LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 74

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 4

Hỏi: Vì sao phải kiến lập nội xứ và ngoại xứ? Là căn cứ vào pháp hay căn cứ vào ngã để lập? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều cùng có lỗi. Vì sao? Vì nếu căn cứ vào pháp, nhưng pháp không có tác dụng. Ở trong tất cả pháp không có tác dụng làm sao kiến lập nội xứ, ngoại xứ? Nếu căn cứ vào ngã thì ngã không có thật tánh, như vậy làm thế nào căn cứ vào ngã để kiến lập nội xứ, ngoại xứ?

Đáp: Chỉ căn cứ vào pháp kiến lập, nhưng không phải là tất cả. Nghĩa là sáu thức thân là nơi chốn nương dựa của các pháp nhiễm, tịnh. Nếu cùng với sáu thức làm đối tượng nương dựa gọi là nội xứ. Còn nếu làm đối tượng duyên cho sáu thức gọi là ngoại xứ. Thế nên dựa vào pháp để kiến lập tên gọi nội xứ, ngoại xứ. Lại nữa, nếu pháp là căn thì lập làm nội xứ. Nếu pháp là nghĩa của căn thì lập làm ngoại xứ. Lại nữa, nếu pháp là có cảnh thì lập làm nội xứ. Nếu pháp là cảnh thì lập làm ngoại xứ.

Có thuyết nói: Căn cứ vào ngã để kiến lập nội xứ, ngoại xứ. Vì ngã tức là tâm, là chỗ vin dựa của ngã, nên đối với tâm ấy trước hết giả lập tên gọi là ngã.

Như Khế kinh nói:

Do khéo điều phục ngã

Bậc trí được sinh thiên

Nên khéo chế ngự tâm

Tâm điều phục nên vui.

Đã khéo chế ngự tâm, tức khéo điều phục ngã. Nên biết nơi tâm trước hết giả lập tên gọi ngã. Nơi chốn nương dựa của ngã ấy lập làm nội xứ. Còn đối tượng duyên của ngã thì lập làm ngoại xứ. Nhưng tên gọi nội hay ngoại đều không phải là viên thành thật. Nghĩa là đối với ta là trong, đối với người khác là ngoài. Còn đối với ta là ngoài, đối với người khác là trong. Thế nên dựa vào một thứ để lập ra trong, ngoài, không phải là tên gọi, không phải là không quyết định.

Như Khế kinh nói: Này các Bí-sô! Nên nhận biết đúng như thật về sáu nội xứ.

Hỏi: Đối với sáu ngoại xứ cũng nên nhận biết đúng như thật. Vì sao Đức Thế Tôn lại chỉ khuyên nên nhận biết đúng như thật về sáu nội xứ?

Đáp: Vì Đức Thế Tôn muốn khuyên hàng đệ tử chú trọng nhiều các pháp bên trong để tu tập về tĩnh lự. Do đó, như Khế kinh nói: Này các Bí-sô! Hãy nên quán các căn bên trong, không nên duyên nơi các thứ bên ngoài.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn khuyên các hàng đệ tử nên chuyên tu tĩnh lự bên trong, không nên theo đuổi nơi nhiều thứ khác. Như Khế kinh nói: Này các Bí-sô! Hãy nên tu định bên trong, chớ lầm chấp theo nẻo tăng trưởng là thường, lạc, ngã, tịnh. Này các Bí-sô! Nên tu định bên trong, luôn quán sát đúng như thật các hành là vô thường, khổ, không, vô ngã, nhân, tập, sinh, duyên. Hãy do tám thứ hành tướng của Thánh tuệ này để trong mọi lúc nên quán sát các hữu.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn khiến các hàng đệ tử đối với nội tâm cần nên tu tập tĩnh lự bất cộng. Như Đức Thế Tôn nói: Này các Bí-sô! Hãy nên tu định bên trong, chớ nên tu tập các thứ tĩnh lự chung. Nghĩa là phải quán sát kỹ về “thô, khổ, chướng nơi tĩnh, diệu, lìa”. Các Bí-sô hãy nên tu định nơi nội tâm, tức nên tu tập tĩnh lự không chung, luôn quán sát các hữu, xem nó như các thứ bệnh hoạn, như ung nhọt, ghẻ lở, như tên độc não hại, là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Phải luôn dùng tám thứ gậy tầm tứ thù thắng này mà xô ngã, dứt bỏ hết thảy các thứ sinh ra hữu.

Lại nữa, trong Khế kinh ấy chỉ khuyên quán sát sáu nội xứ do nội là nơi chốn nương dựa cho các ngoại xứ, nên cũng khuyên bảo cần quán sát các xứ bên ngoài. Vì sao? Vì khi có ngã liền có ngã sở, khi có ngã kiến liền có ngã sở kiến, khi có năm thứ ngã kiến liền có mười lăm thứ ngã sở kiến. Khi có ngã chấp nên có ngã sở chấp, khi có ngã si nên có ngã sở si, khi có ngã ái nên có ngã sở ái v.v… là để nuôi sống ngã bên trong, nên luôn tìm cầu các vật dụng bên ngoài.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn khiến các hàng đệ tử nên trước hết đối với các pháp bên trong tu tập môn niệm trụ. Nghĩa là người tu hành trước phải duyên lấy các pháp bên trong tu tập niệm trụ, khi đã thành tựu đầy đủ mới duyên với các pháp bên ngoài.

Do vô số các nhân duyên như thế nên Đức Thế Tôn chỉ khuyên quan sát, thật biết các xứ bên trong.

Hỏi: Như Khế kinh nói có sáu nội xứ, Khế kinh lại nói có sáu xúc xứ. Vậy hai thứ sáu xứ đó có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Hai thứ ấy không có khác nhau. Vì sao? Vì sáu nội xứ tức là sáu xúc xứ, sáu xúc xứ chính là sáu nội xứ, tên gọi có khác nhưng nghĩa không khác.

Lại có thuyết cho: Cũng có sai khác, tức tên gọi là sai biệt. Một gọi là sáu nội xứ, một gọi là sáu xúc xứ. Lại nữa, các đồng phần gọi là sáu xúc xứ, đồng phần kia gọi là sáu nội xứ. Lại nữa, các thứ có thể sinh ra pháp gọi là sáu xúc xứ, các thứ không thể sinh ra pháp gọi là sáu nội xứ. Lại nữa, nếu có nghiệp dụng gọi là sáu xúc xứ, nếu không có nghiệp dụng gọi là sáu nội xứ.

