu đã đạt được các pháp Xa-ma-tha, Tỳ bát xá na của bậc Thánh gọi là Thánh giả thì các đế của vị này hiện có đều gọi là Thánh đế.

Lại nữa, nếu đã được Thánh tài gọi là bậc Thánh thì các đế của vị này hiện có đều gọi là Thánh đế.

Lại nữa, nếu đã được vào Thánh thai gọi là bậc Thánh thì các đế của vị ấy hiện có đều gọi là Thánh đế.

Lại nữa, nếu đã được các Thánh giác chi, Thánh đạo, gọi là bậc Thánh, thì các đế của vị ấy hiện có đều gọi là Thánh đế.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Lúc Đức Phật còn tại thế, có cuộc tranh luận giữa phàm phu cùng các bậc Thánh. Phàm phu nói: Các hành là thường, là lạc, là tịnh, là có ngã. Các bậc Thánh nói: Các hành là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Các phàm phu cho: Điều chúng tôi nói là đế. Các bậc Thánh lại nêu: Lời chúng tôi nói là đế. Để chấm dứt cuộc tranh luận này, họ cùng nhau đến chỗ Đức Phật xin phân định. Đức Phật bảo: Lời các bậc Thánh nói là đế, các lời khác đều không phải đế. Vì sao? Vì các vị Thánh đối với khổ v.v… hiện đã thấy, biết, hiểu đúng nên điều nói ra là đế, còn các phàm phu thì không như thế. Do đó bốn đế chỉ thuộc các bậc Thánh, không thuộc các phàm phu, nên gọi là Thánh đế.

Tôn giả Thế Hữu nói: Bốn đế chỉ các bậc Thánh có Thánh tuệ thông đạt tất cả, nên gọi là Thánh đế.

Hỏi: Thế nào là Khổ đế?

Đáp: Như Khế kinh nói: Sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, không yêu thích mà gặp nhau khổ, thương yêu phải xa lìa khổ, cầu mong không được khổ. Nói tóm lược tất cả năm thủ uẩn khổ. Đó gọi là khổ Thánh đế.

Nên biết ở đây cùng với tướng sinh hợp nên gọi là sinh khổ. Cùng với tướng trụ, dị hợp nên gọi là già khổ. Cùng với tướng bức não hợp nên gọi là bệnh khổ. Cùng với tướng diệt hợp nên gọi là chết khổ. Cùng với tướng không yêu thích mà gặp nhau hợp nên gọi là không yêu thích mà gặp nhau khổ. Cùng với tướng thương yêu phải xa lìa hợp nên gọi là thương yêu phải xa lìa khổ. Cùng với tướng không tự tại, không theo ý muốn hợp nên gọi là cầu mong không được khổ. Các loại khổ như thế đều thuộc về thủ uẩn hữu lậu nên nói: Lược nói tất cả năm thủ uẩn là khổ.

Lại nữa, sinh là chốn an ổn đủ của tất cả khổ, là ruộng tốt của khổ, nên gọi là sinh khổ. Già có thể làm suy biến tuổi trẻ sung mãn đáng yêu thích, nên gọi là già khổ. Bệnh có thể làm tổn hoại các thứ yên ổn vui thích, nên gọi là bệnh khổ. Chết có thể đoạn dứt thọ mạng đáng yêu, nên gọi là chết khổ. Các cảnh không đáng yêu thích khi cùng với thân kết hợp dẫn sinh các khổ, nên gọi không yêu thích mà gặp nhau là khổ. Các cảnh đáng yêu thích lúc xa lìa thân dẫn sinh các khổ, nên gọi là thương yêu phải xa lìa là khổ. Khi cầu việc theo như ý không có kết quả dẫn sinh các khổ, nên gọi cầu mong không được là khổ. Các loại khổ như thế đều là thủ uẩn hữu lậu thâu giữ, nên gọi là nói tóm lược tất cả năm thủ uẩn là khổ.

Hỏi: Năm thủ uẩn khổ về lượng là rộng lớn, vì sao gọi là tóm lược?

Đáp: Các khổ tuy rộng lớn nhưng lược nêu bày, nên gọi là tóm lược. Nghĩa là khổ nạn của năm thủ uẩn này là nhiều vô số kể, không nói rộng hết được. Nhưng vì muốn khiến kẻ được hóa độ sinh tâm chán lìa, nên chỉ lược nêu. Ví như có người tạo quá nhiều tội ác, không thể rộng kể hết được, nếu có người hỏi lỗi của kẻ ấy thì chỉ có thể trả lời chung: Là người cực ác, tuy nói tóm lược nhưng vẫn làm rõ là có nhiều tội ác. Đây cũng như thế, nên lược nói năm thủ uẩn là khổ.

Hỏi: Đối với các uẩn thì toàn là khổ hay có vui? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu trong các uẩn cũng có vui, thì sao gọi là khổ đế, không gọi là lạc đế? Còn nếu trong các uẩn đều toàn không vui thì nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như Khế kinh nói: Đại Danh nên biết! Nếu sắc hoàn toàn là có khổ không vui, thì các hữu tình không nên đối với các sự vui nơi sắc khởi tâm tham đắm. Do trong các sắc có khổ có vui, trong khổ cũng có vui thuận theo, cũng sinh đối với các vui nơi sắc khởi tâm tham đắm. Cho đến đối với thức nói rộng cũng như vậy.

