LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 186

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 5: BÀN VỀ NHẤT HÀNH, phần 4

* Các thứ bất định, tất cả chúng không phải là thông tuệ, là nẻo vô minh chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Các loài hữu tình có định, có bất định, có thông tuệ, là nẻo minh, có không phải thông tuệ, là nẻo vô minh. Khế kinh tuy nói như vậy nhưng không phân biệt về sự tương quan, có sai biệt. Kinh kia là chỗ dựa căn bản của Luận này, những gì nơi Kinh ấy không nói nay sẽ nêu bày, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các thứ bất định, tất cả chúng không phải là thông tuệ, là nẻo vô minh chăng?

Đáp: Các thứ bất định, tất cả chúng không phải là thông tuệ, là nẻo vô minh. Có thứ không phải là thông tuệ, là nẻo vô minh, nhưng không phải là bất định: Đó là định tà.

Hỏi: Các thứ định, tất cả chúng là thông tuệ, là nẻo minh chăng?

Đáp: Các thứ thông tuệ, nẻo minh, tất cả chúng là định. Có thứ là định nhưng không phải là thông tuệ, không phải là nẻo minh: Đó là định tà.

Ở đây, không phải là thông tuệ: Nghĩa là phàm phu thiếu hiểu biết, không có Thánh tuệ.

Thông tuệ: Nghĩa là các bậc Thánh có Thánh tuệ. Làm sao nhận biết được? Do Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Phật nói với các Bí-sô: Ý các Bí-sô nghĩ sao? Các hữu tình đối với khổ Thánh đế nhận biết như thật. Đối với khổ tập Thánh đế, khổ diệt Thánh đế, hướng tới hành diệt khổ Thánh đế nhận biết như thật. Hoặc có hữu tình đối với các thứ ấy không nhận biết như thật. Ở đây, nói những ai là thông tuệ?

Các Bí-sô bạch Phật: Như con hiểu về ý nghĩa nơi những điều Phật giảng nói, những ai đối với khổ Thánh đế cho đến đối với hướng tới hành diệt khổ Thánh đế nhận biết như thật gọi là người thông tuệ, không phải không nhận biết như thật. Do vậy, nên biết Thánh là thông tuệ, phàm phu không phải là thông tuệ. Thông tuệ là nẻo minh, là chỗ dựa của minh. Không phải thông tuệ là nẻo vô minh, là chỗ dựa của vô minh.

Các thứ bất định tất cả chúng không phải là thông tuệ, là nẻo vô minh: Nghĩa là các thứ bất định tất là phàm phu. Tất cả phàm phu đều không phải là thông tuệ, đều thuộc về nẻo vô minh.

Có thứ không phải là thông tuệ, là nẻo vô minh, nhưng không phải là bất định: Đó là các định tà. Tức những định tà cũng tất là phàm phu. Họ ở nơi định của tánh tà nên không gọi là bất định.

Các thứ thông tuệ, nẻo minh, tất cả chúng là định: Nghĩa là các bậc Thánh ở nơi định của tánh chánh nên gọi là định.

Hỏi: Các thứ bất định, tất cả chúng là không thành tựu đẳng giác chi chăng?

Đáp: Các thứ bất định, tất cả chúng là không thành tựu đẳng giác chi. Có thứ không thành tựu đẳng giác chi nhưng không phải là bất định: Đó là định tà, là phàm phu, nên là định tà tánh.

Hỏi: Các thứ định, tất cả chúng là thành tựu đẳng giác chi chăng?

Đáp: Những ai thành tựu đẳng giác chi thì tất cả chúng là định. Có trường hợp là định nhưng không thành tựu đẳng giác chi: Đó là định tà, như đã giải thích ở trước.

***

* Có ba tụ: 1. Tụ tà tánh định. 2. Tụ chánh tánh định. 3. Tụ bất định.

Tụ tà tánh định: Là gây tạo nên năm nghiệp vô gián. Tụ chánh tánh định: Là thành tựu pháp học, vô học. Tụ bất định: Là chỉ thành tựu các pháp hữu lậu khác và vô vi. Đó gọi là tự tánh của ba tụ.

Về cõi: Tụ tà tánh định có phần ít của một cõi là cõi dục. Tụ chánh tánh định có phần ít của ba cõi. Tụ bất định cũng như vậy.

Về nẻo: Tụ tà tánh định có phần ít của một nẻo là nẻo người. Tụ chánh tánh định có phần ít của hai nẻo là trời, người. Tụ bất định có hoàn toàn ba nẻo là địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ; có phần ít của hai nẻo là trời, người.

Về sinh (Loài): Tụ tà tánh định có phần ít của một loài là thai sinh. Tụ chánh tánh định có phần ít của hai loài là thai sinh, hóa sinh. Tụ bất định có trọn hai loài là noãn sinh, thấp sinh; có phần ít của hai loài là hai loài còn lại.

Có thuyết nói: Tụ tà tánh định có phần ít của ba loài trừ hóa sinh. Tụ chánh tánh định có phần ít của bốn loài. Tụ bất định cũng như vậy.

Về xứ: Có thuyết nói: Tụ tà tánh định có phần ít của ba xứ. Tụ chánh tánh định có trọn năm xứ, có phần ít của hai mươi bốn xứ. Tụ bất định có trọn năm xứ, có phần ít của hai mươi bốn xứ.

Nên nói như vầy: Các hành có bốn mươi xứ. Tụ bất định có trọn mười một xứ, có phần ít của hai mươi bốn xứ.

Phái Thí dụ nói: Từ địa ngục Vô gián cho đến cõi Hữu đảnh đều có ba tụ. Phái ấy cho: Pháp bát Niết-bàn gọi là tụ chánh tánh định. Pháp không có bát Niết-bàn gọi là tụ tà tánh định. Không quyết định gọi là tụ bất định.

Lời bình: Như thuyết trước là đúng.

Đây là dựa vào Luận Tập Dị Môn để nói.

Nếu dựa vào Luận Thi Thiết để nói, tụ tà tánh định là năm nghiệp vô gián. Hoặc nhân đó, quả đó, đẳng lưu đó, dị thục đó cùng Bổ-đặc-già-la thành tựu pháp đó. Tụ chánh tánh định là pháp học, vô học. Hoặc nhân đó, quả đó, đẳng lưu đó cùng Bổ-đặc-già-la thành tựu pháp đó. Tụ bất định là các pháp khác. Hoặc nhân đó, quả đó, đẳng lưu đó, dị thục đó và Bổ-đặc-già-la thành tựu pháp đó. Đó gọi là tự tánh của ba tụ.

