LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 154

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ ĐẲNG TÂM, phần 4

Khế kinh nói: Người trụ nơi định diệt tận thì không bị lửa đốt cháy, không bị nước nhận chìm, không bị trúng chất độc, không bị dao đâm, không bị kẻ khác giết.

Hỏi: Vì sao trụ nơi định diệt tận có được những lợi ích thù thắng như thế?

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Do định diệt tận này là pháp bất hại, nên trụ vào đấy không bị các thứ hại làm hại.

Có thuyết nói: Định này có oai đức lớn, vì những oai đức ấy nên được các thiên thần bảo vệ, do đấy không thể bị hại.

Có thuyết nêu: Đạt được tĩnh lự là đạt được cảnh giới của tĩnh lự, có đủ thần thông tức có đủ cảnh giới của thần thông, tất cả đều không thể nghĩ bàn, cho nên không thể bị hại.

Có thuyết cho: Định này không tâm không phải là người không tâm, có sinh có tử, thế nên không thể bị hại.

Duyên khởi của Luận này là Khế kinh Đẳng Hoạt có nói: Xưa có Phật tên Yết Lạc Câu Thôn Đà có hai vị đệ tử, một tên là Cực Viễn, hai tên là Đẳng Hoạt. Tôn giả Đẳng Hoạt ở trong một thành nọ, giáo hóa đông đảo chúng sinh, mọi người đều nhận biết. Sau đó, Tôn giả nhập định diệt tận ở bên thành, nơi có đông người. Khi ấy, có những người chăn bò, kiếm củi đi ngang qua đó, thấy vậy đều nói: Hiện nay Tôn giả này ngồi thẳng người diệt độ thật là việc lạ! Chúng ta nên thiêu để cúng dường. Bèn lấy các thứ phân bò củi khô chất kín lên thân Tôn giả châm lửa đốt rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, Tôn giả từ định khởi, nhanh chóng sửa lại y phục. Vì trời còn sớm, Tôn giả cầm bát vào thành tuần tự khất thực. Khi ấy, anh chàng thiêu đốt Tôn giả thấy vậy kinh hãi, nói: Hôm qua, chúng tôi đã thiêu đốt Bí-sô này, sao nay lại đi khất thực. Đông đảo người trong thành đều cùng nói lớn: Hiện nay Sa-môn này đã chết, giờ thì sống lại. Do đó nên gọi là Tôn giả Đẳng Hoạt. Nên biết, thân không bị đốt cháy là do sức của định diệt tận, do nương vào diệu lực của thần thông nên không bị cháy.

Có thuyết nói: Thân và y đều không bị cháy là do sức của định diệt tận. Thế nên kinh kia là duyên khởi của Luận này.

Trong truyện dụ nói: Nếu có kẻ thí cho người từ định diệt tận khởi, kẻ thí ấy tất thành thuận hiện pháp thọ nghiệp.

Hỏi: Vì sao thí cho người từ định diệt tận khởi tất thành thuận hiện pháp thọ nghiệp?

Đáp: Điều này không cần phải thông tỏ. Vì sao? Vì đấy không phải là giáo pháp của Kinh, Luật, Luận, chỉ là truyện dụ được nêu bày, nên hoặc là đúng, hoặc là không đúng. Nếu muốn thông tỏ, nên biết: Thí ấy hoặc được hiện quả, hoặc được quả lớn, do thuận theo ý muốn của thế gian, nên chỉ nói hiện quả.

Hỏi: Vì sao thí cho người từ định diệt tận khởi hoặc được hiện quả, hoặc được quả lớn?

Đáp: Nếu có kẻ thí cho người từ định ấy khởi là thí từ tất cả tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí, giải thoát khởi. Vì sao? Vì các người muốn nhập xuất đẳng chí diệt tận, tất trước là khởi tâm thiện nơi cõi dục, tiếp theo là nhập tĩnh lự thứ nhất, như vậy cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ đấy, vô gián nhập định diệt tận. Từ định này xuất, hoặc khởi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc khởi Vô sở hữu xứ, như vậy cho đến trở về khởi tĩnh lự thứ nhất, lại nhập tâm thiện của cõi dục. Do công đức nối tiếp như vậy, nên có thể khiến người thí hoặc được hiện quả, hoặc được quả lớn.

Có thuyết nói: Người từ định diệt tận khởi là người có oai nghi tịch tĩnh, tới lui, nói năng thuận hợp, đắp y, ăn uống thảy đều xét kỹ. Các Thanh tín, Trưởng giả, Bà-la-môn thấy rồi đều sinh tưởng hy hữu, đem tâm thanh tịnh ân cần cúng thí các vật dụng cần thiết, nên hoặc được hiện quả hoặc được quả lớn.

Có thuyết nêu: Người đạt được định này, tiếng tốt vang khắp hơn hẳn mọi định khác. Các Thanh tín, Trưởng giả, Bà-la-môn nghe như vậy rồi đều sinh tưởng kỳ lạ, đặc biệt, đem tâm thanh tịnh ân cần cúng thí các vật dụng cần thiết, nên hoặc được hiện quả hoặc được quả lớn.

Có thuyết cho: Người trụ nơi định diệt tận đều chấm dứt những sự ăn uống. Nếu thí cho người từ định này khởi, tức thí thức ăn cho người không ăn. Nghĩa là người trụ nơi định có tâm hữu lậu, tuy dứt đoạn thực nhưng ăn còn có xúc, tư, thức thực hữu lậu. Người trụ nơi định vô lậu tuy thật sự đoạn dứt bốn thứ ăn, nhưng còn có xúc, tư, thức thực tương tợ. Người trụ nơi định diệt tận thì tất cả đều không. Do đó, thí cho người từ định diệt tận khởi là thí thức ăn cho người không ăn. Do nhân duyên ấy, nên hoặc được hiện quả, hoặc được quả lớn.