Lại nói có ba thứ thọ, mỗi thứ được kiến lập nhất định không có xen lẫn, đó là vui, khổ, không khổ không vui.

Lại Khế kinh nói: Đạo nương vào tư lương, Niết-bàn nương vào đạo. Vì đạo vui nên chứng được Niết-bàn vui. Đạo đã là vui, vì sao trong uẩn có thể nói là không vui?

Đáp: Nên nói như vầy: Ở trong các uẩn cũng có chút ít vui. Do trong các uẩn khổ nhiều vui ít, ít theo nhiều nên chỉ gọi là khổ uẩn. Cũng như chiếc bình đựng đầy chất độc, nếu rót vào đó một giọt mật, mật vì ít so với nhiều, nên chỉ nói là bình chất độc. Các uẩn cũng như vậy, vì vui ít khổ nhiều, nên chỉ gọi là khổ đế.

Có thuyết nói: Trong các uẩn toàn là không vui, nên chỉ gọi là khổ đế.

Hỏi: Nếu như vậy thì như kinh vừa nêu làm sao thông?

Đáp: Do cùng đối đãi nên đặt tên, giả nêu bày là có vui. Nghĩa là khi thọ nhận khổ bậc cao (quá khổ) thì đối với khổ bậc trung (khổ vừa) khởi tưởng vui. Lúc thọ nhận khổ bậc trung thì đối với khổ bậc thâp (khổ ít) khởi tưởng vui. Như khi thọ nhận khổ ở địa ngục thì đối với khổ của bàng sinh khởi tưởng vui. Khi phải chịu khổ của bàng sinh thì đối với khổ của cõi quỷ khởi tưởng vui. Khi chịu khổ ở cõi quỷ thì đối với khổ của loài người khởi tưởng vui. Khi thọ nhận khổ của loài người thì đối với khổ của các trời khởi tưởng vui. Khi thọ nhận khổ hữu lậu thì đối với đạo vô lậu cũng sinh tưởng vui. Thế nên nói là có vui.

Lại có thuyết cho: Nếu căn cứ vào thế gian mà nêu bày thì trong các uẩn cũng có vui. Như ở đời khi đói được ăn, khi khát được uống, khi lạnh được ấm, khi nóng được mát, khi đang đi bộ mệt nhọc mà có ngựa xe đưa rước v.v… đều nói là được vui. Nhưng nếu căn cứ vào các bậc Hiền Thánh mà nêu vấn đề thì trong các uẩn đều nên nói là không có vui. Nghĩa là các bậc Thánh, từ địa ngục Vô gián cho đến cõi trời Hữu đảnh, các thứ uẩn, giới, xứ v.v… đều cùng quán thấy là như thỏi sắt đang nóng đỏ.

Lời bình: Nên biết ở đây thuyết đầu là đúng. Vì khổ nhiều vui ít, nên chỉ gọi là khổ đế.

Hỏi: Thế nào là khổ tập Thánh đế?

Đáp: Như Khế kinh nói: Các ái hiện có và ái ở đời sau, ái cùng hành với hỷ, ái mọi người đều vui thích v.v… Đó gọi là khổ tập Thánh đế.

Hỏi: Các pháp hữu lậu đều có thể làm nhân, nghĩa đều là tập đế, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói tập đế là ái, không phải là các thứ khác?

Đáp: Đối với việc thiết lập tập Thánh đế thì ái có uy lực, tác dụng tăng mạnh, không như các thứ hữu lậu khác, nên nói riêng ái là tập không phải thứ khác. Nhưng pháp hữu lậu đều là tập đế. Như khi thiết lập hành uẩn, trong đó tư là tối thắng, nên nói tư, không phải là thứ khác. Nhưng thật sự thì hành tương ưng, bất tương ưng đều là hành uẩn. Thế nên nói riêng ái là tập đế.

Lại nữa, ái là gốc nhân của các khổ trong ba đời. Mọi đường lối ngõ ngách đều do đầu mối ái này tạo ra các duyên, tập hợp lại, khởi lên mạnh mẽ hơn hết, thế nên nói riêng là tập đế.

Lại nữa, ái thường xuyên chiêu tập các quả khổ hơn hết, nên nói riêng về ái.

Như có tụng nói:

Như cây chưa nhổ gốc

Chặt rồi sinh trở lại

Chưa đoạn tùy miên ái

Luôn luôn nhận các khổ.

Lại nữa, ái đối với loài hữu tình có thể thiêu đốt, có thể làm thấm nhuần, cho nên nói riêng. Lúc nhân có thể thấm nhuần thì quả có thể thiêu đốt, như khi rót dầu nóng vào thân thì dầu vừa có thể đốt cháy thân mà cũng có thể làm thấm nhuần thân. Ái đối với hữu tình cũng lại như thế.

Lại nữa, vì ái có khả năng dấy khởi, như dựng thây ma đứng lên thành quỷ, có khả năng chiêu tập sinh ra nghiệp, nên nói riêng. Như chỗ có nước đầy nổi lên thây quỷ, nên có thể dựng lên thây chết. Trong thân có ái thì có chiêu tập sinh nghiệp và có thể gây tạo sinh tử.