Về cõi: Như trước đã nêu.

Về nẻo: Tụ tà tánh định có phần ít của hai nẻo là địa ngục, người. Tụ chánh tánh định cũng có phần ít của hai nẻo là trời, người. Tụ bất định có trọn hai nẻo là bàng sinh, ngạ quỷ; có phần ít của ba nẻo là địa ngục, người, trời.

Về loài: Tụ tà tánh định có phần ít của hai loài là noãn sinh, hóa sinh. Tụ chánh tánh định có phần ít của bốn loài. Tụ bất định cũng như vậy.

Về xứ: Phân biệt như chỗ ứng hợp nên biết.

Tỳ-nại-da nói: Đức Thế Tôn ở bên gốc cây Bồ-đề đã kiến lập tất cả hữu tình làm ba tụ. Nghĩa là ngang với mức như thế gọi là tụ tà tánh định. Ngang với mức như thế gọi là tụ chánh tánh định. Ngang với mức như thế gọi là tụ bất định.

Hỏi: Là dựa vào hữu tình có sai biệt để kiến lập hay là dựa vào pháp có sai biệt? Nếu dựa vào hữu tình thì vì sao nơi biên vực của biển không được cho là hữu tình? Nếu dựa vào pháp thì Thanh văn cũng có thể kiến lập như thế. Phật cùng với Thanh văn có những gì là không chung?

Đáp: Có thuyết nói: Dựa vào hữu tình để kiến lập.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao nơi biên vực của biển không được cho là hữu tình?

Đáp: Đức Phật nếu cho nơi biên vực của biển được gọi là hữu tình thì cũng không có lỗi. Nhưng đây là tổng tướng được, không phải là biệt tướng. Nghĩa là tất cả hữu tình không ra ngoài bốn loài, theo như thế mà được.

Có thuyết cho: Dựa vào pháp để kiến lập.

Hỏi: Nếu như vậy thì Thanh văn cũng có thể kiến lập như thế. Phật cùng với Thanh văn có những gì là không chung?

Đáp: Thanh văn nhân nơi theo Phật nghe. Phật là bậc không có thầy, tự có thể kiến lập. Đó là không chung.

Có thuyết nêu: Nếu ba ngàn thế giới và ngàn năm trở lại thì dựa vào hữu tình để kiến lập. Nếu thế giới khác và thời gian khác thì dựa vào pháp để kiến lập.

Hỏi: Nếu Đức Phật ở nơi cội Bồ-đề đã kiến lập hữu tình làm ba tụ, thì vì sao lại nói ngày đêm sáu thời dùng Phật nhãn quan sát khắp thế gian?

Đáp: Trước tuy kiến lập ba tụ nhưng chưa quán xét phần vị có sai biệt: Những ai ở nơi thời gian nào từ tù tà định nhập tụ bất định? Những ai ở nơi thời gian nào từ tụ bất định nhập tụ tà định hoặc tụ chánh định? Vì muốn nhận biết điều ấy nên lại dùng Phật nhãn ngày đêm quán sát.

Có thuyết nói: Đây muốn làm sáng tỏ Đức Phật ở nơi tất cả thời gian luôn ưa thích tư duy các sự việc lợi tha.

Có thuyết cho: Đây là nhằm hiển bày Đức Thế Tôn đại bi luôn huân tập tâm không hề biếng trễ mỏi mệt.

Tôn giả Thế Hữu nói: Hằng có những hữu tình ở cõi khác đến sinh vào cõi này. Do trước chưa kiến lập nên giờ dùng Phật nhãn quán sát, kiến lập thêm nữa.

Tôn giả Giác Thiên nói: Phật dùng pháp làm thầy, Ngài muốn cung kính hầu hạ pháp cho nên ngày đêm sáu thời, dùng Phật nhãn quán sát cõi đời.

Tôn giả Diệu Âm nói: Đức Phật muốn hiển bày những gì mình làm là luôn suy xét kỹ chắc chắn nên tuy kiến lập nhưng lại quán sát.

***

* Những vị thành tựu đẳng giác chi là thành tựu pháp vô lậu chăng?

Đáp: Những vị thành tựu đẳng giác chi là thành tựu pháp vô lậu, do đẳng giác chi là vô lậu. Có khi thành tựu pháp vô lậu nhưng không phải là đẳng giác chi: Đó là các phàm phu. Do các phàm phu đều thành tựu phi trạch diệt. Tùy lìa phẩm nhiễm nào thì cũng thành tựu trạch diệt.

Hỏi: Những vị không thành tựu đẳng giác chi là không thành tựu pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đều không thành tựu pháp vô lậu, do tất thành tựu phi trạch diệt. Có khi không thành tựu đẳng giác chi: Nghĩa là các phàm phu, vì các phàm phu tất không thành tựu pháp vô lậu hữu vi.

Hỏi: Những vị được đẳng giác chi là được pháp vô lậu chăng?

Đáp: Những vị được đẳng giác chi là được pháp vô lậu. Có trường hợp được pháp vô lậu nhưng không phải là đẳng giác chi: Đó là các phàm phu.

Hỏi: Đẳng giác chi nói được, sự việc ấy có thể như thế. Tức khi nhập chánh tánh ly sinh là chưa từng được mà được. Còn pháp vô lậu vì sao gọi là được? Vì xưa nay là không có, không thành tựu, phi trạch diệt.

Đáp: Có thuyết nói: Văn đây chỉ nên nói được đẳng giác chi, không nên nói được pháp vô lậu.

Có thuyết cho: Trong đây, pháp vô lậu có hai phẩm: 1. Giác chi. 2. Trạch diệt. Khi nhập chánh tánh ly sinh là được giác chi. Tùy theo khi lìa phẩm nhiễm nào là được trạch diệt. Phàm phu ở nơi tám địa do kiến đạo, tu đạo đoạn, tùy lìa phẩm nào đều được trạch diệt, nên nói như thế.

Có thuyết nêu: Ở đây, pháp vô lậu có ba phẩm: 1. Giác chi. 2. Trạch diệt. 3. Phi trạch diệt. Khi nhập chánh tánh ly sinh là được giác chi. Tùy khi lìa phẩm nhiễm nào là được trạch diệt. Tùy vào lúc nào là được phi trạch diệt.

Hỏi: Phàm phu từ gốc há chẳng đều thành tựu phi trạch diệt chăng? Vì sao nói là được?