Hoặc có thuyết nêu: Các thứ ở hiện tại gọi là sáu xúc xứ, các thứ ở quá khứ, vị lai gọi là sáu nội xứ. Lại nữa, các thứ đã sinh gọi là sáu xúc xứ, các thứ chưa sinh gọi là sáu nội xứ.

Hoặc có thuyết nói: Các thứ thuộc quá khứ và hiện tại gọi là sáu xúc xứ, các thứ thuộc vị lai gọi là sáu nội xứ. Lại nữa, các thứ đang là chỗ nương dựa cho các pháp tâm và tâm sở gọi là sáu xúc xứ, các thứ không phải đang là chỗ nương dựa cho các pháp tâm tâm sở, chỉ chuyển dời không dứt gọi là sáu nội xứ. Lại nữa, sáu xứ như mắt v.v… có nghĩa làm nơi nương dựa cho xúc chạm gọi là sáu xúc xứ, còn các thứ có nghĩa là chỗ nương dựa cho các pháp tâm và tâm sở khác gọi là sáu nội xứ.

Hiếp Tôn giả nói: Khi nói về tự tánh của sáu xứ như mắt v.v… gọi là sáu nội xứ, còn nếu có sự tạo tác gọi là sáu xúc xứ. Như bình bát của Bí-sô, khi nói về tự tánh thì chỉ gọi là Bát, khi Bí-sô sử dụng thì gọi là bát của Bí-sô.

Tôn giả Vọng Mãn cũng nói: Khi nói về tự thể của sáu xứ như mắt v.v… gọi là sáu nội xứ, khi làm chỗ nương dựa cho xúc gọi là sáu xúc xứ. Cũng như bát sắt đựng sữa, nói về tự tánh chỉ gọi là bát sắt, nhưng khi đựng đầy tô sữa gọi là bát sắt sữa.

Hỏi: Sáu xứ như mắt v.v… cũng là chỗ nương dựa của thọ v.v…, vì sao chỉ gọi là xúc xứ, không gọi là thọ xứ?

Đáp: Cũng nên gọi là thọ xứ v.v…, nhưng không gọi, nên biết là nghĩa đó nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, Khế kinh nêu phần thù thắng cũng gồm luôn việc làm rõ phần kém sút. Nghĩa là đối với tất cả tâm và tâm sở thì xúc là nổi bật, thù thắng, cho nên khi gọi là xúc xứ, nên biết cũng gồm luôn việc làm rõ thọ xứ.

Lại nữa, các tâm và tâm sở lấy xúc làm thọ mạng, xúc nhận giữ, xúc dẫn dắt phát khởi, do sức mạnh của xúc nên có thể hiện tiền, vì thế gọi là xúc xứ. Nghĩa là đối với cảnh của tâm và tâm sở luôn lưu động phân tán, do xúc thâu giữ khiến chúng được hòa hợp.

Lại nữa, nếu không có xúc thì các tâm và tâm sở chỉ là thây chết, không thể xúc đối giao tiếp, vì cảnh nơi đối tượng duyên của chính mình đều do sức của xúc mà có tác dụng của xúc cảnh. Cũng như có mạng căn thì thân mới có thể tiếp xúc, tri giác. Thế nên mắt v.v… chỉ gọi là xúc xứ.

Như Khế kinh nói: Sáu nội xứ gọi là bờ này, sáu ngoại xứ gọi là bờ kia.

Hỏi: Sáu nội – ngoại xứ cùng với bờ này, bờ kia có gì giống nhau mà nói như thế?

Đáp: Vì chúng làm đối tượng nương dựa và duyên cho tâm tâm sở, có gần có xa giống với bờ này bờ kia nên nói như thế. Như hai bờ sông, gần gọi là bờ này, còn xa gọi là bờ kia. Như vậy sáu xứ cùng với tâm tâm sở làm đối tượng nương dựa, vì gần nên như bờ này. Còn khi chúng làm đối tượng duyên, vì xa nên như bờ kia.

Lại nữa, các tâm và tâm sở ấy khi mới nhập vào là đã vượt qua, cũng như bờ này, bờ kia nên nói như thế. Như các hữu tình khi mới lội vào sông gọi là bờ này, lúc đã lội qua tới phần sông bên kia gọi là bờ kia. Cũng vậy, khi làm đối tượng nương dựa cho tâm tâm sở pháp là như mới lội vào sông nên gọi là bờ này, còn khi làm đối tượng duyên cho chúng thì như đã lội qua sông nên gọi là bờ kia. Do đấy, các nội – ngoại xứ gọi là bờ này, bờ kia.

Lại nữa, trong Khế kinh nói: Niết-bàn tịch diệt gọi là bờ kia, Niết-bàn chỉ thuộc về ngoại xứ, đã gọi là bờ kia, nên sáu nội xứ được gọi là bờ này.

Như Khế kinh nói: Tát-ca-da là bờ này, diệt hết Tát-ca-da là bờ kia. Tát-ca-da tức là sinh tử. Ở trong sinh tử thì sáu nội xứ là vượt hơn, nên sáu nội xứ được gọi là bờ này. Khi sáu nội xứ đã được gọi là bờ này thì sáu ngoại xứ được gọi là bờ kia.

Hỏi: Ở đây, pháp gì như dòng sông mà nói sáu nội ngoại xứ là bờ này, bờ kia?

Đáp: Tâm tâm sở pháp như dòng sông, còn các nội xứ ngoại xứ như bờ này và bờ kia. Như có dòng sông chảy xiết tràn bờ này bờ kia, cuốn theo các vật hữu tình, vô tình cùng hướng ra biển cả. Tâm tâm sở pháp cũng lại như thế. Nó lôi cuốn các loài hữu tình do các nội ngoại xứ thâu giữ cùng trôi ra biển cả của sinh già bệnh chết.

Hỏi: Đối với dòng sông này thì cái gì là thuyền bè?

Đáp: Tám chi Thánh đạo như là thuyền bè lớn, nhờ đấy hàng trăm ngàn chúng sinh nương vào đó, từ bờ bên này vượt dòng sông chảy xiết đến bờ bên kia theo ý thích hợp. Như vậy, vô lượng vô biên hữu tình nương nhờ vào Thánh đạo từ bờ sông sinh tử bên này vượt qua đến bờ Niết-bàn bên kia để được tự tại. Tám Thánh đạo cũng như là thuyền bè.

Như Khế kinh nói: Có tám thắng xứ, có mười biến xứ.

Hỏi: Tám thứ và mười thứ ấy cũng đều gọi là xứ, vì sao chỉ nói có mười hai xứ?