Có thuyết nói: Nếu có kẻ thí cho người từ định này khởi, là thí thức ăn cho người đến Niết-bàn và trở lại do định này giống như Niết-bàn. Nghĩa là như người nhập cảnh giới Niết-bàn vô dư y, diệt hết thảy tâm tâm sở pháp của pháp có đối tượng duyên, rồi không khởi không diệt. Người trụ nơi định diệt tận cũng diệt tất cả tâm tâm sở pháp của pháp có đối tượng duyên, rồi cũng không khởi không diệt nên giống như Niết-bàn. Do vậy, thí cho người từ định này khởi là thí thức ăn cho người đến Niết-bàn rồi trở lại. Do nhân duyên ấy, nên hoặc được hiện quả, hoặc quả được lớn.

Lại nữa, không phải chỉ thí cho người từ định diệt tận khởi mới có thể đạt được hiện quả. Nếu thí cho năm hạng Bổ-đặc-già-la cũng đều đạt được hiện quả. Năm hạng đó là: 1. Từ định diệt tận khởi. 2. Từ định từ khởi. 3. Từ định vô tránh khởi. 4. Từ kiến đạo khởi. 5. Từ đầu tiên đắc tận trí khởi.

Lại nữa, nếu thí cho năm hạng Bổ-đặc-già-la tức có thể đạt được quả lớn: 1. Cha. 2. Mẹ. 3. Người bệnh. 4. Pháp sư giảng nói pháp. 5. Bồ-tát gần Phật địa.

Hỏi: Định diệt tận đối với chúng đồng phần là cũng có thể dẫn khởi hay chỉ là làm đầy đủ?

Đáp: Định này chỉ có thể làm đầy đủ, không thể dẫn khởi. Vì sao? Vì chỉ có nghiệp mới có thể dẫn khởi chúng đồng phần, mà định này không phải là nghiệp.

Hỏi: Định này là thuận hiện pháp thọ, thuận thứ sinh thọ, thuận hậu thứ thọ, hay thuận bất định thọ?

Đáp: Định này hoặc thuận thứ sinh thọ, hoặc thuận hậu thứ thọ, hoặc thuận bất định thọ. Không phải là thuận hiện pháp thọ, do đã sinh nơi Hữu đảnh nên không khởi định này.

Hỏi: Định này ở nơi xứ nào, nhận dị thục gì?

Đáp: Định này ở nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thọ nhận dị thục là bốn uẩn.

Hỏi: Các Hành giả thành tựu định diệt tận cũng thành tựu dị thục của định ấy chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp thành tựu định diệt tận không phải là dị thục của định ấy: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, cõi sắc, đã được định diệt tận và được rồi không thoái chuyển, mạng chung sinh lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dị thục của định diệt tận không hiện tiền.

2. Có trường hợp thành tựu dị thục của định ấy không phải là định diệt tận: Nghĩa là đã được định diệt tận, rồi mà thoái chuyển, mạng chung sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dị thục của định diệt tận hiện tiền.

3. Có trường hợp thành tựu định diệt tận cũng là dị thục của định ấy: Nghĩa là đã được định diệt tận rồi, không thoái chuyển, mạng chung sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dị thục của định diệt tận hiện tiền.

4. Có trường hợp không phải thành tựu định diệt tận cũng không phải là dị thục của định ấy: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, cõi sắc, không được định diệt tận, nếu được thì đã thoái chuyển. Hoặc sinh nơi Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, nếu không được định diệt tận sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, được rồi lại thoái chuyển, mạng chung sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, dị thục của định diệt tận không hiện tiền.

Hỏi: Các Hành giả thoái chuyển định diệt tận cũng thoái chuyển quả A-la-hán chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp thoái chuyển định diệt tận không phải là quả A-la-hán: Nghĩa là hàng hữu học thoái chuyển định diệt tận và hàng vô học thoái chuyển định diệt tận, nhưng không khởi kiết.

2. Có trường hợp thoái chuyển quả A-la-hán không phải là định diệt tận: Nghĩa là A-la-hán tuệ giải thoát thoái chuyển và vị hữu học trước khởi định diệt tận rồi, được quả A-la-hán, khởi kiết nơi phần vị trên thoái chuyển.

3. Có trường hợp thoái chuyển định diệt tận cũng là quả A-lahán: Nghĩa là phần vị hữu học trước đã khởi định diệt tận rồi, được quả A-la-hán, khởi kiết nơi phần vị dưới thoái chuyển và bậc vô học khởi định diệt tận rồi, khởi kiết nơi ba cõi, tùy theo một cõi mà thoái chuyển.

4. Có trường hợp không phải thoái chuyển định diệt tận cũng không phải là quả A-la-hán: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Có sáu thứ A-la-hán: 1. Pháp thoái. 2. Pháp tư. 3. Pháp hộ. 4. Pháp an trụ. 5. Pháp gắng đạt. 6. Pháp bất động.

Hỏi: Các vị pháp thoái thì tất cả là câu giải thoát chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp là pháp thoái không phải là câu giải thoát: Nghĩa là hàng pháp thoái không được định diệt tận.

2. Có trường hợp là câu giải thoát không phải là pháp thoái: Nghĩa là hàng tư pháp cho đến pháp bất động đã được định diệt tận.

3. Có trường hợp là pháp thoái cũng là câu giải thoát: Nghĩa là hàng pháp thoái đã được định diệt tận.

4. Có trường hợp không phải là pháp thoái cũng không phải là câu giải thoát: Nghĩa là hàng pháp tư cho đến pháp bất động không được định diệt tận.

