LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 97

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ HỌC CHI, phần 5

* Các pháp tương ưng với giác chi niệm thì chúng cũng tương ưng với giác chi trạch pháp chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chận tông chỉ của kẻ khác, nhằm làm sáng tỏ chánh lý. Tức như có người chấp: Các thứ tâm và tâm sở pháp là không cùng khởi, vì không thật tương ưng nhau. Nay nhằm ngăn chận ý tưởng đó và làm rõ tương ưng là điều có thực, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi niệm thì chúng cũng tương ưng với giác chi trạch pháp chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi niệm cùng với giác chi trạch pháp đều hiện hữu trong khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, tức nêu ra bốn trường hợp nhỏ:

1. Có pháp tương ưng với niệm không phải là trạch pháp: Đó là giác chi trạch pháp. Nghĩa là niệm và tự tánh của giác chi trạch pháp cùng sinh, nên nó tương ưng với niệm, không tương ưng với giác chi trạch pháp. Do ba duyên sau đây nên tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh: a. Không có hai Thể cùng thời dấy khởi. b. Trước cùng với sau không hòa hợp. c. Tất cả các pháp không quán xét tự Thể, phải dùng Thể khác làm duyên sinh ra.

2. Có pháp tương ưng với trạch pháp không phải là niệm: Đó là giác chi niệm. Nghĩa là trạch pháp và tự tánh của giác chi niệm cùng sinh, nên nó tương ưng với trạch pháp, không tương ưng với giác chi niệm. Tự tánh không tương ưng với tự tánh, nghĩa như trước đã nói.

3. Có pháp tương ưng với niệm cũng tương ưng với trạch pháp: Đó là pháp tương ưng với cả hai thứ. Nghĩa là niệm và giác chi trạch pháp cùng sinh, trừ tự tánh của hai thứ ấy ra, còn lại là pháp tương ưng, tức là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tùy phần vị của địa tương ưng cũng có tầm, tứ v.v… và tâm.

4. Có pháp không tương ưng với niệm cũng không tương ưng với trạch pháp: Đó là các tâm, tâm sở pháp khác, sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Nghĩa là trừ tâm tâm sở pháp vô lậu, còn lại là các tâm tâm sở pháp hữu lậu, cùng tất cả sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành đều thuộc về trường hợp thứ tư.

Như đối với giác chi trạch pháp, thì đối với các giác chi tinh tấn, khinh an, định, xả và các thứ chánh cần, chánh định cũng như vậy.

Như giác chi niệm đối với giác chi trạch pháp có bốn trường hợp nhỏ, đối với các giác chi tinh tấn v.v… cho đến chánh định nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi niệm thì chúng cũng tương ưng với giác chi hỷ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi niệm có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, còn giác chi hỷ chỉ có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, không phải có mặt khắp tất cả các địa, tức nên có bốn trường hợp vừa:

1. Có pháp tương ưng với niệm không phải là hỷ: Đó là giác chi hỷ và hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi niệm. Nghĩa là niệm cùng sinh với tự tánh của giác chi hỷ nên nó tương ưng với niệm, không tương ưng với giác chi hỷ, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh, nghĩa như trước đã nói. Và hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi niệm, tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai thứ tĩnh lự sau, ba vô sắc trước. Và pháp tương ưng với giác chi niệm chỉ tương ưng với niệm, không tương ưng với giác chi hỷ, vì trong các địa kia đều không có hỷ.

2. Có pháp tương ưng với hỷ không phải là niệm: Đó là giác chi hỷ tương ưng với niệm. Nghĩa là hỷ cùng sinh với tự tánh của giác chi niệm nên nó tương ưng với hỷ, không tương ưng với giác chi niệm, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh, nghĩa như trước đã nói.

3. Có pháp tương ưng với niệm cũng là hỷ: Đó là pháp tương ưng với cả hai. Nghĩa là niệm và giác chi hỷ cùng sinh, trừ hai tự tánh của chúng, còn lại là các pháp tương ưng khác, tức là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tùy phần vị của địa cũng có tầm, tứ v.v… và tâm.

4. Có pháp không phải tương ưng với niệm cũng không phải là hỷ: Đó là hỷ không tương ưng với giác chi niệm và các tâm, tâm sở pháp khác, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Nghĩa là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước. Tự tánh của giác chi niệm không tương ưng với giác chi niệm, vì tự tánh không tương ưng với tự tánh, cũng không tương ưng với giác chi hỷ, vì trong các địa đó đều không có hỷ. Trừ các tâm tâm sở pháp vô lậu, còn lại là các tâm tâm sở pháp hữu lậu, và tất cả sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành đều thuộc trường hợp thứ tư này.

Như đối với giác chi hỷ, thì đối với chánh kiến, chánh tư duy cũng như vậy.

Như giác chi niệm đối với giác chi hỷ nêu ra bốn trường hợp vừa, đối với chánh kiến, chánh tư duy nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi niệm thì chúng cũng tương ưng chánh niệm chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như pháp tương ưng với chánh niệm thì pháp ấy cũng tương ưng với giác chi niệm chăng?

Đáp: Đúng thế. Nghĩa là giác chi niệm tức là chánh niệm, nên nêu ra trường hợp như thế.

*

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi trạch pháp thì chúng cũng tương ưng với giác chi tinh tấn chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi trạch pháp cùng với giác chi tinh tấn đều có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, tức nêu ra bốn trường hợp nhỏ:

1. Có pháp tương ưng với trạch pháp không tương ưng với tinh tấn: Đó là giác chi tinh tấn. Nghĩa là trạch pháp và tự tánh của giác chi tinh tấn cùng sinh, nên nó chỉ tương ưng với trạch pháp, không tương ưng với giác chi tinh tấn, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh.

2. Có pháp tương ưng với tinh tấn không tương ưng với trạch pháp: Đó là giác chi trạch pháp. Nghĩa là tinh tấn và tự tánh của giác chi trạch pháp cùng sinh, nên nó chỉ tương ưng với tinh tấn, không tương ưng với giác chi trạch pháp, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh.

3. Có pháp tương ưng với trạch pháp cũng tương ưng với tinh tấn: Đó là pháp tương ưng với cả hai thứ. Nghĩa là trạch pháp và giác chi tinh tấn cùng sinh, trừ hai tự tánh của chúng, còn lại là các pháp tương ưng khác, tức là chín pháp đại địa, chín pháp đại thiện địa, tùy phần vị nơi địa cũng có tầm, tứ v.v… và tâm.

