LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 112

Chương 4: NGHIỆP UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ HÀNH ÁC, phần 1

* Ba hành ác và ba căn bất thiện: Thứ trước gồm thâu thứ sau hay thứ sau gồm thâu thứ trước? Các chương như thế và giải thích nghĩa của chương, đã lãnh hội, tiếp theo nên giải thích rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Có ba hành ác và ba căn bất thiện. Khế kinh tuy nói như thế nhưng không biện giải rộng, cũng như chưa nói về việc ba hành ác gồm thâu ba căn bất thiện hay ba căn bất thiện gồm thâu ba hành ác. Khế kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những điều Kinh kia chưa nói nay nên nêu bày, do đó tạo ra phần Luận này.

Ba hành ác: Tức là hành ác của thân, hành ác của ngữ và hành ác của ý.

Thế nào là hành ác của thân? Đó là giết hại mạng sống, không cho mà lấy và hành tà dục.

Thế nào là hành ác của ngữ? Đó là nói lời hư dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời uế tạp.

Thế nào là hành ác của ý? Đó là tham dục, giận dữ, tà kiến.

Nến biết ở đây Đức Thế Tôn chỉ nói các hành ác thuộc về nghiệp đạo căn bản, không nói các hành ác thuộc về gia hạnh, hậu khởi của nghiệp đạo.

Luận Phát Trí này nói chung về thân nghiệp bất thiện hiện có, hoặc là thuộc nghiệp đạo hoặc không thuộc về nghiệp đạo, tất cả như thế gọi là hành ác của thân. Nói chung về ngữ nghiệp bất thiện hiện có hoặc là thuộc về nghiệp đạo hoặc không thuộc về nghiệp đạo, tất cả như thế gọi là hành ác của ngữ. Nói chung về ý nghiệp bất thiện hiện có, hoặc là thuộc về nghiệp đạo hoặc không thuộc về nghiệp đạo, tất cả như thế gọi là hành ác của ý.

Như trong Luận này nói về việc gồm thâu các hành ác, nơi Luận Tập Dị Môn cũng có đề cập đến. Luận ấy nói: Thế nào là hành ác của thân? Đó là giết hại mạng sống, không cho mà lấy và hành tà dục. Các điều nói như thế là thuận theo Khế kinh.

Lại nói: Lại nữa, giết hại mạng sống, không cho mà lấy, phi phạm hạnh. Như thế là lại gồm thâu các thứ trước chưa gồm thâu, như sự việc hành dục đối với thê thiếp của mình.

Lại nói: Có các thân nghiệp bất thiện khác. Như thế là lại gồm thâu các gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo hiện có.

Lại nói: Có các thân nghiệp khác do các điều phi lý dẫn dắt.

Hỏi: Thế nào là các điều phi lý đã dẫn dắt thân nghiệp? Vì trước chưa gồm thâu nay lại gồm thâu chăng?

Đáp: Trước là nói về tự tánh, nay là nói về đẳng khởi. Ở đây là nói cái gì đã tạo ra sự việc đẳng khởi? Đó là tác ý phi lý.

Lại có thuyết cho: Đây là tất cả thân nghiệp đều hữu phú vô ký và có một phần là vô phú vô ký. Tất cả thân nghiệp đều hữu phú vô ký: Nghĩa là các thứ tham ái, dua nịnh v.v… đã khởi nơi địa của tĩnh lự thứ nhất. Còn thân nghiệp có một phần vô phú vô ký: Nghĩa là các sự việc nên tới lui như thế, đi đứng, nằm ngồi như thế, cắt đứt, nối kết như thế v.v…, nhưng lại không tới lui, đi đứng, nằm ngồi, cho đến nối kết như thế. Các thân nghiệp này làm việc không nên làm, không đúng lý, nên đều thâu tóm trong phẩm phi lý đã dẫn dắt, do đấy gọi là hành ác của thân. Nếu nói như thế, thì hành ác của thân là chung cho cả bất thiện và vô ký ở cõi dục và cõi sắc. Nhưng hành ác chỉ là bất thiện, chỉ ở cõi dục, thế nên thuyết nêu trước là đúng.

Luận ấy lại nói: Thế nào là hành ác của ngữ? Đó là nói lời hư dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời uế tạp. Các điều nói như thế là thuận theo Khế kinh.

Lại nói: Có các ngữ nghiệp bất thiện khác. Như thế là lại gồm thâu các gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo hiện có.

Lại nói: Có các ngữ nghiệp khác do các điều phi lý dẫn dắt.

Hỏi: Thế nào là các điều phi lý đã dẫn dắt ngữ nghiệp? Vì trước chưa gồm thâu nay lại gồm thâu chăng?

Đáp: Trước là nói về tự tánh, nay là nói về đẳng khởi. Ở đây là nói cái gì đã tạo ra sự việc đẳng khởi? Đó là tác ý phi lý.

Lại có thuyết cho: Đây là tất cả ngữ nghiệp đều hữu phú vô ký và có một phần vô phú vô ký. Tất cả ngữ nghiệp đều hữu phú vô ký: Nghĩa là các thứ tham ái, dua nịnh v.v… đã khởi nơi địa của tĩnh lự thứ nhất. Còn ngữ nghiệp có một phần vô phú vô ký: Nghĩa là nên nói: Nói một nói hai nói nhiều nói nam nói nữ nói phi nam nữ, nói quá khứ vị lai hiện tại. Nhưng lại không nói như thế, không nói một cho đến quá khứ vị lai hiện tại. Các ngữ nghiệp này đã nói điều không nên nói, không đúng lý, nên đều thâu tóm trong phẩm phi lý đã dẫn dắt, do đấy gọi là hành ác của ngữ. Nếu nói như thế thì hành ác của ngữ là chung cho cả bất thiện và vô ký ở cõi dục và cõi sắc. Nhưng hành ác chỉ là bất thiện, chỉ ở cõi dục, thế nên thuyết nêu trước là đúng.

Luận ấy lại nói: Thế nào là hành ác của ý? Đó là tham dục, giận dữ, tà kiến. Các điều nói như thế là thuận theo Khế kinh.

Lại nói: Có các ý nghiệp bất thiện khác. Như thế là lại gồm thâu các tư bất thiện.

Lại nói: Có các ý nghiệp khác do các điều phi lý dẫn dắt.

Hỏi: Thế nào là các điều phi lý đã dẫn dắt ý nghiệp? Vì trước chưa gồm thâu nay lại gồm thâu chăng?

Đáp: Trước là nói về tự tánh, nay là nói về đẳng khởi. Ở đây là nói cái gì đã tạo ra sự việc đẳng khởi? Đó là tác ý phi lý.

