LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 189

Chương 8: KIẾN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ NIỆM TRỤ, phần 3

Nếu nhập chánh tánh ly sinh, hiện quán về khổ, tập đều nơi bốn khoảnh tâm, hiện quán về đạo nơi ba khoảnh tâm, hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn, hiện tại tu một hành tướng, vị lai tu bốn, đồng phần tu, không phải không đồng phần. Hiện quán về diệt nơi bốn khoảnh tâm, hiện tại tu pháp niệm trụ, tức ở đây vị lai cũng tu. Không phải là quán uẩn vô lậu đầu tiên diệt, tức có thể tu đạo duyên nơi uẩn, nên hiện tại tu một hành tướng, vị lai tu bốn, đồng phần tu, không phải không đồng phần, do chủng tánh vô lậu mới được, sức chưa rộng.

Đạo loại trí nơi pháp niệm trụ, hiện tại tu, vị lai tu bốn, đồng phần và không đồng phần đều tu, hiện tại tu một hành tướng, vị lai tu mười sáu, do chủng tánh vô lậu đã được uy thế tăng rộng.

Từ đó trở lên, tất cả bậc Thánh khởi căn thiện chưa từng được, khi nó hiện tiền vị lai đều tu bốn niệm trụ với mười sáu hành tướng, chỉ trừ tuệ do văn, tư tạo thành. Và khi nhập định diệt với tâm vi vi, hết thảy phàm phu khác lại không có hành tướng Thánh, nên từ đây trở về sau chỉ nói tu niệm trụ nhiều ít, không nói hành tướng.

Nếu các phàm phu khi lìa nhiễm nơi cõi dục do đạo gia hạnh, thì bốn niệm trụ tùy theo một, hiện tại tu, vị lai tu bốn. Khi được chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn.

Như lìa nhiễm nơi cõi dục, cho đến lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ ba cũng như vậy.

Lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, nếu tức dùng tĩnh lự thứ tư làm gia hạnh, khi nhờ đạo gia hạnh ấy, thì bốn niệm trụ tùy một, hiện tại tu, vị lai tu bốn. Nếu dùng cận phần của Không vô biên xứ làm gia hạnh, các người muốn khiến địa cận phần kia có duyên riêng, khi được các đạo gia hạnh ấy nơi bốn niệm trụ tùy một, hiện tại tu, vị lai tu bốn. Khi được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn. Khi được đạo giải thoát thứ chín thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu ba trừ thân niệm trụ. Các vị muốn khiến địa cận phần kia chỉ duyên chung, tức khi được các đạo gia hạnh ấy chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát thì hiện tại tu pháp niệm trụ, tức ở đây vị lai cũng tu. Lúc được đạo giải thoát thứ chín, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu ba trừ thân niệm trụ.

Như lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, cho đến lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Có khác là trừ thân niệm trụ. Tức các phàm phu khi khởi quán bất tịnh, trì tức niệm nơi thân niệm trụ, là khi đạt ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, cùng dẫn phát thần cảnh, thiên nhãn, thiên nhĩ thông, thì hiện tại tu thân niệm trụ, vị lai tu bốn. Khởi ba niệm trụ sau, hiện tại tùy tu một, vị lai tu bốn. Lúc khởi bốn vô lượng, dẫn phát túc trụ tùy niệm thông, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn. Lúc dẫn phát tha tâm thông, thì tâm niệm trụ hoặc thọ tâm pháp niệm trụ, tùy một hiện tại tu, vị lai tu bốn. Nếu khi khởi giải thoát vô sắc và ba niệm trụ sau thì nơi ba niệm trụ sau tùy một, hiện tại tu, vị lai tu ba trừ thân niệm trụ. Hoặc khi khởi biến xứ của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu ba trừ thân niệm trụ. Đó gọi là phần vị phàm phu đã tu có sai biệt.

Nếu các bậc Thánh lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi được tất cả đạo gia hạnh, thì bốn niệm trụ tùy một, hiện tại tu, vị lai tu bốn. Khi được tất cả đạo vô gián, đạo giải thoát, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn. Bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc Thời giải thoát luyện căn tạo bất động, khi được tất cả đạo gia hạnh thì bốn niệm trụ tùy một, hiện tại tu, vị lai tu bốn. Khi được tất cả đạo vô gián, đạo giải thoát, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn.