Lại nữa, do ái có thể thâu giữ các sự việc trong ngoài của hữu tình và vô tình, thế nên nói riêng. Thâu giữ hữu tình: Là do sức mạnh của ái nên yêu mến vợ con, nô tỳ, kẻ sai khiến, voi ngựa, bò dê, lừa, lạc đà v.v… Thâu giữ vô tình: Là do sức mạnh của ái nên thọ nhận yêu thích các thứ cung điện, nhà cửa, ngọc báu, tiền của, lúa thóc v.v…

Lại nữa, do ái có thể nuôi lớn thân nam thân nữ, thế nên nói riêng. Nghĩa là các hữu tình do sức mạnh của ái nên có thể phụng dưỡng cha mẹ, sư trưởng, cùng có thể nuôi lớn vợ con, kẻ hầu hạ, bạn bè, quyến thuộc v.v… cho đến cầm thú. Cũng do sức mạnh của ái mà ở nơi chốn này tàn hại sinh mạng đem đến nơi chốn kia nuôi nấng con cái!

Lại nữa, do sức mạnh của ái nên muốn được tự thể và xứ sinh ở vị lai. Vì muốn được nên khởi hy vọng, do hy vọng nên liền tìm cầu, do tìm cầu nên được thể của xứ sinh, thế nên nói riêng.

Lại nữa, ái có thể làm thấm nhuần các hữu sinh tử, khiến không khô héo, như nước có thể thấm nhuần nuôi cây cối cỏ thuốc khiến không khô héo, thế nên nói riêng.

Lại nữa, ái có thể làm thấm nhuần thức sinh mầm chồi cho thân sau. Nghĩa là do sức mạnh của ái nên được nhập thai mẹ, thấm nhuần tinh huyết, khiến trụ trong thai tạng, thế nên nói riêng.

Lại nữa, nếu có hành tướng của chỗ nương dựa, của đối tượng duyên có thể khởi ái, thì các hành tướng nơi chỗ nương dựa, nơi đối tượng duyên này sẽ dấy khởi các phiền não khác. Cũng như nơi chốn các cá chúa bơi lội thì các cá nhỏ cũng bơi theo. Đây cũng như vậy. Do đó gọi ái là vua của các phiền não, thế nên nói riêng.

Lại nữa, nếu trong sự nối tiếp có tham ái, thì các thứ phiền não khác đều tập hợp ở đó, cũng như y phục bị thấm ướt thì bụi bặm dễ bám, thế nên nói riêng ái là tập đế.

Lại nữa, nếu trong sự nối tiếp có nước tham ái thì các phiền não khác đều thích trụ nơi đấy, như chỗ có nước thì các loài cá tôm ếch nhái đều thích ở đó, thế nên nói riêng.

Lại nữa, ái như ngọn lửa đang cháy bùng có thể thiêu đốt tất cả. Lại như nước mặn, uống vào không bao giờ thấy đủ, thế nên nói riêng. Như nơi đống lửa đang cháy dữ, ném các vật khô vào thì lửa cháy mãi không dứt. Lại như người khát uống nước muối thì càng uống càng khát, không khi nào đã khát. Như thế người có thân chưa lìa được ái thì luôn tham đắm cảnh giới không bao giờ đủ.

Lại nữa, ái có thể hòa hợp các hữu tình dị biệt, khiến không còn dị biệt, như nước hòa tan chất đường dị biệt khiến không lìa nhau, thế nên nói riêng.

Lại nữa, ái có thể khiến hữu tình đối với các pháp thiện sinh vướng mắc trở ngại không thể làm nổi. Ái cũng làm thấm nhuần các hữu tình khiến luôn có tham chấp không thể xuất ly, thế nên nói riêng. Nghĩa là các hữu tình do sức mạnh của ái nên đối với các pháp thiện đang tu tập sinh vướng mắc không thể thực hiện. Lại, ái làm thấm nhuần hữu tình khiến đối với sinh tử càng chấp trước không thể vượt thoát. Như các loài ruồi nhặng, ong kiến bị các thứ sữa đặc, dầu, mật, da ướt v.v… là những chất keo dính chặt vào chân, cánh v.v… nên không thể bay lên được.

Lại nữa, ái đối với các hữu tình nơi phần vị nhân quả tạo tác có khác biệt, thế nên nói riêng. Nghĩa là các hữu tình đã khởi ái, khi là nhân thì thuận hợp như là bạn bè thân thích, nhưng lúc là quả thì trở thành nghịch hại như kẻ oán gia thù địch. Như chuyện các thương khách vào biển tìm châu báu, đến một vùng bãi gặp quỷ dữ La-sát-tư. Lúc đầu chúng hiện ra hình dáng xinh đẹp, nói năng dịu dàng, tiếp đãi chìu chuộng, mời làm chồng. Về sau mới dùng đủ mọi cách khéo léo dụ dỗ, dẫn nhốt vào thành sắt để hút máu ăn thịt, dần dần ăn hết chỉ còn lại xương khô. La-sát-tư ái cũng lại như thế. Lúc đầu khiến các hữu tình vui thích tạo ác, về sau thì khiến đọa vào nẻo ác chịu bao nhiêu thứ khổ não.

Lại nữa, ái là nhân khởi, thế nên nói riêng. Như Khế kinh nói: Nghiệp là nhân sinh, ái là nhân khởi, nên mãi lưu chuyển trong sinh tử.