Lại có thuyết cho: Đây là tất cả ý nghiệp đều hữu phú vô ký và có một phần vô phú vô ký, gọi là các điều phi lý đã dẫn dắt ý nghiệp. Tất cả các thứ hữu phú vô ký đã dẫn dắt ý nghiệp: Nghĩa là ở cõi dục, tức Tát-ca-da-kiến (Hữu thân kiến) và biên chấp kiến tương ưng với ý nghiệp cùng ở cõi sắc, cõi vô sắc, là tất cả phiền não tương ưng với ý nghiệp. Về ý nghiệp có một phần vô phú vô ký phi lý đã dẫn dắt: Nghĩa là các ý nghiệp dấy khởi như trước đã nói về vô phú vô ký phi lý đã dẫn dắt thân nghiệp, ngữ nghiệp. Nếu nói như thế thì hành ác của ý là chung cho cả bất thiện và vô ký, lại chung cho cả ba cõi. Nhưng hành ác chỉ là bất thiện, chỉ ở cõi dục, thế nên thuyết nêu trước là đúng.

Như Luận Phát Trí, Luận Tập Dị Môn đã gồm thâu hành ác của thân và hành ác của ngữ, trong Luận Thi Thiết đã nêu bày cũng như thế. Chỉ trừ hành ác của ý, do chỗ gồm thâu có riêng khác, nên Luận kia nói đến.

Hỏi: Ba hành ác của thân gồm thâu tất cả hành ác của thân hay tất cả hành ác của thân gồm thâu ba hành ác của thân?

Đáp: Tất cả gồm thâu ba, không phải ba gồm thâu tất cả. Không gồm thâu là những gì? Nghĩa là không giết hại mạng sống, hoặc dùng tay, gậy đánh đập hữu tình v.v… cùng phi tà hạnh. Ở nơi chỗ nên làm thì tạo hành bất tịnh, khởi các nghiệp phóng dật như uống rượu v.v… Do không chánh tri, mất niệm khi thọ dụng các thứ ăn uống và cũng không thể lánh xa những kẻ phá phạm giới. Các thân nghiệp đã khởi như thế không thuộc về ba hành ác của thân.

Hỏi: Các kẻ phạm giới là vô số làm sao có thể tránh? Tuy lại bỏ nơi này thì trở lại gần nơi kia chăng?

Đáp: Nơi chốn đang ở đều có, nên muốn lìa bỏ thật là khó. Nhưng có thể không nhiễm theo đấy, đó là lánh xa đích thực.

Có thuyết nói: Thân tuy ở xa nhưng tùy theo hành tập kia tức gọi là gần gũi. Còn thân tuy ở gần nhưng không tùy theo hành tập kia tức gọi là xa lìa.

Hỏi: Bốn hành ác của ngữ gồm thâu tất cả hành ác của ngữ hay tất cả hành ác của ngữ gồm thâu bốn hành ác của ngữ?

Đáp: Tất cả gồm thâu bốn, không phải bốn gồm thâu tất cả. Không gồm thâu là những gì? Nghĩa là như có người ở riêng một mình nơi chốn vắng vẻ, tạo ra thuyết như vầy: Không có bố thí, không có tình thân thương giúp đỡ, cũng không có cúng tế thờ phụng. Các hành ác của ngữ như thế, đối với hữu tình ở thế gian không sinh lãnh nhận hiểu biết là không thuộc về bốn hành ác của ngữ.

Hỏi: Ba hành ác của ý gồm thâu tất cả hành ác của ý hay tất cả hành ác của ý gồm thâu ba hành ác của ý?

Đáp: Tất cả gồm thâu ba, không phải ba gồm thâu tất cả. Không gồm thâu là những gì? Nghĩa là tham dục, giận dữ, tà kiến cùng sinh với thọ tưởng hành thức là không thuộc về ba hành ác của ý. Trong Luận kia nói, hành ác của ý gồm thâu tự tánh của bốn uẩn. Như thế là đã thiết lập tự tánh của năm uẩn là các hành ác.

Hỏi: Luận Phát Trí này, Luận Tập Dị Môn cùng với Khế kinh Phật và Luận Thi Thiết đã gồm thâu các hành ác vì sao không đồng?

Đáp: Vì dựa vào hai thứ môn để nói về các hành ác: 1. Dựa vào thế tục. 2. Dựa vào thắng nghĩa. Nghĩa là Khế kinh Phật và Luận Thi Thiết thì dựa vào môn thế tục để nói về các hành ác. Còn Luận Phát Trí này và Luận Tập Dị Môn thì dựa vào môn thắng nghĩa để nói về các hành ác.

Như dựa vào thế tục – thắng nghĩa để phân biệt, thì dựa vào các thứ liễu nghĩa – không liễu nghĩa, có ý sâu xa riêng – không có ý sâu xa riêng, có nhân duyên riêng – không có nhân duyên riêng, hiện quán thế tục đế – hiện quán thắng nghĩa đế, nên biết cũng như thế.

Lại có thuyết cho: Do ba duyên nên chỗ gồm thâu không đồng: 1. Vì tự tánh. 2. Vì cùng xen lẫn. 3. Vì thế gian chê ghét. Nghĩa là Luận Phát Trí này và Luận Tập Dị Môn nói về tự tánh của chúng. Luận Thi Thiết thì nói về phần cùng xen lẫn của chúng. Nếu pháp tuy không phải là tự tánh của hành ác, nhưng cùng với hành ác hòa hợp xen lẫn thì cũng có tên là hành ác. Còn trong Khế kinh Phật thì nói về phần chê ghét của thế gian, vì các thế gian đối với nghiệp đạo căn bản đa phần là sinh chê ghét, không phải đối với gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo.

Do duyên ấy nên chỗ gồm thâu các hành ác nơi Kinh, Luận không đồng nhau. Như thế gọi là tự tánh của hành ác.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là hành ác? Hành ác có nghĩa gì?

Đáp: Vì đáng chán ghét, chê bỏ, nên gọi là ác. Dựa vào nơi chốn để lui tới tiếp xúc nên gọi là hành.

Đáng chán ghét, chê bỏ, nên gọi là ác: Như có thuyết nói: Vợ con xấu ác, y phục, thức ăn uống xấu dở, người xấu ác, xứ xấu ác, lui tới xấu ác.

Dựa vào nơi chốn để lui tới tiếp xúc nên gọi là hành: Nghĩa là giết hại sinh mạng, nói lời thô ác và giận dữ. Hành nơi xứ hữu tình, không cho mà lấy, hành dục tà và tham dục. Hành nơi xứ của cải vật dụng, nói lời hư dối, nói lời ly gián, nói lời uế tạp. Hành nơi xứ danh lợi, tà kiến, hành nơi xứ danh sắc.