Nếu các bậc Thánh khởi quán bất tịnh, trì tức niệm nơi thân niệm trụ, khi được ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, cùng dẫn phát thần cảnh, thiên nhãn, thiên nhĩ và khởi từ vô ngại giải, thì hiện tại tu thân niệm trụ, vị lai tu bốn. Nếu tạp tu tĩnh lự và những vị muốn khiến tất cả pháp đều là thắng nghĩa, thì khởi nghĩa vô ngại giải, biện vô ngại giải, nguyện trí, định biên vực, giải thoát vô sắc, khi nhập định diệt tưởng, tâm vi tế, thì bốn niệm trụ tùy một, hiện tại tu, vị lai tu bốn. Nếu lúc khởi bốn vô lượng, túc trụ tùy niệm thông và các vị muốn khiến chỉ có Niết-bàn là thắng nghĩa, thì khởi nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, vô tránh, hai biến xứ sau, không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng, thì hiện tại tu pháp niệm trụ, vị lai tu bốn. Nếu khi dẫn phát tha tâm thông thì tâm niệm trụ hoặc thọ tâm pháp niệm trụ và khi khởi ba niệm trụ sau thì tùy một hiện tại tu, vị lai tu bốn.

Đó gọi là ở xứ này đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Nếu tu thân niệm trụ là tu thọ niệm trụ chăng? Nếu như tu thọ niệm trụ là tu thân niệm trụ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp tu thân niệm trụ không tu thọ niệm trụ: Nghĩa là đã được thân niệm trụ hiện tiền. Do pháp từng được khi hiện tiền không có năng lực đạt tới vị lai nên không tu thọ niệm trụ, nhưng hiện tiền là tu tập nên nói tu thân niệm trụ.

Hỏi: Cũng có khi chưa được thân niệm trụ hiện tiền, không tu thọ niệm trụ. Như khi chưa từng được thân niệm trụ do văn tư tạo thành hiện tiền, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Trong đây là dựa vào niệm trụ do tu tạo thành để tạo luận. Không có khi chưa được thân niệm trụ do tu tạo thành hiện tiền, không tu thọ niệm trụ, cho nên không nói.

2. Có trường hợp tu thọ niệm trụ không tu thân niệm trụ: Nghĩa là đã được thọ niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì không tu thân. Nếu chưa được tâm, pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ, không tu thân.

Đã được thọ niệm trụ hiện tiền: Như trước đã giải thích.

Chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì không tu thân: Nghĩa là các phàm phu lìa nhiễm nơi Không vô biên xứ cho đến Vô sở hữu xứ, nếu dùng thọ niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, nếu các phàm phu khởi thọ niệm trụ, giải thoát vô sắc, tức vào lúc như thế chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì tu thọ không tu thân.

Chưa được tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thọ không tu thân: Nghĩa là các phàm phu lìa nhiễm nơi Không vô biên xứ cho đến Vô sở hữu xứ, nếu dùng tâm niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, nếu các phàm phu khởi tâm niệm trụ, giải thoát vô sắc, tức vào lúc như thế chưa được tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thọ không tu thân.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ không tu thân: Nghĩa là các phàm phu lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, khi được đạo giải thoát sau cùng, lìa nhiễm nơi Không vô biên xứ cho đến nhiễm nơi Vô sở hữu xứ. Nếu dựa vào địa căn bản dưới khởi pháp niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, nếu dựa nơi địa cận phần trên làm gia hạnh, tức các vị muốn khiến cho cận phần vô sắc có duyên riêng. Nếu dùng pháp niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, tức các vị muốn khiến cho cận phần vô sắc chỉ duyên duyên, là khi chỉ được đạo giải thoát thứ chín. Nếu các phàm phu khởi pháp niệm trụ, giải thoát vô sắc và khi khởi hai biến xứ sau, tức vào lúc như thế chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ không tu thân.

3. Có trường hợp cùng tu cả hai: Nghĩa là chưa được thân niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì tu thân. Nếu chưa được tâm, pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ.

Chưa được thân niệm trụ hiện tiền: Nghĩa là tăng trưởng phần vị noãn, đảnh nơi thân niệm trụ hiện tiền. Nếu lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dùng thân niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, hoặc bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, Thời giải thoát luyện căn tạo bất động, thân niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, nếu khởi quán bất tịnh, trì tức niệm nơi thân niệm trụ, ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, dẫn phát thần cảnh, thiên nhãn, thiên nhĩ thông, khi khởi từ vô ngại giải. Hoặc dùng thân niệm trụ khi tạp tu tĩnh lự, các vị muốn khiến tất cả pháp là thắng nghĩa, ở đó khởi nghĩa vô ngại giải của thân niệm trụ và biện vô ngại giải của thân niệm trụ, nguyện trí, định biên vực, giải thoát vô sắc, khi nhập định diệt tưởng, tâm vi tế, tức vào lúc như thế chưa được thân niệm trụ hiện tiền tức tu thân, thọ.

Chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì tu thân: Nghĩa là tăng trưởng phần vị noãn, đảnh khi thọ niệm trụ hiện tiền. Nếu lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dùng thọ niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, hoặc bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc Thời giải thoát luyện căn tạo bất động, thọ niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, nếu dẫn phát tha tâm thông, khi thọ niệm trụ hiện tiền. Hoặc dùng thọ niệm trụ khi tạp tu tĩnh lự, tức các vị muốn khiến tất cả pháp là thắng nghĩa, liền khởi nghĩa vô ngại giải của thọ niệm trụ và biện vô ngại giải của thọ niệm trụ, nguyện trí, định biên vực, giải thoát vô sắc, khi nhập định diệt tưởng, tâm vi tế, tức vào lúc như thế chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ.

Chưa được tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ: Nghĩa là làm tăng trưởng phần vị noãn, đảnh, khi tâm niệm trụ hiện tiền. Nếu lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dùng tâm niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, hoặc bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc Thời giải thoát luyện căn tạo bất động, tâm niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, hoặc dẫn phát tha tâm thông, khi tâm niệm trụ hiện tiền. Hoặc dùng tâm niệm trụ khi tạp tu tĩnh lự, tức các vị muốn khiến tất cả pháp là thắng nghĩa, liền khởi nghĩa vô ngại giải của tâm niệm trụ và biện vô ngại giải của tâm niệm trụ, nguyện trí, định biên vực, giải thoát vô sắc, khi nhập định diệt tưởng, tâm vi tế, tức vào lúc như thế chưa được tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ: Nghĩa là phần vị noãn đầu tiên duyên nơi ba đế, noãn tăng trưởng duyên nơi bốn đế, khi pháp niệm trụ hiện tiền. Hoặc đảnh ban và đã tăng trưởng duyên nơi bốn đế, khi pháp niệm trụ hiện tiền. Hoặc khi tất cả nhẫn và pháp thế đệ nhất, hoặc nhập chánh tánh ly sinh, hiện quán về khổ tập đạo nơi đều nơi bốn khoảnh tâm. Hoặc lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dùng pháp niệm trụ làm gia hạnh, khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát đó, hoặc bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc Thời giải thoát luyện căn tạo bất động, pháp niệm trụ làm gia hạnh, khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát ấy, hoặc dẫn phát tha tâm trí thông, khi pháp niệm trụ hiện tiền và dẫn phát túc trụ tùy niệm thông, khởi bốn vô lượng. Hoặc dùng pháp niệm trụ tạp tu tĩnh lự, tức các vị muốn khiến tất cả pháp là thắng nghĩa, liền khởi nghĩa vô ngại giải của pháp niệm trụ, các vị muốn khiến chỉ có Niết-bàn là thắng nghĩa, liền khởi nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, vô tránh, hai biến xứ sau, không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Hoặc khởi biện vô ngại giải của pháp niệm trụ, nguyện trí, định biên vực, giải thoát vô sắc, nhập diệt định tưởng, tâm vi tế, tức vào lúc như thế chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ.

4. Có trường hợp cùng không tu cả hai: Nghĩa là đã được tâm, pháp niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thân, thọ. Tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký, ở nơi định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi trời Vô tưởng.

Đã được tâm, pháp niệm trụ hiện tiền: Như trước đã giải thích.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thân, thọ: Nghĩa là phần vị noãn đầu tiên duyên nơi diệt đế, hoặc nhập chánh tánh ly sinh, hiện quán về diệt nơi bốn khoảnh tâm. Nếu các phàm phu lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư cho đến nhiễm nơi Vô sở hữu xứ, tức các vị muốn khiến cận phần vô sắc chỉ duyên chung. Nếu dùng cận phần của địa trên làm gia hạnh, khi được tất cả đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, tức vào lúc như thế chưa được pháp niệm trụ hiện tiền đều không tu thân, thọ.

Tất cả tâm nhiễm ô: Nghĩa là tâm nhiễm ô đều thuận theo phần thoái chuyển, tánh chìm nặng, tương ưng với biếng trễ. Chính là tâm thuận theo thắng tấn, tánh nhẹ nhàng, tương ưng với tinh tấn mới có thể tu.

Tâm vô ký: Nghĩa là tâm vô ký tánh yếu kém, hư hoại, tàn tạ. Chính là trụ nơi tâm mạnh mẽ, vững chắc mới có thể tu được.

Ở nơi định vô tưởng, định diệt tận: Nghĩa là nơi hai định ấy không có tâm. Chính là phải có tâm mới có thể tu.

Sinh nơi trời Vô tưởng: Có thuyết nói: Sinh vào cõi ấy thì nơi tất cả thời tâm thiện không khởi. Có thuyết cho: Tuy có khởi nhưng không phải là chỗ dựa cho sự tu tập, do không thể tu pháp vị lai.