Như A-la-hán pháp thoái đối với câu giải thoát nêu ra bốn trường hợp, năm hạng A-la-hán còn lại đối với câu giải thoát cũng như vậy. Như thế là thành sáu lớp bốn trường hợp. Như đạo vô học có sáu thứ A-la-hán, đạo học cũng có sáu thứ chủng tánh, đó là chủng tánh pháp thoái cho đến chủng tánh pháp bất động.

Hỏi: Các hàng hữu học pháp thoái thì tất cả là thân chứng chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp là hữu học pháp thoái không phải là thân chứng: Nghĩa là hàng hữu học pháp thoái không được định diệt tận.

2. Có trường hợp là thân chứng không phải là hữu học pháp thoái: Nghĩa là hàng hữu học pháp tư cho đến hàng hữu học pháp bất động đã được định diệt tận.

3. Có trường hợp là hữu học pháp thoái cũng là thân chứng: Nghĩa là hàng hữu học pháp thoái đã được định diệt tận.

4. Có trường hợp không phải là hữu học pháp thoái cũng không phải là thân chứng: Nghĩa là hàng hữu học pháp tư cho đến hàng hữu học pháp bất động không được định diệt tận.

Như hữu học pháp thoái đối với thân chứng nêu ra bốn trường hợp, năm chủng tánh còn lại đối với thân chứng cũng như vậy. Như thế là thành sáu lớp bốn trường hợp.

Hỏi: Nếu pháp là tâm đẳng vô gián thì pháp ấy là tâm vô gián chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp pháp là tâm đẳng vô gián không phải là tâm vô gián: Nghĩa là trừ sát-na đầu của định diệt tận và phần vị có tâm khác, còn lại là các sát-na của định diệt tận khác và tâm tâm sở pháp xuất định diệt tận.

2. Có trường hợp pháp là tâm vô gián không phải là tâm đẳng vô gián: Nghĩa là sát-na đầu của định diệt tận và phần vị có tâm khác, chúng là sinh lão trụ vô thường.

3. Có trường hợp pháp là tâm đẳng vô gián cũng là tâm vô gián: Nghĩa là sát-na đầu của định diệt tận và tâm tâm sở pháp của phần vị có tâm khác.

4. Có trường hợp pháp không phải là tâm đẳng vô gián cũng không phải là tâm vô gián: Nghĩa là trừ sát-na đầu của định diệt tận và phần vị có tâm khác, các thứ sinh lão trụ vô thường kia, còn lại là các sát-na của định diệt tận khác và phần vị tâm xuất định diệt tận, chúng là sinh lão trụ vô thường.

Hỏi: Nếu pháp là tâm đẳng vô gián thì pháp ấy là định diệt tận vô gián chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp pháp là tâm đẳng vô gián không phải là định diệt tận vô gián: Nghĩa là sát-na đầu của định diệt tận và tâm tâm sở pháp của phần vị có tâm khác.

2. Có trường hợp pháp là định diệt tận vô gián không phải là tâm đẳng vô gián: Nghĩa là trừ sát-na đầu của định diệt tận và phần vị hữu tâm khác, các thứ sinh lão trụ vô thường kia, còn lại là các sát-na của định diệt tận khác và phần vị tâm xuất định diệt tận, các thứ sinh lão trụ vô thường kia.

3. Có trường hợp pháp là tâm đẳng vô gián cũng là định diệt tận vô gián: Nghĩa là trừ sát-na đầu của định diệt tận và phần vị có tâm khác, còn lại là các sát-na của định diệt tận khác và tâm tâm sở pháp xuất định diệt tận.

4. Có trường hợp pháp không phải là tâm đẳng vô gián cũng không phải là định diệt tận vô gián: Nghĩa là sát-na đầu của định diệt tận và phần vị có tâm khác, các thứ sinh lão trụ vô thường kia.

Hỏi: Sinh nơi trời Vô tưởng có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Tám. Là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạng, xả.

Hỏi: Đây là nói từ xứ nào sinh nơi trời Vô tưởng?

Đáp: Đây là nói từ trung hữu vô tưởng sinh nơi sinh hữu vô tưởng.

Hỏi: Khi ấy cũng có năm căn như tín v.v… hiện tiền diệt, vì sao không nói?

Đáp: Văn này nên nói như vầy: Hoặc tám hoặc mười ba. Trung hữu sau cùng, nếu tâm vô ký là tám, tâm thiện là mười ba. Nhưng không nói như thế nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Trong đây chỉ dựa vào vị diệt, vị sinh đều có để nói. Năm căn như tín v.v… chỉ nơi vị diệt có, không phải vị sinh có, nên không nói.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc về cõi sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Tám. Như trước đã nói.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc về cõi sắc.

Hỏi: Tử sinh tất khởi từ tâm của tự địa. Nơi trời Vô tưởng mất có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Tám. Như trước đã nói.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc về cõi sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười. Vô hình là tám, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả căn. Một hình là chín tức thêm nam căn nữ căn tùy vào một. Hai hình là mười tức thêm nam căn, nữ căn.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc về cõi dục.

Do đấy chứng biết từ cõi trời Vô tưởng mất nhất định sinh nơi cõi dục.

Hỏi: Nhất định sinh nơi xứ nào?

Đáp: Có thuyết nói: Sinh nơi địa ngục.

Có thuyết nói: Sinh nơi nẻo ác.

Nên nói như vầy: Nhất định sinh nơi cõi dục, xứ sở không nhất định, hoặc sinh nơi nẻo ác, hoặc sinh nơi nẻo người, trời.

Hỏi: Vì sao từ trời Vô tưởng mất nhất định sinh nơi cõi dục?

Đáp: Do thế mạnh của nhân dị thục là như vậy. Tùy thế mạnh hiện có của nhân dị thục, chỉ khiến dị thục khởi như vậy.