Lại có thuyết nêu: Chiêu cảm quả khổ thọ nên gọi là ác. Chuyển động nhanh nhẹn, lanh lợi, nên gọi là hành.

Hỏi: Chìm đắm nơi các ác vì sao gọi là nhanh nhẹn, lanh lợi?

Đáp: Kẻ hành ác kia có những phương tiện khéo léo như thế, tuy tạo các hành ác nhưng khiến cho thế gian không nhận biết được chỗ xấu ác kia, nên gọi là nhanh nhẹn, lanh lợi.

Lại có thuyết nói: Quen gần kẻ ác, nên có thể chiêu cảm nẻo ác gọi là hành ác.

Lại có thuyết cho: Do ba nhân duyên nên gọi là hành ác: 1. Ý suy nghĩ ác. 2. Nói lời ác. 3. Làm việc ác. Ý suy nghĩ ác: Tức là hành ác của ý. Nói lời ác: Tức là hành ác của ngữ. Làm việc ác: Tức là hành ác của thân.

Lại có thuyết nêu: Có ba nhân duyên nên gọi là hành ác: 1. Nghĩa làm ác. 2. Đáng chán bỏ. 3. Quyết định có thể chiêu cảm quả không yêu thích.

Nghĩa làm ác: Tức tạo các hành ác của thân ngữ ý, nên gọi là hành ác.

Đáng chán bỏ: Tức tạo các hành ác, hủy phạm giới luật, thường bị chư Thiên, các Đại sư, các bậc có trí cùng tu phạm hạnh luôn chán ghét, chê bỏ.

Quyết định có thể chiêu cảm quả không yêu thích: Tức là những hành ác của thân ngữ ý hiện có, không xứ không cùng có thể chiêu cảm quả đáng yêu thích. Chỉ có xứ có cùng chiêu cảm quả không yêu thích.

Luận Tập Dị Môn cũng nói: Do nhân duyên nào gọi là hành ác? Nghĩa là vì nó có thể chiêu cảm các quả không yêu mến, không vui thích, không vừa ý. Đây là hiển bày về quả đẳng lưu. Lại nói: Có thể chiêu cảm dị thục không yêu mến, không vui thích, không vừa ý. Đây là hiển bày về quả dị thục.

Ba căn bất thiện: 1. Căn bất thiện tham. 2. Căn bất thiện sân. 3. Căn bất thiện si.

Hỏi: Ba căn bất thiện ấy lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Căn bất thiện tham có năm thứ, tức là năm bộ ái được đoạn trừ thuộc cõi dục.

Căn bất thiện sân có năm thứ, tức là năm bộ giận dữ được đoạn trừ.

Căn bất thiện si có năm thứ, tức là vô minh thuộc cõi dục do kiến tập, diệt, đạo và do tu đạo đoạn trừ toàn phần, cùng một phần do kiến khổ đoạn trừ. Nhưng vô minh do kiến khổ đoạn trừ có mười thứ, trong đây trừ vô minh tương ưng với hữu thân kiến và biên chấp kiến, chỉ lấy các vô minh còn lại, nên nói là một phần.

Mười lăm pháp này chỉ là bất thiện, sinh ra khắp các pháp bất thiện, nên gọi là căn bất thiện, nên biết.

Ba thứ này đều tương ưng sáu thức thân. Đó gọi là tự tánh của ba căn bất thiện.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là căn bất thiện? Căn bất thiện có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa có thể sinh ra bất thiện là nghĩa của căn bất thiện. Nghĩa có thể nuôi dưỡng bất thiện, nghĩa có thể tăng thêm bất thiện, nghĩa có thể làm lớn rộng bất thiện, nghĩa có thể làm phát triển bất thiện, nghĩa có thể duy trì bất thiện, nghĩa có thể khiến cho pháp bất thiện lưu hành rộng khắp, là nghĩa của căn bất thiện.

Tôn giả Thế Hữu nói: Nghĩa làm nhân cho các bất thiện là nghĩa của căn bất thiện. Nghĩa tạo hạt giống cho các thứ bất thiện, nghĩa cùng khởi bất thiện, nghĩa có thể làm nhân chuyển dẫn đến bất thiện, nghĩa làm nhân tùy chuyển sinh ra bất thiện, nghĩa gồm thâu làm tăng tất cả pháp bất thiện, là nghĩa của căn bất thiện.

Đại đức nói: Nương dựa vào các vật ấy có thể sinh ra, nuôi lớn khắp các pháp bất thiện, có thể làm nhân chuyển và nhân tùy chuyển thâu giữ làm tăng các sự việc bất thiện, nên gọi là căn bất thiện.

Hỏi: Nếu nghĩa làm nhân cho các thứ bất thiện là nghĩa của căn bất thiện, thì năm uẩn bất thiện sinh trước cùng với tất cả năm uẩn bất thiện đã sinh chưa sinh sau làm nhân. Mười nghiệp đạo bất thiện sinh trước cùng với tất cả mười nghiệp đạo bất thiện đã sinh chưa sinh sau làm nhân. Ba mươi bốn tùy miên bất thiện sinh trước cùng sinh phẩm cùng với tất cả ba mươi bốn tùy miên bất thiện đã sinh chưa sinh sau cùng sinh phẩm như chỗ ứng hợp làm nhân. Như vậy tất cả các pháp bất thiện đều nên gọi là căn bất thiện. Như thế ba thứ ấy có nhân duyên không chung hơn hẳn nào để Đức Thế Tôn lập riêng làm căn bất thiện?

Đáp: Đây là Đức Thế Tôn nêu bày chưa trọn vẹn. Bậc Đại sư quán xét tâm hành nguyện vui thích của các hữu tình được giáo hóa nên giản lược để giảng nói.

Hiếp Tôn giả nói: Chỉ có Đức Phật Thế Tôn là hiểu biết rốt ráo về tánh tướng của các pháp, lại cũng thấu tỏ về thế mạnh, tác dụng của chúng, không phải là chỗ nhận biết của kẻ khác, nếu pháp có tướng của căn bất thiện thì liền lập, nếu không thì không lập.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Bậc Đại sư biết rõ về ba căn bất thiện này có tác dụng như thế, có sức mạnh như thế, gần gũi như thế, tức có thể làm nhân cho tất cả các pháp bất thiện. Trừ căn bất thiện này ra, các pháp bất thiện khác không có sự việc như thế.