Lại nữa, ái rất khó đoạn lìa, thế nên nói riêng. Như có người bỗng nhiên gặp hai quỷ La-sát-tư, một biến hình làm mẹ nên khó thể lìa bỏ, một biến thành kẻ oán nên dễ lìa xa. Như thế hữu tình chưa lìa dục nhiễm thì có hai thứ phiền não luôn luôn hiện hành: Một là tham dục khó có thể đoạn lìa. Hai là sân giận dễ có thể lìa đoạn.

Lại nữa, ái luôn hiện hành vi tế khó nhận biết, thế nên nói riêng. Như một người thợ tiện khéo tay mài bén các vật dụng, nếu có thêm bớt chút ít cũng khó nhận biết.

Lại nữa, ái đối với chi hữu dần dần lập thêm ba thứ, thế nên nói riêng. Tức là lúc mới khởi gọi là ái, kế đến vị trí thêm rộng gọi là thủ, sau khi chết mang lấy quả gọi là vô minh.

Lại nữa, có mười pháp nhiễm thì ái là đứng đầu, thế nên nói riêng. Như Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Duyên nơi ái nên tìm cầu. Duyên nơi tìm cầu nên được. Duyên nơi được nên chứa nhóm. Duyên nơi chứa nhóm nên tham. Duyên nơi tham nên chấp trước. Duyên nơi chấp trước nên keo kiệt. Duyên nơi keo kiệt nên thâu nhận. Duyên nơi thâu nhận nên giữ gìn. Duyên nơi giữ gìn nên cầm dao vác gậy tranh cãi, đánh nhau, dối trá, dua nịnh, khinh mạn, sinh ra vô lượng các thứ pháp ác bất thiện.

Lại nữa, ái ở trong tám thứ đẳng chí bị nhiễm ô thì lực dụng của nó tăng mạnh, thế nên nói riêng. Như nói về vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất là vị lúc đang trong định hay là vị khi đã xuất định? Nên nói là vị khi đã xuất định, không phải là vị khi đang nhập định. Cho đến vị tương ưng nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ nói rộng cũng như thế.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái trói buộc các phàm phu, như dây buộc chặt chân chim, thế nên nói riêng.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái như lưới rập, như lồng mây đan buộc giữ, rất khó thoát ra, thế nên nói riêng.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái rộng sâu rất khó vượt qua, cũng như biển cả, thế nên nói riêng.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái dài xa như dòng sông lớn rất khó tìm được bờ đập, thế nên nói riêng. Như Khế kinh nói: Nói sông dài là dụ cho ba thứ ái là dục ái, sắc ái và vô sắc ái.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái khó đoạn trừ, khó phá bỏ, khó có thể vượt qua, thế nên nói riêng.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái rất nhiều lỗi lầm tai họa, là ngục tù cứng chắc, thế nên nói riêng.

Lại nữa, Đức Phật nói tham ái có thể khiến cho giới riêng, địa riêng, bộ riêng cùng có thể sinh trưởng các thứ phiền não, thế nên nói riêng.

Do vô số các thứ nhân duyên như thế, nên trong pháp hữu lậu chỉ có một thứ ái được Đức Thế Tôn nói riêng là tập Thánh đế. Nhưng tập Thánh đế không phải chỉ có ái thâu giữ.

Hỏi: Thế nào là khổ diệt Thánh đế?

Đáp: Như Khế kinh nói: Tức các thứ ái hiện có và ái ở đời sau, ái cùng hành với hỷ, ái mọi người đều vui thích v.v…, tất cả đều được đoạn trừ, ném bỏ, loại trừ sạch, lìa diệt, dứt hết không còn sót. Đó gọi là khổ diệt Thánh đế.

Hỏi: Đã nói các ái được đoạn trừ sạch không còn gì nên gọi là diệt Thánh đế, tức là tập cũng diệt, vì sao chỉ nói là khổ diệt Thánh đế?

Đáp: Đây cũng nên nói là tập diệt Thánh đế, nhưng không nói là vì nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, đã nói khổ diệt nên biết tức nói tập đế cũng diệt, do khổ và tập là một vật.

Lại nữa, nếu nói khổ diệt nên biết là đã nói tập đế cũng diệt, vì chính là diệt hết nhân thì quả mới diệt.

Lại nữa, vì người được hóa độ vui thích diệt, nên chỉ nói khổ diệt. Nghĩa là người được hóa độ có tâm chán ghét khổ nhiều hơn chán ghét tập, vì từ vô thỉ đến nay luôn bị khổ bức bách. Nay nghe Phật giảng nói khổ diệt Thánh đế liền sinh hoan hỷ, nói: Các thứ khổ xấu ác ấy đã được diệt hết, thật đáng vui mừng. Vì thế tâm tâm vui thích mong cầu mau được chứng diệt. Do các thứ nhân duyên như vậy, nên Đức Thế Tôn chỉ nói khổ diệt Thánh đế, không nói là tập diệt Thánh đế.

Hỏi: Thế nào là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế?

Đáp: Như Khế kinh nói: Tám chi Thánh đạo tức là chánh kiến cho đến chánh định, đó gọi là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế.

Hỏi: Đây cũng nên nói là hướng đến tập diệt đạo, vì sao chỉ nói là hướng đến khổ diệt đạo?

Đáp: Đây cũng nên nói là hướng đến tập diệt đạo, nhưng không nói là vì nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, đã nói hướng đến khổ diệt đạo, nên biết là đã nói hướng đến tập diệt đạo, do khổ cùng với tập không phải là vật riêng.