Đáp: Tuy từ gốc đều thành tựu, nhưng dựa trong phần vị thắng tấn cũng có thể nói là được. Như hoặc do thí, giới, văn, tư, hoặc do quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, hoặc do noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất v.v… khiến các pháp như nẻo ác v.v… được phi trạch diệt. Lại nữa, nếu dùng chủng loại để nói thì không nên nói là được. Nếu do sự việc có sai biệt để nói thì cũng có thể nói là được. Sát-na, sát-na tùy theo các sự việc khác nhau kia đều riêng được.

Hỏi: Những vị xả đẳng giác chi là xả pháp vô lậu chăng?

Đáp: Không có hoàn toàn xả đẳng giác chi, cũng không có hoàn toàn xả pháp vô lậu. Tất không có bậc Thánh trở lại làm phàm phu, nên cũng không có hữu tình không thành tựu phi trạch diệt.

Nhưng không phải là không có nghĩa xả tùy phần nên nói không có xả hoàn toàn.

Hỏi: Những vị thoái đẳng giác chi là thoái pháp vô lậu chăng?

Đáp: Không có hoàn toàn thoái đẳng giác chi, cũng không có hoàn toàn thoái pháp vô lậu. Nghĩa như trước đã giải thích.

Lại nữa, để ngăn chận thuyết của bộ Ma Ha Tăng Kỳ cho quả Dự lưu có thoái chuyển cùng ngăn chận thuyết của phái Thí Dụ không nhận có phi trạch diệt, nên nói như thế: Không hoàn toàn xả, không hoàn toàn thoái đẳng giác chi và pháp vô lậu.

***

* Những người chưa đoạn trừ là chưa nhận biết khắp chăng? Cho đến nói rộng.

Ở đây, dựa vào hai thứ nhận biết khắp để tạo luận: 1. Trí nhận biết khắp. 2. Đoạn nhận biết khắp.

Ở trong trí nhận biết khắp, có thuyết nói: Chỉ là trí vô lậu. Có thuyết nói: Trí ấy chung cho cả hữu lậu và vô lậu. Những người nói chỉ là trí vô lậu thì cho: Khi hiện quán về khổ, đối với năm pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên gọi là nhận biết khắp. Đối với pháp do kiến khổ đoạn do đoạn nhận biết khắp nên gọi là đoạn. Khi hiện quán về tập cũng như vậy. Có sai khác: Là nói về tự đế. Khi hiện quán về diệt, đối với diệt đế do trí nhận biết khắp nên gọi là nhận biết khắp. Đối với pháp do kiến diệt đoạn do đoạn nhận biết khắp nên gọi là đoạn. Khi hiện quán về đạo cũng như vậy. Có sai khác: Là nói về tự đế. Trong tu đạo, theo chỗ khởi trí nào, đối với pháp của đối tượng duyên nào do trí nhận biết khắp nên gọi là nhận biết khắp. Đối với tùy theo pháp nào đã đoạn do đoạn nhận biết khắp nên gọi là đoạn.

Đó gọi là ở đây đã tóm lược Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Các thứ chưa đoạn là chưa nhận biết khắp chăng?

Đáp: Các thứ chưa nhận biết khắp thì chúng là chưa đoạn: Chính là do trí nhận biết mới có thể đoạn.

Có khi chưa đoạn nhưng không phải là chưa nhận biết khắp: Nghĩa là khổ trí do nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Đây tức là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với bốn pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với ba pháp nên đoạn, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với hai pháp nên đoạn, đạo trí đã sinh nhưng chưa lìa nhiễm do tu đạo đoạn, đối với một pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Tức vị ấy đã lìa nhiễm nơi cõi dục, chưa lìa nhiễm cõi trên. Đối với pháp ở cõi sắc và cõi vô sắc do tu đạo đoạn đã lìa nhiễm nơi cõi sắc, chưa lìa nhiễm cõi trên. Đối với pháp ở cõi vô sắc do tu đạo đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn.

Hỏi: Các thứ đã đoạn là đã nhận biết khắp chăng?

Đáp: Các thứ đã đoạn là đã nhận biết khắp: Nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với một pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với hai pháp nên đoạn, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với ba pháp nên đoạn, đạo trí đã sinh nhưng chưa lìa nhiễm do tu đạo đoạn, đối với bốn pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Tức vị kia đã lìa nhiễm nơi cõi dục, chưa lìa nhiễm nơi cõi trên. Đối với pháp nơi ba cõi do kiến đạo đoạn và pháp ở cõi dục do tu đạo đoạn đã lìa nhiễm nơi cõi sắc, chưa lìa nhiễm nơi cõi trên. Đối với pháp nơi ba cõi do kiến đạo đoạn và pháp ở cõi dục, cõi sắc do tu đạo đoạn. Tận trí đã sinh. Đối với pháp nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn.

Có khi đã nhận biết khắp nhưng không phải là đã đoạn: Nghĩa là nếu trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Ở đây nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với bốn pháp nên đoạn v.v… nói rộng như trên.

Những người cho trí nhận biết khắp là trí chung cho cả hữu lậu vô lậu thì cho: Nơi phần vị căn thiện thuận phần quyết trạch, đối với năm pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên gọi là nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên gọi là đoạn. Ở phần vị kiến đạo, tu đạo như trước đã nói.

Hỏi: Trong phần vị niệm trụ há không phải đối với tất cả pháp đã gọi là nhận biết khắp chăng?

Đáp: Tuy cũng gọi là nhận biết khắp nhưng không phải thắng tấn. Trong đây, nói thắng tấn: Là nếu hành tướng cùng với Thánh đạo đồng thì gọi là thắng tấn.

Có thuyết nói: Nếu tuệ do văn, tư, tu tạo thành, hoặc noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất đối với sự việc hữu lậu nhận biết khắp về tướng riêng và tướng chung đều gọi là nhận biết khắp.

Đó gọi là ở đây đã tóm lược Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Các thứ chưa đoạn là chưa nhận biết khắp chăng?

Đáp: Các thứ chưa nhận biết khắp thì chúng là chưa đoạn: Nghĩa là do trước vị kia phải được trí nhận biết khắp sau mới đoạn nhận biết khắp.

Có khi chưa đoạn không phải là chưa nhận biết khắp: Nghĩa là nếu trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Đây nghĩa là căn thiện thuận phần quyết trạch đã sinh, kiến đạo chưa sinh, đối với năm pháp nên đoạn do trí nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Ngoài ra nói rộng như trên.

Hỏi: Các thứ đã đoạn là đã nhận biết khắp chăng?

Đáp: Các thứ đã đoạn là đã nhận biết khắp: Ở đây như trước đã giải thích.