Vào lúc như thế là không tu thân, thọ.

Hỏi: Cũng có khi chưa được tâm niệm trụ hiện tiền không tu thân, thọ. Như khi chưa từng được tâm niệm trụ do văn, tư tạo thành hiện tiền, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Trong đây nói khi chưa từng được tâm niệm trụ hiện tiền, có thể tu vị lai nhưng không tu thân thọ, không phải chưa từng được tâm niệm trụ hiện tiền, có thể tu vị lai nhưng không tu thân thọ, cho nên không nói.

Hỏi: Nếu như vậy cũng nên nói tất cả tâm thiện phân tán, vì sao chỉ nói tâm nhiễm ô, tâm vô ký?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Do tâm kia không quyết định, khó dùng gì để nêu xưng. Nghĩa là nếu dùng tu để nói thì nó không có lực để có thể tu vị lai. Nếu dùng không tu để nói thì khi hiện tiền là thuộc về tu tập. Thế nên ở đây tu không tu đều không nói.

Như thân niệm trụ và thọ niệm trụ, nên biết thân niệm trụ và tâm niệm trụ cũng như vậy. Do nơi vị lai, thọ niệm trụ, tâm niệm trụ, tu – không tu tất cùng có.

Hỏi: Nếu tu thân niệm trụ là tu pháp niệm trụ chăng? Nếu như tu pháp niệm trụ là tu thân niệm trụ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp tu thân niệm trụ không tu pháp niệm trụ: Nghĩa là đã được thân niệm trụ hiện tiền. Đây như trước đã giải thích.

2. Có trường hợp tu pháp niệm trụ không tu thân niệm trụ: Nghĩa là đã được pháp niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thân. Nếu chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền thì tu pháp, không tu thân.

Đã được pháp niệm trụ hiện tiền: Như trước đã giải thích.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thân: Nghĩa là nơi phần vị noãn đầu tiên duyên nơi diệt đế, nếu nhập chánh tánh ly sinh, hiện quán về diệt nơi bốn khoảnh tâm. Như các phàm phu lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, tức các vị muốn khiến cận phần của Không vô biên xứ chỉ duyên chung, nếu dùng nó làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy cùng chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Nếu các phàm phu lìa nhiễm nơi Không vô biên xứ cho đến nhiễm nơi Vô sở hữu xứ, dùng pháp niệm trụ làm gia hạnh, khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát. Hoặc các phàm phu khởi pháp niệm trụ, giải thoát vô sắc và khi khởi hai biến xứ sau, vào lúc như thế chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thân.

Chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì tu pháp, không tu thân: Như trước nói về chưa được thọ niệm trụ hiện tiền thì không tu thân.

Chưa được tâm niệm trụ hiện tiền thì tu pháp, không tu thân: Như nói về thọ.

3. Có trường hợp cùng tu cả hai: Nghĩa là chưa được thân niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thân. Nếu chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thân, pháp.

Chưa được thân niệm trụ hiện tiền: Là như trước nói về chưa được thân niệm trụ hiện tiền.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thân: Là như trước nói về chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thân, thọ.

Chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thân, pháp: Nghĩa là tăng trưởng phần vị noãn, đảnh khi thọ, tâm niệm trụ hiện tiền. Nếu lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ, tâm niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, hoặc bậc Tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc Thời giải thoát luyện căn tạo bất động, dùng thọ, tâm niệm trụ làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh ấy, hoặc dẫn phát tha tâm thông, khi thọ, tâm niệm trụ hiện tiền. Hoặc dùng thọ, tâm niệm trụ tạp tu tĩnh lự, tức các vị muốn khiến tất cả pháp là thắng nghĩa, liền khởi nghĩa vô ngại giải của thọ, tâm niệm trụ và biện vô ngại giải của thọ, tâm niệm trụ, nguyện trí, định biên vực, giải thoát vô sắc, nhập định diệt tưởng, tâm vi tế, tức vào lúc như thế chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền thì tu thân, pháp.

4. Có trường hợp cùng không tu cả hai: Nghĩa là đã được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền. Tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký, ở nơi định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi trời Vô tưởng: Đều như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu tu thọ niệm trụ là tu tâm niệm trụ chăng? Nếu như tu tâm niệm trụ là tu thọ niệm trụ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp tu thọ niệm trụ không tu tâm niệm trụ: Nghĩa là đã được thọ niệm trụ hiện tiền.

2. Có trường hợp tu tâm niệm trụ không tu thọ niệm trụ: Nghĩa là đã được tâm niệm trụ hiện tiền. Đều như trước đã giải thích.3

. Có trường hợp cùng tu cả hai: Nghĩa là chưa được thân, thọ niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ, tâm.