Đáp: Tám xứ và mười xứ ấy đều do mười hai xứ này gồm thâu. Nghĩa là tự tánh của chúng là cùng có tương ưng, tức ở đây là do ý xứ, pháp xứ thâu giữ.

Như Khế kinh nói: Có bốn vô sắc xứ, tức là Không vô biên xứ,

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ v.v… Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn đối với bốn vô sắc ấy lại dùng tiếng xứ để gọi?

Đáp: Đây là nhằm phá chấp cho là giải thoát của ngoại đạo, vì họ chấp bốn vô sắc này là bốn Niết-bàn: 1. Chấp Không vô biên xứ gọi là Niết-bàn vô thân. 2. Chấp Thức vô biên xứ gọi là Niết-bàn vô biên ý. 3. Chấp Vô sở hữu xứ gọi là Niết-bàn tịnh tụ. 4. Chấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ gọi là Niết-bàn thế gian Tốt-đổ-ba. Vì để phá chấp Niết-bàn của ngoại đạo như thế, nên gọi bốn vô sắc là sinh xứ, không phải là chân giải thoát. Giải thoát thật sự mới gọi là Niết-bàn.

Như Khế kinh nói: Có hai thứ xứ: 1. Vô tưởng hữu tình xứ. 2. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói hai xứ này?

Đáp: Vì nhằm phá bỏ tưởng giải thoát của ngoại đạo. Nghĩa là các ngoại đạo khởi tưởng cho hai xứ này là giải thoát. Nhằm phá bỏ tưởng chấp ấy, nên Đức Phật nói hai nơi này gọi là sinh xứ, không phải là giải thoát thật sự.

Lại nữa, vì nhằm phá bỏ tưởng Bất hoàn của ngoại đạo. Nghĩa là các ngoại đạo khởi tưởng cho hai xứ này là Bất hoàn. Vì để phá bỏ tưởng chấp đó, nên Đức Phật nói hai xứ ấy gọi là xứ thối hoàn, tức là ở hai xứ ấy chết rồi sẽ sinh trở lại ở các cõi, các nẻo, các loài, mãi lưu chuyển trong sinh tử không bao giờ ngừng nghỉ, không bao giờ hết kỳ hạn.

Lại nữa, vì nhằm phá bỏ ý tưởng không tan hoại của ngoại đạo. Nghĩa là các ngoại đạo chấp cho hai xứ này là giải thoát thật sự, không còn bị tan hoại. Vì để phá bỏ tưởng chấp đó, nên Đức Phật nói hai nơi này là xứ tan hoại, tức ở đấy chết rồi tan hoại, hướng tới các cõi, các nẻo, các loài, lưu chuyển trong sinh tử không có kỳ hạn chấm dứt. Hoặc từ cõi trời Vô tưởng, hữu tình khi chết rồi nhất định sẽ tan hoại, thọ sinh vào cõi dục. Hoặc từ cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi chết rồi, không phải là Thánh sẽ tan hoại thọ sinh nơi cõi dưới.

Lại nữa, vì thấy ở hai cõi này có thọ mạng lâu dài, nên ngoại đạo chấp cho là giải thoát, thật sự đó chỉ là chốn thọ sinh của các phàm phu có được thọ lượng lâu dài, không vượt qua cõi trời Vô tưởng. Nghĩa là thọ lượng của cõi này là năm trăm đại kiếp. Nơi chốn thọ sinh của tất cả hữu tình có thọ lượng lâu dài nhất không đâu vượt hơn cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì thọ mạng ở đó lâu đến tám vạn đại kiếp. Vì để trừ bỏ lối chấp của ngoại đạo cho hai xứ ấy là giải thoát, nên Đức Phật gọi hai chốn này là sinh xứ, không phải là giải thoát thật sự.

Lại nữa, Đức Phật đối với các xứ khác thì dùng hai tên gọi để nói, một là Hữu tình cư, hai là Thức trụ. Đối với hai xứ này cũng dùng hai tên để gọi, tức một là Hữu tình cư, hai là xứ, nên hai chốn đó dùng tiếng xứ để nói nghĩa là xứ thọ sinh.

Lại nữa, Đức Phật nói các thức trụ nhất định là Hữu tình cư, nhưng có Hữu tình cư không phải là Thức trụ. Nghĩa là hai xứ này hiển bày không phải là không có thức trụ nên nói tên là xứ, tức có nghĩa là chỗ ở của loài hữu tình.

Như Khế kinh nói: Tôn giả Xá-lợi-tử đi đến chỗ Đức Phật, thưa: Đại đức Thế Tôn! Nêu ra các xứ, thật không có gì hơn. Nghĩa là mười hai xứ này bao gồm tất cả pháp. Đây là do Đức Thế Tôn đã dùng trí kiến rốt ráo, trọn vẹn. Vượt qua trí kiến ấy thì không còn có pháp nào làm đối tượng thấy biết. Nên nếu có Sa-môn, Bà-la-môn biết rõ các pháp vượt hơn Đức Thế Tôn, thì không có điều ấy.

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-tử do đâu nhận biết mười hai xứ này là bao gồm hết tất cả pháp để tán thán: Đức Thế Tôn đã nêu ra các xứ là không gì hơn?

Đáp: Do lời dạy mà nhận biết. Tức Tôn giả Xá-lợi-tử đã chứng được bốn chứng tịnh nên đối với các điều Đức Phật giảng nói đều quyết định tin tưởng thọ trì. Vì từng được nghe Đức Thế Tôn nêu bày mười hai xứ này gồm thâu tất cả pháp, do đó nên Tôn giả nhận biết.

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-tử đối với mười hai xứ này chỉ có giáo trí, không có chứng trí chăng?

Đáp: Cũng có chứng trí. Nghĩa là Tôn giả Xá-lợi-tử đối với mười hai xứ này cũng có thể nơi mỗi mỗi xứ chứng biết thuận hợp.

Hỏi: Mười hai xứ này, Đức Phật và Tôn giả Xá-lợi-tử đều có thể đối với mỗi mỗi xứ chứng biết thuận hợp, thế thì giữa Đức Phật và Tôn giả Xá-lợi-tử có gì khác biệt?

Đáp: Mười hai xứ này, Đức Phật chứng biết về tự tướng và cộng tướng của chúng với từng thứ một, còn Tôn giả Xá-lợi-tử chỉ chứng biết nơi cộng tướng, về tự tướng của chúng thì chưa có thể đối với mỗi mỗi xứ chứng biết như thật. Tức trong mười hai xứ này bao gồm vô lượng vô số các xứ sai biệt, Tôn giả Xá-lợi-tử cần có người khác chỉ bày mới có thể nhận biết.