Lại nữa, nếu nói hướng đến khổ diệt đạo nên biết là đã nói hướng đến tập diệt đạo, do cần diệt hết nhân thì quả mới diệt.

Lại nữa, vì người được hóa độ vui thích đạo diệt trừ, nên nói như thế. Nghĩa là những người được hoa độ tâm chán khổ sâu xa, nên khi nghe nói đạo này có thể hướng đến diệt hết khổ thì vui mừng cùng cực, do đó có thể nhanh chóng tu đạo gia hạnh. Thế nên chỉ nói hướng đến khổ diệt đạo.

Lại nữa, vì muốn làm sáng tỏ Thánh đạo chính là có thể ngăn trừ các khổ khiến chúng vĩnh viễn không sinh ra, nên nói như thế. Tức như có người hỏi Đạo: Ông có sức mạnh nào khiến nhân không phải là nhân, quả không phải là quả? Đạo trả lời: Không thể được. Nhưng các nhân duyên có thể sinh ra khổ tôi có thể đối trị khiến khổ không sinh. Thế nên chỉ nói hướng đến khổ diệt đạo.

Lại nữa, vì muốn ngăn chận loại trừ kẻ hủy báng đạo, thế nên chỉ nói hướng đến khổ diệt đạo. Nghĩa là có những em bé mới bảy, tám tuổi đã chứng được quả vô học v.v… cho đến người thọ mạng một trăm tuổi mới hết, trong khoảng thời gian ấy đã thọ nhận vô số thứ khổ, như phải chịu hơn bốn trăm lẻ bốn các thứ bệnh khổ v.v… Người đời thấy thế liền hủy báng đạo, nói Thánh đạo này không thể diệt hết khổ, cho nên Đức Thế Tôn nói: Thánh đạo có thể diệt các khổ ở đời sau.

Do các nhân duyên như thế, nên Đức Thế Tôn chỉ nói Hướng đến khổ diệt đạo, không nói Hướng đến tập diệt đạo.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn trước nói khổ đế v.v… cho đến sau cùng mới nói đạo đế?

Đáp: Vì tùy theo văn từ nên nói như thế. Tức là thuận theo lời văn cách thế diễn đạt.

Lại nữa, nói như thế là tùy theo người giảng nói pháp, người nghe và người thọ trì tu tập, không phải theo các thứ lớp khác.

Lại nữa, căn cứ vào lúc hiện quán nên nói như thế. Tức là về thứ lớp trước sau, tóm lược có ba loại: Một là thứ lớp về sinh khởi. Hai là thứ lớp về dễ nói. Ba là thứ lớp về hiện quán.

Thứ lớp về sinh khởi: Nghĩa là bốn niệm trụ, bốn tĩnh lự và bốn vô sắc v.v… Các Sư Du-già trước khởi thân niệm trụ thế nên nói trước, cho đến sau khởi pháp niệm trụ thế nên nói sau. Đối với bốn Tinh lự, bốn vô sắc nói rộng cũng như thế.

Thứ lớp về dễ nói: Nghĩa là bốn chánh thắng, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo chi v.v… Tuy bốn chánh thắng đều có cùng một lúc, nhưng để dễ nói nên trước nói đoạn ác sau nói tu thiện. Ở trong đoạn ác, trước nói đoạn ác đã sinh sau nói ngăn chận ác chưa sinh. Ở trong tu thiện, trước nói khởi thiện chưa sinh sau nói tăng thiện đã sinh. Nêu bày như thế lời văn nhẹ nhàng thuận hợp. Đối với bốn thần túc nói rộng cũng như thế.

Thứ lớp về hiện quán: Nghĩa là đối với bốn Thánh đế, các Sư Du-già khi nơi phần vị hiện quán trước là quán về khổ, nên Đức Phật nói trước, kế đến hiện quán về tập, nên Đức Phật kế đó nói tập, tiếp theo hiện quán về diệt, sau cùng là hiện quán về đạo, nên Đức Phật nói diệt sau cùng là đạo.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao Hành giả khi nhập hiện quán thì trước hiện quán về khổ, sau cùng hiện quán về đạo?

Đáp: Là căn cứ vào thô tế. Nghĩa là trong bốn Thánh đế, khổ đế là thô hơn cả nên hiện quán trước, dần dần cho đến đạo đế là vi tế nhất nên hiện quán sau cùng. Như kẻ học bắn tên, trước bắn những vật thô, dần dần mới bắn các đích nhỏ xa hơn, như đầu sợi lông v.v…

Lại nữa, vì ngu mê về khổ có thể giữ lấy ngu mê về tập, cho đến ngu mê về diệt có thể giữ lấy ngu mê về đạo. Nếu chưa trừ diệt ngu mê về khổ thì rốt cuộc không thể trừ diệt ngu mê về tập, cho đến nếu chưa trừ diệt ngu mê về diệt thì rốt cùng không thể trừ diệt ngu mê về đạo. Cho nên trước hiện quán về khổ, cho đến sau cùng hiện quán về đạo.

Lại nữa, vì ngu mê về khổ có thể dẫn đến ngu mê về tập, cho đến ngu mê về diệt có thể dẫn đến ngu mê về đạo. Nếu chưa ngăn trừ ngu mê về khổ tất không thể ngăn trừ ngu mê về tập, cho đến nếu chưa ngăn trừ ngu mê về diệt tất không thể ngăn trừ ngu mê về đạo. Cho nên trước hiện quán về khổ, cho đến sau cùng hiện quán về đạo.