Có Sư khác nói: Thọ mạng ở Vô tưởng hết, thọ mạng ở xứ khác, nghiệp không tăng trưởng. Nghĩa là trước đã tăng trưởng thọ mạng ở Vô tưởng, nghiệp nay đã thọ hết. Thọ mạng ở xứ khác, trước không tăng trưởng, nên từ cõi kia mất nhất định sinh nơi cõi dục.

Hỏi: Trời Vô tưởng cũng từng khởi ba tĩnh lự dưới, vì sao không dẫn quả thọ mạng của địa ấy?

Đáp: Cõi ấy tuy từng khởi ba tĩnh lự dưới, nhưng không nhận giữ bền chắc, nên không dẫn khởi thọ mạng kia. Nó chỉ chấp giữ bền chắc đối với tĩnh lự thứ tư, nên dẫn khởi thọ mạng ấy.

Có thuyết nói: Cõi kia tuy từng khởi ba tĩnh lự dưới, nhưng không phải là chỗ mong cầu, nó chỉ mong cầu nơi tĩnh lự thứ tư.

Có thuyết nêu: Cõi kia tuy từng khởi ba tĩnh lự dưới, nhưng chỉ như băng qua đường, không phải nơi chốn hướng đến. Tĩnh lự thứ tư mới chính là nơi chốn hướng đến, không phải như chỉ băng qua đường, nên mới dẫn khởi thọ mạng kia.

Có thuyết cho: Nếu ở trời Vô tưởng tạo nghiệp thuận thứ sinh thọ, thì theo pháp như thế, ở cõi dục cũng tạo nghiệp thuận hậu thứ thọ. Như tạo nghiệp thuận thứ sinh ở châu Bắc-câu-lô, thì theo pháp như thế cũng tạo nghiệp thuận hậu thứ thọ nơi trời thuộc cõi dục.

Có thuyết nói: Cõi dục là nơi chốn quay về của tất cả hữu tình thoái chuyển. Nghĩa là các hữu tình do sức của nghiệp, sức của sự tu tập, đạt đến cõi sắc, cõi vô sắc, khi nghiệp kia hết thì trở lại cõi dục. Ví như đại địa là nơi chốn quay về nương dựa của các loài chim mỏi cánh. Nghĩa là các loài chim bay lượn trên không, do sức của đôi cánh, khi sức bay lượn hết thì trở lại nơi đất.

Có thuyết cho: Hữu tình vô tưởng trải qua hàng năm trăm kiếp trụ nơi Vô tưởng như giấc ngủ say. Thức rồi không thể nhận lấy dị thục khác, nên rơi xuống cõi dục. Như người dựa lưng vào cành cây thẳng mà ngủ một giấc lâu, khi thức dậy tay quên vịn vào cành cây liền rớt xuống đất. Đây cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Cầu nơi vô tưởng tức cho định vô tưởng là chân đạo, dị thục của định ấy là Niết-bàn, cho đến sinh trong cõi trời đó. Lối chấp ấy đeo đuổi kẻ kia, về sau từ vô tưởng xuất, khi sắp mạng chung thấy tướng sẽ sinh, liền nghĩ: Nhất định không có Niết-bàn. Nếu thật có thì ta đã chứng đắc. Hiện nay vì sao tướng sinh hiện tiền? Do hủy báng Niết-bàn và Thánh đạo, nên từ nơi xứ ấy qua đời sinh vào nẻo ác.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói như vầy: Kẻ kia hủy báng Niếtbàn và Thánh đạo, nên từ nơi xứ kia mạng chung nhất định sinh vào nẻo ác.

Hỏi: Định vô tưởng và sự vô tưởng có gì khác nhau?

Đáp: Tên gọi tức có khác: Một gọi là định vô tưởng. Một gọi là sự vô tưởng.

Lại nữa, nhân là định vô tưởng, quả là sự vô tưởng.

Lại nữa, pháp dị thục là định vô tưởng, dị thục là sự vô tưởng.

Lại nữa, định vô tưởng là thiện, sự vô tưởng là vô ký.

Lại nữa, định vô tưởng là định, sự vô tưởng là sinh.

Lại nữa, định vô tưởng do công dụng của gia hạnh tác ý nên khởi. Còn sự vô tưởng không do công dụng của gia hạnh tác ý.

Lại nữa, định vô tưởng chung cho cả đây kia, được hiện tiền nơi đây kia. Còn sự vô tưởng chỉ hiện tiền tại nơi đạt được.

Lại nữa, định vô tưởng là gia hạnh đắc, sự vô tưởng là sinh đắc.

Đó là những khác biệt giữa định vô tưởng với sự vô tưởng.

Hỏi: Trời Vô tưởng thuộc về xứ nào?

Đáp: Các Sư nước ngoài nói: Tĩnh lự thứ tư có riêng chín xứ, đây là một xứ.

Các Luận sư ở nước Ca-thấp-di-la nói: Thuộc về trời Quảng quả. Nhưng vì nó tịch tĩnh cao vượt hơn hẳn nên lập tên riêng, cũng như xứ A-luyện-nhã nọ ở bên cạnh thôn.

Hỏi: Cõi trời đó thân lượng như thế nào?

Đáp: Thân lượng là năm trăm do-tuần.

Hỏi: Thọ lượng nơi cõi đó như thế nào?

Đáp: Thọ lượng là năm trăm kiếp.

Hỏi: Tạo những những oai nghi gì để trụ?

Đáp: Có thuyết nói: Ngồi kiết già như các Sa-môn Thích tử.

Có thuyết nêu: Ngồi xổm như các Bà-la-môn.

Nên nói như vầy: Như trước nhập định này đã trụ nơi oai nghi nào thì theo oai nghi đó trụ trong suốt năm trăm kiếp.

***

* Hữu tình vô tưởng khi sinh nên nói là hữu tưởng chăng?