4. Có pháp không tương ưng với trạch pháp cũng không tương ưng với tinh tấn: Đó là các tâm, tâm sở pháp khác, sắc, vô vi và tâm bất tương ưng hành. Nghĩa là trừ các tâm, tâm sở pháp vô lậu, còn lại là các tâm, tâm sở hữu lậu, tất cả sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành đều thuộc về trường hợp thứ tư này.

Như đối với giác chi tinh tấn, thì đối với các giác chi khinh an, định, xả, và các thứ chánh cần, chánh niệm, chánh định cũng như vậy.

Như giác chi trạch pháp đối với giác chi tinh tấn nêu ra bốn trường hợp nhỏ, đối với các giác chi khinh an, định, xả và các thứ chánh cần, chánh niệm, chánh định nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi trạch pháp thì chúng cũng tương ưng với giác chi hỷ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi trạch pháp có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, còn giác chi hỷ chỉ có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, không phải có mặt khắp tất cả các địa, tức nêu ra bốn trường hợp vừa:

1. Có pháp tương ưng với trạch pháp không phải là hỷ: Đó là giác chi hỷ và hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi trạch pháp. Nghĩa là trạch pháp và tự tánh của giác chi hỷ cùng sinh, nên nó tương ưng với trạch pháp, không tương ưng với giác chi hỷ, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh. Và hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi trạch pháp, tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước. Và pháp tương ưng với giác chi trạch pháp, vì nó cùng tương ưng với trạch pháp, không tương ưng với giác chi hỷ, vì trong các địa kia đều không có hỷ.

2. Có pháp tương ưng với hỷ không phải là trạch pháp: Đó là giác chi hỷ tương ưng với trạch pháp. Nghĩa là hỷ và tự tánh của giác chi trạch pháp cùng sinh, nên nó tương ưng với hỷ, không tương ưng với giác chi trạch pháp, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh.

3. Có pháp tương ưng với trạch pháp cũng tương ưng với hỷ: Đó là pháp tương ưng với cả hai. Nghĩa là trạch pháp và giác chi hỷ cùng sinh, trừ hai tự tánh của chúng, còn lại là các pháp tương ưng khác, tức là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tùy phần vị nơi địa cũng có tầm, tứ v.v… và tâm.

4. Có pháp không tương ưng với trạch pháp cũng không tương ưng với hỷ: Đó là hỷ không tương ưng với giác chi trạch pháp và các tâm, tâm sở pháp khác, các sắc vô vi và tâm bất tương ưng hành. Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước. Và tự tánh của giác chi trạch pháp, không tương ưng với giác chi trạch pháp, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh. Nó cũng không tương ưng với giác chi hỷ, vì trong các địa kia đều không có hỷ. Trừ các tâm, tâm sở vô lậu, còn lại là các tâm, tâm sở hữu lậu khác và tất cả sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành đều thuộc vào trường hợp thứ tư này.

Như đối với giác chi hỷ, thì đối với chánh tư duy cũng như vậy.

Như giác chi trạch pháp đối với giác chi hỷ nêu ra bốn trường hợp vừa, đối với chánh tư duy nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi trạch pháp thì chúng cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Các pháp tương ưng chánh kiến thì chúng cũng tương ưng với trạch pháp. Có pháp tương ưng với trạch pháp không tương ưng với chánh kiến: Đó là chánh kiến không gồm thâu các pháp tương ưng với giác chi trạch pháp. Nghĩa là pháp tương ưng với tận trí, vô sinh trí, vì nó chỉ tương ưng với giác chi trạch pháp, không tương ưng với chánh kiến, vì tận trí, vô sinh trí không có tánh của kiến. Do trạch pháp thì rộng, chánh kiến thì hẹp, cho nên thuận với trường hợp sau.

*

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi tinh tấn thì chúng cũng tương ưng với giác chi hỷ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi tinh tấn có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, còn giác chi hỷ chỉ có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, không phải khắp tất cả các địa, tức nêu ra bốn trường hợp vừa. Giải thích rộng bốn trường hợp căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với giác chi hỷ, thì đối với chánh kiến, chánh tư duy cũng như vậy.

Như giác chi tinh tấn đối với giác chi hỷ nêu ra bốn trường hợp vừa, đối với chánh kiến, chánh tư duy nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi tinh tấn thì chúng cũng tương ưng với giác chi khinh an chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi tinh tấn cùng với giác chi khinh an đều có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, nên nêu ra bốn trường hợp nhỏ. Giải thích rộng về bốn trường hợp căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với giác chi khinh an, thì đối với các giác chi định, xả và các thứ chánh niệm, chánh định cũng như vậy.

Như giác chi tinh tấn đối với giác chi khinh an nêu ra bốn trường hợp nhỏ, đối với các giác chi định, xả và các thứ chánh niệm, chánh định nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi tinh tấn thì chúng cũng tương ưng với chánh cần chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như pháp tương ưng với chánh cần thì pháp ấy cũng tương ưng giác chi tinh tấn chăng?

Đáp: Đúng thế. Nghĩa là giác chi tinh tấn tức là chánh cần, nên nêu ra trường hợp như thế.

*

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi hỷ thì chúng cũng tương ưng với giác chi khinh an chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi hỷ có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, không phải có mặt khắp tất cả các địa, còn giác chi khinh an có mặt khắp tất cả tâm vô lậu cũng có mặt khắp tất cả các địa, nên nêu ra bốn trường hợp vừa. Giải thích rộng về bốn trường hợp ấy căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với giác chi khinh an, thì đối với các giác chi xả, định và các thứ chánh cần, chánh niệm, chánh định cũng như vậy.