Lại nữa, do quán khổ đế có thể dẫn đến quán tập đế, cho đến quán diệt đế có thể dẫn đến quán đạo đế. Nếu chưa khởi quán khổ đế tất không thể khởi quán tập đế, cho đến nếu chưa khởi quán diệt đế tất không thể khởi quán đạo đế. Do đấy trước hiện quán về khổ, cho đến sau cùng hiện quán về đạo.

Lại nữa, do quán khổ đế là quán con đường, quán gốc nhân của tập đế, do đầu mối có thể khiến sinh các duyên tập khởi, cho đến quán diệt đế là quán con đường, quán gốc nhân của đạo đế, do đầu mối có thể khiến sinh các duyên tập khởi. Nếu chưa khởi quán khổ đế tất không thể khởi quán tập đế, cho đến nếu chưa khởi quán diệt đế tất không thể khởi quán đạo đế. Thế nên trước hiện quán về khổ, cho đến sau cùng hiện quán về đạo.

Lại nữa, quán khổ đế là nơi chốn an ổn đầy đủ, là cửa ngỏ của gia hạnh nương dựa nơi quán tập đế, cho đến quán diệt đế đối với quán đạo đế cũng như vậy. Nếu chưa khởi quán khổ đế tất không thể khởi quán tập đế, cho đến nếu chưa khởi quán diệt đế tất không thể khởi quán đạo đế. Thế nên trước hiện quán về khổ đế, cho đến sau cùng hiện quán về đạo đế.

Hiếp Tôn giả nói: Người tu hành quán nhận biết năm thủ uẩn như các thứ bệnh tật, ung nhọt, tên độc v.v… rồi tiếp đến là tìm hiểu nhân của chúng, nhận biết là tập đế. Sau đấy tìm đến chỗ không có các thứ bệnh tật v.v… nhận biết là diệt đế, sau cùng tìm cách đối trị nhận biết là đạo đế. Như người thân thể yếu đuối, gặp phải bệnh tật bức bách khổ sở nên nghĩ: Bệnh này của ta do đâu sinh ra? Khi nhận biết do các thứ phong, nhiệt, đàm v.v… gây bệnh, lại nghĩ làm sao để dứt hết bệnh? Đó là lúc nhận biết việc trị bệnh. Lại suy nghĩ: Vì sao bệnh dứt hết, tức biết là do uống đúng thuốc. Do các nhân duyên ấy nên trước hiện quán về khổ đế, cho đến sau cùng hiện quán về đạo đế.

Lại nữa, người tu hành quán nhận biết năm thủ uẩn có nhiều lỗi lầm tai họa, kế đến tìm hiểu nhân của chúng xong thì tìm biết sự diệt trừ chúng, và sau cùng là tìm cách đối trị. Như người có đứa con chuyên nghề trộm cướp, ông ta suy nghĩ: Con ta nhân đâu mà làm công việc xấu ác đó? Khi biết được nhân là do đám bạn xấu, lại suy nghĩ: Việc làm ác của con ta lúc nào sẽ dứt? Đó là lúc nhận biết sự sửa ác tu thiện. Ông ta lại nghĩ: Ai sẽ giúp sửa đổi khiến con ta trở nên hiền lương và nhận biết đó là do các bạn tốt. Vì các nhân duyên đó nên trước hiện quán về khổ, cho đến sau cùng hiện quán về đạo.

Hỏi: Nhân trước quả sau là thuận theo thứ lớp. Vì sao Hành giả trước hiện quán về khổ đế, sau hiện quán về tập đế?

Đáp: Biết khổ rồi đoạn trừ tập là thuận theo thứ lớp.

Hỏi: Biết khổ rồi đoạn trừ tập là thuận theo thứ lớp nào?

Đáp: Đây là thuận theo thứ lớp về việc chặt cây của thế gian. Nghĩa là muốn chặt cây, trước nên chặt hết cành lá, sau đấy đào gốc rễ lên. Việc chặt cây sinh tử thứ lớp cũng như thế. Trước nhận biết các khổ tức là chặt hết cành lá, sau đoạn trừ tập tức là đào gốc rễ lên.

Hỏi: Trước đạo sau diệt là thuận theo thứ lớp. Vì sao Hành giả trước hiện quán về diệt, sau mới hiện quán về đạo?

Đáp: Chứng diệt rồi tu đạo là thuận theo thứ lớp.

Hỏi: Chứng diệt rồi tu đạo là thuận theo thứ lớp nào?

Đáp: Đây là thuận theo thứ lớp nơi chốn đi đến và người đi đến. Nếu trước nói tu đạo sau mới nói chứng diệt thì người nghe không biết đạo này là đạo như thế nào. Nếu trước nói chứng diệt sau nói tu đạo tức biết đạo này là đạo hướng đến diệt khổ. Như có kẻ nhờ người khác chỉ giùm đường đi, người này hỏi lại: Ông muốn hỏi con đường nào? Kẻ ấy đáp: Hỏi đường đi đến thành kia. Người ấy liền nói: Đây là đường đi đến thành đó. Trước nói chứng diệt sau nói tu đạo nên biết cũng như thế. Nêu lên diệt rồi chỉ bày đạo là thuận theo thứ lớp.