Có khi đã nhận biết khắp nhưng không phải là đã đoạn: Nghĩa là nếu trí đã nhận biết khắp nên đã nhận biết khắp, không phải do đoạn nhận biết khắp nên đã đoạn. Đây nghĩa là căn thiện thuận phần quyết trạch đã sinh, nói rộng như trên. Phàm phu tuy có đoạn nhưng không phải là đoạn nhận biết khắp cho nên không nói, do không phải trí nhận biết khắp đã chứng. Trí nhận biết khắp chỉ là hành tướng của bậc Thánh.

***

* Những người có mắt ở đời này không thấy sắc thì họ dựa vào pháp nào để dẫn phát thiên nhãn? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Như Luận Thi Thiết nói: Sinh tử trí chứng thông, thế nào là gia hạnh? Thế nào là dẫn phát Sinh tử trí chứng thông? Nghĩa là người mới tu tập, đối với Tam-ma-địa thế tục đã khéo tu tập, khéo đạt được tự tại khiến khởi hiện tiền. Vì muốn dẫn phát Thiên nhãn thông, nên trước là giữ lấy tướng mặt gương sáng sạch, hoặc các tướng ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, cỏ thuốc, đèn đuốc, mạt ni, hoặc tướng ngọn lửa sáng rực của khối lửa lớn đang thiêu đốt thành ấp nhiều do-tuần. Khéo giữ lấy tướng ấy rồi, do sức của tác ý giả tưởng, ở nơi phần vị không thấy có thể khởi ánh sáng, thắng giải nối tiếp dẫn phát thiên nhãn. Có khi tức ở nơi nhãn xứ thường hiện có sắc giới do đại chủng tạo khởi thiên nhãn tịnh, có thể thấy các sắc hoặc tốt hoặc xấu, cho đến nói rộng. Hoặc có kẻ sinh nghi như vầy: Những người có mắt ở đời này không thấy sắc thì họ tức không thể dẫn phát thiên nhãn chăng? Vì khiến cho nghi ấy có được quyết định nên hiển bày: Tuy mắt ở đời này không thấy sắc nhưng người ấy cũng có thể dẫn phát thiên nhãn, do vậy tạo ra phần Luận này.

Lại, Luận Thi Thiết nói: Thiên nhĩ trí chứng thông, thế nào là gia hạnh? Thế nào là dẫn phát Thiên nhĩ trí chứng thông? Nghĩa là người mới tu tập, đối với Tam-ma-địa thế tục đã khéo tu tập, khéo đạt được tự tại khiến khởi hiện tiền. Vì muốn dẫn thiên nhĩ thông, nên trước là giữ lấy tiếng của voi, ngựa, xe cộ, hoặc tiếng chuông, trống, tù và, tiêu sáo, ca vịnh tán tụng, hoặc âm thanh phát ra do nhóm bốn đại cùng va chạm. Khéo giữ lấy tướng của các tiếng như thế rồi, do sức của tác ý giả tưởng, ở nơi lúc lìa nghe có thể khởi các tiếng thắng giải nối tiếp dẫn phát thiên nhĩ. Có khi tức ở nơi nhĩ xứ thường hiện có sắc giới do đại chủng tạo khởi thiên nhĩ tịnh, có thể nghe các tiếng hoặc người hoặc phi nhân, cho đến nói rộng. Do vậy lại có kẻ sinh nghi như vầy: Những người có tai ở đời này không nghe tiếng thì họ tức không thể dẫn phát thiên nhĩ chăng? Nay nhằm khiến cho nghi kia có được quyết định nên hiển bày: Tuy tai ở đời này không nghe tiếng nhưng người ấy cũng có thể dẫn phát thiên nhĩ, do vậy tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Những người có mắt ở đời này không thấy sắc thì họ dựa vào pháp nào để dẫn phát thiên nhãn?

Đáp: Như có một người được tự tánh sinh niệm, trong các đời khác ở trước, mắt đã từng trông thấy sắc, kẻ kia dựa vào đấy nên dẫn phát thiên nhãn.

Hỏi: Những người có tai ở đời này không nghe tiếng thì họ dựa vào pháp nào để dẫn phát thiên nhĩ?

Đáp: Như có một người được tự tánh sinh niệm, trong các đời khác ở trước, tai đã từng nghe tiếng, kẻ kia dựa vào đấy nên dẫn phát thiên nhĩ.

Hỏi: Những người đạt được trí túc trụ tùy niệm thì cũng có thể dẫn phát thiên nhãn, thiên nhĩ, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Nếu thiên nhãn đối với người mù bẩm sinh, thiên nhĩ đối với người điếc bẩm sinh, đều có thể dẫn phát thì trong đây nói đến. Trí túc trụ tùy niệm tuy có thể dẫn phát loại thiên nhãn đó nhưng không phải thiên nhĩ. Vì sao? Vì những người điếc bẩm sinh không có trí túc trụ tùy niệm. Chính là do kẻ khác chỉ dạy nên trí ấy sinh, do vậy nên không nói.

Hỏi: Vì sao thiên nhãn chỉ ở nơi bốn tĩnh lự căn bản, không phải là địa cận phần?

Đáp: Do địa ấy không phải là nơi chốn thích hợp, cho đến nói rộng.

Lại nữa, nếu địa có chỗ dựa chung là Tam-ma-địa thì có thiên nhãn. Địa cận phần không có chỗ dựa chung là Tam-ma-địa, nên không có thiên nhãn.

Lại nữa, nếu địa có Tam-ma-địa thuộc về chi thì có thiên nhãn. Địa cận phần thì không như vậy.

Có thuyết cho: Nếu địa có đạo lạc thông hành thì có thiên nhãn. Địa cận phần thì không như thế.

Như vậy, thiên nhãn hoặc nói chỉ là một: Nghĩa là một thiên nhãn. Hoặc nói hai: Nghĩa là từng được, chưa từng được. Hoặc nói ba: Nghĩa là hạ trung thượng. Hoặc nói bốn: Nghĩa là quả của bốn tĩnh lự. Hoặc nói sáu: Nghĩa là hạ trung thượng đều có từng được, chưa từng được. Hoặc nói tám: Nghĩa là quả của bốn tĩnh lự đều có từng được, chưa từng được. Hoặc nói chín: Nghĩa là hạ hạ cho đến thượng thượng. Hoặc nói mười hai: Nghĩa là quả của bốn tĩnh lự, mỗi thứ đều có hạ trung thượng. Hoặc nói mười tám: Nghĩa là hạ hạ cho đến thượng thượng, mỗi thứ đều có từng được, chưa từng được. Hoặc nói hai mươi bốn: Nghĩa là bốn tĩnh lự mỗi thứ đều có sáu thứ trước. Hoặc nói ba mươi hai: Nghĩa là mười sáu sinh đắc và mười sáu tu đắc.