Như giác chi hỷ đối với giác chi khinh an nêu ra bốn trường hợp vừa, đối với các giác chi định, xả và các thứ chánh cần, chánh định, chánh niệm nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi hỷ thì chúng cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi hỷ có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, không phải có mặt khắp tất cả các địa, còn chánh kiến có mặt khắp tất cả các địa, không phải khắp tất cả tâm vô lậu, nên nêu ra bốn trường hợp lớn:

1. Có pháp tương ưng với hỷ không phải là chánh kiến: Đó là giác chi hỷ tương ưng với chánh kiến và chánh kiến không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi hỷ. Nghĩa là giác chi hỷ và tự tánh của chánh kiến cùng sinh, nên nó tương ưng với giác chi hỷ, không tương ưng với chánh kiến, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh. Và chánh kiến không tương ưng với pháp tương ưng của giác chi hỷ: Tức là tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, tận trí, vô sinh trí cùng sinh với pháp tương ưng của giác chi hỷ, vì nó tương ưng với giác chi hỷ, không tương ưng với chánh kiến, vì là nhóm khác.

2. Có pháp tương ưng với chánh kiến không phải là hỷ: Đó là chánh kiến tương ưng với giác chi hỷ và giác chi hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của chánh kiến. Nghĩa là chánh kiến tương ưng với tự tánh của giác chi hỷ, nên nó tương ưng với chánh kiến, không tương ưng với giác chi hỷ, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh.

Và giác chi hỷ không tương ưng với pháp tương ưng của chánh kiến: Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước.

Pháp tương ưng với chánh kiến thì tương ưng với chánh kiến không phải với giác chi hỷ, vì trong các địa ấy đều không có hỷ.

3. Có pháp tương ưng với hỷ cũng tương ưng với chánh kiến: Đó là pháp tương ưng với cả hai thứ. Nghĩa là giác chi hỷ và chánh kiến cùng sinh, trừ tự tánh của hai thứ này, còn lại là pháp tương ưng khác, tức là tám pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, tùy phần vị nơi địa cũng có tầm, tứ v.v… và tâm.

4. Có pháp không phải tương ưng với hỷ cũng không phải tương ưng với chánh kiến: Đó là giác chi hỷ không tương ưng với chánh kiến và chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ, cùng các tâm, tâm sở pháp khác, các sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Giác chi hỷ không tương ưng với chánh kiến: Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước. Tự tánh của chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ, vì trong các địa ấy đều không có hỷ. Nó cũng không tương ưng với chánh kiến, vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh.

Chánh kiến không tương ưng với giác chi hỷ: Tức là tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, tận trí, vô sinh trí cùng sinh với tự tánh của giác chi hỷ, nó không tương ưng với chánh kiến vì ở nhóm khác, cũng không tương ưng với giác chi hỷ vì tự tánh không cùng tương ưng với tự tánh.

Các tâm, tâm sở pháp khác: Tức là định vị chí, tĩnh lự trung gian, hai tĩnh lự sau, ba vô sắc trước. Tận trí, vô sinh trí cùng sinh với nhóm tâm, tâm sở pháp và tất cả tâm, tâm sở pháp hữu lậu.

Cùng hết thảy sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành đều thuộc về trường hợp thứ tư.

Như đối với chánh kiến, thì đối với chánh tư duy cũng như vậy.

Như giác chi hỷ đối với chánh kiến nêu ra bốn trương hợp lớn, thì đối với chánh tư duy nên biết cũng như thế.

*

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi khinh an thì chúng cũng tương ưng với giác chi định chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi khinh an cùng với giác chi định đều có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, tức nêu ra bốn trương hợp nhỏ. Giải thích rộng về bốn trường hợp này căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với giác chi định, thì đối với giác chi xả, chánh cần, chánh niệm, chánh định cũng như vậy.

Như giác chi khinh an đối với giác chi định nêu ra bốn trường hợp nhỏ, đối với giác chi xả v.v… cho đến chánh định nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi khinh an thì chúng cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi khinh an có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, còn chánh kiến có mặt khắp tất cả các địa, không phải có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, tức nêu ra bốn trường hợp vừa. Giải thích rộng về trường hợp này căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với chánh kiến, thì đối với chánh tư duy cũng như vậy.

Như giác chi khinh an đối với chánh kiến nêu ra bốn trường hợp vừa, đối với chánh tư duy nên biết cũng như thế.

*

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi định thì chúng cũng tương ưng với giác chi xả chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi định cùng với giác chi xả đều có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, tức nêu ra bốn trường hợp nhỏ. Giải thích rộng về bốn trường hợp này căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với giác chi xả, thì đối với chánh cần, chánh niệm cũng như vậy.

Như giác chi định đối với giác chi xả nêu ra bốn trường hợp nhỏ, thì đối với chánh cần, chánh niệm nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi định thì chúng cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, giác chi định có mặt khắp tất cả các địa và tất cả tâm vô lậu, còn chánh kiến có mặt khắp tất cả các địa, không phải có mặt khắp tất cả tâm vô lậu, tức nêu ra bốn trường hợp vừa. Giải thích rộng về bốn trường hợp này căn cứ theo trước nên biết.

Như đối với chánh kiến, đối với chánh tư duy cũng như vậy.

Như giác chi định đối với chánh kiến nêu ra bốn trường hợp vừa, đối với chánh tư duy nên biết cũng như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi định thì chúng cũng tương ưng với chánh định chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như pháp tương ưng với chánh định thì pháp ấy cũng tương ưng với giác chi định chăng?

Đáp: Đúng thế. Nghĩa là giác chi định tức là chánh định, nên nêu ra trường hợp như thế.

*

Hỏi: Các pháp tương ưng với giác chi xả thì chúng cũng tương ưng với chánh kiến chăng? Cho đến nói rộng.

Đáp: Trong đây, giác chi xả đối với chánh kiến và chánh tư duy nêu ra bốn trường hợp vừa, còn đối với chánh cần, chánh niệm, chánh định nêu ra bốn trường hợp nhỏ.

Riêng chánh kiến đối với chánh tư duy nêu ra bốn trường hợp lớn, còn đối với chánh cần, chánh niệm, chánh định nêu ra bốn trường hợp vừa.

Chánh tư duy đối với chánh cần, chánh niệm, chánh định nêu ra bốn trường hợp vừa.

Chánh cần đối với chánh niệm, chánh định nêu ra bốn trường hợp nhỏ.

Chánh niệm đối với chánh định nêu ra bốn trường hợp nhỏ.

Như thế tất cả căn cứ theo trước nên biết.