Lại nữa, đối với mười hai xứ này, Tôn giả Xá-lợi-tử nơi mỗi mỗi xứ đều chứng biết là do người khác hướng dẫn chỉ bày, còn Đức Phật thì do chính Ngài tự nhận biết không do người khác giải thích chỉ dạy.

Lại nữa, đối với mười hai xứ này, Đức Phật có đủ Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí, còn Tôn giả Xá-lợi-tử thì chỉ có Nhất thiết trí, không có Nhất thiết chủng trí.

Lại nữa, đối với mười hai xứ này, Đức Phật không phải nương vào sáu thức mới chứng biết chúng là như thế, còn Tôn giả Xá-lợitử đối với mười hai xứ này cần phải nương vào sáu thức mới có thể chứng biết chúng chính là như thế. Nghĩa là Tôn giả Xá-lợi-tử khởi suy niệm: Hết thảy thức thân chỉ có sáu thứ thức thân, nhất định là có đối tượng nương dựa và đối tượng duyên. Đối tượng nương dựa và đối tượng duyên này nhất định là có mười hai thứ, nên mười hai xứ này không tăng không giảm.

Lại nữa, Tôn giả Xá-lợi-tử đối với mười hai xứ ấy tuy chứng biết rõ nơi mỗi mỗi xứ, nhưng trước đó cần phải tư duy về các pháp của Phật đã giảng nói. Nghĩa là trước đó Đức Phật đã giảng nói tên của mười hai xứ, tiếp sau, Đức Phật phân biệt giải thích từng thứ một. Đức Thế Tôn phân tích giải thích xong mười một xứ thì Tôn giả Xá-lợi-tử nghĩ: Trong mười một xứ trước không có gồm thâu các pháp, thế thì nhất định phải gồm thâu vào một pháp xứ sau cùng, nên mới nói: Đại đức Thế Tôn đã nêu ra các xứ không gì hơn được. Tức mười hai xứ này thâu giữ hết tất cả các pháp. Đức Phật chứng biết tướng của mười hai xứ ấy không do tư duy theo các lời giảng dạy của người khác, còn Tôn giả Xá-lợi-tử tuy cũng chứng biết tướng của mười hai xứ, nhưng so với trí tuệ của Phật thì hết sức sai biệt. Thế nên mới kính gọi Đức Phật là đấng Vô Thượng Tôn.

***

* Năm uẩn: 1. Sắc uẩn. 2. Thọ uẩn. 3. Tưởng uẩn. 4. Hành uẩn. 5. Thức uẩn.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt rộng nghĩa của Khế kinh. Nghĩa là trong Khế kinh có nói về năm uẩn là sắc uẩn v.v… cho đến thức uẩn. Tuy nói như thế, nhưng lại không giải thích rộng. Kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những điều Kinh kia không nói nay muốn nói đến, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là Sắc uẩn?

Đáp: Như Khế kinh nói: Các sắc hiện có đều là bốn đại chủng và do bốn đại chủng tạo nên.

Có Kinh khác lại nói: Thế nào là Sắc uẩn? Đó là các sắc hiện có hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc kém hoặc hơn, hoặc xa hoặc gần v.v… tất cả như thế tóm chung lại thành một nhóm gọi là sắc uẩn, cho đến thức uẩn nói rộng cũng như vậy.

Luận A-tỳ-đạt-ma nói: Thế nào là Sắc uẩn? Là mười sắc xứ và sắc thuộc về pháp xứ. Đó gọi là Sắc uẩn.

Hỏi: Ba xứ vừa nêu về nghĩa có gì khác nhau?

Đáp: Đều là nhằm ngăn chận tông chỉ đã nêu của người khác.

Hỏi: Như Khế kinh nói: Các sắc hiện có đều là bốn đại chủng và do bốn đại chủng tạo nên. Đây là nhằm ngăn chận thuyết nào?

Đáp: Đây là nhằm ngăn chận chủ thuyết của Giác Thiên v.v… Nghĩa là Đức Phật quán xét trong đời vị lai có Giác Thiên v.v… tạo ra thuyết: Ngoài bốn đại chủng thì không có một pháp nào được tạo riêng. Vì để ngăn chận thuyết này, nên nói các sắc hiện có đều là bốn đại chủng và do bốn đại chủng tạo nên, là hiển bày lìa đại chủng còn có sắc được tạo.

Hỏi: Có Kinh khác lại nói: Các sắc hiện có hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại v.v… cho đến nói rộng. Đây là nhằm ngăn chận thuyết nào?

Đáp: Đây là nhằm ngăn chận thuyết đã nêu bày của ngoại đạo. Khi Phật còn tại thế, có ngoại đạo xuất gia tên là Trượng Kế chủ trương bác bỏ cho không có quá khứ, vị lai. Để ngăn chận ý tưởng đó, nên Đức Thế Tôn nói: Các sắc hiện có hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại v.v… cho đến nói rộng. Đây là chỉ rõ có các sắc ở quá khứ và vị lai.

Hỏi: Luận A-tỳ-đạt-ma có nói: Thế nào là Sắc uẩn? Đó là mười sắc xứ và sắc thuộc về pháp xứ. Đây là nhằm ngăn chận thuyết nào?

Đáp: Đây là nhằm ngăn chận thuyết của phái Thí Dụ. Nghĩa là phái Thí Dụ bác bỏ cho không có các sắc thuộc về pháp xứ. Ở đây, Tôn giả Pháp Cứu cũng nói: Các sắc hiện có đều là đối tượng nương dựa, là đối tượng duyên của năm thức thân. Như vậy làm sao sắc ấy không phải là đối tượng nương dựa, là đối tượng duyên của năm thức thân? Vì nhằm ngăn chận ý tưởng ấy, nên nói: Thế nào là Sắc uẩn? Đó là mười sắc xứ cùng sắc thuộc về pháp xứ.

Hỏi: Nếu các sắc do pháp xứ thâu giữ là thật có thì lời nói của Tôn giả Pháp Cứu làm sao thông được?

Đáp: Bất tất cần phải thông suốt, vì không phải là ba Tạng. Nếu cần phải thông suốt thì nên dựa ngay vào câu nói ấy: Các sắc hiện có đều là đối tượng nương dựa của năm thức và đối tượng duyên của sáu thức. Sắc thuộc về pháp xứ tuy không phải là đối tượng nương dựa, là đối tượng duyên của năm thức, nhưng là sắc thuộc đối tượng duyên của ý thức. Lại nữa, các sắc do pháp xứ thâu giữ đều nương vào bốn đại chủng mà được sinh ra, nên từ chỗ nương để nói ở trong đối tượng duyên của thân thức, do đó lời nói của Tôn giả Pháp Cứu cũng không có lỗi.