Là vô tưởng chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chặn Tông chỉ của kẻ khác, làm rõ nghĩa của mình. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Hữu tình vô tưởng khi sinh khi chết đều không có tâm tưởng. Để ngăn chặn ý tưởng đó và làm sáng tỏ: Hữu tình nơi cõi ấy khi sinh khi chết đều có tâm tưởng, không phải là không có tâm tưởng, vì có tử sinh.

Hoặc lại có thuyết nói: Hữu tình vô tưởng khi sinh thì có tâm, khi chết thì không có tâm. Để ngăn chận thuyết đó và hiển bày: Hữu tình ấy khi chết cũng có tâm tưởng, không phải là không có tâm tưởng, vì có mạng chung.

Hoặc lại có thuyết cho: Hữu tình vô tưởng khi sinh khi chết tuy cùng có tâm, nhưng chỉ có một niệm, không nối tiếp lâu. Để ngăn chận ý tưởng ấy và làm sáng tỏ: Hữu tình kia khi sinh rồi trải qua lâu, tâm cũng tương tục, sau mới nhập vô tưởng, từ vô tưởng xuất, lúc có nhiều tâm, sau mới bỏ mạng. Thế nên nói như vậy.

Hỏi: Từng có xứ chỉ có hai sát-na có tâm là kiết sinh và khi mạng chung chăng?

Đáp: Nên nói là không. Tôn giả Diệu Âm nói là có. Đó tức là trời Vô tưởng.

Hỏi: Từng có xứ kiết sinh, tâm làm đẳng vô gián duyên, mạng chung tâm khởi chăng?

Đáp: Nên nói là không. Tôn giả Diệu Âm nói là có. Đó tức là trời Vô tưởng.

Hỏi: Từng có xứ kiết sinh, tâm làm bốn duyên, mạng chung tâm khởi chăng?

Đáp: Nên nói là không. Tôn giả Diệu âm nói là có. Đó tức là trời Vô tưởng.

Nhằm để ngăn chận những ý tưởng như thế, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hữu tình vô tưởng khi sinh nên nói là hữu tưởng chăng? Là vô tưởng chăng?

Đáp: Nên nói là hữu tưởng. Ở đây là ngăn chặn ý cho: Nơi trời Vô tưởng khi sinh không có tâm. Như Đức Thế Tôn nói: Các hữu tình nơi cõi ấy, do tưởng khởi, nên từ cõi đó mạng chung.

Hỏi: Khi từ cõi đó mạng chung thì tưởng ấy nên nói là diệt chăng? Là không diệt chăng?

Đáp: Nên nói là diệt. Ở đây là ngăn chận ý cho: Trời Vô tưởng khi chết là không tâm.

Hỏi: Khi tưởng ấy diệt nên nói là trụ vào xứ nào?

Đáp: Nên nói là trụ nơi xứ đó. Ở đây là ngăn chận ý cho: Hữu tình vô tưởng khi chết khi sinh chỉ một niệm có tâm.

Hỏi: Hữu tình vô tưởng tâm trước có nhiều hay tâm sau có nhiều?

Đáp: Có thuyết nói: Tâm trước có nhiều không phải là tâm sau. Do khi chưa nhập phần vị vô tưởng, dị thục nối nhau theo thế cực mạnh nên nhiều thời gian có tâm mới nhập vô tưởng. Xuất vô tưởng rồi dị thục nối nhau theo thế yếu ớt nên ít thời gian có tâm, tức liền bỏ mạng.

Có thuyết nêu: Tâm sau nhiều không phải là tâm trước. Do khi chưa nhập phần vị vô tưởng thì vui thích cầu vô tưởng, tâm mạnh, nhanh nên ít thời gian có tâm tức nhập vô tưởng. Xuất vô tưởng rồi không còn vui cầu nên nhiều thời gian có tâm sau đó mạng chung.

Nên nói như vầy: Việc ấy không nhất định. Hoặc trước nhiều sau ít, hoặc trước ít sau nhiều. Tùy theo ý lạc kia nên có khác nhau.

Hỏi: Tưởng ấy nên nói là thiện hay là vô ký?

Đáp: Hoặc là thiện, hoặc là vô ký.

Hỏi: Tưởng ấy có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Đáp: Duyên nơi hữu lậu của cõi sắc.

Hỏi: Tưởng ấy có bao nhiêu kiết trói buộc?

Đáp: Có sáu. Tưởng ấy là tưởng xuất vô tưởng. Hoặc là thiện, hoặc là vô ký: Thiện tức là thiện sinh đắc. Vô ký tức là hữu phú vô ký, hoặc vô phú vô ký. Duyên với hữu lậu của cõi sắc: Đó là tùy miên duyên nơi hữu lậu của tĩnh lự thứ tư.

Hỏi: Vì sao tùy miên duyên với vô lậu ở nơi tưởng ấy không tùy tăng?

Đáp: Vì cho vô tưởng là Niết-bàn, cho định vô tưởng là chân đạo, cho đến sinh nơi cõi đó và từ nơi cõi đó mạng chung, chỉ chấp như vậy là trở lại tùy chuyển. Đối với diệt đạo chân thật không hủy báng là không, nên duyên với vô lậu bấy giờ không khởi.

Sáu kiết trói buộc là chín kiết trừ ba kiết sân, tật, xan, các kiết còn lại là trói buộc.

Hỏi: Tưởng xuất vô tưởng là do năm bộ đoạn hay là chỉ do tu đạo đoạn? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Nếu do năm bộ đoạn thì điều nơi Phẩm Mười Môn nói làm sao thông? Như nói: Pháp quá khứ làm đẳng vô gián sinh hai tâm. Nếu do tu đạo đoạn thì nơi văn này nên làm sao thông? Như nói: Tưởng kia duyên với hữu lậu của cõi sắc là tùy miên tùy tăng.