Chưa được thân niệm trụ hiện tiền: Như các lần trước nói về chưa được thân niệm trụ hiện tiền.

Chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền: Như các lần trước nói về chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ, tâm: Như các lần trước nói về chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu những niệm trụ khác.

4. Có trường hợp cùng không tu cả hai: Nghĩa là đã được thân, pháp niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thọ, tâm. Tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký, ở nơi định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi trời Vô tưởng.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thọ, tâm: Là như các lần trước nói về chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu niệm trụ khác.

Ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu tu thọ niệm trụ là tu pháp niệm trụ chăng? Nếu như tu pháp niệm trụ là tu thọ niệm trụ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp tu thọ niệm trụ không tu pháp niệm trụ: Nghĩa là đã được thọ niệm trụ hiện tiền: Như trước đã giải thích.

2. Có trường hợp tu pháp niệm trụ không tu thọ niệm trụ: Nghĩa là đã được pháp niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thọ.

Đã được pháp niệm trụ hiện tiền: Như trước đã giải thích.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu thọ: Là như các lần trước nói về chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì không tu niệm trụ khác.

3. Có trường hợp cùng tu cả hai: Nghĩa là chưa được thân, thọ, tâm niệm trụ hiện tiền. Nếu chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ.

Chưa được thân niệm trụ hiện tiền: Là như các lần trước nói về chưa được thân niệm trụ hiện tiền.

Chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền: Là như các lần trước nói về chưa được thọ, tâm niệm trụ hiện tiền.

Chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu thọ: Là như các lần trước nói về chưa được pháp niệm trụ hiện tiền thì tu niệm trụ khác.

4. Có trường hợp cùng không tu cả hai: Nghĩa là đã được thân, tâm niệm trụ hiện tiền. Tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký, ở nơi định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi trời Vô tưởng, đều như trước đã giải thích.

Như thọ niệm trụ – pháp niệm trụ, nên biết tâm niệm trụ – pháp niệm trụ cũng như vậy, vì nơi vị lai, thọ niệm trụ, tâm niệm trụ tu – không tu tất cùng có.

***

* Niệm trụ ở nơi thân tuần tự quán thân nên nói là pháp trí, cho đến nói rộng.

Hỏi: Văn nơi đây nên nói ở trước tu. Vì sao? Vì có tự tánh mới có thể tu. Nhưng không nói trước là có ý gì?

Đáp: A-tỳ-đạt-ma nên dùng tướng để cầu đạt, không dùng thứ lớp. Do A-tỳ-đạt-ma chính là muốn phân biệt tánh, tướng của các pháp chỉ là không trái với nghĩa của chúng, nên hoặc nói trước nói sau đều không có lỗi.

Có Sư khác nói: Trong đây chỉ muốn hiển bày về niệm trụ do tu tạo thành, không phải là niệm trụ do văn, tư tạo thành, nên trước nói tu, sau nêu rõ về tự tánh.

Niệm trụ ở nơi thân tuần tự quán thân: Nên nói là pháp trí, nghĩa là nhận biết sắc thuộc cõi dục và một phần sắc vô lậu. Nên nói là loại trí, nghĩa là nhận biết sắc thuộc cõi sắc và một phần sắc vô lậu.

Không nói tha tâm trí vì tha tâm trí nhận biết tâm tâm sở pháp, còn thân niệm trụ chỉ nhận biết sắc pháp. Nên nói là thế tục trí, nghĩa là nhận biết tất cả sắc.

Nên nói là khổ trí, nghĩa là nhận biết sắc hữu lậu, tạo các hành tướng vô thường khổ không vô ngã. Nên nói là tập trí, nghĩa là nhận biết sắc hữu lậu, tạo các hành tướng nhân tập sinh duyên. Không nói diệt trí vì diệt trí chỉ nhận biết pháp vô vi, còn thân niệm trụ nhận biết pháp hữu vi. Nên nói là đạo trí, nghĩa là nhận biết sắc vô lậu, tạo các hành tướng đạo như hành xuất.

Ở đây không nói tận trí, vô minh trí, do đây là kiến uẩn, chỉ nói các trí có tánh là kiến, hai trí kia tánh không phải là kiến, thế nên không nói.

Hiển bày về tự tánh rồi, nên hiển bày về địa: Nên nói là có tầm có tứ, nghĩa là nương nơi vị chí, tĩnh lự thứ nhất. Nên nói là không tầm chỉ có tứ, nghĩa là nương nơi tĩnh lự trung gian. Nên nói là không tầm không tứ, nghĩa là nương nơi ba tĩnh lự trên và bốn vô sắc.