Hỏi: Thế nào là Thọ uẩn?

Đáp: Là sáu thọ nơi thân, tức là nhãn xúc sinh ra thọ v.v… cho đến ý xúc sinh ra thọ. Như Khế kinh cùng A-tỳ-đạt-ma đều nói như thế.

Hỏi: Thế nào là Tưởng uẩn?

Đáp: Là sáu tưởng nơi thân, tức là nhãn xúc sinh ra tưởng v.v… cho đến ý xúc sinh ra tưởng. Như Khế kinh và A-tỳ-đạt-ma đều nói như thế.

Hỏi: Thế nào là Hành uẩn?

Đáp: Khế kinh nói: Đây là sáu tư nơi thân, tức là mắt tiếp xúc sinh ra tư, cho đến ý tiếp xúc sinh ra tư. A-tỳ-đạt-ma nói: Hành uẩn này tóm tắt có hai thứ, là hành tương ưng và hành không tương ưng v.v… cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở trong hành uẩn tương ưng và không tương ưng, Đức Thế Tôn chỉ nói riêng tư là hành uẩn mà không phải là các hành khác?

Đáp: Vì tư ở trong việc thiết lập pháp hành uẩn là đứng đầu, vì tư có khả năng dẫn đạo, thâu giữ, nuôi sống các hành, cho nên Đức Phật đã nêu riêng. Cũng như ái là đứng đầu trong việc thiết lập pháp tập đế, vì ái có khả năng dẫn đường thâu tóm nuôi lớn các tập, cho nên Đức Phật đã nêu riêng. Lại nữa, tạo tác các pháp hữu vi nên gọi là hành, tự tánh của tư là tạo tác, gây dựng, các pháp khác thì không như thế, nên Đức Phật nói riêng tư là hành uẩn.

Hỏi: Thế nào là Thức uẩn?

Đáp: Là sáu thức thân, tức là nhãn thức cho đến ý thức. Khế kinh và A-tỳ-đạt-ma đều nói như vậy. Như thế gọi là tự tánh, là bản tánh, tướng phần, tự thể ngã vật của các uẩn.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là uẩn, uẩn là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa tụ tập là nghĩa của uẩn. Nghĩa hòa hợp là nghĩa của uẩn. Nghĩa tích chứa là nghĩa của uẩn. Nghĩa tóm lược là nghĩa của uẩn. Nếu thiết lập đời tức là thiết lập uẩn. Nếu nhiều tăng ngữ tức là tăng ngữ của uẩn.

Nghĩa tụ tập là nghĩa của uẩn: Nghĩa là các sắc hiện có hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, nói rộng cho đến hoặc xa hoặc gần, tất cả như thế chung hợp lại làm một nhóm, lập làm sắc uẩn v.v… cho đến thức uẩn có nghĩa tụ tập cũng như thế.

Nghĩa hòa hợp là nghĩa của uẩn: Nghĩa là các sắc hiện có, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, nói rộng cho đến hoặc xa hoặc gần, tất cả như thế chung lại thành một hòa hợp lập làm sắc uẩn v.v… cho đến thức uẩn có nghĩa hòa hợp cũng như thế.

Nghĩa tích chứa là nghĩa của uẩn: Nghĩa là như vô số các thứ vật gom chung lại thành một nhóm tích chứa, gọi là nhóm tạp vật, các sắc như thế gom chung lại thành một khối tích chứa, lập làm sắc uẩn v.v… cho đến thức uẩn có nghĩa tích chứa cũng như thế.

Nghĩa tóm lược là nghĩa của uẩn: Nghĩa là các sắc hiện có hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại, nói rộng cho đến hoặc gần hoặc xa, tất cả như thế tóm lược chung lại một chỗ lập làm sắc uẩn v.v… cho đến thức uẩn có nghĩa tóm lược cũng như thế.

Hỏi: Các sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại có thể tóm lược nhóm tụ lại được chăng?

Đáp: Tuy không thể tóm lược nhóm tụ về thể của chúng, nhưng có thể tóm lược nhóm tụ các tên gọi của chúng, cho đến thức uẩn nên biết cũng như thế.

Hỏi: Nếu như thế các pháp vô vi cũng nên lập thành uẩn. Tên của các pháp vô vi cũng thể tóm lược nhóm tụ lại được chăng?

Đáp: Các pháp hữu vi vì có tác dụng nên có nghĩa tóm lược nhóm tụ, tuy thể của chúng có lúc không thể tóm lược nhóm tụ, nhưng lại tóm lược nhóm tụ được tên của chúng, thành lập các uẩn như sắc v.v… Còn các pháp vô vi vì không có tác dụng nên không có nghĩa tóm lược nhóm tụ, tuy có thể tập hợp tên của chúng, nhưng không thể lập làm uẩn.

Nếu thiết lập đời tức là thiết lập uẩn: Nghĩa là sắc uẩn có thể thiết lập có ba đời, cho đến thức uẩn cũng có thể thiết lập có ba đời.

Nếu nhiều tăng ngữ tức là tăng ngữ của uẩn: Nghĩa là như có nhiều tiền của gọi là tài uẩn, nhiều lúa thóc gọi là cốc uẩn, nhiều quân lính gọi là quân uẩn. Tuy số đông người đó không hề chồng chất lên nhau, nhưng cùng làm một việc nên gọi là quân. Như vậy, vô số vô lượng các thứ sắc cực vi tuy cách xa nhau, nhưng do chúng tương đồng nên hợp lại lập thành sắc uẩn. Cho đến thức uẩn có vô lượng sát-na tuy cách nhau rất xa nhưng cùng giống nhau nên hợp lại lập làm thức uẩn.

Hỏi: Nếu nhiều tăng ngữ tức là tăng ngữ của uẩn thì có một cực vi cũng gọi là sắc uẩn chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Không phải một cực vi có thể lập sắc uẩn. Nếu lập sắc uẩn được cần phải có nhiều cực vi.