Lại có thuyết nói: Ba thứ như thế có thể sinh ra tất cả các pháp bất thiện khó đoạn dứt, khó vượt qua, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại có thuyết cho: Ba thứ ấy gây ra nhiều lỗi lầm tai họa. Nghĩa là chúng sinh ra tất cả những thứ sầu khổ ở hiện pháp và hậu pháp, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại có thuyết nêu: Ba thứ như thế là chướng ngại lớn đối với việc ra khỏi cõi dục, giống như tên chúa ngục ngăn giữ trước cửa ngục, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại có thuyết cho: Trong các pháp bất thiện, ba thứ này là hơn hết, luôn là kẻ đứng đầu dẫn dắt, như vị tướng soái chỉ huy tất cả quân binh, vì sức của căn bất thiện này rất mạnh, có thể khiến các pháp bất thiện khác càng thêm nhiều khắp, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại có thuyết nói: Ba thứ ấy đối với ba căn thiện là đối trị gần, là kẻ oán địch ngăn trở, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại có thuyết nêu: Ba thứ như thế luôn làm nhân, làm gốc rễ, làm mắt thấy, làm chỗ chứa nhóm, làm duyên cho tất cả thứ bất thiện, phát khởi tất cả pháp bất thiện, làm chướng ngại tất cả công đức. Trong các pháp bất thiện, chúng là vượt trội, đặc biệt hơn cả, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại có thuyết cho: Ba thứ như thế đã gồm thâu khắp tất cả các pháp bất thiện. Nghĩa là các thứ bất thiện hoặc là phẩm tham, hoặc là phẩm sân, hoặc là phẩm si, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại nữa, ba thứ như thế có đủ cả năm nghĩa, tức là chung cả năm bộ, có mặt khắp sáu thức, là tánh của tùy miên, có thể gây tạo các nghiệp thân, ngữ thô ác, tạo sự đoạn dứt các gia hạnh bền chắc của căn thiện, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Chung cả năm bộ: Là nhằm ngăn chận năm kiến và nghi.

Có mặt khắp sáu thức: Là nhằm ngăn chận các mạn.

Tánh của tùy miên: Là nhằm ngăn chận triền cấu v.v… (Ngăn chận ở đây có nghĩa là không nói đến. Nd)

Có thể gây tạo các nghiệp thân, ngữ thô ác, tạo sự đoạn dứt các gia hạnh bền chắc của căn thiện: Là chỉ rõ về nghĩa của căn.

Lại, năm nghĩa này là nhằm ngăn chận tất cả các pháp để thành lập nghĩa của căn. Nghĩa là pháp không nhiễm ô tuy có mặt ở cả sáu thức, nhưng không có bốn nghĩa kia. Sắc uẩn nhiễm ô hoàn toàn không có năm nghĩa trên. Còn thọ uẩn, tưởng uẩn nhiễm ô, trừ các phiền não triền cấu, số còn lại đều tương ưng. Hành uẩn nhiễm ô tuy chung cả năm bộ, cũng có mặt khắp sáu thức, nhưng chúng không có tánh của tùy miên, tuy có thể khởi hai nghiệp thân, ngữ thô ác, nhưng không đoạn dứt gia hạnh bền chắc của các căn thiện. Các nhiễm ô hiện có không tương ưng với hành uẩn tuy chung nơi năm bộ nhưng không có bốn nghĩa còn lại.

Trong thức uẩn nhiễm ô, năm thức như nhãn v.v… hoàn toàn không có năm nghĩa trên. Ý thức tuy chung cả năm bộ, cũng có thể khởi các nghiệp thân, ngữ thô ác, nhưng không có ba nghĩa kia.

Ở nơi mười phiền não, năm kiến và nghi tuy có tánh của tùy miên nhưng không có bốn nghĩa còn lại. Mạn tuy chung cho cả năm bộ, là tánh của tùy miên, có thể khởi các nghiệp thân, ngữ thô ác, nhưng không có hai nghĩa kia.

Trong mười thứ triền, thì hôn trầm trạo cử, không hổ, không thẹn tuy chung cho cả năm bộ, cũng có mặt khắp sáu thức, nhưng không phải là tánh của tùy miên, tuy có khởi các nghiệp thân, ngữ thô ác, nhưng lại không đoạn trừ gia hạnh bền chắc của các căn thiện.

Thùy miên một thứ tuy chung cho cả năm bộ nhưng không có bốn nghĩa còn lại kia. Năm triền còn lại tuy khởi hai nghiệp thân, ngữ thô ác, nhưng không có bốn nghĩa kia. Sáu phiền não cấu tuy cũng có lúc có thể khởi hai nghiệp thân ngữ thô ác, nhưng không có bốn nghĩa còn lại.

Chỉ có tham, sân, si là gồm đủ cả năm nghĩa, không phải là các pháp khác, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Lại nữa, ba thứ như thế phần nhiều đối với ba thọ luôn gắn liền, tùy tăng, thế nên lập riêng làm căn bất thiện.

Lại nữa, ba thứ như thế ở cõi dục, phần nhiều các hữu tình đều hiện khởi có thể phát sinh mười nghiệp đạo bất thiện, khiến phải sinh vào mười xứ ác, thế nên lập riêng chúng làm căn bất thiện.

Ba thứ như thế chung cho cả năm bộ, cùng với sáu thức cùng khởi các phẩm bất thiện làm căn. Trong đó, tương ưng với phẩm tham do hai căn là tham và tham tương ưng với vô minh nên gọi là hữu căn. Tương ưng với phẩm sân do hai căn là sân và sân tương ưng với vô minh nên gọi là hữu căn. Trừ hai thứ trên, còn các phẩm tâm bất thiện khác đều do một căn là vô minh nên gọi là hữu căn.

Hỏi: Đức Thế Tôn ở nơi xứ xứ giảng nói về căn đều không đồng, tức có khi nói hữu thân kiến, biên chấp kiến là căn. Hoặc nói Đức Thế Tôn là căn. Hoặc nói lạc dục là căn. Hoặc nói không phóng dật là căn. Hoặc nói tự tánh là căn v.v… Các thứ như thế có nghĩa gì?

Đáp: Về hữu thân kiến và biên chấp kiến do có thể phát khởi sáu mươi hai thứ kiến nên nói chúng là căn.

Vì Đức Thế Tôn có khả năng giảng nói các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh, bị trói buộc và giải thoát, sinh tử và Niết-bàn trong khi truyền dạy chánh pháp, nên nói Đức Thế Tôn là căn.

Còn lạc dục (vui thích, mong muốn) có thể dẫn đến tất cả các pháp thiện, nên gọi là căn.

Không phóng dật có khả năng thâu giữ tất cả pháp thiện được tu tập khiến không tan mất, nên gọi là căn.

