LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 51

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ BẤT THIỆN, phần 6

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ có dị thục, bao nhiêu thứ không có dị thục?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận tông chỉ của người khác, để chỉ rõ nghĩa của mình. Tức là hoặc có lối chấp: Lìa tư không có nhân dị thục, lìa thọ thì không có quả dị thục, như phái Thí Dụ. Vì ngăn chận ý đó, nhằm chỉ rõ nhân dị thục và quả dị thục đều cùng chung cho năm uẩn.

Hoặc lại có lối chấp: Các nhân quả dị thục, nếu đã thành thục rồi, Thể của chúng là không. Như Ẩm Quang Bộ, họ nói: Các nhân quả dị thục, ở phần vị chưa thành thục, Thể của chúng còn có. Nếu quả đã thành thục rồi, Thể của chúng không có. Như hạt giống bên ngoài, mầm mộng lúc ở phần vị chưa sinh thì Thể của nó còn có. Nếu đã sinh mầm rồi, Thể của hạt giống đó không có. Vì nhằm ngăn chận ý đó, chỉ rõ về nhân quả dị thục, phần vị đã thành thục, Thể của chúng vẫn tồn tại.

Hoặc có kẻ chấp: Nghiệp thiện, bất thiện đều không có quả dị thục, như các ngoại đạo. Nay nhằm phá bỏ nghĩa đó, chỉ rõ nghiệp thiện, ác đều có quả dị thục.

Vì nhằm ngăn chận những lối chấp khác biệt ấy, để biểu dương tông chỉ của mình, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, không những nhằm ngăn chận các lối chấp của người khác để chỉ rõ nghĩa của mình, mà còn mở bày thật tánh của các pháp, khiến sinh hiểu biết đúng đắn, nên tạo ra Luận này.

Để đáp: Các pháp bất thiện đều có dị thục, các pháp vô ký đều không có dị thục. Ở đây phân biệt rộng nên dựa theo môn trước.

Hỏi: Có dị thục nghĩa là gì? Vì cùng với pháp dị thục của mình cùng gọi là có dị thục, hay là cùng với pháp dị thục của người khác cùng gọi là có dị thục? Nếu nêu ra như vậy thì có lỗi gì?

Nếu cùng với pháp dị thục của mình, cùng gọi là có dị thục, thì nhân quả nên đều có. Và theo như kệ đã nói làm sao thông suốt? Như nói:

Làm ác, không nhận ngay

Không như sữa thành lạc

Như lấp tro trên lửa

Ngu giẫm lâu mới nóng.

Có thứ cỏ Tát-xà, đem mài nhuyễn rồi bỏ vào sữa, tức trở thành lạc. Quả của nghiệp thì không như vậy. Như đem tro lấp lửa lại, người ngu giẫm lên, mới đầu tuy không biết, lát sau mới bị phỏng chân. Kẻ làm điều ác cũng như thế, lúc gieo nhân tuy có vui, nhưng đến khi quả thành thục rồi sẽ có khổ của nẻo ác.

Nếu cùng với pháp dị thục của người khác, cùng gọi là có dị thục, tức nên Thánh đạo cũng có dị thục, vì đồng thời sinh khởi cùng với dị thục của người khác?

Đáp: Cùng với pháp dị thục của mình cùng gọi là có dị thục.

Hỏi: Nếu vậy nhân quả nên cùng có, theo như kệ đã nói, làm sao thông suốt?

Đáp: Cùng có có hai thứ: 1. Có cùng. 2. Đều cùng.

Có cùng: Là như có nhân, có quả, có đối tượng duyên, có dị thục. Có nhân, có quả: Là như nhân đã đứt rồi, đến một trăm câu chi kiếp, quả mới hiện tiền. Tuy cách xa nhưng sau gọi là có nhân, trước gọi là có quả. Có đối tượng duyên: Như người đứng ở chỗ này ngắm xem mặt trời, mặt trăng, phát sinh nhãn thức. Từ nơi này đến mặt trời, mặt trăng kia, tuy cách xa đến bốn mươi ngàn do tuần, nhưng nhãn thức này gọi là có đối tượng duyên. Có dị thục: Như người gây tạo nghiệp rồi, đến một trăm câu chi kiếp, dị thục (quả báo) mới sinh khởi. Tuy cách nhau rất xa, nhưng nhân của nghiệp trước gọi là có dị thục.