***

* Thế nào là chánh kiến thế tục v.v…? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để phân biệt rõ các nghĩa lý sâu kín trong Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Nếu thành tựu chánh kiến thế tục tăng thượng thì nếu như trải qua trăm ngàn đời trọn không bị đọa vào nẻo ác”. Các kinh như thế tuy nói rất nhiều về chánh kiến thế tục, nhưng không giải thích rộng. Luận này lấy các kinh làm gốc, điều nào kinh chưa giải thích nay phân biệt đầy đủ.

Lại nữa, trước đã nêu bày chung về ba thứ kiến, trí, tuệ, nhưng chưa nói riêng thế nào là chánh kiến thế tục? Thế nào là chánh trí thế tục? Do đó, ở đây căn cứ vào phần Luận trước làm căn bản, điều nào chưa nói nay sẽ nêu bày.

Lại nữa, để ngăn chận các thuyết khác và nêu bày chánh lý. Như có người cho: “Ý thức tương ưng với các tuệ hữu lậu thiện đều không phải là kiến”, như Phái Thí Dụ chủ trương. Họ nói: “Năm thức dẫn dắt sinh ra biểu nghiệp và khi mạng chung thì các tuệ thiện nơi ý địa đều không phải là tánh của kiến”. Vì sao? Vì kiến có phân biệt khiến năm thức dẫn đến tuệ thiện của ý địa, như năm thức thân không thể phân biệt, nên không có tánh của kiến. Kiến dựa nơi môn bên trong khởi có thể phát sinh biểu nghiệp, tuệ thiện của ý địa dựa nơi môn bên ngoài để chuyển nên không phải là tánh của kiến. Lực dụng của kiến rất mạnh, còn tuệ thiện mạng chung thì thế dụng rất yếu kém, nên không phải là tánh của kiến.

Hỏi: Điều đó làm sao thông nơi Khế kinh đã nói? Như Khế kinh nói: Người ấy khi mạng chung thì các tâm, tâm sở pháp thiện cùng với chánh kiến đều đi chung với việc làm của người ấy?

Đáp: Đức Thế Tôn nói: Người kia khi sắp mạng chung thì các tâm thiện và chánh kiến nối tiếp cùng khởi, không phải là ngay khi đang chết có chánh kiến hoạt động.

Vì để ngăn chận các thứ chấp ấy và nêu bày rõ ý thức là cùng có, tất cả tuệ thiện đều thuộc về tánh của kiến.

Do các nhân duyên như thế nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là chánh kiến thế tục?

Đáp: Là khi ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu.

Ở đây, có ba loại: 1. Do gia hạnh được. 2. Do lìa nhiễm được. 3. Do sinh được.

Do gia hạnh được: Nghĩa là do nghe pháp tạo thành tuệ, do suy nghĩ tạo thành tuệ, do tu tập tạo thành tuệ. Trong ấy, sai biệt có: Quán bất tịnh, trì tức niệm (Quán sổ tức), các thứ niệm trụ và noãn, nhẫn, đảnh, pháp thế đệ nhất cùng sinh tuệ.

Do lìa nhiễm được: Nghĩa là các thứ tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… cùng sinh tuệ.

Do sinh được: Nghĩa là sinh vào địa kia được các tuệ thiện.

Các chánh kiến thế tục như thế có vô số thứ khác nhau, như vô số giọt nước chứa trong bốn biển lớn. Nay ở đây chỉ lược nói một phần thô hiển bày về chánh kiến thế tục.

Hỏi: Thế nào là chánh trí thế tục?

Đáp: Là khi năm thức tương ưng với tuệ thiện và ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu.

Năm thức tương ưng với tuệ thiện: Nghĩa là nhãn thức tương ưng với tuệ thiện v.v… cho đến thân thức tương ưng với tuệ thiện.

Nhãn thức tương ưng với tuệ thiện: Là do nhìn thấy các bậc cha mẹ, chư Phật, Độc giác, Bồ-tát, Thanh văn, Thân giáo (Hòa thượng), Quỹ phạm (A-xà-lê) và các vị đồng tu phạm hạnh đáng tôn quý khác, khởi nhãn thức tương ưng với tuệ thiện.

Nhĩ thức tương ưng với tuệ thiện: Là lắng nghe những lời đúng đắn, tốt đẹp của các bậc cha mẹ, Thân giáo, Quỹ phạm và các vị đồng tu phạm hạnh đáng tôn quý khác, cùng lắng nghe ba Tạng giáo pháp của chư Phật và các Thánh đệ tử giảng nói để khởi nhĩ thức tương ưng với tuệ thiện.

Tỷ, thiệt, thân thức tương ưng với tuệ thiện: Là khi thọ dụng đoạn thực đã khởi ba thức ấy tương ưng với tuệ thiện. Đây không phải tất cả đều có thể khởi được. Chính là người tu hành quán cần quán sát các thứ đoạn thực khi thọ dụng mới có thể phát khởi.

Ý thức tương ưng với tuệ thiện hữu lậu: Như đã nói rộng ở trước.

Đã nói về tự tánh của chánh kiến và chánh trí thế tục. Nay sẽ nói về tướng xen tạp và không xen tạp của chúng.

Hỏi: Các thứ chánh kiến thế tục là chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Các thứ chánh kiến thế tục cũng là chánh trí thế tục. Có chánh trí thế tục không phải là chánh kiến thế tục: Nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ thiện. Ở đây, chánh kiến thế tục tất nơi đối tượng duyên xét đoán kỹ lưỡng. Năm thức cùng với tuệ không gọi là kiến, như trước đã nói.

Hỏi: Chánh kiến thế tục gồm thâu chánh trí thế tục hay là chánh trí thế tục gồm thâu chánh kiến thế tục?

Đáp: Chánh trí thế tục gồm thâu chánh kiến thế tục, không phải chánh kiến thế tục gồm thâu chánh trí thế tục. Những gì là không gồm thâu? Tức không gồm thâu năm thức tương ưng với tuệ thiện. Ở đây, thể của chánh trí rộng, còn của chánh kiến hẹp, như lớn gồm thâu nhỏ, không phải nhỏ gồm thâu lớn.

Hỏi: Nếu thành tựu chánh kiến thế tục thì cũng thành tựu chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như đã thành tựu chánh trí thế tục thì cũng thành tựu chánh kiến thế tục chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Những ai thành tựu chánh kiến thế tục và chánh trí thế tục?