Hiển bày về địa rồi, nên hiển bày về tương ưng: Nên nói là tương ưng với lạc căn, nghĩa là nương nơi tĩnh lự thứ ba. Nên nói là tương ưng với hỷ căn, nghĩa là nương nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Nên nói là tương ưng với xả căn, nghĩa là nương nơi vị chí, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ tư và bốn vô sắc.

Hiển bày về tương ưng rồi, nên hiển bày về hành tướng: Nên nói là kết hợp với Tam-ma-địa Không, nghĩa là hai hành tướng. Nên nói là kết hợp với Tam-ma-địa Vô nguyện, nghĩa là mười hành tướng. Không nói kết hợp với Tam-ma-địa Vô tướng, nghĩa là như không nói về diệt trí.

Hiển bày về hành tướng rồi, nên hiển bày về đối tượng duyên: Nên nói là duyên nơi thuộc cõi dục, cõi sắc, nghĩa là duyên nơi khổ, tập. Nên nói là duyên nơi không hệ thuộc, nghĩa là duyên nơi đạo.

Niệm trụ ở nơi thọ tuần tự quán thọ: Nên nói là pháp trí, nghĩa là nhận biết thọ thuộc cõi dục và một phần thọ vô lậu. Nên nói là loại trí, nghĩa là nhận biết thọ thuộc cõi sắc, cõi vô sắc và một phần thọ vô lậu.

Nên nói là tha tâm trí, nghĩa là nhận biết thọ thuộc cõi dục, cõi sắc cùng một phần thọ vô lậu nơi sự nối tiếp của kẻ khác đang hiện tiền.

Nên nói là thế tục trí, nghĩa là nhận biết tất cả thọ.

Nên nói là khổ trí, nghĩa là nhận biết thọ hữu lậu, tạo bốn hành tướng như vô thường v.v… Nên nói là tập trí, nghĩa là nhận biết thọ hữu lậu, tạo bốn hành tướng như nhân v.v… Không nói diệt trí, do thọ niệm trụ chỉ nhận biết pháp hữu vi. Nên nói là đạo trí, nghĩa là nhận biết thọ vô lậu, tạo bốn hành tướng như đạo v.v… Không nói các trí khác, như trước đã giải thích.

Hiển bày về tự tánh rồi, hiển bày về địa, tương ưng, hành tướng đều như trước đã nêu.

Nên hiển bày về đối tượng duyên: Nên nói là duyên nơi thuộc ba cõi, nghĩa là duyên nơi khổ tập. Nên nói là duyên nơi không hệ thuộc, nghĩa là duyên nơi đạo.

Như đối với thọ, đối với tâm niệm trụ cũng như vậy, do hai thứ này về đối tượng duyên luôn tương ưng

Niệm trụ ở nơi pháp tuần tự quán pháp: Nên nói là pháp trí, nghĩa là nhận biết các hành thuộc cõi dục cùng nhân diệt tất cả phẩm pháp trí của chúng.

Nên nói là loại trí, nghĩa là nhận biết các hành thuộc cõi sắc, vô sắc cùng nhân, diệt, tất cả phẩm loại trí của chúng.

Nên nói là tha tâm trí, nghĩa là nhận biết về tâm tâm sở pháp thuộc cõi dục, cõi sắc và một phần tâm tâm sở pháp vô lậu nơi sự nối tiếp của kẻ khác đang hiện tiền, cùng tâm tâm sở pháp khác, trừ thọ.

Nên nói là thế tục trí, nghĩa là nhận biết tất cả pháp.

Nên nói là khổ trí, nghĩa là nhận biết năm thứ uẩn, tạo bốn hành tướng như vô thường v.v… Nên nói là tập trí, nghĩa là nhận biết nhân hữu lậu tạo bốn hành tướng như nhân v.v… Nên nói là diệt trí, nghĩa là nhận biết trạch diệt, tạo bốn hành tướng như diệt v.v… Nên nói là đạo trí, nghĩa là nhận biết năm uẩn vô lậu tạo bốn hành tướng như đạo v.v… Không nói các trí khác, cũng như trước đã giải thích.

Hiển bày về tự tánh rồi, hiển bày về địa, tương ưng, như trước đã nói.

Nên hiển bày về hành tướng: Nên nói là kết hợp với Tam-mađịa Không, Vô nguyện, cũng như trước đã giải thích. Nên nói là kết hợp với Tam-ma-địa Vô tướng, nghĩa là bốn hành tướng.

Hiển bày về hành tướng rồi, nên hiển bày về đối tượng duyên: Nên nói là duyên nơi thuộc ba cõi, nghĩa là duyên nơi khổ tập. Nên nói là duyên nơi không hệ thuộc, nghĩa là duyên nơi diệt đạo.