Đều cùng: Như có tầm, có tứ, có mừng, có cảnh giác. Có tầm: Là pháp tương ưng với tầm. Có tứ: Là pháp tương ưng với tứ. Có mừng: Là pháp tương ưng với hỷ căn. Có cảnh giác: Là pháp tương ưng với tác ý.

Nên biết trong đây có dị thục, là dựa vào nghĩa có cùng mà nói, không dựa vào nghĩa đều cùng.

Lại nữa, cùng có có hai thứ: 1. Có cùng. 2. Hợp cùng.

Có cùng: Như có nhân có quả, có đối tượng duyên, có dị thục.

Hợp cùng: Như có tầm có tứ, có mừng, có cảnh giác.

Nên biết ở đây nói có dị thục là dựa vào có cùng mà nói, không dựa vào hợp cùng.

Lại nữa: Cùng có có ba thứ: 1. Cùng gần. 2. Cùng xa. 3. Cùng gần xa.

Cùng gần: Như có tầm, có tứ, có mừng, có cảnh giác.

Cùng xa: Như có nhân, có quả, có đối tượng duyên, có dị thục.

Cùng gần xa: Như có lậu, tùy miên, có duyên, có sự việc. Có lậu: Là pháp tương ưng với các lậu và pháp nơi đối tượng duyên của lậu. Có tùy miên cũng như vậy. Có duyên: Là các pháp xa gần cùng duyên với điều kia. Có sự việc cũng như thế. Sự việc là nhân nơi sự hoặc sự bị hệ thuộc.

Nên biết trong đây có dị thục là dựa vào nghĩa cùng xa mà nói, không dựa theo hai nghĩa kia.

Hỏi: Vì sao gọi là dị thục?

Đáp: Vì loại khác mà thành thục, nên gọi là dị thục. Thục có hai thứ: 1. Đồng loại. 2. Khác loại.

Đồng loại thục: Là quả đẳng lưu, tức thiện sinh thiện, bất thiện sinh bất thiện, vô ký sinh vô ký.

Khác loại thục: Là quả dị thục, tức là pháp thiện, bất thiện, tạo lấy quả vô ký. Ngoài ra, hỏi đáp về nghĩa, như nơi phần Tạp Uẩn đã nói.

***

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chận tông chỉ của người khác, làm sáng tỏ nghĩa của mình.

Như phái Thí Dụ nói: Phàm phu không có khả năng đoạn các phiền não.

Đại đức nói: Phàm phu không có nghĩa đoạn trừ tùy miên, chỉ có khả năng chế ngự triền. Nếu nói như vậy, về lý không tổn hại.

Vì sao phái kia chấp như vậy? Đáp: Vì căn cứ ở Khế kinh. Nghĩa là như Khế kinh nói: Nếu dùng Thánh tuệ thấy pháp, đoạn trừ phiền não, đó gọi là chân đoạn, không phải như các phàm phu đã có Thánh tuệ nhưng chưa có thể đoạn.

Nếu vậy như kinh đã nói lại làm sao thông suốt? Như nói: Bísô Mãnh Hy Tử kia đã đoạn nhiễm cõi dục, nhiễm cõi sắc, nhiễm của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, sinh lên Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lại nói: Tiên bên ngoài đã lìa nhiễm cõi dục. Người kia đáp: Chỗ dẫn Khế kinh: Không đoạn nói đoạn, không lìa nói lìa, như Khế kinh khác không đoạn nói đoạn, không lìa nói lìa. Vậy những Khế kinh nào không đoạn nói đoạn? Như nói:

Ngu chấp ngã, ngã sở

Lúc chết đều đoạn hẳn

Người trí đã biết rõ

Không chấp ngã, ngã sở.

Những Khế kinh nào không lìa nói lìa? Như nói: Có đồng nam, đồng nữ trong thôn ấp đang đùa giỡn trên đống đất tro, lấy tro đất làm nhà cửa. Đối với ngôi nhà này, lúc chưa lìa nhiễm chúng lo tu bổ và sửa sang, nhưng khi đã lìa nhiễm chúng phá vỡ và bỏ đi.