Lại có thuyết cho: Mỗi mỗi cực vi đều có tướng của uẩn, nên cũng có thể đều lập riêng làm sắc uẩn. Nếu một cực vi không có tướng của sắc uẩn, thì tụ tập rất nhiều cực vi cũng không thành uẩn.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nêu: Nếu quán uẩn giả, nên nói như thế: Một cực vi là một giới, một xứ và phần ít của uẩn. Nếu không quán uẩn giả, nên nói: Một cực vi là một giới, một xứ, một uẩn. Như một người đến bên đống lúa lượm lên một hạt. Người khác hỏi: “Ông lấy gì đó?”. Nếu người này nhìn thấy đống lúa sẽ trả lời: “Tôi lấy một hạt của đống lúa”. Còn nếu không để ý nhìn thấy đống lúa thì trả lời: “Tôi đang lấy hạt lúa”. Cho đến thức uẩn mỗi mỗi sát-na hỏi đáp cũng như thế.

Như vậy là đã giải thích xong tên gọi chung của các uẩn. Nay nên phân biệt rõ về thứ lớp của các uẩn.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn trước nêu Sắc uẩn, cho đến sau cùng nói Thức uẩn?

Đáp: Vì thuận theo tướng giải thích, khẳng định của văn từ. Lại nữa, tùy theo người giảng nói, người nhận pháp và người thọ trì để nêu bày thứ lớp nơi các pháp. Lại nữa, tùy theo tính cách thô, tế của các pháp mà có thứ lớp trước sau. Nghĩa là trong năm uẩn, sắc uẩn là thô hơn hết nên Đức Phật nói trước, bốn uẩn còn lại thì thọ uẩn là thô nhất nên được nói tiếp sau sắc uẩn.

Hỏi: Bốn uẩn như thọ v.v… không có phương xứ, cũng không có hình chất, làm sao có thể nói là có thô có tế?

Đáp: Tuy không có phương xứ, cũng không có hình chất, nhưng căn cứ vào hành tướng để lập tên thô, tế. Như người đời thường nói: Tay chân tôi bị đau, đầu bụng tôi bị đau nhức, gân xương tôi bị đau nhức v.v… Đau nhức tức là thọ, vì thọ giống như sắc nên có thể nêu đặt, do đó đối với các uẩn vô sắc thì nói thọ là thô nhất. Ba uẩn còn lại thì tưởng là thô hơn cả, như nam nữ cùng nghĩ tưởng thì dễ nhận biết, nên nói tưởng tiếp sau thọ. Hai uẩn sau cùng thì tướng của hành uẩn là thô, như tướng của tham sân si dễ nhận biết, nên hành được nói sau tưởng. Còn thức uẩn thì rất vi tế, giữ lấy chung cảnh tướng khó nhận biết, nên nói sau cùng.

Lại nữa, từ vô thỉ đến nay, nam nữ đối với sắc lại cùng yêu thích, nên sắc được nói trước. Lại cùng yêu thích sắc là do tham thọ vị, nên tiếp theo là nói thọ. Tham thọ vị này là do tưởng điên đảo, do đó tiếp đến là nói về tưởng. Tưởng điên đảo ấy là do các phiền não gây ra, nên kế đấy là nói về hành. Tất cả các phiền não này nương vào thức sinh khởi làm nhiễm ô các thức, nên thức được nêu bày sau cùng.

Lại nữa, có hai cách quán về sắc để đối với việc nhập vào pháp Phật làm cửa cam lồ, đó là quán bất tịnh và quán sổ tức, nên nói sắc trước. Khi đã quán sắc rồi tức có thể thấy lỗi của thọ, nên tiếp theo là nói về thọ. Do thấy rõ lỗi của thọ nên các tưởng không còn điên đảo, vì vậy tiếp đến là nêu tưởng. Vì tưởng không còn điên đảo nên phiền não không sinh, thế là nói về hành. Do không còn phiền não nên thức liền được thanh tịnh, nên thức nêu bày sau hết.

Lại nữa, sắc uẩn như đồ vật chứa đựng để uẩn vô sắc làm chỗ dựa, làm đối tượng duyên, nên nói sắc trước. Thọ như ăn uống, chính là chỗ tham, nên kế tiếp là nói thọ. Tưởng như các thứ gia vị, do tưởng điên đảo nên tham đắm các thọ, nên tưởng được nói sau thọ. Còn hành như người đầu bếp, các phiền não nơi nghiệp đều có thể tạo tác, nên tiếp theo là nói về hành. Thức như người ăn, có thể phân biệt rõ về cảnh, nên nói sau cùng.

Lại nữa, căn cứ vào giới, địa nên nói năm thứ trước sau. Nghĩa là trong cõi dục có các dục diệu sắc tướng hiển bày rõ, nên sắc được nói trước. Trong các tĩnh lự có những thọ như hỷ lạc, tướng trạng hiện rõ, nên tiếp theo nói về thọ. Ba vô sắc trước đều lấy tướng như không v.v… mà tưởng được hiển bày rõ nhất, nên tiếp đến là nói về tưởng. Ở địa Hữu đảnh thì tư là hành thù thắng bậc nhất, tướng hiện rõ, nên sau đấy là nói đến hành. Bốn thứ như sắc v.v… là bốn thức trụ, thức là chủ thể nương vào, nên được nói sau cùng.

Hỏi: Năm uẩn hữu vi đều nên gọi là hành, vì sao chỉ có một thứ lập riêng là hành?

Đáp: Như mười tám giới tuy đều là pháp, nhưng chỉ có một thứ lập tên là pháp giới, nói rộng cho đến Tam bảo, Tam quy tuy đều là pháp, nhưng chỉ lập một thứ là pháp bảo, pháp quy. Như thế, năm uẩn này tuy đều là hành, nhưng chỉ đối với một thứ lập tên là hành uẩn, cũng không có lỗi.

Lại nữa, hành uẩn chỉ có một tên, còn các uẩn khác thì có hai tên. Một tên, tức là tên chung, nghĩa là cả năm uẩn đều là hành. Hai tên, nghĩa là tên chung và tên không chung, tên chung như trước đã nói, tên không chung tức bốn uẩn còn lại, vì muốn dễ hiểu nên dùng tên không chung. Hành uẩn lại không có tên không chung, chỉ làm rõ tên chung, nên gọi là hành uẩn.

Lại nữa, tướng sinh của tất cả hành sinh khởi chỉ ở nơi uẩn này thâu giữ, nên gọi riêng là hành uẩn.

Lại nữa, bốn tướng hữu vi là cờ hiệu ấn phong của tất cả hành, phân biệt rõ hữu vi khác với vô vi, và tướng đó chỉ ở nơi uẩn này thâu giữ, nên riêng gọi là hành uẩn.