Đáp: Nếu nói chung là những người không đoạn dứt căn thiện. Nếu nói riêng thì có nhiều, có ít. Nghĩa là hoặc có người chỉ thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi dục. Hoặc có người chỉ thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi vô sắc. Hoặc có người thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi dục, cõi sắc. Hoặc có người thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở cõi sắc, cõi vô sắc. Hoặc có người thành tựu chánh kiến, chánh trí thế tục ở ba cõi.

Như nói về ba cõi, ở chín địa cũng như thế, hoặc ít hoặc nhiều, như lý mà nói.

Hỏi: Các thứ chánh kiến thế tục đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp thì chúng là chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như các chánh trí thế tục đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp thì chúng là chánh kiến thế tục chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Những ai đối với chánh kiến, chánh trí thế tục đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp?

Đáp: Nếu nói chung đó là những bậc A-la-hán. Nếu nói riêng thì có nhiều có ít. Nghĩa là hàng phàm phu và bậc Thánh đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ thì có được tám địa chánh kiến, chánh trí thế tục đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp, cho đến hàng phàm phu và bậc Thánh đã lìa nhiễm cõi dục, chưa lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất thì có một địa chánh kiến, chánh trí thế tục đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp. Ở đây chánh kiến chánh trí thế tục là hữu lậu.

Như thế là đã phân biệt đủ năm môn hỏi về định gồm thâu, thành tựu và đoạn dứt.

Hỏi: Vì sao gọi là thế tục? Vì có thể biến hoại nên gọi là thế tục hay vì là chỗ nương dựa của tham nên gọi là thế tục? Nếu vì có thể biến hoại nên gọi là thế tục thì Thánh đạo cũng có thể biến hoại tức nên gọi là thế tục chăng? Còn nếu vì là chỗ nương dựa của tham nên gọi là thế tục thì đó cũng là chỗ nương dựa của sân, si, sao chỉ nói riêng có tham?

Đáp: Nên nói như vầy: Là do có thể biến hoại nên gọi là thế tục.

Hỏi: Nếu như thế thì Thánh đạo cũng có thể biến hoại tức nên gọi là thế tục chăng?

Đáp: Nếu có thể biến hoại, lại có khả năng nối tiếp các hữu, tăng trưởng các hữu thì gọi là thế tục. Thánh đạo tuy có thể biến hoại, nhưng không có công năng nối tiếp các hữu mà là khiến các hữu tổn giảm, nên không phải là thế tục.

Lại nữa, nếu có thể biến hoại, lại có khả năng khiến cho sinh tử lưu chuyển không cùng, sinh lão bệnh tử luôn nối tiếp thì gọi là thế tục. Thánh đạo tuy có thể biến hoại, nhưng không khiến cho sinh tử lưu chuyển không cùng mà là đoạn dứt sinh lão bệnh tử khiến chúng không nối tiếp, nên không phải là thế tục.

Lại nữa, nếu có thể biến hoại là hướng đến hành khổ tập, cũng là hướng đến hành tập sinh lão bệnh tử của hữu thế gian thì gọi là thế tục. Thánh đạo tuy có thể biến hoại, nhưng không hướng đến hành khổ tập, cũng không hướng đến hành tập sinh lão bệnh tử của hữu thế gian, nên không phải là thế tục.

Lại nữa, nếu có thể biến hoại, là xứ của hữu thân kiến, là xứ của điên đảo, xứ của ái, xứ của tùy miên, xứ an lập đầy đủ của tham sân si, có cấu có độc, có lỗi lẫm, có gai gốc, có cặn đục, có nhiễm ô, tùy hữu thế gian, tùy khổ tập đế thì gọi là thế tục. Thánh đạo tuy có thể biến hoại, nhưng trái với các thứ nêu trên, nên không phải là thế tục.

Lại có thuyết cho: Vì là chỗ nương dựa của tham nên gọi là thế tục.

Hỏi: Nếu như thế thì cũng là chỗ nương dựa của sân, si, sao chỉ nói riêng có tham?

Đáp: Nơi chốn ấy tuy cũng là chỗ nương dựa của sân, si, nhưng tham là đứng đầu, là hơn hết, nên nói riêng.

Nhưng trong Khế kinh nói có thể biến hoại nên gọi là thế tục. Như Khế kinh nói: Cụ thọ Phong Chiêm đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi hai chân Phật và bạch: Đức Thế Tôn có nói về thế tục, vậy nghĩa của thế tục là gì?

Đức Phật bảo Cụ thọ Phong Chiêm: Có thể biến hoại nên gọi là thế tục.

Cụ thọ Phong Chiêm lại bạch Phật: Thế nào là có thể biến hoại?

Đức Phật dạy: Nhãn xứ có thể biến hoại, sắc xứ có thể biến hoại v.v… cho đến ý xứ có thể biến hoại, pháp xứ có thể biến hoại. Do có thể biến hoại nên gọi là thế tục.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nói mười hai xứ là có thể biến hoại nên gọi là thế tục mà không phải là các pháp khác?

Đáp: Do quán xét về trình độ của người được hóa độ, nên nghe nói “Các xứ là thế tục” mà được giác ngộ, nên nói riêng về xứ. Như nơi các kinh khác thì nói thủ uẩn v.v… gọi là thế tục, kinh này cũng như thế.

Lại nữa, nêu dạy về mười hai xứ là ở nơi xứ mà nói, vì chúng gồm thâu hết các pháp nên nói riêng về xứ.

Hỏi: Các thứ biến hoại đều là thế tục chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là thế tục không phải là biến hoại: Đó là hai đế khổ, tập ở quá khứ và vị lai.

2. Có thứ là biến hoại không phải là thế tục: Đó là đạo đế ở hiện tại.

3. Có thứ là thế tục cũng là biến hoại: Đó là hai đế khổ, tập ở hiện tại.

4. Có thứ không phải là thế tục cũng không phải là biến hoại: Đó là đạo đế ở quá khứ và vị lai, cùng tất cả vô vi.

Hỏi: Biến và hoại có những gì khác nhau?

Đáp: Biến (biến đổi) là hiển bày pháp vô thường vi tế, còn hoại (hư hoại) là hiển bày pháp vô thường thô trọng.

Lại nữa, biến là hiển bày về vô thường trong từng sát-na, còn hoại là hiển bày về vô thường của chúng đồng phần.