Hai kinh như thế, không đoạn nói đoạn, không lìa nói lìa, chỗ dẫn chứng nghĩa của Khế kinh cũng nên như vậy. Rõ ràng các phàm phu đối với các phiền não thật sự là chưa vĩnh viễn đoạn trừ, chỉ có khả năng làm chúng khuất phục tạm thời. Nghĩa là lúc lìa nhiễm, dùng đạo thế tục dựa vào tĩnh lự thứ nhất để lìa nhiễm cõi dục, lần lượt cho đến dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ để lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ. Đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì không có nơi nào trên nữa để có thể dựa vào, nên không có thể lìa. Cũng như loài sâu đo lúc dựa vào cỏ cây, vin trên bỏ dưới, nếu đến chỗ cùng cực, không còn nơi nào để dựa nữa, lập tức rơi tụt xuống thấp. Như người trèo lên cây, nên biết cũng như vậy. Như loài dã can v.v… đạp mạnh qua đám gai, lau, chỉ gây hư hại cây con, không kéo được gốc rễ. Phàm phu lìa nhiễm nên biết cũng như vậy, chỉ có khả năng làm khất phục tạm thời, không thể đoạn trừ vĩnh viễn.

Nay nhằm ngăn chận ý tưởng đó và chỉ rõ các phàm phu do đạo thế tục cũng có thể đoạn trừ kiết.

Hoặc lại có lối chấp: Tất không có nghĩa Thánh giả dùng đạo thế tục đoạn trừ phiền não. Họ nói: Vì sao Thánh giả lại bỏ đạo vô lậu dùng đạo thế tục? Nay nhằm ngăn chận ý đó, chỉ rõ có việc Thánh giả dùng đạo thế tục đoạn trừ phiền não.

Hoặc lại có lối chấp: Tất cả phiền não đều đoạn trừ tức khắc, không có nghĩa đoạn trừ lần lượt. Họ nói: Lúc Định kim cang dụ hiện ở trước, phiền não được đoạn trừ tức khắc. Tức do định kia đoạn trừ tất cả Hoặc, nên nói là Định kim cang dụ. Cũng như kim cang có khả năng phá vỡ sắt, đá, sừng, xương, ngọc trai, mạt ni v.v… Người kia tuy có bốn quả Sa-môn, nhưng muốn đoạn trừ phiền não phải có định kim cang. Hỏi: Ba quả trước chưa có khả năng đoạn trừ Hoặc thì kiến lập làm gì? Họ đáp: Vì ba quả trước chế ngự các phiền não, dẫn phát định kim cang, khiến định này hiện tiền mới có thể đoạn trừ vĩnh viễn, nên không phải là vô dụng. Ví như nông phu, tay trái tóm lấy cỏ, tay phải cầm lưỡi hái bén, chỉ trong một lúc là cắt hết cỏ. Nay vì nhằm ngăn chận ý đó và chỉ rõ các phiền não có hai thứ đối trị, nghĩa là hai đạo kiến và tu khác nhau. Mỗi đạo lúc hiện tiền đều có khả năng đoạn dứt phiền não.

Hoặc lại có lối chấp: Nơi bốn Thánh đế lúc được hiện quán là đoạn phiền não tức khắc, không phải là lần lượt. Vì nhằm dứt bỏ lối chấp ấy, chỉ rõ bốn đế lúc được hiện quán là lần lượt đoạn trừ phiền não, không phải là đoạn tức khắc. Do kiến đạo đoạn Hoặc, cũng như tu đạo đoạn, không phải một lúc đoạn tất cả. Vì nếu ở bốn đế lúc được hiện quán mà đoạn Hoặc tức khắc, không phải đoạn lần lượt là trái với Thánh giáo. Như Khế kinh nói: Trưởng giả Cấp Cô Độc đi đến chỗ Đức Phật, bạch: Bạch Thế Tôn! Đối với bốn Thánh đế lúc được hiện quán là được tức khắc hay lần lượt? Đức Phật bảo: Như bốn bậc thang, phải lần lượt bước lên, không phải tức khắc bước một lượt.