Có thuyết nói: Quả của bốn tĩnh lự, mỗi thứ đều có hạ trung thượng là mười hai. Lại mỗi thứ đều có năm phẩm tạp tu quả tĩnh lự là hai mươi, cộng là ba mươi hai.

Hoặc nói ba mươi sáu: Nghĩa là quả của bốn tĩnh lự, mỗi thứ đều có hạ hạ cho đến thượng thượng. Hoặc nói bảy mươi hai: Nghĩa là bốn tĩnh lự, mỗi thứ đều có mười tám thứ trước. Nếu lấy sự nối tiếp và sát-na thì có vô lượng. Nay chỉ nói chung là một thiên nhãn.

Như thiên nhãn, thiên nhĩ cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao có thiên nhãn, thiên nhĩ không đồng phần hiện tiền mà không có thiên tỷ, thiệt, thân không đồng phần hiện tiền?

Đáp: Hai căn nhãn, nhĩ nhận lấy cảnh không tận cùng, muốn thấy xa, nghe xa, nên khởi thiên nhãn, thiên nhĩ không đồng phần hiện tiền. Còn các căn tỷ, thiệt, thân chỉ nhận lấy cảnh tận cùng đối với không đồng phần không có dụng riêng, nên không khởi hiện tiền.

Có thuyết nói: Nếu khởi hai căn tỷ, thiệt không đồng phần hiện tiền thì thế gian sẽ chế nhạo: Vì sao người này có đến hai mũi, hai lưỡi. Nếu có thân căn không đồng phần hiện tiền thì thế gian cũng chế nhạo: Vì sao người này như sinh đôi, có tới hai thân. Thế nên các căn tỷ, thiệt, thân không có không đồng phần.

Lại, phẩm loại hơn kém của hai bên thiên nhãn tất đồng. Nghĩa là không phải bên trái kém bên phải hơn v.v… Lại, khi hiện tiền tất đều đầy đủ, không mù, không thiếu, cũng không rối loạn cùng với đồng phần kia. Ngoài ra như trong Phẩm Xúc của Chương Căn Uẩn đã nói rộng.

***

* Vì sao hàng phàm phu khi thoái chuyển, các kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn tăng trưởng? Còn đệ tử của Đức Thế Tôn khi thoái chuyển chỉ các kiết do tu đạo đoạn tăng trưởng?

Đáp: Hàng phàm phu dùng đạo này đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức dùng đạo này đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, nên khi họ thoái chuyển thì hai kiết cùng tăng trưởng. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng đạo này đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Lại dùng đạo khác đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn. Các vị ấy đối với đạo khác có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Đệ tử của Đức Thế Tôn nếu như dùng đạo này đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức dùng đạo này đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn thì họ cũng không thoái chuyển.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận ý bác bỏ cho là không có tánh thoái chuyển, hiển bày là thật có thoái chuyển, nên tạo ra phần Luận này.

Ở đây, những thứ đạt được do tăng thêm gọi là tích tập sinh, nên có nơi nói đạt được gọi là cận sinh tức gần với pháp kia sinh. Như Luận Thi Thiết nói: Phàm phu khi khởi tùy miên dục tham thì có năm pháp khởi: 1. Tùy miên dục tham. 2. Tùy miên dục tham cận sinh. 3. Tùy miên vô minh. 4. Tùy miên vô minh cận sinh. 5. Trạo cử.

Trong đây, phàm phu dùng đạo này đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức dùng đạo này đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn: Nghĩa là dùng chín phẩm đạo cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng đạo này đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn: Nghĩa là dùng một phẩm đạo đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng đạo khác đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn: Nghĩa là dùng chín phẩm đạo đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì các vị ấy đối với đạo khác có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển.

Đệ tử của Đức Thế Tôn nếu như dùng đạo này đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức dùng đạo này đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ cũng không thoái chuyển: Nghĩa là nếu dùng một phẩm đạo cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn thì họ cũng không thoái chuyển. Do đệ tử của Đức Thế Tôn đối với kiết do kiến đạo đoạn tất không thoái chuyển, vì không thể cùng lúc đoạn trừ mà có thoái chuyển riêng.

Lại, đệ tử của Đức Thế Tôn khi trước là phàm phu, dùng chín phẩm đạo cùng đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, nay cũng không thoái chuyển, do hai đạo đã ngăn cản.

Lại nữa, phàm phu dùng tu đạo cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng kiến đạo đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng tu đạo đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Phần còn lại căn cứ theo như trước đã nói.

Lại nữa, phàm phu dùng trí cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng nhẫn đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng trí đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Phần còn lại căn cứ theo như trước đã nói.

Lại nữa, phàm phu không quán đế cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi.

Đệ tử của Đức Thế Tôn quán đế đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng quán đế, không quán đế đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Những thứ khác căn cứ theo trước đã nói.

Lại nữa, phàm phu dùng đạo khởi, không khởi cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng đạo không khởi đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng đạo khởi, không khởi đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Các thứ khác căn cứ theo như trước đã nói.

Lại nữa, phàm phu dùng đạo không mạnh bén cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng đạo mạnh bén đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng đạo không mạnh bén đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Những thứ khác căn cứ theo như trước đã nói.

Có thuyết nói: Phàm phu dùng đạo hữu lậu cùng lúc đoạn trừ kiết do kiến đạo, tu đạo đoạn, khi họ thoái chuyển hai kiết được cùng khởi. Đệ tử của Đức Thế Tôn dùng đạo vô lậu đoạn trừ kiết do kiến đạo đoạn, tức họ đối với đạo ấy nhất định không thoái chuyển. Dùng đạo hữu lậu, vô lậu đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn, thì họ đối với đạo ấy có khi thoái chuyển, có khi không thoái chuyển. Nhưng thuyết kia nói: Nếu dùng đạo vô lậu đoạn trừ kiết thì quyết định không thoái chuyển.

Hỏi: Nếu như vậy thì quả A-la-hán không có thoái chuyển do kiết của cõi Hữu đảnh chỉ do đạo vô lậu đoạn trừ chăng?

Đáp: Nếu A-la-hán trước dùng đạo hữu lậu đoạn trừ kiết nơi tám địa dưới do tu đạo đoạn thì quả A-la-hán kia có thoái chuyển, do căn bản không vững chắc. Nếu trước dùng đạo vô lậu đoạn trừ kiết nơi tám địa dưới do tu đạo đoạn thì quả A-la-hán kia tất không thoái chuyển, do căn bản vững chắc.