Lại nữa, các thứ danh, cú, văn thân giảng giải, khẳng định, nhằm làm sáng tỏ sự khác nhau về tánh tướng, về tác dụng của các hành, khiến dễ hiểu, dễ nhận biết v.v…, ba thứ kia (danh, cú, văn thân) chỉ ở nơi uẩn này thâu giữ, nên gọi riêng là hành uẩn.

Lại nữa, hiểu biết tất cả các hành đều là không, vô ngã và môn giải thoát không cũng do uẩn này thâu giữ, nên gọi riêng là hành uẩn.

Hỏi: Tát-ca-da kiến (Thân kiến) chấp các hành là ngã, ngã sở và nó cũng do uẩn này thâu giữ, như vậy sao uẩn này không gọi là ngã uẩn?

Đáp: Tát-ca-da kiến là chấp trước hư vọng, không xứng hợp với thật tướng của các hành để lãnh hội, thế nên uẩn này không lập tên là ngã uẩn. Môn giải thoát không thì nhận biết thật tướng của hành, vì vậy uẩn này nương vào đó gọi là hành.

Lại nữa, khi phân biệt tự tướng – cộng tướng của các hành, an lập tự tướng – cộng tướng của các hành, phá bỏ sự ngu tối về tự tánh và sự ngu tối về đối tượng duyên, đối với tất cả hành không tăng không giảm, tuệ hiểu đúng như thật ấy cũng chỉ do uẩn này thâu giữ, nên gọi là hành uẩn, các uẩn khác thì không như thế, nên lập tên riêng.

Lại nữa, ở đây thâu giữ nhiều hành nên gọi là hành uẩn. Thâu giữ nhiều hành tức ở trong uẩn này có hành tương ưng và hành không tương ưng, có hành có chốn nương dựa và hành không có chốn nương dựa, có hành có đối tượng duyên và hành không có đối tượng duyên, có hành có hành tướng và hành không có hành tướng, có hành tỉnh biết và hành không có tỉnh biết v.v… Các uẩn khác thì không như thế, nên lập tên riêng.

Lại nữa, hành nghĩa là tạo tác, ở trong pháp hữu vi có thể tạo tác, thì tư là thù thắng, hơn hết, nhưng tư chỉ ở nơi hành uẩn này thâu giữ, nên hành uẩn này riêng gọi là hành.

Hỏi: Các tâm sở trong pháp đại địa v.v…, vì sao lập riêng thọ, tưởng làm uẩn, còn các tâm sở pháp khác không lập?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Chỉ Đức Phật là thấu suốt về tánh tướng, về tác dụng của các pháp có sai biệt, nên thấy pháp nào đủ sức riêng lập làm uẩn thì riêng lập làm uẩn, pháp nào không đủ sức riêng lập thành uẩn thì gom chung lại lập làm uẩn, vì vậy không nên vấn nạn.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn dùng tướng khác, văn khác để làm cho nghĩa lý thêm trang nghiêm nên nói như thế. Nghĩa là Đức Phật nếu dùng tướng và văn khác biệt để trang nghiêm cho nghĩa lý sẽ khiến kẻ được hóa độ vui vẻ thọ trì tu tập không chán nản.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn bày rõ hai môn, hai phương cách, hai trình độ, hai bậc thềm, hai ngọn đuốc, hai sự sáng tỏ, hai ánh sáng, hai bóng hình v.v… nên nói như thế. Nghĩa là như thọ, tưởng, mỗi thứ đều lập riêng thành uẩn, các tâm sở pháp khác cũng nên lập riêng, còn như các tâm sở khác hợp lại lập làm uẩn, thì thọ, tưởng cũng nên hợp lại lập làm uẩn. Như thế thì uẩn nên có vô lượng, hoặc chỉ có ba. Do hiện bày hai môn cho đến hai bóng hình, vì vậy uẩn có năm thứ không tăng không giảm.

Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ hai môn pháp yếu, thế nên lập riêng thọ, tưởng làm uẩn. Tức các tâm sở có thứ là tánh căn, có thứ không phải là tánh căn. Nếu khi nói lập riêng thọ làm uẩn, nên biết là đã nói tâm sở tánh căn. Nếu nói lập riêng tưởng làm uẩn, nên biết là đã nói tâm sở không phải tánh căn.

Như tánh căn, không phải tánh căn, thì tánh sáng – tánh không sáng, tánh hiện thấy – tánh không hiện thấy, tánh vui quán – tánh không vui quán, tánh vi diệu – tánh không vi diệu, tánh thù thắng – tánh không thù thắng, tánh có thế mạnh – tánh không có thế mạnh, tánh tăng thượng – tánh không tăng thượng v.v… nên biết cũng như thế.

Lại nữa, thọ, tưởng là đã hiển bày hai pháp, hai cõi, nên lập riêng làm uẩn. Tức thọ uẩn hiển bày nơi cõi sắc có các thọ như hỷ, lạc v.v… ở cõi ấy được tăng thêm. Còn tưởng uẩn là hiển bày nơi cõi vô sắc có các tưởng như không, thức v.v… ở cõi ấy được tăng thêm.

Lại nữa, do hai pháp này nên các Sư Du Già đối với hai cõi tỏ ra chán mệt, nên lập riêng làm uẩn. Nghĩa là do sức của thọ nên các Sư Du Già tỏ ra chán mệt đối với cõi sắc, và do sức của tưởng nên các Sư Du Già tỏ ra chán mệt đối với cõi vô sắc.

Lại nữa, các loài hữu tình tham đắm nơi lạc thọ, chấp tưởng điên đảo, nên sinh tử luân hồi chịu bao khổ não. Vì muốn khiến nhận biết rõ lỗi lầm của hai thứ đó nên riêng lập làm uẩn.

Lại nữa, hai pháp thọ, tưởng làm nhân phát khởi căn bản của hai thứ tranh chấp, hơn hẳn các pháp khác, nên lập riêng làm uẩn. Nghĩa là thọ có thể phát khởi nguồn gốc của tranh chấp về ái, còn tưởng có thể phát khởi nguồn gốc của tranh chấp về kiến.

Như có thể phát khởi nguồn gốc của hai thứ tranh chấp, như vậy, có thể phát khởi về hai tạp nhiễm, hai biên, hai loại tên độc, hai thứ hý luận, hai ngã sở v.v… nên biết cũng như thế.

Lại nữa, hai pháp thọ, tưởng lập riêng làm thức trụ nên lập riêng làm uẩn. Còn các thứ tâm sở pháp khác lập chung thành thức trụ nên cùng lập làm uẩn.