Lại nữa, biến là hiển bày về vô thường của phần bên trong, còn hoại là hiển bày về vô thường của phần bên ngoài.

Lại nữa, biến là nêu rõ về vô thường của số hữu tình, còn hoại là nêu rõ về vô thường của số phi tình, như nói nhà cửa, kho lẫm hư hoại v.v…

***

* Thế nào là kiến vô lậu v.v…? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trước tuy có nói chung về ba thứ kiến, trí, tuệ, nhưng chưa phân biệt rõ thế nào là kiến vô lậu? Thế nào là trí vô lậu? Ở đây lấy phần luận trước làm chỗ dựa căn bản, điều nào phần trước chưa nói nay sẽ nêu bày đầy đủ.

Lại nữa, trước tuy đã nói về kiến, thế tục trí, nay muốn nêu bày về pháp đối trị gần với chúng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là kiến vô lậu?

Đáp: Trừ tận trí, vô sinh trí, là các tuệ vô lậu còn lại. Đây lại là thế nào? Nghĩa là tám nhẫn vô lậu hiện quán biên, tám trí hữu học và chánh kiến vô học.

Hỏi: Thế nào là trí vô lậu?

Đáp: Trừ nhẫn vô lậu, là các tuệ vô lậu còn lại. Đây lại là thế nào? Nghĩa là tám trí hữu học và vô học.

Đã nói về tự tánh của trí vô lậu và kiến vô lậu. Nay sẽ nêu bày về tướng xen tạp và không xen tạp của chúng.

Hỏi: Các thứ kiến vô lậu là trí vô lậu chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là kiến vô lậu không phải là trí vô lậu: Nghĩa là nhẫn vô lậu, vì nó có tướng của kiến nhưng không có tướng của trí.

2. Có thứ là trí vô lậu không phải là kiến vô lậu: Nghĩa là tận trí, vô sinh trí, vì chúng có tướng của trí nhưng không có tướng của kiến.

3. Có thứ là kiến vô lậu cũng là trí vô lậu: Nghĩa là trừ nhẫn vô lậu và tận trí, vô sinh trí, còn lại là các tuệ vô lậu khác. Đây lại là thế nào? Nghĩa là tám trí hữu học, chánh kiến vô học, vì hai thứ này có tướng của kiến và tướng của trí.

4. Có thứ không phải là kiến vô lậu cũng không phải là trí vô lậu: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tướng tức tên được gọi của đối tượng, nói rộng như trước. Đây lại là thế nào? Nghĩa là trong hành uẩn trừ tuệ vô lậu, còn lại là các hành uẩn khác và bốn uẩn hoàn toàn, cùng pháp vô vi v.v… đều thuộc vào trường hợp thứ tư.

Kiến vô lậu, trí vô lậu gồm thâu lẫn nhau có bốn trường hợp, căn cứ theo định nên biết.

Hỏi: Nếu thành tựu kiến vô lậu thì cũng thành tựu trí vô lậu chăng?

Đáp: Nếu thành tựu trí vô lậu thì cũng thành tựu kiến vô lậu. Có trường hợp thành tựu kiến vô lậu không phải là trí vô lậu: Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn khi hiện tiền, lúc đó chưa tu trí vô lậu.

Luận sư của Bản luận này khéo nhận biết về chỗ sai biệt nơi tánh tướng của các pháp. Vì thế, nếu điều nào nên nói thì cho đến một niệm cũng đề cập riêng, điều nào không nên nói thì cho đến nhiều hơn lượng nước của bốn biển lớn cũng không nói. Các điều nói ra rộng lược cần xem xét vì có tác dụng.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói bốn thứ về hỏi, định, gồm thâu, thành tựu, không nói đến đoạn dứt?

Đáp: Có cấu uế nên mới đoạn dứt. Vô lậu không có cấu uế, nên không nói về đoạn dứt. Như đồ đạc, quần áo có nhơ bẩn mới giặt, rửa, không phải như vật không nhơ. Thế nên vô lậu không cần nói đoạn dứt.

Hỏi: Nếu pháp vô lậu không nên đoạn dứt thì như Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Này các Bí-sô! Nếu như các vị hiểu rõ pháp môn dụ về thuyền bè Ta vừa giảng nói, thì pháp hãy còn nên đoạn bỏ, huống là không phải pháp. Ở đây, pháp nên biết tức là đạo vô lậu v.v…?

Đáp: Đoạn có hai thứ: 1. Đoạn do ái đoạn. 2. Đoạn do trừ bỏ.

Thánh đạo tuy không có đoạn do ái đoạn, nhưng có đoạn do trừ bỏ. Khi nhập Niết-bàn thì buông bỏ đoạn ấy. Nghĩa là các Bí-sô trước nương vào Thánh đạo được dứt hết các lậu, niệm báo ân, nên thường lại tu tập, khởi Thánh đạo hiện tiền, sau nhằm giải thoát khỏi sự bức bách của các thứ khổ não nơi bốn trăm lẻ bốn bệnh ở thế gian nên tu tập.

Đức Phật nói: Này các Bí-sô! Khi đã nương vào Thánh đạo thực hành đủ mọi việc nên làm rồi thì phải buông bỏ tất cả để nhập Niết-bàn vô dư. Như người nương nhờ thuyền bè được qua sông rồi, do niệm báo ân nên mang nó bên mình. Có người khác thấy bảo: Trước đây anh nhờ nó nên vượt qua sông, giờ anh nên bỏ nó thì đi đứng mới được tự tại. Bí-sô cũng như thế.

Hỏi: Ở đây, thế nào là pháp và không phải pháp (phi pháp)?

Đáp: Ngôn giáo của nội đạo là pháp, còn ngôn giáo của ngoại đạo là không phải pháp. Ngôn giáo của nội đạo là hiển bày về không, vô ngã tùy thuận Niết-bàn, có thể khiến đoạn dứt hẳn các thứ sinh già bệnh chết. Ngôn giáo ấy hãy còn nên đoạn bỏ, huống chi là ngôn giáo hiện có của ngoại đạo, trái với không, vô ngã, trái nghịch với Niết-bàn, có thể khiến tăng trưởng và nối tiếp các thứ sinh già bệnh chết ở thế gian mà lại không nên đoạn bỏ sao?