***

* Như nói: Khi nhận lạc thọ thì nhận biết như thật là ta nhận lạc thọ, ở đây do bốn trí, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao trong đây hai lần phân biệt về thọ, tâm, pháp niệm trụ, còn thân niệm trụ chỉ phân biệt một lần?

Đáp: Do ý muốn của người tạo luận là như vậy, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Trong đây, Đức Thế Tôn cũng nói như thế.

Hỏi: Người kia lúc hành trụ v.v… nhận biết như thật là ta hành trụ v.v… bốn trí này, cho đến nói rộng. Nhưng không nói là có ý gì?

Đáp: Nếu pháp vi tế khó thấy, khó biết, không rõ ràng, không hiện thấy thì nên phân biệt lần nữa. Còn thân niệm trụ thì thô, hiển, cho đến hiện thấy, nên không nói lần nữa.

Có thuyết nói: Nếu dựa vào pháp kia khởi các thứ văn cú không tương tợ, khác tướng cùng trí khác tướng thì phân biệt lần nữa. Thân niệm trụ nếu khi phân biệt, văn cú không khác, trí cũng không khác, nên không nói lần nữa.

Hỏi: Khi nhận lạc thọ thì không nhận biết như thật. Khi nhận biết như thật thì không nhận lạc thọ. Vì sao? Vì khi nhận lạc thọ thì sự thọ nhận kia ở nơi hiện tại, không phải khi ấy có thể nhận biết như thật. Không nhận biết về tương ưng nên không có hai phẩm tâm cùng hành. Khi nhận biết như thật thì sự thọ nhận kia ở nơi quá khứ, vị lai, không phải khi ấy gọi là nhận lạc thọ, vì không có tác dụng. Nói về khổ thọ, thọ không khổ không lạc cũng như vậy. Vì sao Đức Phật nói: Khi nhận lạc thọ thì nhận biết như thật là ta nhận lạc thọ v.v…?

Đáp: Có thuyết nói: Ở đây nên nói như vầy: Nhận lạc thọ rồi thì nhận biết như thật là ta đã nhận lạc thọ. Nhận khổ thọ, thọ không khổ không lạc rồi thì nhận biết như thật là ta đã nhận khổ thọ, thọ không khổ không lạc. Nhưng không nói như thế là có ý gì? Nên biết, trong đây nói đã nhận gọi là nhận, đối với quá khứ nói tiếng hiện tại. Như nói Đại vương từ nơi nào tới? Đây là nói đã tới gọi là tới. Lại như nói: Khi Bồ-tát nhập chánh tánh ly sinh, được thế tục trí hiện quán biên. Đây là nói đã nhập gọi là nhập. Sự việc kia cũng như thế.

Tôn giả Thế Hữu nói: Khi các thọ ở nơi quá khứ, vị lai thì không thể thọ nhận. Khi ở nơi hiện tại, chỉ tự tánh chuyển thì cũng không thể thọ nhận. Vì sao nói nhận lạc, nhận khổ? Nên biết đó là quán các vật dụng lạc khổ nối tiếp mà nói. Nghĩa là quán vật dụng lạc nối tiếp để nói: Tôi nhận lạc. Quán vật dụng khổ nối tiếp mà nói:

Tôi nhận khổ.

Lại nữa, người kia quán nhân duyên của khổ vui nối tiếp mà nói. Nghĩa là quán nhân duyên thâu nhận nối tiếp mà nói: Tôi nhận lạc. Quán nhân duyên tổn hại nối tiếp mà nói: Tôi nhận khổ.

Lại nữa, người kia khi ở nơi các thọ nối tiếp chuyển, trung gian thường khởi ý thức của cảnh kia, liền cho nơi chỗ dựa đó là có ích hay tổn hại nên nói: Tôi nay đang nhận lạc, khổ.

Đại đức nói: Người kia ở trong chỗ dựa thọ nhận khổ, lạc là đại chủng nối tiếp chuyển cho đó là thọ nhận, nên nói: Tôi nay nhận khổ, nhận lạc.

Như nói: Khi nhận lạc thọ thì nhận biết như thật: Tôi nhận lạc thọ, ở đây do bốn trí tức là pháp, loại, thế tục, đạo.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói tha tâm trí?

Đáp: Tha tâm trí nhận biết tâm tâm sở pháp trong sự nối tiếp của kẻ khác. Ở đây, trí như thật nhận biết về tâm tâm sở pháp nối tiếp của chính mình, cho nên không nói.

Lại nữa, tha tâm trí nhận biết tâm tâm sở pháp hiện tại, còn trong đây trí như thật nhận biết về tâm tâm sở pháp quá khứ.