Còn tự tánh thì có khả năng duy trì tự thể khiến không mất, nên gọi là căn.

Như vậy vô vi cũng có khả năng duy trì tự thể nên gọi là căn cũng không có lỗi.

Lại có thuyết nói: Vì làm nhân đồng loại, duy trì quả đẳng lưu, hoặc là tánh của nhân đồng loại được duy trì, thế nên tự tánh của hữu vi gọi là căn.

Lại có thuyết cho: Sức của nhân câu hữu, tương ưng được duy trì, do đó tự tánh của hữu vi gọi là căn.

Vì tên gọi có thể chỉ rõ tự tánh của các pháp, nên cũng nói nó là tự tánh nơi căn. Các thứ tham, sân, si này đều có thể sinh ra, có thể làm tăng trưởng các pháp bất thiện, nên gọi là căn.

Ba căn bất thiện này như ở Chương Kiết Uẩn đã nói rộng.

Đã nói về tự tánh của ba hành ác và ba căn bất thiện, nay sẽ nêu bày rõ về tướng xen tạp và không xen tạp của chúng.

Hỏi: Ba hành ác và ba căn bất thiện, ba thứ trước gồm thâu ba thứ sau hay ba thứ sau gồm thâu ba thứ trước?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành ác không phải là căn bất thiện: Nghĩa là hành ác của thân ngữ, tà kiến, tư bất thiện, do những thứ này chỉ có tướng của hành ác, không có tướng của căn bất thiện.

2. Có thứ là căn bất thiện không phải là hành ác: Nghĩa là căn bất thiện si, do thứ này chỉ có tướng của căn bất thiện, không có tướng của hành ác.

3. Có thứ là hành ác cũng là căn bất thiện: Nghĩa là căn bất thiện tham dục và sân giận, do chúng có đủ cả hai thứ tướng.

4. Có thứ không phải là hành ác cũng không phải là căn bất thiện: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tướng tức là tên được nêu gọi. Trừ ba trường hợp trước, tên gọi chỉ rõ các nghĩa, các pháp còn lại thuộc về trường hợp thứ tư. Nghĩa là trong sắc uẩn, trừ sắc bất thiện, giữ lấy các sắc uẩn còn lại. Trong hành uẩn, trừ ba căn bất thiện, tà kiến bất thiện và tư bất thiện, giữ lấy các hành uẩn tương ưng và không tương ưng còn lại. Ba uẩn hoàn toàn là thọ, tưởng, thức cùng các pháp vô vi, tất cả các thứ như thế đều làm trường hợp thứ tư, nên nói là trừ các tướng nêu trước.

Lại nữa, đối với nhãn thức có tham cùng sinh trong phẩm bất thiện, hoặc có thứ là hành ác không phải là căn bất thiện, nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành ác không phải là căn bất thiện: Đó là tư bất thiện.

2. Có thứ là căn bất thiện không phải là hành ác: Đó là căn bất thiện si.

3. Có thứ là hành ác cũng là căn bất thiện: Đó là căn bất thiện tham.

4. Có thứ không phải là hành ác cũng không phải là căn bất thiện: Đó là trừ các tướng nêu trước.

Như đối với nhãn thức nêu ra bốn trường hợp, cho đến đối với ý thức cũng như thế.

Như đối với tham cùng sinh trong phẩm bất thiện nêu ra sáu lớp bốn trường hợp, thì đối với sân nơi phẩm cùng sinh cũng như thế.

Đối với tà kiến cùng sinh trong phẩm bất thiện, chỉ có nơi ý địa nên nêu ra một lớp bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành ác không phải là căn bất thiện: Đó là tà kiến và tư bất thiện.

2. Có thứ là căn bất thiện không phải là hành ác: Đó là căn bất thiện si.

3. Có thứ là hành ác cũng là căn bất thiện: Không có.

4. Có thứ không phải là hành ác cũng không phải là căn bất thiện: Đó là trừ các tướng nêu trước.

Đối với vô minh không chung cùng sinh trong phẩm bất thiện, cũng chỉ có nơi ý địa nên nêu ra một lớp bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành ác không phải là căn bất thiện: Đó là tư bất thiện.

2. Có thứ là căn bất thiện không phải là hành ác: Đó là căn bất thiện si.

3. Có thứ là hành ác cũng là căn bất thiện: Không có.

4. Có thứ không phải là hành ác cũng không phải là căn bất thiện: Đó là trừ các tướng nêu trước.

***

* Ba hành diệu và ba căn thiện: Thứ trước gồm thâu thứ sau hay thứ sau gồm thâu thứ trước? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Có ba hành diệu và ba căn thiện. Khế kinh tuy nói như thế nhưng chưa biện giải rộng, nói rộng như trước.

Ba hành diệu: Tức là hành diệu của thân, hành diệu của ngữ, hành diệu của ý.

Thế nào là hành diệu của thân? Như Đức Thế Tôn nói: Những gì là hành diệu của thân? Nghĩa là lìa bỏ giết hại sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ hạnh tà dục. Những gì là hành diệu của ngữ?

Nghĩa là lìa bỏ nói lời hư dối, lìa bỏ nói lời ly gián, lìa bỏ nói lời thô ác, lìa bỏ nói lời uế tạp. Những gì là hành diệu của ý? Nghĩa là không tham, không sân giận và chánh kiến.

Nên biết trong đây Đức Thế Tôn chỉ nói về các hành diệu thuộc về nghiệp đạo căn bản, không nói các hành diệu thuộc về gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo.

Luận Phát Trí này nói chung về các thân nghiệp thiện hiện có, hoặc là thuộc về nghiệp đạo hoặc không thuộc về nghiệp đạo, tất cả như thế gọi là hành diệu của thân. Nói chung về các ngữ nghiệp thiện hiện có, hoặc là thuộc về nghiệp đạo hoặc không thuộc về nghiệp đạo, tất cả như thế gọi là hành diệu của ngữ. Nói chung về các ý nghiệp thiện hiện có, hoặc là thuộc về nghiệp đạo hoặc không thuộc về nghiệp đạo, tất cả như thế gọi là hành diệu của ý.

Như trong Luận này gồm thâu các hành diệu, Luận Tập Dị Môn cũng nói về sự việc đó. Luận ấy nói: Những gì là hành diệu của thân? Nghĩa là lìa bỏ giết hại sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ hạnh tà dục. Các điều nói như thế là thuận theo Khế kinh.

Lại nói: Lại nữa, lìa bỏ giết hại sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ phi phạm hạnh. Như thế là lại gồm thâu các thứ trước không gồm thâu, như đối với thê thiếp của mình cũng lìa bỏ việc khởi hành dục phi pháp.