Lại có thuyết nói: Nếu khéo thọ trì, đọc tụng câu chữ văn nghĩa gọi là pháp, còn không khéo thọ trì, đọc tụng câu chữ văn nghĩa gọi là phi pháp. Khéo thọ trì hãy còn nên đoạn bỏ, huống là không khéo thọ trì mà lại không nên đoạn bỏ sao?

Tôn giả Diệu Âm nói: Nếu khéo thọ trì A-cấp-ma (A-hàm) là pháp, còn không khéo thọ trì A-cấp-ma là phi pháp. Khéo thọ trì hãy còn nên đoạn bỏ, huống là không khéo thọ trì mà lại không nên đoạn bỏ sao?

Hiếp Tôn giả nói: Tác ý như lý gọi là pháp, tác ý không như lý là phi pháp. Tác ý như lý hãy còn nên đoạn bỏ, huống là tác ý không như lý mà lại không nên đoạn bỏ sao?

Lại nữa, hổ thẹn là pháp, không hổ thẹn là phi pháp. Ba căn thiện là pháp, ba căn bất thiện là phi pháp. Bốn niệm trụ là pháp, bốn điên đảo là phi pháp. Năm căn là pháp, năm cái (ngăn che) là phi pháp. Sáu tùy niệm là pháp, sáu ái thân là phi pháp. Bảy giác chi là pháp, bảy tùy miên là phi pháp. Tám đạo chi là pháp, tám tà chi là phi pháp. Chín định thứ đệ là pháp, chín kiết là phi pháp. Mười đạo nghiệp thiện là pháp, mười đạo nghiệp bất thiện là phi pháp. Những pháp thanh tịnh này hãy còn nên đoạn bỏ, huống hồ là những pháp tạp nhiễm mà lại không nên đoạn bỏ sao?

***

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ NĂM LOẠI (Ngũ Chủng), phần 1

* Thế nào là tà kiến v.v…? Các chương như thế và giảng giải nghĩa nơi các chương, đã lãnh hội rồi, tiếp theo là giải thích rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn phân biệt rõ nghĩa lý của Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Này các Bí-sô! Nên biết các thứ tà kiến là do sự thấy biết đó dấy khởi các nghiệp về thân, ngữ, từ suy nghĩ tìm cầu, mong ước, thực hành v.v… đều thuộc về loại đó. Các pháp như thế đều có thể gây tạo các thứ quả không đáng ưa thích, không đáng vui mừng, không tùy theo ước muốn, không như ý. Vì sao? Vì tà kiến ấy chính là ác kiến thô dữ”. Khế kinh tuy nói như thế nhưng không phân biệt về nghĩa. Kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những điều kinh chưa nói nay sẽ nêu bày đầy đủ.

Lại nữa, trước tuy nói chung về ba thứ kiến, trí, tuệ, nhưng chưa nêu bày riêng thế nào là tà kiến? Thế nào là tà trí? Ở đây, dùng phần luận trước làm căn bản, điều nào phần luận kia chưa nói nay ở đây sẽ nói, do đó tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là tà kiến?

Đáp: Nếu không an lập thì năm kiến đều gọi là tà kiến. Nghĩa là không an lập tên gọi và hành tướng sai khác của năm kiến như Tát-ca-da (Hữu thân kiến) v.v… tức năm kiến ấy đều gọi là tà kiến, đều đối với các đối tượng duyên suy lường, xét đoán sai lầm, tà vạy.

Nếu an lập, tức chỉ gồm trong các thứ kiến chấp: không thí cho, không yêu mến, không cúng tế, không có hành diệu, không có hành ác, không có dị thục nơi quả của hành nghiệp diệu, ác gọi là tà kiến. Nghĩa là, nếu an lập tên gọi và hành tướng sai biệt của năm kiến như Tát-ca-da v.v… tức chỉ cho tạo tác, chuyển biến không có hành tướng, gọi riêng là tà kiến, là tột cùng trong các thứ tà vạy. Như nói ngửi mùi tô và đám Chiên-đồ-la xấu ác.

Hỏi: Thế nào là tà trí?

Đáp: Là sáu thức tương ưng với tuệ nhiễm ô. Ở đây, nói năm thức tương ưng với tuệ nhiễm ô: Tức là tham, sân tương ưng với tuệ. Còn ý thức tương ưng với tuệ nhiễm ô: Tức là năm kiến, tham, sân, mạn, nghi, vô minh không chung và các thứ triền cấu khác tương ưng với tuệ. Tất cả như thế đều gọi là tà trí.

Đã nói về tự tánh của tà kiến, tà trí, nay sẽ nêu bày về tướng xen tạp và không xen tạp của chúng.

Hỏi: Các thứ tà kiến là tà trí chăng?

Đáp: Các thứ tà kiến là tà trí: Nghĩa là suy cầu tà vạy tất thẩm định quyết đoán sai lạc.

Có thứ là tà trí không phải là tà kiến: Nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ nhiễm ô, tức tham, sân tương ưng với tuệ và trừ năm kiến, là các ý thức khác tương ưng với tuệ nhiễm ô. Nghĩa là tham, sân, mạn, nghi, vô minh không chung, cùng các thứ triền cấu khác tương ưng với tuệ.

Hỏi: Tà kiến gồm thâu tà trí hay tà trí gồm thâu giữ tà kiến?

Đáp: Tà trí gồm thâu tà kiến, không phải tà kiến gồm thâu tà trí. Những gì là không gồm thâu? Tức không gồm thâu năm thức tương ưng với tuệ nhiễm ô và trừ năm kiến, là các ý thức khác tương ưng với tuệ nhiễm ô, có tướng thẩm định quyết đoán, không có tướng suy lường, nhận biết.

Hỏi: Nếu tạo thành tà kiến thì cũng tạo thành tà trí chăng?

Đáp: Nếu tạo thành tà kiến thì cũng tạo thành tà trí: Đó là vì tà trí nhiều nên kiến cũng là trí, tức đạo loại trí ở phần vị chưa sinh. Có thứ tạo thành tà trí không phải là tà kiến: Nếu nói chung đó là kiến tích hữu học, tức đạo loại trí đã sinh. Các quả vị hữu học gọi là kiến tích hữu học, vì đã thấy biết đủ các dấu vết của bốn Thánh đế. Nếu nói riêng thì có nhiều có ít. Nghĩa là hoặc tạo thành chín địa tà trí v.v… cho đến hoặc chỉ tạo thành một địa tà trí. Trong mỗi mỗi địa hoặc có tạo thành chín phẩm tà trí, cho đến hoặc có tạo thành một phẩm tà trí.