Đáp: Có thuyết nói như vầy: Đây là chung cho năm bộ đoạn.

Hỏi: Như vậy nơi Phẩm Mười Môn đã nói làm sao thông?

Đáp: Văn ấy nên nói: Pháp quá khứ làm đẳng vô gián sinh sáu tâm: cõi sắc năm, cõi vô sắc một. Nhưng không nói như vậy là có ý gì? Nên biết văn kia chỉ dựa vào chỗ xuất tâm của hai định không tâm để nói, không nói vô tưởng. Vì sao? Vì hai định không tâm do công dụng gia hạnh tác ý mà khởi, còn vô tưởng thì không như vậy.

Có Sư khác nói: Chỉ do tu đạo đoạn.

Hỏi: Như thế thì nơi văn này nói làm sao thông?

Đáp: Văn này nên nói: Tưởng kia biến hành nơi cõi sắc và do tu đạo đoạn tùy miên tùy tăng. Nhưng không nói như vậy là có ý gì? Nên biết ở đây gồm nói về hòa hợp. Cõi ấy khi có mạng chung thì tâm chung nơi năm bộ, không phải chỉ nói xuất tâm vô tưởng, do mạng chung nên tâm là quyến thuộc trước, cho nên ở đây mới gồm nói.

Lời bình: Nên biết thuyết trước là đúng, do không khác với đạo lý cùng ngăn chận tâm khác.

***

* Như Đức Thế Tôn nói: Tất cả các hữu tình đều do ăn mà trụ.

Hỏi: Hữu tình vô tưởng do ăn gì mà trụ?

Đáp: Do ăn bằng xúc, ý tư, thức.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là trời Vô tưởng tất không có đoạn thực, mà xúc, ý tư, thức thực cũng diệt hoàn toàn. Chớ có nghi cõi đó không ăn mà trụ, như vậy là không thể thông điều Đức Thế Tôn đã nói: “Tất cả các hữu tình đều do ăn mà trụ”. Nhằm đoạn trừ nghi đó, làm sáng tỏ: Xứ Vô tưởng tuy không có đoạn thực nhưng có ba thứ thực kia (Xúc thực, ý tư thực, thức thực), tức cùng với kinh tương ưng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Ở phần vị vô tưởng kia ba thứ thực cũng diệt vì sao nói là có?

Đáp: Thực (Ăn) có hai thứ: 1. Thời gian trước có thể dẫn khởi. 2. Thời gian hiện tại đang nhận giữ. Ở phần vị kia tuy không có loại thứ hai nhưng có loại thứ nhất nên gọi là có ăn.

Có thuyết nói: Nơi cõi ấy có ba thứ ăn: 1. Ăn do nghiêp. 2. Ăn do sinh. 3. Ăn do đẳng vô gián duyên. Ăn do nghiệp: Là trước đã tạo nghiệp nơi địa kia, nên có thể dẫn sinh nơi đó. Ăn do sinh: Là tâm kiết sinh và pháp câu hữu đã dẫn kẻ ấy một kỳ hạn khiến nối tiếp. Ăn do đẳng vô gián duyên: Là nhập vô tưởng, xúc, ý tư, thức làm đẳng vô gián duyên, có thể dẫn vô tưởng xuất tâm tâm sở pháp khiến tất phải khởi, không hoàn toàn đoạn dứt. Do đó nên nói: “Tất cả các hữu tình đều do ăn mà trụ”.

***

* Nhãn căn gồm thâu bao nhiêu căn? Cho đến cụ tri căn gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Nhãn căn gồm thâu nhãn căn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chận ý tưởng cho: Các pháp chỉ gồm thâu tánh khác và làm sáng tỏ: Tất cả các pháp có gồm thâu tự tánh, nên tạo ra phần Luận này.

Nhãn căn gồm thâu nhãn căn: Đây là dựa vào tổng tướng của chủng loại để nói.

Nếu nói riêng nhãn căn có hai thứ: Là bên phải và bên trái. Bên phải gồm thâu bên phải. Bên trái gồm thâu bên trái.

Bên trái lại có hai thứ: Là được nuôi lớn và dị thục sinh. Được nuôi lớn gồm thâu được nuôi lớn. Dị thục sinh gồm thâu dị thục sinh.

Dị thục sinh lại có hai thứ: Là dị thục của nghiệp thiện và dị thục của nghiệp bất thiện.

Dị thục của nghiệp thiện gồm thâu dị thục của nghiệp thiện. Dị thục của nghiệp bất thiện gồm thâu dị thục của nghiệp bất thiện.

Dị thục của nghiệp thiện lại có hai thứ: Là trời và người. Trời gồm thâu trời. Người gồm thâu người. Trời lại có hai thứ: Cõi dục và cõi sắc. Cõi dục gồm thâu cõi dục. Cõi sắc gồm thâu cõi sắc. Cõi sắc lại có bốn: Là bốn tĩnh lự. Tĩnh lự thứ nhất gồm thâu tĩnh lự thứ nhất, cho đến tĩnh lự thứ tư gồm thâu tĩnh lự thứ tư.

Dị thục của nghiệp bất thiện lại có ba thứ: Là địa ngục, bàng sinh, quỷ giới. Địa ngục gồm thâu địa ngục, cho đến cõi quỉ gồm thâu cõi quỷ.

Như vậy, mắt bên trái cùng với những khác nhau đều có ba đời, là quá khứ gồm thâu quá khứ, vị lai gồm thâu vị lai, hiện tại gồm thâu hiện tại. Quá khứ lại có vô lượng sát-na. Mỗi mỗi sát-na chúng đều tự gồm thâu. Như quá khứ, vị lai cũng như vậy. Như mắt bên trái, mắt bên phải cũng như vậy. Trong đây, chỉ dựa vào chủng loại để nói chung.