Lại nữa, tha tâm trí chỉ nhận biết về tâm tâm sở pháp, còn trong đây trí như thật cũng nhận biết cả đối tượng duyên và chỗ dựa của tâm tâm sở pháp.

Lại nữa, tha tâm trí duyên nơi mỗi mỗi pháp, còn trong đây trí như thật cũng duyên chung nơi nhiều pháp. Do đó nên không nói tha tâm trí.

Hỏi: Trong đây lại vì sao cũng không nói khổ trí, tập trí?

Đáp: Có thuyết nói: Trong đây cũng nên nói khổ trí, tập trí, nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Khổ trí, tập trí là trí có hành tướng chán bỏ. Còn trong đây trí như thật là trí có hành tướng vui vẻ, thế nên không nói.

Có thuyết nêu: Khổ trí, tập trí duyên nơi các sự việc chán bỏ. Còn trong đây trí như thật thì duyên nơi các sự việc vui vẻ.

Có thuyết cho: Khổ trí, tập trí là ghét bỏ đối tượng duyên mà chuyển. Còn trí như thật trong đây thì yêu thích đối tượng duyên mà chuyển.

Có thuyết nói: Trong đây nói nhận biết như thật về tâm tâm sở pháp hữu lậu, vô lậu. Nhưng tâm tâm sở pháp hữu lậu thì từ vô thỉ đã thường nhận biết, lại thô, gần, dễ rõ, khởi thế tục trí tức có thể nhận biết ngay, không đợi khởi trí vô lậu. Thế nên không bỏ thế tục trí mà dùng khổ trí, tập trí để nhận biết. Tâm tâm sở pháp vô lậu thì trước đến giờ chưa nhận biết, lại vi tế khó rõ, khởi trí vô lậu mới có thể nhận biết. Thế nên ở đây nhận biết như thật về tâm tâm sở pháp hữu lậu, chỉ dùng thế tục trí, nhận biết như thật về tâm tâm sở pháp vô lậu là ba trí kia, do đó không nói có khổ trí, tập trí.

Có thuyết nêu: Trong đây nói nhận biết như thật về sự tướng sai khác của tâm tâm sở pháp hữu lậu, vô lậu. Tâm tâm sở pháp hữu lậu thì khởi thế tục trí tức nhận biết lại không khởi khổ trí, tập trí do khó khởi, và khi khởi chỉ nhận biết tổng tướng. Tâm tâm sở pháp vô lậu, nếu khởi thế tục trí thì không thể nhận biết, nên liền khởi đạo trí. Nhưng đạo trí sinh tuy không như trước chỉ nhận biết sai biệt, tuy nhiên do tổng tướng tức nhận biết sự sai biệt nên có đạo trí, không có khổ trí, tập trí.

Có thuyết nói: Ở đây là nhận biết như thật về hành tướng sai biệt của tâm tâm sở pháp hữu lậu, vô lậu. Nhưng hành tướng của tâm tâm sở pháp hữu lậu phần nhiều không duyên nơi đế, nếu như hiện có duyên cũng chưa khéo thành tựu, nên chỉ dùng thế tục trí tạo hành tướng không phải đế, là nhận biết như thật về hành tướng sai biệt của chúng. Hành tướng của tâm tâm sở pháp vô lậu đều là duyên nơi đế, rất khéo thành tựu nên trở lại lấy đạo trí tạo hành tướng của đế tức nhận biết như thật về hành tướng sai biệt của chúng. Thế nên, ở đây không có khổ trí, tập trí.

Không nói tận trí, vô sinh trí: Đây là Phần Kiến Uẩn, chỉ nói về các trí tánh là kiến. Hai trí kia tánh không phải là kiến, cho nên không nói.

Trong đây: Pháp trí là nhận biết lạc thọ của phẩm pháp trí.

Loại trí là nhận biết lạc thọ của phẩm loại trí.

Thế tục trí là nhận biết lạc thọ hữu lậu.

Đạo trí là nhận biết lạc thọ vô lậu.

Tuy không một lạc thọ nào do bốn trí nhận biết, nghĩa là nếu hữu lậu thì một trí nhận biết, nếu vô lậu thì ba trí nhận biết, nhưng do nói chung nên nói bốn trí nhận biết như thật về lạc thọ.

Có thuyết nói: Lạc thọ vô lậu là do bốn trí nhận biết.

Khi nhận khổ thọ thì nhận biết như thật là nhận khổ thọ, ở đây do một trí là thế tục, vì khổ thọ chỉ là hữu lậu, nên thế tục trí nhận biết.

Khi nhận thọ không khổ không lạc thì nhận biết như thật là nhận không khổ không lạc, bốn trí này là pháp, loại, thế tục, đạo nhận biết, như nói về nhận biết lạc thọ.

HẾT – QUYỂN 189