Lại nữa, các Sư Du-già trước do duyên nơi đạo ba đế đoạn trừ ngu mê của ba đế, sau do duyên nơi đạo của đạo đế đoạn trừ ngu mê của đạo đế, nên trước hiện quán về diệt sau mới hiện quán về đạo. Ví như có người trước nhìn xem mặt người khác để biết mặt ấy đẹp xấu thế nào, sau đấy muốn tự biết mặt mình đẹp xấu thì lấy gương ra soi.

Do nhân duyên ấy nên trước hiện quán về diệt, sau mới hiện quán về đạo.

Hỏi: Khi hiện quán các đế là hiện quán tự tướng hay là hiện quán cộng tướng? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu quán tự tướng thì tự tướng của các pháp vốn sai biệt vô số nên không thể quán đế được rốt ráo. Chỉ như tự tướng của địa đã có vô số sai biệt chưa quán cùng tận thì đã mạng chung huống chi là có thể quán tự tướng của các thứ khác. Nếu quán cộng tướng vì sao không hiện quán tức thời về bốn đế, lại để lúc nào mới dùng trí như thật quán tự tướng của các đế? Đối với tự tướng của các đế nếu không thể quán làm sao gọi là hiện quán các đế?

Đáp: Nên nói là quán nơi cộng tướng.

Hỏi: Nếu như thế vì sao không hiện quán tức thời về bốn đế?

Đáp: Khi hiện quán các đế, tuy là quán cộng tướng nhưng không hiện quán tất cả cộng tướng, tức chỉ hiện quán phần ít cộng tướng vì rõ ràng là tự tướng, cộng tướng sai biệt vô biên.

Lại, đại chủng kia cũng gọi là tự tướng, cũng gọi là cộng tướng. Gọi là tự tướng, tức khi nó đối với ba đại chủng kia (Nước, lửa, gió). Còn gọi là cộng tướng, tức đối với tất cả địa giới đều có tánh cứng chắc.

Đại chủng tạo sắc hợp thành sắc uẩn. Như thế, sắc uẩn cũng gọi là tự tướng, cũng gọi là cộng tướng. Gọi tự tướng là đối với bốn uẩn kia. Còn gọi cộng tướng tức các sắc đều có tướng biến đổi gây trở ngại.

Tức năm thủ uẩn hợp thành khổ đế. Như thế, khổ đế cũng gọi là tự tướng, cũng gọi là cộng tướng. Gọi tự tướng là đối với ba đế kia. Còn gọi cộng tướng là vì các uẩn đều có tướng bức bách.

Tư duy như thế về có tướng bức bách, tức là tư duy về các tướng khổ cùng vô thường, không, vô ngã, cũng tức gọi là hiện quán về khổ đế. Hiện quán như thế nếu đối với các đế gọi là quán tự tướng. Nếu đối với các uẩn gọi là quán cộng tướng. Do đối với các uẩn gọi là quán cộng tướng, nên lúc hiện quán gọi là quán cộng tướng. Do đối với các đế gọi là quán tự tướng, nên đối với bốn đế không hiện quán tức thời.

Lại nữa, một đế không phải là bốn đế, bốn đế không phải là một đế, nên đối với bốn đế không thể hiện quán tức thời.

Lại nữa, một hành tướng không phải là bốn hành tướng, bốn hành tướng không phải là một hành tướng, nên đối với bốn đế không thể hiện quán tức thời.

Lại nữa, tướng của hữu lậu và vô lậu mỗi thứ đều khác, nên đối với bốn đế không thể hiện quán tức thời.

Lại nữa, tướng hữu vi và vô vi mỗi thứ đều khác, nên đối với bốn đế không thể hiện quán tức thời.

Lại nữa, về nhân quả, đối tượng được chứng và người chứng mỗi thứ đều khác biệt, nên đối với bốn đế không thể hiện quán tức thời.

Lại nữa, do bốn đế hoặc tướng có khác, hoặc tánh tướng khác nhau, nên không có nghĩa trong một lúc hiện quán tức thời.

Lại nữa, các nghĩa của căn và tướng về đối tượng được hiểu biết và người hiểu biết, hành tướng nơi cảnh của đối tượng duyên cùng với tướng có cảnh mỗi thứ đều có khác, nên đối với bốn đế không thể hiện quán tức thời được.

Lại nữa, đối với mỗi mỗi đế hãy còn không quán tức thời được huống là có việc chỉ trong một lúc quán tức khắc được cả bốn đế. Nghĩa là khi nhập hiện quán, trước quán riêng khổ ở cõi dục, sau mới hợp quán chung các khổ ở cõi sắc, vô sắc. Trước quán riêng tập ở cõi dục, sau mới hợp quán chung các tập ở cõi sắc, vô sắc. Trước quán riêng diệt ở cõi dục, sau mới hợp quán chung các diệt ở cõi sắc, vô sắc. Trước quán riêng đạo ở cõi dục, sau mới hợp quán chung các đạo ở cõi sắc, vô sắc. Cho nên không có nghĩa quán tức thời về bốn đế.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao Hành giả trước quán riêng khổ ở cõi dục, sau mới hợp quán chung khổ ở cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Do dựa vào tướng thô tế để khởi hiện quán. Vì khổ ở cõi dục là thô nên hiện quán trước, còn khổ ở cõi sắc, vô sắc là tế nên hiện quán sau.

Hỏi: Nếu như thế thì khổ ở cõi sắc là thô nên hiện quán trước, còn khổ ở cõi vô sắc là tế nên hiện quán sau. Vì sao trong cùng một lúc lại quán về khổ của cả hai cõi?