Lại nói: Có các thân nghiệp thiện khác. Như thế là lại gồm thâu các gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo căn bản.

Lại nói: Có các điều như lý khác đã dẫn khởi thân nghiệp.

Hỏi: Thế nào là các điều như lý đã dẫn khởi thân nghiệp? Trước chưa gồm thâu nay lại gồm thâu chăng?

Đáp: Trước là nói về tự tánh, nay là nói về đẳng khởi. Ở đây là nói những gì đã tạo ra sự việc đẳng khởi? Đó là tác ý như lý.

Lại có thuyết nói: Đây là thân nghiệp có một phần vô phú vô ký. Nghĩa là nên tới lui như thế, đi đứng như thế, ngồi nằm như thế, cắt đứt kết nối như thế. Tức đều nên như thế mà tới lui, cho đến kết nối. Các thân nghiệp này làm đúng điều nên làm, hợp chánh lý, nên được thâu vào trong phẩm như lý đã dẫn dắt. Do đấy gọi là hành diệu của thân. Nếu nói như thế thì hành diệu của thân là chung cho cả thiện và vô ký, nhưng hành diệu chỉ là thiện, thế nên thuyết nêu trước là đúng.

Luận ấy lại nói: Những gì là hành diệu của ngữ? Nghĩa là lìa bỏ lời nói hư dối, lìa bỏ lời nói ly gián, lìa bỏ lời nói thô ác, lìa bỏ lời nói uế tạp. Các điều nói như thế là thuận theo Khế kinh.

Lại nói: Có các ngữ nghiệp thiện khác. Như thế là lại thâu giữ các gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo hiện có.

Lại nói: Có các điều như lý khác đã dẫn khởi ngữ nghiệp.

Hỏi: Thế nào là các điều như lý đã dẫn khởi ngữ nghiệp? Trước chưa gồm thâu nay lại gồm thâu chăng?

Đáp: Trước là nói về tự tánh, nay là nói về đẳng khởi. Ở đây là nói những gì đã tạo ra sự việc đẳng khởi? Đó là tác ý như lý.

Lại có thuyết nói: Đây là ngữ nghiệp có một phần vô phú vô ký. Nghĩa là nên nói: Nói một, nói hai, nói nhiều, nói nam nói nữ, nói không phải nam nữ, nói về quá khứ vị lai hiện tại, tức đều nói đúng như thế, từ nói một cho đến nói về quá khứ vị lai hiện tại. Các ngữ nghiệp này nói đúng điều nên nói, hợp chánh lý, nên được thâu vào trong phẩm như lý đã dẫn dắt. Do đấy gọi là hành diệu của ngữ. Nếu nói như thế thì hành diệu của ngữ là chung cho cả thiện và vô ký, nhưng hành diệu chỉ là thiện, thế nên thuyết nêu trước là đúng.

Luận ấy lại nói: Những gì là hành diệu của ý? Nghĩa là không tham, không sân và chánh kiến. Các điều nói như thế là thuận theo Khế kinh.

Lại nói: Có các ý nghiệp thiện khác. Như thế là lại gồm thâu các tư thiện hiện có.

Lại nói: Có các điều như lý khác đã dẫn khởi ý nghiệp.

Hỏi: Thế nào là các điều như lý đã dẫn khởi ý nghiệp? Trước chưa gồm thâu nay lại gồm thâu chăng?

Đáp: Trước là nói về tự tánh, nay là nói về đẳng khởi. Ở đây là nói những gì đã tạo ra sự việc đẳng khởi? Đó là tác ý như lý.

Lại có thuyết nói: Đây là ý nghiệp có một phần vô phú vô ký, gọi là các điều như lý đã dẫn khởi ý nghiệp. Nghĩa là các ý nghiệp đã khởi như trước đã nói về thân nghiệp, ngữ nghiệp vô phú vô ký như lý dẫn khởi. Nếu nói như thế thì hành diệu của ý là chung cho cả thiện và vô ký, nhưng hành diệu chỉ là thiện, thế nên thuyết nêu trước là đúng.

Như Luận Phát trí, Luận Tập Dị Môn gồm thâu các hành diệu của thân và ngữ, trong Luận Thi Thiết cũng nói như thế, chỉ trừ hành diệu của ý do có chỗ gồm thâu riêng khác, như Luận ấy đã nói.

Hỏi: Ba hành diệu của thân gồm thâu tất cả hành diệu của thân hay tất cả hành diệu của thân gồm thâu ba hành diệu của thân?

Đáp: Tất cả gồm thâu ba, không phải ba gồm thâu tất cả. Không gồm thâu là những gì? Nghĩa là lìa bỏ các thứ như trước đã nói, như dùng tay gậy đánh đập hữu tình, và nơi chốn nên hành các hành bất tịnh, cùng các nghiệp phóng dật như uống rượu v.v… để có thể an trụ trong chánh tri, chánh niệm khi thọ dụng ăn uống v.v…, lại có thể xa lánh đúng các kẻ phạm giới. Các thứ thân nghiệp đã khởi như thế đều không thuộc về ba hành diệu. Các câu hỏi đáp khác đều như trước, nên biết.

Hỏi: Bốn hành diệu của ngữ gồm thâu tất cả hành diệu của ngữ hay tất cả hành diệu của ngữ gồm thâu bốn hành diệu của ngữ?

Đáp: Tất cả gồm thâu bốn, không phải bốn gồm thâu tất cả. Không gồm thâu là những gì? Nghĩa là như có một người riêng ở nơi xứ vắng vẻ nêu bày thuyết: Có bố thí, có thân thương giúp dỡ, có cúng tế thờ phụng v.v… Các hành diệu của ngữ như thế đối với các hữu tình ở thế gian không sinh khởi việc lãnh hội hiểu biết, không phải thuộc về bốn hành diệu của ngữ.

Hỏi: Ba hành diệu của ý gồm thâu tất cả hành diệu của ý hay tất cả hành diệu của ý gồm thâu ba hành diệu của ý?

Đáp: Tất cả gồm thâu ba, không phải ba gồm thâu tất cả. Không gồm thâu là những gì? Nghĩa là không tham, không sân và chánh kiến cùng sinh với thọ tưởng hành thức không phải thuộc về ba hành diệu của ý. Trong Luận kia, hành diệu của ý gồm thâu tự tánh của bốn uẩn, như thế nên thiết lập tự tánh của năm uẩn là các hành diệu.

Hỏi: Luận Phát Trí này, Luận Tập Dị Môn cùng với Khế kinh và Luận Thi Thiết khi nói về việc gồm thâu các hành diệu vì sao không đồng?