Lại nữa, các Sư Du Già chán ghét thọ, tưởng nên nhập vào định diệt tận, do đó lập riêng làm uẩn.

Như LuậnThi Thiết nói: Thế nào là gia hạnh để đắc định diệt tận? Do phương tiện nào để khởi định diệt tận? Nghĩa là người mới hành nghiệp tu, đối với tất cả hành không tạo các công dụng, cũng không suy nghĩ tìm hiểu, chỉ luôn nghĩ: Cái gì chưa sinh? Nên thọ, tưởng liền sinh. Cái gì đã sinh? Nên thọ, tưởng liền diệt. Khi nghĩ như thế rồi, tức có thể nhận biết đúng như nhật: Định diệt chưa sinh nên thọ tưởng được sinh, nếu định diệt sinh thì thọ tưởng liền diệt. Khi nhận biết như thế liền chán bỏ hai thứ thọ tưởng, cho đến không sinh đắc nơi định diệt tận.

Do các nhân duyên như thế nên lập riêng thọ tưởng mỗi thứ làm thành một uẩn.

Hỏi: Vô vi vì sao không lập thành uẩn?

Đáp: Vì không có tướng của uẩn, nên không lập làm uẩn. Nghĩa là uẩn thì có tướng nhóm hợp, chất chứa, mà vô vi thì không có tướng đó, nên không lập làm uẩn.

Lại nữa, vô vi là nơi chốn diệt rốt ráo của uẩn, nên không lập làm uẩn. Cũng như cái bình, chiếc áo v.v… đã hoàn toàn diệt mất rồi thì đâu còn là bình, áo nữa.

Lại nữa, các pháp hữu vi tương ưng với sinh diệt, có nhân có duyên, được tướng hữu vi, nên có thể lập làm uẩn. Các pháp vô vi thì không tương ưng với sinh diệt, không có nhân duyên, không được tướng hữu vi, nên không lập làm uẩn.

Lại nữa, các pháp hữu vi thì thuộc vào nhân vào duyên, nhân duyên hòa hợp, tức có thể lập làm uẩn. Các pháp vô vi thì trái với các tướng đó, nên không lập làm uẩn.

Lại nữa, các pháp hữu vi do sinh khởi hiện, do già làm suy yếu, do vô thường hủy diệt, nên có thể lập làm uẩn. Các pháp vô vi thì trái với các tướng đó, nên không lập làm uẩn.

Lại nữa, các pháp hữu vi lưu hành ở đời, nhận lấy quả, cho quả, có tác dụng có thể nhận biết rõ về đối tượng duyên nên có thể lập làm uẩn. Các pháp vô vi thì trái với các tướng ấy, nên không lập làm uẩn.

Lại nữa, các pháp hữu vi thì gắn liền với ba đời, cùng với khỗ tương ưng, có biên vực trước sau, có các thứ bậc trên, giữa, dưới v.v…, nên có thể lập làm uẩn. Các pháp vô vi thì trái với các tướng ấy, nên không lập làm uẩn. Lại nữa, các pháp vô vi không có tướng của năm uẩn nên không thể lập được trong năm uẩn, cũng không thể lập làm uẩn thứ sáu, vì không có các tướng chứa nhóm, tích tụ của các uẩn. Lại nữa, uẩn là tướng gây tạo, làm ra, các pháp vô vi thì không có tướng gây tạo, nên không lập làm uẩn. Lại nữa, uẩn từ cái khác sinh ra, các pháp vô vi thì không từ cái khác sinh ra, nên không lập làm uẩn.

Do các thứ nhân duyên như thế nên vô vi không phải là uẩn.

Như Khế kinh nói: Có năm thứ uẩn công đức, đó là Giới uẩn, Định uẩn, Tuệ uẩn, Giải thoát uẩn, Giải thoát tri kiến uẩn.

Hỏi: Uẩn nên có mười, vì sao lại nói có năm?

Đáp: Các thứ uẩn như giới, định v.v… đó đều do năm uẩn như sắc v.v… thâu giữ, nên uẩn chỉ có năm.

Như Khế kinh nói: Tôn giả A-nan bảo các Bí-sô: Tôi thân cận hầu bên Đức Phật thọ nhận tám vạn pháp uẩn, theo các Bí-sô truyền nhận được hai ngàn.

Hỏi: Đức Thế Tôn đã nói có rất nhiều pháp uẩn v.v…, vì sao chỉ nói có năm uẩn như sắc v.v…?

Đáp: Nhiều pháp uẩn ấy đều do năm uẩn như sắc v.v… này thâu giữ, nên uẩn chỉ có năm.

Hỏi: Các pháp uẩn kia là do uẩn nào thâu giữ?

Đáp: Có thuyết nói: Tất cả các pháp uẩn do ngữ làm tự tánh, vậy chúng do sắc uẩn thâu giữ.

Có Sư khác cho: Tất cả pháp uẩn là do danh làm tự tánh, vậy chúng do hành uẩn thâu giữ. Thế nên Đức Thế Tôn chỉ nói năm uẩn.

Hỏi: Mỗi mỗi pháp uẩn, về lượng như thế nào?

Đáp: Có thuyết nêu: Có pháp uẩn, luận nói có sáu ngàn tụng tạo nên. Mỗi mỗi pháp uẩn đều như số lượng đó.

Lại có thuyết nói: Như Đức Thế Tôn nói: Uẩn, xứ, giới làm hao mòn các pháp duyên khởi, các đế thật, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo v.v… Các loại như thế, mỗi mỗi pháp môn là một pháp uẩn, nên không thể nói nhất định là có bao nhiêu tụng như thế.

Tôn giả Diệu Âm nói: Mỗi mỗi pháp uẩn có năm mươi vạn năm ngàn năm trăm năm mươi tụng.

Có Sư khác cho: Mỗi mỗi pháp uẩn có mười lăm vạn năm ngàn năm trăm năm mươi tụng.

Lại có Sư khác nêu: Mỗi mỗi pháp uẩn chỉ có một vạn năm ngàn năm trăm năm mươi tụng.

Lời bình: Các vị kia đều không nên nói như thế. Nên nói như vầy: Hữu tình thọ nhận sự giáo hóa có tám vạn hành. Để đối trị với tám vạn hành đó, Đức Thế Tôn đã giảng nói tám vạn pháp uẩn. Các hữu tình ấy nương theo tám vạn pháp uẩn do Đức Phật đã giảng nói nhập vào pháp Phật, cùng hành tác những điều nên làm và mỗi người đều đạt được cứu cánh.

HẾT – QUYỂN 74