Như nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, mạng, khổ, ưu căn cũng đều như vậy. Ở đây, mỗi căn đều gồm thâu một căn là mình.

Thân căn gồm thâu ba căn là thân, nam, nữ căn.

Nữ căn gồm thâu nữ căn và phần ít của thân căn.

Như nữ căn, nam căn cũng như vậy.

Ý căn gồm thâu ý căn và phần ít của ba căn, tức là ba căn vô lậu. Do ba căn kia lấy chín pháp làm thể, gồm thâu ý căn không phải là thứ khác, nên nói là phần ít.

Như ý căn, lạc, hỷ, xả căn, năm căn như tín v.v… cũng như vậy.

Vị tri đương tri căn gồm thâu vị tri đương tri căn và phần ít của chín căn. Nghĩa là ý căn, ba thọ, năm căn như tín v.v… Chín căn này đều chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ gồm thâu vô lậu. Ở trong vô lậu lại có ba đạo, nay chỉ gồm thâu kiến đạo, nên nói là phần ít.

Như vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn cũng như vậy.

Hỏi: Tín lực cho đến tuệ lực, niệm đẳng giác chi cho đến xả đẳng giác chi, chánh kiến cho đến chánh định, pháp trí cho đến đạo trí, không, vô nguyện, vô tướng gồm thâu bao nhiêu căn?

Đáp: Tín lực gồm thâu một căn và phần ít của ba căn, đó là ba căn vô lậu. Ba căn này đều lấy chín pháp làm tánh, gồm thâu tín, không phải là thứ khác, nên nói là phần ít. Như tín lực, bốn lực còn lại cũng như vậy.

Niệm đẳng giác chi gồm thâu phần ít của bốn căn, đó là niệm căn và ba căn vô lậu. Niệm căn chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ gồm thâu vô lậu. Ba căn lấy chín pháp làm tánh, nay chỉ gồm thâu niệm, nên nói là phần ít. Như niệm đẳng giác chi, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, định đẳng giác chi cũng như vậy. Các thứ còn lại không gồm thâu căn, tức là khinh an, xả đẳng giác chi không gồm thâu căn vì không có tướng của căn.

Chánh kiến gồm thâu phần ít của bốn căn, đó là tuệ căn và ba căn vô lậu. Như chánh kiến, chánh cần, chánh niệm, chánh định cũng như vậy. Các thứ còn lại không gồm thâu căn, tức là chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, không gồm thâu căn vì không có tướng của căn.

Pháp trí gồm thâu phần ít của bốn căn, đó là tuệ căn và ba căn vô lậu. Như pháp trí, loại trí, khổ, tập, diệt, đạo trí cũng như vậy. Tha tâm trí gồm thâu phần ít của ba căn, tức là tuệ căn, dĩ tri căn, cụ tri căn. Thế nào là gồm thâu phần ít của tuệ căn? Nghĩa là tuệ căn duyên chung nơi một pháp, nhiều pháp, tự tướng, cộng tướng, hiện tại, ba đời, tha thân, tự thân, cảnh tương ưng, không tương ưng. Ở đây chỉ gồm thâu tuệ duyên nơi một pháp, tự tướng, hiện tại, tha thân, cảnh tương ưng, nên nói là phần ít. Hai căn vô lậu lấy chín pháp làm tánh, đây chỉ gồm thâu tuệ. Trong tuệ có sai biệt như trước đã nói, đây chỉ gồm thâu tuệ duyên nơi một pháp, nên nói là phần ít. Thế tục trí gồm thâu phần ít của một căn, đó là tuệ căn. Do tuệ căn chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ gồm thâu hữu lậu, nên nói là phần ít.

Tam muội không gồm thâu phần ít của bốn căn, đó là định căn và ba căn vô lậu. Như không, vô nguyện, vô tướng cũng như vậy.

***

* Ý căn tương ưng với bao nhiêu căn? Cho đến cụ tri căn tương ưng bao nhiêu căn?

Đáp: Ý căn tương ưng với mười căn và phần ít của ba căn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Có kẻ mê lầm về tương ưng, cho pháp tương ưng không thật có tánh. Nhằm ngăn chận ý tưởng đó, làm sáng tỏ pháp tương ưng thể là thật có, nên tạo ra phần Luận này

Ý căn tương ưng với mười căn: Đó là năm thọ và năm căn như tín v.v… Tương ưng với phần ít của ba căn: Đó là ba căn vô lậu. Do ba căn này lấy chín pháp làm tánh, trừ tự thể của ý căn, cùng tương ưng với phần còn lại, nên nói là phần ít.

Lạc, hỷ, xả căn tương ưng với phần ít của chín căn, đó là ý căn, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu.

Tương ưng với phần ít của ý căn, năm căn như tín v.v…: Là sáu căn kia cùng với năm thọ căn câu sinh. Nay hỷ, xả, lạc căn đều chỉ tương ưng với tự căn câu sinh, nên nói là phần ít.

Tương ưng với phần ít của ba căn vô lậu: Là ba căn kia lấy chín pháp làm tánh, ba thọ câu sinh, nay hỷ, lạc, xả căn đều chỉ tương ưng với tự căn câu sinh, nên nói là phần ít.

Khổ căn, ưu căn tương ưng với phần ít của sáu căn, đó là ý căn và năm căn như tín v.v… Thế nào là tương ưng với phần ít của sáu căn kia? Nghĩa là sáu căn kia cùng với năm thọ câu sinh. Nay khổ căn, ưu căn chỉ tương ưng với tự căn câu sinh, nên nói là phần ít.