Đáp: Vì dựa vào hai thứ môn là thế tục và thắng nghĩa để nói về các hành diệu. Nghĩa là Khế kinh và Luận Thi Thiết dựa vào môn thế tục để nói về các hành diệu. Luận Tập Dị Môn và Luận Phát Trí thì dựa vào môn thắng nghĩa để nói về các hành diệu.

Như dựa vào thế tục và thắng nghĩa để phân biệt, thì dựa vào không liễu nghĩa và liễu nghĩa v.v… nói rộng như trước.

Lại có thuyết nói: Do ba duyên nên chỗ gồm thâu không đồng: 1. Do tự tánh. 2. Do cùng xen lẫn. 3. Do vui khen của thế gian. Nghĩa là Luận Phát Trí và Luận Tập Dị Môn nói về tự tánh của chúng. Luận Thi Thiết thì nói về chỗ cùng xen lẫn của chúng. Nếu pháp tuy tự tánh không phải là hành diệu, nhưng cùng với hành diệu cùng xen lẫn tức cũng được gọi là hành diệu. Trong Khế kinh thì nói về chỗ vui khen của thế gian. Do tất cả các người ở thế gian đối với các nghiệp đạo căn bản phần nhiều đều khởi ý vui khen, không phải đối với các gia hạnh hậu khởi của nghiệp đạo.

Do các duyên này nên chỗ gồm thâu các hành diệu nơi Kinh và Luận không đồng. Như thế gọi là tự tánh của các hành diệu.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là hành diệu? Hành diệu có nghĩa gì?

Đáp: Đáng vui thích, khen ngợi nên gọi là diệu. Dựa vào nơi chốn để lui tới tiếp xúc nên gọi là hành.

Đáng vui thích, khen ngợi nên gọi là diệu: Như có thuyết nói: Vợ con xinh đẹp (diệu), y phục, ăn uống đẹp, ngon (diệu), người và nơi chốn đẹp đẽ (diệu), chỗ tới lui thoáng đẹp (diệu).

Dựa vào nơi chốn để lui tới tiếp xúc nên gọi là hành: Nghĩa là đối với nơi chốn nương dựa của ba thứ hành ác nêu trước cùng với đây trái nhau là khởi ba thứ hành diệu.

Lại có thuyết cho: Chiêu cảm quả lạc thọ nên gọi là diệu. Chuyển động nhanh nhẹn, lanh lợi nên gọi là hành.

Hỏi: Ở trong các hành diệu vì sao gọi là nhanh nhẹn, lanh lợi?

Đáp: Người hành các hành diệu luôn có phương tiệnkhéo léo như thế, tuy không mong cầu được tiếng khen nơi thế gian, nhưng vì muốn khuyên người khác tu các hành diệu, nên chỗ tu các hành diệu của mình đều khiến người khác cùng biết, nên gọi là lanh lợi, nhanh nhẹn.

Lại có thuyết nêu: Luôn gần gũi với các bậc hiền thiện, có thể chiêu cảm được nẻo thiện, nên gọi là hành diệu.

Lại có thuyết cho: Có ba nhân duyên nên gọi là hành diệu: 1. Nghĩ các ý thiện. 2. Nói các lời thiện. 3. Làm các việc thiện.

Nghĩ các ý thiện: Tức là hành diệu của ý. Nói các lời thiện: Tức là hành diệu của ngữ. Làm các việc thiện: Tức là hành diệu của thân.

Lại có thuyết nêu: Có ba nhân duyên nên gọi là hành diệu: 1. Nghĩa làm thiện. 2. Đáng vui khen. 3. Quyết định có thể chiêu cảm quả đáng yêu thích.

Nghĩa làm thiện: Tức làm các việc thiện của thân ngữ ý nên gọi là hành diệu.

Đáng vui khen: Tức là làm các việc thiện, khéo giữ giới luật, nên thường được chư Thiên, bậc Đại sư hay các vị có trí đồng tu phạm hạnh vui khen.

Quyết định có thể chiêu cảm quả đáng yêu thích: Tức các hành diệu của thân ngữ ý hiện có thì không có xứ nào không thừa nhận có thể chiêu cảm quả đáng yêu thích, tức các xứ đều thừa nhận có thể chiêu cảm các dị thục của quả đáng yêu thích.

Luận Tập Dị Môn cũng nói: Do nhân duyên nào gọi là hành diệu? Tức nó có thể chiêu cảm các quả đáng yêu mến, vui thích, vừa ý. Đây là chỉ rõ về quả đẳng lưu. Lại nói: Có thể chiêu cảm các thứ dị thục đáng yêu mến, vui thích, vừa ý. Đây là chỉ rõ về quả dị thục.

Ba căn thiện: 1. Căn thiện không tham. 2. Căn thiện không sân. 3. Căn thiện không si.

Thế nào là căn thiện không tham? Nghĩa là tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng, là đối trị tham. Đó gọi là tánh của căn thiện không tham.

Thế nào là căn thiện không sân? Nghĩa là tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng, là đối trị sân. Đó gọi là tánh của căn thiện không sân.

Thế nào là căn thiện không si? Nghĩa là tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng, là đối trị si. Đó gọi là tánh của căn thiện không si.

Ba căn thiện này ở trong một tâm có thể đạt được đầy đủ. Ba căn bất thiện thì ở trong một tâm không thể đạt được đầy đủ.

Lại, ba căn thiện này phòng giữ đầy đủ nơi tất cả các tâm thiện, thông hợp cả sáu thức thân hữu lậu và vô lậu. Ba căn bất thiện thì không thể ngăn giữ đầy đủ nơi tất cả tâm bất thiện.

Lại, ba căn thiện tương ưng khắp với tâm thiện. Ba căn bất thiện thì không tương ưng khắp với tâm bất thiện.

Lại, ba căn thiện có thể phát khởi khắp tất cả các tâm thiện. Ba căn bất thiện thì không thể phát khởi khắp tất cả các tâm bất thiện.

Như thế, tùy chuyển và không tùy chuyển đều nên nói rộng. Đó gọi là tự tánh của ba căn thiện.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là căn thiện? Căn thiện có ý nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa có thể sinh thiện là nghĩa của căn thiện. Nghĩa có thể nuôi dưỡng thiện, nghĩa có thể làm tăng trưởng thiện, nghĩa có thể giúp ích thiện, nghĩa có thể duy trì thiện, nghĩa có thể khiến cho pháp thiện lưu hành rộng khắp, là nghĩa của căn thiện.