Hỏi: Các tà kiến đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp thì chúng là tà trí chăng?

Đáp: Các tà trí đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp chúng là tà kiến: Đó là các bậc A-la-hán. Có tà kiến đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp không phải là tà trí: Nếu nói chung đó là các kiến tích hữu học. Nếu nói riêng thì có nhiều có ít. Nghĩa là hoặc có chín địa tà trí không phải đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp v.v… cho đến hoặc có một địa tà trí không phải đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp. Trong mỗi mỗi địa hoặc có chín phẩm tà trí không phải đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp v.v… cho đến hoặc có một phẩm tà trí không phải đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp. Hoặc chín phẩm tà trí nhiễm ô đã đoạn dứt.

***

* Thế nào là chánh kiến v.v…? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Các thứ chánh kiến là theo chỗ thấy biết đó khởi các nghiệp về thân, ngữ, các suy nghĩ, tìm kiếm, mong ước, thực hành đều thuộc về loại ấy. Tất cả các thứ như thế có khả năng chiêu cảm các thứ quả đáng yêu mến, đáng vui mừng, thuận theo điều mong ước, như ý. Vì sao? Là do chánh kiến này là sự thấy biết của các bậc Hiền thiện”. Khế kinh tuy có nói như thế nhưng không phân biệt về nghĩa. Luận này lấy kinh làm gốc, nên chỗ nào kinh chưa nói nay sẽ nêu bày.

Lại nữa, trước tuy có nói chung về ba thứ kiến, trí, tuệ, nhưng chưa nói riêng thế nào là chánh kiến? Thế nào là chánh trí? Ở đây, dùng phần luận trước làm chỗ dựa căn bản, nên điều nào trước chưa nói nay sẽ nói.

Lại nữa, trước tuy đã nói về tà kiến, tà trí, nay muốn nói về pháp đối trị gần đối với chúng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là chánh kiến?

Đáp: Đó là ý thức tương ưng với tuệ thiện không thuộc về tận trí, vô sinh trí. Thứ này có hai loại là hữu lậu và vô lậu.

Hữu lậu: Tức là chánh kiến thế tục, như trước đã nói rộng.

Vô lậu: Tức là nhẫn vô lậu, tám trí hữu học và chánh kiến vô học.

Hỏi: Thế nào là chánh trí?

Đáp: Là năm thức tương ưng với tuệ thiện và nhẫn vô lậu không thuộc về ý thức tương ưng với tuệ thiện. Thứ này có hai loại là hữu lậu và vô lậu:

Hữu lậu: Tức là chánh kiến thế tục.

Vô lậu: Tức là tám trí hữu học, vô học.

Đã nói về tự tánh của chánh kiến và chánh trí. Nay sẽ nói về tướng xen lẫn và không xen lẫn của chúng.

Hỏi: Các thứ chánh kiến là chánh trí chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có thứ là chánh kiến không phải là chánh trí: Nghĩa là nhẫn vô lậu, vì nó có tướng của kiến, không có tướng của trí.

2. Có thứ là chánh trí không phải là chánh kiến: Nghĩa là năm thức tương ưng với tuệ thiện và tận trí, vô sinh trí, thứ này có tướng của trí, không có tướng của kiến.

3. Có thứ là chánh kiến cũng là chánh trí: Nghĩa là nhẫn vô lậu và ý thức tương ưng với tuệ thiện không thuộc về tận trí, vô sinh trí. Thứ này có hai loại là hữu lậu và vô lậu:

Hữu lậu: Tức là chánh kiến thế tục.

Vô lậu: Tức là tám trí hữu học và chánh kiến vô học, hai thứ này đều có đủ cả tướng của kiến và tướng của trí.

4. Có thứ không phải là chánh kiến cũng không phải là chánh trí: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tướng tức tên được gọi của đối tượng, nói rộng như trước. Đây lại là thế nào? Nghĩa là trong hành uẩn trừ các tuệ thiện, còn lại là các hành uẩn khác và bốn uẩn hoàn toàn, cùng pháp vô vi v.v… đều thuộc trường hợp thứ tư này.

Chánh kiến, chánh trí gồm thâu lẫn nhau có bốn trường hợp, căn cứ theo định nên biết.

Hỏi: Nếu thành tựu chánh kiến thì cũng thành tựu chánh trí chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như thành tựu chánh trí thì cũng thành tựu chánh kiến chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Những vị nào thành tựu chánh kiến và chánh trí?

Đáp: Nếu nói chung đó là những người không đoạn căn thiện. Nếu nói riêng thì có nhiều có ít. Nghĩa là hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ ấy ở cõi dục. Hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ ấy ở cõi sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ ấy ở cõi vô sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ vô lậu ấy ở cõi sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ vô lậu ấy ở cõi vô sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ ấy ở cõi dục, cõi sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu hai thứ ấy ở cõi sắc, cõi vô sắc. Hoặc có người thành tựu hai thứ ấy ở ba cõi. Hoặc có người thành tựu hai thứ vô lậu ấy ở cõi dục, cõi sắc. Hoặc có người thành tựu hai thứ vô lậu ấy ở cõi sắc, cõi vô sắc. Hoặc có người thành tựu hai thứ vô lậu ấy ở ba cõi.

Hỏi: Các thứ chánh kiến đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp thì chúng là chánh trí chăng?

Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Nếu như chánh trí đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp thì chúng là chánh kiến chăng? Đáp: Đúng thế.

Hỏi: Những ai đối với chánh kiến và chánh trí đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp?

Đáp: Nếu nói chung đó là các bậc A-la-hán. Nếu nói riêng thì có nhiều có ít. Nghĩa là hàng phàm phu, hữu học đã lìa nhiễm ở Vô sở hữu xứ, có tám địa chánh kiến chánh trí đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp. Cho đến hàng phàm phu, hữu học đã lìa nhiễm cõi dục, chưa lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ nhất, có tất cả chánh kiến, chánh trí đã đoạn dứt, đã nhận biết khắp. Nếu căn cứ vào cứu cánh mà nói thì chỉ có bậc A-la-hán.

HẾT – QUYỂN 97