Hỏi: Vì sao bậc kiến đạo không có thoái chuyển?

Đáp: Do nơi căn bản vững chắc. Thế nào là căn bản? Nghĩa là người cầu giải thoát thực hành các pháp thí, giới, tu tập, hoặc các công việc của Phật Pháp Tăng, hoặc cung cấp cho kẻ già yếu, bệnh tật các vật dụng, hay đọc tụng Thánh ngôn, diễn nói cho người khác, tác ý như lý, hoặc tu pháp quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất. Những thứ như thế đều gọi là căn bản của kiến đạo.

Có thuyết nói: Kiến đạo mạnh mẽ nhanh chóng, có thể dùng một phẩm đạo đoạn trừ chín phẩm kiết, cho nên không thoái chuyển.

Có thuyết cho: Kiến đạo chỉ là một sát-na nhẫn trí hiện tiền, cho nên không thoái chuyển.

Có thuyết nêu: Nếu kiến đạo có thoái chuyển, tức phạm hạnh đã tu tập không thể tin giữ. Do kiến đạo thoái chuyển tức là phàm phu.

Hỏi: Đã nói bậc Thánh dùng đạo khác đoạn trừ kiết do tu đạo đoạn thì chư vị ấy đối với đạo khác có thoái chuyển và không thoái chuyển. Vậy những ai thoái chuyển, những ai không thoái chuyển?

Đáp: Thời giải thoát thoái chuyển. Pháp bất động không thoái chuyển.

Lại nữa, hạng độn căn thoái chuyển. Hạng lợi căn không thoái chuyển.

Lại nữa, người dùng sức của nhân bên trong để đoạn trừ thì không thoái chuyển. Kẻ dùng sức của duyên bên ngoài để đoạn trừ thì thoái chuyển.

Có thuyết nói: Nếu người dùng quán bất tịnh làm gia hạnh để đoạn trừ thì thoái chuyển. Nếu người dùng trì tức niệm làm gia hạnh để đoạn trừ thì không thoái chuyển.

Có thuyết cho: Nếu dùng đạo thế tục đoạn trừ kiết nơi tám địa dưới do tu đạo đoạn thì thoái chuyển. Nếu dùng đạo xuất thế đoạn trừ kiết nơi tám địa dưới, sau đấy đắc quả A-la-hán thì không thoái chuyển. Ví như đền đài, nền không bảo đảm tức có thể nghiêng sập, nền vững chắc thì không như thế.

***

* Vì sao ba quả trên có thoái chuyển, không phải là quả Dự lưu?

Đáp: Vì kiết do tu đạo đoạn dựa vào có sự để khởi, nghĩa là có tướng tịnh, có tướng bất tịnh. Người kia do tác ý phi lý nên khi quán tướng tịnh liền ở nơi tưởng bất tịnh thoái chuyển. Kiết do kiến đạo đoạn dựa vào không có sự để khởi, không có một pháp nào là ngã, ngã sở, có thể khiến người kia quán ở nơi không có ngã kiến thoái chuyển.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận thuyết của Bộ Ma Ha Tăng Kỳ, cho là quả Dự lưu có thoái chuyển, hiển bày quả Dự lưu quyết định không có thoái chuyển, nên tạo ra phần Luận này.

Kiết do tu đạo đoạn dựa vào có sự để khởi: Nghĩa là đã chấp giữ các thứ tóc lông móng v.v… không phải là không có phần ít tướng tịnh của thế gian. Nếu tác ý phi lý, tư duy thì khi ấy liền ở nơi tưởng bất tịnh đang tu thoái chuyển, khởi kiết do tu đạo đoạn trước đã đoạn.

Kiết do kiến đạo đoạn dựa vào không sự để khởi: Nghĩa là chỗ chấp giữ về tướng ngã ngã sở là hoàn toàn không có. Nên Khế kinh nói: Pháp không có tác dụng, cũng không có hữu tình, thọ mạng, sự nuôi dưỡng, Bổ-đặc-già-la, người tạo tác, kẻ thọ nhận, chỉ là tập hợp các hành, trong ấy không có ngã, như dùng nắm tay không lừa dối đám trẻ con, người có trí thấu rõ như thấy những ngón tay mở ra. Như vậy thấy vô ngã rồi tất không có thoái chuyển, nên quả Dự lưu không có thoái mất.

***

* Khi thoái chuyển ba quả trên, những thứ căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu đạt được v.v…, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận thuyết của Tôn giả Thiết-ma-đạt-đa, cho: Khi thoái chuyển quả A-la-hán thì chỉ được pháp học vị lai trước đây đã bỏ, không được quá khứ. Vì sao? Vì chúng hoàn toàn không hiện tiền. Nay muốn hiển bày: Khi thoái chuyển quả A-la-hán thì được pháp học quá khứ, vị lai trước đây đã bỏ. Quá khứ tuy không thể hiện tiền nhưng có thể thành tựu. Do nhân duyên ấy nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Khi thoái chuyển ba quả trên, những thứ căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu đạt được nên nói là từng được nên được hay chưa từng được nên được?

Đáp: Nên nói là từng được nên được. Nghĩa là quả khi trước được rồi bỏ, nay khi thoái chuyển trở lại được. Những thứ Thánh đạo chưa từng được chỉ khi ở nơi thắng tấn được.

***

* Khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục, những thứ có được về uẩn, xứ giới v.v…, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Cũng là nhằm ngăn chận thuyết của Tôn giả Thiết-mađạt-đa, cho: Khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục thì chỉ được pháp vị lai trước đây đã bỏ, không được quá khứ. Vì sao? Vì pháp ấy hoàn toàn không hiện tiền. Nay muốn làm sáng tỏ: Khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục thì được pháp quá khứ, vị lai trước đây đã bỏ, nên tạo ra phần Luận này.

Nếu không như vậy, từ cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục, khi kiết ban đầu sinh chỉ nên thành tựu sinh tử hai đời. Nhưng không có hữu tình chỉ thành tựu sinh tử hai đời mà quyết định thành tựu pháp hữu lậu ba đời.

Hỏi: Khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục, những thứ có được về uẩn, xứ, giới, căn thiện, bất thiện, vô ký, kiết phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, nên nói là từng được nên được hay chưa từng được nên được?

Đáp: Nên nói pháp thiện, nhiễm ô là từng được nên được. Pháp dị thục là chưa từng được nên được.