Tín căn tương ưng với bốn căn và phần ít của chín căn. Bốn căn là tinh tấn, niệm, định, tuệ. Tương ưng với phần ít của chín căn, đó là ý căn, năm thọ và ba căn vô lậu. Tương ưng với phần ít của ý căn, năm thọ: Là sáu căn kia chung cho cả nhiễm, không nhiễm. Nay tín căn chỉ tương ưng với thiện, không nhiễm, nên nói là phần ít. Tương ưng với phần ít của ba căn vô lậu: Là ba căn kia lấy chín pháp làm tánh, nay trừ tự thể của tín căn, chỉ tương ưng với phần còn lại, nên nói là phần ít.

Như tín căn, thì tinh tấn, niệm, định, tuệ căn cũng như vậy.

Vị tri đương tri căn tương ưng với vị tri đương tri căn và phần ít của chín căn. Cùng với vị tri đương tri căn tương ưng: Là căn này lấy chín pháp làm tánh, mỗi mỗi thứ trừ tự thể, cùng tương ưng với phần còn lại đều gọi là căn này. Căn này tương ưng với phần ít của chín căn là ý, lạc, hỷ, xả căn và năm căn như tín v.v… Thế nào là tương ưng với phần ít của chín căn kia? Nghĩa là chín căn kia chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ tương ưng với phần vô lậu. Ở trong vô lậu chung cho cả kiến đạo, tu đạo, vô học đạo, nay chỉ cùng với kiến đạo kia tương ưng, nên nói là phần ít.

Như vị tri đương tri căn, thì dĩ tri căn, cụ tri căn cũng như vậy, chỉ phần vị là khác, các thứ còn lại đều đồng.

Hỏi: Tín lực cho đến tuệ lực, niệm đẳng giác chi cho đến xả đẳng giác chi, chánh kiến cho đến chánh định, pháp trí cho đến đạo trí, không, vô nguyện, vô tướng tương ưng với bao nhiêu căn?

Đáp: Tín lực tương ưng với bốn căn và phần ít của chín căn. Bốn căn là tinh tấn, niệm, định, tuệ. Tương ưng với phần ít của chín căn là ý căn, năm thọ, ba căn vô lậu. Về nghĩa như nói ở trước. Như tín lực, bốn lực còn lại cũng như vậy, tức các lực tinh tấn, niệm, định, tuệ.

Niệm đẳng giác chi tương ưng với phần ít của mười một căn, là ý, lạc, hỷ, xả căn, bốn căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Tương ưng với phần ít của ý căn, ba thọ, bốn căn như tín v.v…: Là tám căn này chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ tương ưng với phần vô lậu, nên nói là phần ít. Tương ưng với phần ít của ba căn vô lậu: Là ba căn này lấy chín pháp làm tánh, nay trừ tự tánh của niệm, chỉ tương ưng với phần còn lại, nên nói là phần ít. Như niệm đẳng giác chi, thì trạch pháp, tinh tấn, định đẳng giác chi cũng như vậy.

Hỷ đẳng giác chi tương ưng với phần ít của chín căn, là ý căn, năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Tương ưng với phần ít của ý căn và năm căn như tín v.v…: Là sáu căn kia chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ tương ưng với phần vô lậu. Ở trong vô lậu, nương dựa chung nơi chín địa, là vị chí, tĩnh lự trung gian, bốn tĩnh lự và ba vô sắc dưới. Nay chỉ tương ưng với chỗ nương dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, nên nói là phần ít. Tương ưng với phần ít của ba căn vô lậu: Là ba căn kia chung cho cả hỷ, lạc, xả câu sinh với chúng, nay chỉ tương ưng với hỷ căn câu sinh, nên nói là phần ít.

Khinh an, xả đẳng giác chi tương ưng với ba căn và phần ít của chín căn. Ba căn là ba căn vô lậu. Tương ưng với phần ít của chín căn: Là ý, lạc, hỷ, xả căn, năm căn như tín v.v… Thế nào là tương ưng với phần ít của chín căn? Nghĩa là chín căn kia chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ tương ưng với phần vô lậu, nên nói là phần ít.

Chánh kiến tương ưng với phần ít của mười một căn, là ý, lạc, hỷ, xả căn, bốn căn như tín v.v… và ba căn vô lậu. Về nghĩa như nói ở niệm đẳng giác chi. Như chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần, chánh định cũng như vậy. Nhưng chánh tư duy có ít sai khác. Nghĩa là ý, hỷ, xả, năm căn như tín và ba căn vô lậu, đó là mười một. Mười một căn này dựa chung nơi các địa. Nay chỉ tương ưng với chỗ dựa nơi vị chí, tĩnh lự thứ nhất, nên nói là phần ít. Những thứ còn lại không tương ưng với căn. Nghĩa là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng không tương ưng với căn, vì không phải là pháp tương ưng.

Pháp trí tương ưng với phần ít của mười một căn, như nói ở phần chánh kiến. Như pháp trí, loại trí, khổ, tập, diệt, đạo trí cũng như vậy. Tha tâm trí tương ưng với phần ít của mười căn, là ý, hỷ, lạc, xả, bốn căn như tín v.v…, dĩ tri căn, cụ tri căn. Về nghĩa như đã nói ở phần gồm thâu. Thế tục trí tương ưng với hai căn và phần ít của tám căn. Hai căn là ưu căn và khổ căn. Tương ưng với phần ít của tám căn: Là ý, lạc, hỷ xả, bốn căn như tín v.v… Thế nào là tương ưng với phần ít của tám căn? Nghĩa là tám căn kia chung cho cả hữu lậu, vô lậu, nay chỉ tương ưng với phần hữu lậu, nên nói là phần ít.

Không, vô nguyện, vô tướng tương ưng với phần ít của mười một căn, như nói ở niệm đẳng giác chi.

HẾT – QUYỂN 154