Đáp: Vì cùng do định địa gồm thâu nên hợp lại để hiện quán. Nghĩa là khổ ở cõi dục không phải thuộc về định địa, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc đều thuộc về định địa, nên sau hợp quán.

Lại nữa, khổ ở cõi dục cùng với thân đều hiện chấp thọ, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc không cùng với thân chấp thọ, nên sau hợp quán.

Lại nữa, các khổ ở cõi dục hiện đang bức bách, như gánh nặng đang mang, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc không phải là gánh nặng đang mang, nên sau hợp quán.

Lại nữa, khổ ở cõi dục đang gây buồn khổ cho Hành giả như kẻ oán thù, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc không gây buồn khổ cho Hành giả, nên sau hợp quán.

Lại nữa, khổ ở cõi dục là gần, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc là xa, nên sau hợp quán. Như gần – xa, các thứ bức bách gần – không phải bức bách gần, hòa hợp – không phải hòa hợp, chúng đồng phần của thân này – chúng đồng phần của thân khác nên biết cũng như thế.

Lại nữa, khổ ở cõi dục là hiện thấy, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc là không hiện thấy, nên sau hợp quán.

Hỏi: Khi nhập phần vị hiện quán, đối với khổ ở cõi sắc và Vô sắc nếu không hiện thấy vì sao gọi là hiện quán?

Đáp: Hiện thấy có hai thứ: Tức là hiện thấy chấp thọ và hiện thấy lìa nhiễm. Khi nhập phần vị hiện quán, đối với khổ ở cõi dục có đủ cả hai thứ hiện quán, nên gọi là hiện quán. Đối với khổ ở cõi sắc và Vô sắc chỉ có một thứ là hiện thấy lìa nhiễm, nên gọi là hiện quán. Như thương khách có hai gánh tiền của, một gánh do chính mình gánh, một gánh sai người khác gánh. Gánh do chính mình gánh thì hiện thấy đủ cả hai việc: một là hiện thấy biết nặng, hai là hiện thấy biết tiền của. Còn gánh sai người khác gánh thì chỉ hiện thấy có một việc là hiện thấy biết tiền của.

Lại nữa, các khổ ở cõi dục gồm cả ba thứ là thiện, bất thiện và vô ký, nên trước quán riêng. Còn khổ ở cõi sắc và Vô sắc chỉ có hai thứ là thiện và vô ký, nên sau hợp quán.

Lại nữa, Hành giả thành tựu tánh phàm phu ở cõi dục, nên trước quán riêng khổ ở cõi dục. Còn vì không thành tựu tánh phàm phu ở cõi sắc và Vô sắc, nên sau hợp quán khổ ở cõi sắc và Vô sắc. Nghĩa là pháp nên như thế, nếu thành tựu tánh phàm phu ở cõi này thì trước quán các khổ ở cõi ấy.

Lại nữa, đối với khổ ở cõi dục trước đã khởi hủy báng, nên quán riêng trước để sinh tâm tin. Còn đối với khổ ở cõi sắc và Vô sắc khởi hủy báng sau, nên hợp quán sau để sinh tâm tin.

Do các thứ nhân duyên như thế, nên trước là quán riêng các khổ ở cõi dục, sau mới hợp quán các khổ ở cõi sắc và Vô sắc.

Khi hiện quán về ba đế kia cũng căn cứ theo đây nên biết.

Hỏi: Nếu do cộng tướng hiện quán các đế thì vào lúc nào mới dùng trí như thật quán tự tướng của các đế. Như đối với tự tướng của các đế nếu không thể quán làm sao gọi là hiện quán các đế?

Đáp: Không phải trí như thật đối với các tự tướng do quán tự tướng gọi là hiện quán đế, mà là trí như thật đối với các tự tướng do quán cộng tướng nên gọi là hiện quán đế.

Lại nữa, đối với tự tướng, cộng tướng của đế không nhận biết, khi hiện quán các đế, tất cả được đoạn trừ tức khắc, tuy quán cộng tướng nhưng cũng được gọi là hiện quán như thật về tự tướng của các đế.

Lại nữa, khổ, vô thường v.v… gọi là tự tướng của đế, ở đây, đối với các uẩn tức gọi là cộng tướng, nên khi đối với các đế quán khổ v.v… tức gọi là hiện quán tự tướng và cộng tướng. Tự tướng như các uẩn v.v… có vô số sai biệt, nếu quán tức không thể đoạn trừ các phiền não, nên khi nhập hiện quán đều không quán riêng biệt từng thứ.

Hỏi: Khi nhập hiện quán đã quán chung các uẩn, vì sao đối với đế không quán chung?

Đáp: Khi nhập hiện quán, quán lý của bốn đế, đoạn trừ mê nơi phiền não của tướng riêng bốn đế, vì không có một phiền não nào bị mê chung nơi bốn đế, nên đối với bốn đế không hiện quán chung. Ở trong các uẩn thì có mê lầm chung, nên đối với các uẩn được hiện quán chung. Lại, tự tướng của các uẩn không phải như lý của các đế, từ vô thỉ đã rõ các uẩn là gì, nên không cần phải quán lại. Còn tự tướng của bốn đế thì từ vô thỉ chưa rõ, nên nay đối với các đế đều hiện quán riêng.

HẾT – QUYỂN 78