Pháp thiện, nhiễm ô là từng được nên được: Thiện: Nghĩa là bốn uẩn thiện sinh đắc. Có thuyết nói: Cũng được bốn uẩn do văn, tư quen tập tạo thành. Những pháp thiện này, trước do vượt cõi địa nên bỏ, nay trở lại cõi địa nên được.

Nhiễm ô: Nghĩa là bốn uẩn bất thiện, hữu phú vô ký. Pháp nhiễm ô này, trước do lìa nhiễm nên bỏ, nay trở lại cõi địa nên được.

Hỏi: Bốn uẩn của đường oai nghi, xứ xông xảo, do tập quen, cũng nên là được, vì sao không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Trong pháp vô phú vô ký, phần nhiều là không được. Nghĩa là dị thục sinh chung nơi trọn quả và phần ít khác, nên tuy được ít nhưng cũng không nói.

Có Sư khác nói: Hành tập quen cũng không được do yếu kém.

Pháp dị thục là chưa từng được nên được: Nghĩa là từ vô thỉ đến nay chưa từng được, chỉ hiện tại thành tựu.

Hỏi: Các uẩn được nuôi lớn cũng là chưa từng được nên được vì sao không nói?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu nói dị thục nên biết là cũng đã nói nuôi lớn, vì nuôi lớn là ngăn che bảo vệ dị thục. Như người thêm người, như tường thêm tường, tất cùng tùy vào nhau, khi ấy cũng có pháp đẳng lưu chưa từng được nên được, như tánh phàm phu v.v… do ít nên không nói.

Hỏi: Khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục, những thứ có được về uẩn, xứ, giới, căn thiện, vô ký, kiết phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, nên nói là từng được nên được hay chưa từng được nên được?

Đáp: Nên nói pháp thiện, nhiễm ô là từng được nên được. Pháp dị thục là chưa từng được nên được.

Pháp thiện, nhiễm ô là từng được nên được: Thiện: Là bốn uẩn thiện sinh đắc, năm uẩn thiện gia hạnh. Những pháp thiện này, trước do vượt cõi địa nên bỏ, nay trở lại cõi địa nên được. Nhiễm ô: Là bốn uẩn hữu phú vô ký. Pháp nhiễm ô này, trước do lìa nhiễm nên bỏ, nay trở lại cõi địa nên được. Bốn uẩn thông quả trong pháp vô phú vô ký cũng là từng được nên được, nhưng do ít nên không nói. Nuôi lớn và đẳng lưu như trước đã giải thích.

Khi ở cõi sắc mất sinh nơi cõi dục, những thứ có được về uẩn, xứ, giới, như khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục đã nói. Trong đây các giải thích cũng như trước nên biết.

***

* Dựa vào tĩnh lự thứ nhất khi dẫn phát đạo Thần cảnh thông thì xa nhất là đến xứ nào?

Đáp: Cho đến xứ Phạm thế.

Dựa vào tĩnh lự thứ nhất khi dẫn phát đạo Thiên nhĩ thông thì nghe xa nhất, tiếng ấy là thuộc cõi nào?

Đáp: Cho đến xứ Phạm thế.

Dựa vào tĩnh lự thứ nhất khi dẫn phát đạo Tha tâm thông thì nhận biết xa nhất các tâm tâm sở pháp ấy thuộc cõi nào?

Đáp: Cho đến xứ Phạm thế.

Dựa vào tĩnh lự thứ nhất khi dẫn phát đạo Túc trụ tùy niệm thông thì nhớ lại xa nhất các sự việc túc trụ ấy là thuộc cõi nào?

Đáp: Cho đến xứ Phạm thế.

Dựa vào tĩnh lự thứ nhất khi dẫn phát đạo Thiên nhãn thông thì thấy xa nhất là thấy sắc thuộc cõi nào?

Đáp: Cho đến xứ Phạm thế.

Như dựa vào tĩnh lự thứ nhất, cho đến dựa vào tĩnh lự thứ tư đều tùy tự xứ nói rộng cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Như Tốđát-lãm, Tỳ-nại-da nói: Người có đủ thần thông, cho đến xứ Phạm thế thân đều tự tại chuyển.

Hoặc có kẻ sinh nghi như vầy: Thần thông tự tại chỉ đến xứ Phạm thế, không phải đến địa trên.

Nay muốn khiến cho nghi đó được dứt bỏ, nên nói: Cho đến dựa vào tĩnh lự thứ tư dẫn phát thần thông tức cho đến trời Quảng quả hoặc trời Sắc cứu cánh, thân tự tại chuyển, vì thế tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nơi Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da nói nên làm sao thông?

Đáp: Nếu xứ có thân biểu của tự địa, thì Đức Thế Tôn nói đến tĩnh lự thứ hai trở lên không có thân biểu của tự địa, cho nên không nói.

Có thuyết nói: Điều được Đức Phật nói là chỗ đạt được đầu tiên địa trên không phải là đã đạt được đầu tiên.

Có thuyết cho: Nói Phạm thế là gồm thâu bốn tĩnh lự do đều có chi đã thâu nhận Tam-ma-địa thanh tịnh.

Hỏi: Cho đến tĩnh lự thứ nhất có ngữ biểu, dựa vào tĩnh lự thứ nhất phát khởi thiên nhĩ, nghe tiếng kia, nơi địa trên đã không có ngữ biểu. Dựa vào tĩnh lự thứ hai v.v… dẫn phát thiên nhĩ, thì nghe những tiếng gì?

Đáp: Như sinh nơi tĩnh lự thứ nhất, dựa nơi nghiệp ngữ biểu của tĩnh lự thứ nhất cùng khởi tâm phát lời nói. Như thế sinh nơi ba tĩnh lự trên cũng dựa nơi nghiệp ngữ biểu của tĩnh lự thứ nhất cùng khởi tâm phát lời nói, tức là thiên nhĩ của địa kia nghe được.

Có thuyết nói: Địa trên tuy không có tiếng ngữ biểu, nhưng có những tiếng khác là thiên nhĩ kia đã nghe, nên không có lỗi.

Hỏi: Nếu sinh nơi cõi dục, dựa vào tĩnh lự thứ nhất phát khởi thiên nhĩ thông, có thể nghe tiếng ngữ biểu của chư Thiên nơi ba tĩnh lự trên chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Không nghe do nơi chốn xa, hoặc vi tế.

Có thuyết cho: Nếu tác ý hết mực cũng có thể nghe, do là pháp đồng địa.

Hỏi: Tùy dựa nơi tĩnh lự nào phát khởi thần cảnh thông có thể đến xứ nào?