Tôn giả Thế Hữu nói: Nghĩa làm nhân của pháp thiện là nghĩa của căn thiện. Nghĩa hạt giống của pháp thiện, nghĩa cùng khởi thiện, nghĩa có thể làm nhân chuyển dẫn đến các pháp thiện, nghĩa làm nhân tùy chuyển sinh các thứ thiện, nghĩa thâu giữ giúp ích tất cả các pháp thiện, là nghĩa của căn thiện.

Đại đức nói: Nương dựa vào các thứ này có thể sinh trưởng khắp tất cả pháp thiện, có thể làm nhân chuyển, làm nhân tùy chuyển, thâu giữ giúp ích tất cả pháp thiện, gọi là căn thiện.

Hỏi: Nếu nghĩa làm nhân của pháp thiện là nghĩa của căn thiện, thì năm uẩn thiện sinh trước cùng với tất cả năm uẩn thiện đã sinh, chưa sinh sau làm nhân. Mười nghiệp đạo thiện sinh trước cùng với tất cả mười nghiệp đạo thiện đã sinh, chưa sinh sau làm nhân. Ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần sinh trước cùng với tất cả ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần đã sinh, chưa sinh sau làm nhân. Như ở đây tức tất cả các pháp thiện đều nên gọi là căn thiện. Như thế ba thứ này có nhân duyên không chung hơn hẳn nào để Đức Thế Tôn lập riêng làm căn thiện?

Đáp: Đây là Đức Thế Tôn giảng nói chưa trọn vẹn. Bậc Đại sư quán xét tâm hành, mong muốn vui thích của các hữu tình đang được hóa độ, nên giản lược để nêu giảng.

Hiếp Tôn giả nói: Chỉ có Đức Thế Tôn là thấu đạt rốt ráo về tánh tướng của các pháp, cũng nhận biết rõ về tác dụng nơi thế mạnh của chúng, người khác không thể nhận biết. Nếu các pháp có tướng của căn thiện liền lập, pháp nào không có thì không lập.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Bậc Đại sư nhận biết rõ ba căn thiện này có sức mạnh, tác dụng như thế, cường thịnh như thế, gần gũi như thế, có thể làm nhân cho tất cả các pháp thiện. Còn các pháp thiện khác thì không có sự việc như vậy.

Lại có thuyết nói: Ba căn thiện này là thù thắng, là hơn hết đối với các pháp thiện, vì đặc biệt như thế, nên lập làm căn thiện.

Lại có thuyết cho: Trong các pháp thiện, ba căn thiện này là đứng đầu, đi trước, dẫn đường như vị tướng soái chỉ huy tất cả quân binh. Do sức tăng thượng của căn thiện như thế, nên có thể khiến tất cả các các pháp thiện được tăng rộng, nên lập làm căn thiện.

Lại có thuyết nói: Ba căn thiện này có thể đối với tất cả pháp thiện làm nhân, làm gốc rễ, làm mắt sáng, làm nơi chứa nhóm, khiến phát khởi tất cả các pháp thiện, ngăn chận tất cả các pháp bất thiện, vì chúng thù thắng hơn cả trong các pháp thiện, nên lập làm căn thiện.

Lại có thuyết nêu: Vì ba căn thiện này có khả năng phát khởi khắp mười nghiệp đạo thiện, sinh mười xứ thiện, nên lập làm căn thiện.

Do các nhân duyên như thế, nên trong tụ các pháp thiện, chỉ có ba thứ ấy được lập làm căn thiện.

Đã nói về tự tánh của ba hành diệu và ba căn thiện, nay sẽ nêu bày rõ về tướng xen lẫn và không xen lẫn của chúng.

Hỏi: Ba hành diệu và ba căn thiện, ba thứ trước gồm thâu ba thứ sau hay ba thứ sau gồm thâu ba thứ trước?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành diệu không phải là căn thiện: Nghĩa là hành diệu của thân ngữ và tư thiện, do chúng chỉ có tướng của hành diệu, không có tướng của căn thiện.

2. Có thứ là căn thiện không phải là hành diệu: Nghĩa là chánh kiến không gồm thâu vào căn thiện không si, do thứ này chỉ có tướng của căn thiện, không có tướng của hành diệu.

3. Có thứ là hành diệu cũng là căn thiện: Nghĩa là không tham, không sân, chánh kiến, do chúng có đủ cả hai thứ tướng.

4. Có thứ không phải là hành diệu cũng không phải là căn thiện: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tướng tức là tên được nêu gọi. Trừ các tên gọi đã chỉ rõ nghĩa nơi ba trường hợp trước, còn lại các pháp khác đều thuộc vào trường hợp thứ tư. Tức ở trong sắc uẩn trừ các sắc thiện, giữ lấy sắc uẩn còn lại. Trong hành uẩn trừ ba căn thiện và các tư thiện, giữ lấy các hành uẩn tương ưng và không tương ưng còn lại. Ba uẩn hoàn toàn là thọ, tưởng, thức cùng các pháp vô vi, tất cả như thế đều làm trường hợp thứ tư, nên nói là trừ các tướng nêu trước.

Lại nữa, ở nơi nhãn thức cùng sinh trong phẩm pháp thiện, hoặc có thứ là hành diệu không phải là căn thiện, nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành diệu không phải là căn thiện: Đó là tư thiện.

2. Có thứ là căn thiện không phải là hành diệu: Đó là căn thiện không si.

3. Có thứ là hành diệu cũng là căn thiện: Đó là không tham, không sân.

4. Có thứ không phải là hành diệu cũng không phải là căn thiện: Đó là trừ các tướng nêu trước.

Như ở nhãn thức cùng sinh nơi phẩm pháp thiện, như thế cho đến đối với thân thức cùng sinh nơi phẩm pháp thiện cũng như vậy.

Đối với chánh kiến cùng sinh trong phẩm thiện, hoặc có thứ là hành diệu không phải là căn thiện, nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành diệu không phải là căn thiện: Đó là tư thiện.

2. Có thứ là căn thiện không phải là hành diệu: Không có.

3. Có thứ là hành diệu cũng là căn thiện: Đó là không tham, không sân và chánh kiến.

4. Có thứ không phải là hành diệu cũng không phải là căn thiện: Đó là trừ các tướng nêu trước.

Đối với tận trí và vô sinh trí cùng sinh trong phẩm thiện, hoặc có thứ là hành diệu không phải là căn thiện, nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là hành diệu không phải là căn thiện: Đó là tư thiện.

2. Có thứ là căn thiện không phải là hành diệu: Đó là căn thiện không si.

3. Có thứ là hành diệu cũng là căn thiện: Đó là không tham, không sân.

4. Có thứ không phải là hành diệu cũng không phải là căn thiện:

Đó là trừ các tướng nêu trước.

HẾT – QUYỂN 112