Đáp: Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất phát khởi thì có thể đến xứ Phạm thế. Cho đến dựa nơi tĩnh lự thứ tư phát khởi thì có thể đến trời Quảng quả, hoặc đến trời Sắc cứu cánh.

Hàng Thanh văn không dựa vào tác ý tối đa là tiểu thiên thế giới. Tác ý thì tối đa là trung thiên thế giới. Độc giác không tác ý tối đa là trung thiên thế giới. Tác ý thì tối đa là đại thiên thế giới. Phật không tác ý tối đa là đại thiên thế giới. Tác ý có thể tối đa là vô biên thế giới.

Như thần cảnh thông, thì bốn thông còn lại cũng như vậy. Giải thích rộng sáu thông như nơi Chương Đại Chủng Uẩn.

***

* Nếu đối với khổ tư duy là khổ, được quả A-la-hán, ấy là tư duy về khổ thuộc về cõi nào?

Đáp: Là khổ thuộc cõi vô sắc. Đây là theo cõi nói chung. Nếu theo địa nên nói là khổ thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tức là khổ loại trí.

Nếu đối với tập tư duy là tập, được quả A-la-hán, ấy là tư duy về tập thuộc về cõi nào?

Đáp: Là tập thuộc cõi vô sắc. Đây cũng là theo cõi nói chung. Nếu theo địa nên nói là tập thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tức là tập loại trí.

Nếu đối với diệt tư duy là diệt, được quả A-la-hán, ấy là tư duy về những hành diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Những hành diệt hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Tức là diệt pháp trí, diệt loại trí.

Nếu đối với đạo tư duy là đạo, được quả A-la-hán, ấy là tư duy về đạo có thể đoạn các hành thuộc về cõi nào?

Đáp: Là đạo có thể đoạn các hành hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Tức là đạo pháp trí, đạo loại trí.

Như vậy, sáu trí mỗi thứ có bốn hành tướng tạo đạo vô gián, đoạn trừ phiền não phẩm hạ hạ nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cùng kết hợp với Tam-ma-địa Kim cang dụ. Tam-ma-địa Kim cang dụ này có thể chứng đắc quả A-la-hán, nói rộng như trong Phẩm thứ ba, Chương Tạp Uẩn. Lìa nhiễm nơi cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn đều dùng sáu trí làm đạo vô gián. Nghĩa là bốn loại trí, diệt đạo pháp trí, đây nói là đạo vô lậu. Nếu là đạo hữu lậu thì chỉ là thế tục trí, do nó không hiện hữu khắp nên ở đây không nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khi khởi khổ loại trí làm đạo vô gián, có khi chỉ duyên nơi khổ của tự địa, có khi chỉ duyên nơi khổ của tĩnh lự thứ hai, cho đến có khi chỉ duyên nơi khổ của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, không hợp duyên hai cho đến duyên tám, do thô tế khác nhau nên đoạn riêng từng địa.

Như khổ loại trí, tập loại trí cũng như vậy.

Khi khởi diệt loại trí làm đạo vô gián, có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tự địa, có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, cho đến có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có khi hợp duyên hai cho đến duyên tám, đều là vi diệu, đều là trái với nhiễm.

Khi khởi đạo loại trí làm đạo vô gián, đều duyên nơi loại trí phẩm đạo của chín địa, cùng làm nhân do chủng loại như nhau. Khi khởi diệt pháp trí làm đạo vô gián, chỉ duyên nơi các hành diệt của cõi dục. Khi khởi đạo pháp trí làm đạo vô gián, đều duyên nơi pháp trí phẩm đạo của sáu địa.

Như dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến dựa nơi Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Có sai khác: Là dựa nơi ba vô sắc, không có hai pháp trí, không duyên nơi diệt địa dưới. Trong đây, tất cả địa không duyên với khổ, tập nơi địa dưới, do đã lìa nhiễm nơi địa dưới, khởi vô dụng.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của tĩnh lự thứ nhất.

Diệt loại trí có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Đạo loại trí duyên chung nơi loại trí phẩm đạo của chín địa. Diệt pháp trí chỉ duyên nơi các hành diệt của cõi dục. Đạo pháp trí duyên chung nơi pháp trí phẩm đạo của sáu địa.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của tĩnh lự thứ hai.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất. Có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí như trước đã nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của tĩnh lự thứ ba.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất. Có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai. Có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba cho đến Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí như trước đã nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của tĩnh lự thứ tư.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, cho đến có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư và Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất cho đến tĩnh lự thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai cho đến Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba cho đến Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư cho đến Vô sở hữu xứ. Năm, sáu, bảy, tám địa hợp duyên như trước đã nói.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí cũng như trước đã nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của Không vô biên xứ, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của Không vô biên xứ.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, cho đến có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Không, Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư và Không, Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Không, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Bốn, năm, sáu, bảy, tám địa hợp duyên như trước đã nói.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí cũng như trước đã nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của Thức vô biên xứ.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, cho đến có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Không, Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư và Không, Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Không, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn, năm, sáu, bảy, tám địa hợp duyên như trước đã nói.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí cũng như trước đã nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của Vô sở hữu xứ.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, cho đến có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ hai, thứ ba. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ ba, thứ tư. Có khi duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ tư và Không vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Không, Thức vô biên xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Có khi duyên nơi các hành diệt của Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám địa hợp duyên như trước đã nói.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí cũng như trước đã nói.

Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khổ tập loại trí chỉ duyên nơi khổ tập của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Diệt loại trí có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của tĩnh lự thứ nhất, cho đến có khi chỉ duyên nơi các hành diệt của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám địa hợp duyên như trước đã nói.

Đạo loại trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí cũng như trước đã nói.

Như vậy, dựa vào tĩnh lự thứ hai khởi đạo vô gián, khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cho đến dựa vào Vô sở hữu xứ khởi đạo vô gián, lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ cùng lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, như chỗ ứng hợp đều nên nói rộng. Có sai khác: Là ba địa vô sắc, trừ hai pháp trí, cùng không thể duyên nơi diệt của địa dưới. Như vậy tức nói sinh nơi cõi dục, nếu sinh nơi cõi sắc và cõi vô sắc, tất cả pháp trí đều không hiện khởi, vì sinh nơi địa trên thì không duyên nơi diệt của địa dưới.

Như đạo vô gián, thì đạo giải thoát cũng như vậy, chỉ trừ lìa nhiễm nơi phẩm hạ hạ của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì đạo giải thoát chỉ nhận đạt được có khổ tập loại trí.

HẾT – QUYỂN 186