Hoặc lại có kẻ chấp: Tất cả phiền não do kiến đạo đoạn và do tu đạo đoạn không khác nhau. Nay vì nhằm ngăn chận ý đó, chỉ rõ các phiền não do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn nhất định có sai biệt.

Vì ngăn chận các lối chấp dị biệt đó, nhằm chỉ rõ tông chỉ của mình, nên tạo ra phần Luận này. Lại nữa, không phải chỉ để ngăn chận kiến chấp của người khác, làm sáng tỏ nghĩa của mình, mà còn mở bày thật tánh của các pháp, khiến hiểu biết đúng đắn, nên tạo ra phần Luận này.

Để đáp: Trong ba kiết, kiết hữu thân kiến do kiến là hành trước, có hai trường hợp: Hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Hỏi: Hành trước là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa lập trước, nghĩa đáp trước, là nghĩa của hành trước.

Nghĩa lập trước là nghĩa của hành trước: Là trước lập trường hợp do kiến đạo đoạn, sau lập trường hợp không nhất định.

Nghĩa đáp trước là nghĩa của hành trước: Là trước dùng trường hợp do kiến đạo đoạn để đáp, sau dùng trường hợp không nhất định để đáp.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Đáp: Nếu hữu thân kiến thuộc về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành giả Tùy tín – Tùy pháp hành, khổ nhẫn hiện quán biên đoạn trừ, là kiến đạo đoạn. Nghĩa là hữu thân kiến từ cõi dục cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thể có được, hành giả khởi đạo thế tục có thể đoạn hữu thân kiến từ cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ. Đạo thế tục này không đủ năng lực đoạn hữu thân kiến của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên dừng lại, không tiến tới. Về sau, lúc kiến đạo hiện tiền mới có thể đoạn trừ hữu thân kiến kia.

Trong đây, hữu thân kiến: Là định rõ về tự tánh của nó.

Thuộc về Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Là định rõ về địa kia.

Tùy tín – Tùy pháp hành: Là định rõ về Bổ-đặc-già-la (hữu tình) kia có khả năng đoạn trừ.

Khổ nhẫn hiện quán biên: Là định rõ về đạo đối trị.

Đoạn: Là định rõ về hành tác của đạo kia.

Nếu hữu thân kiến có đối trị không xen tạp, đối trị quyết định, đối trị không chung là Thánh giả đoạn không phải là phàm phu đoạn. Thánh đạo đoạn không phải là thế tục đoạn, do kiến đạo đoạn không phải do tu đạo đoạn, do nhẫn đoạn không phải do trí đoạn, là những điều Luận này nói đến. Phần khác, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn. Phần khác là gì? Là hữu thân kiến từ cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ. Nếu phàm phu đoạn hữu thân kiến đó là do tu đạo đoạn, Thánh giả đoạn là do kiến đạo đoạn. Phàm phu đoạn là dùng đạo thế tục đoạn, Thánh giả đoạn là do đạo vô lậu đoạn. Phàm phu đoạn là do trí đoạn, Thánh giả đoạn là do nhẫn đoạn. Phàm phu đoạn là dùng chín phẩm đoạn chín phẩm, Thánh giả đoạn là dùng một phẩm đoạn chín phẩm. Phàm phu đoạn là luôn khởi đoạn, Thánh giả đoạn là không khởi đoạn. Phàm phu đoạn không quán đế đoạn, Thánh giả đoạn thì quán đế đoạn.

Như kiết hữu thân kiến, thì kiết hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến trong năm kiến cũng như vậy. Do tự tánh đồng, nên cùng chung cho cả chín địa, chỉ có một bộ.

Kiết giới cấm thủ và nghi do kiến là hành trước, có hai trường hợp: Hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Hỏi: Hành trước là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa của hành trước như đã nói ở trên.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Đáp: Nếu giới cấm thủ, nghi thuộc về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành giả Tùy tín – Tùy pháp hành, do các nhẫn hiện quán biên đoạn trừ, là kiến đạo đoạn. Tức là giới cấm thủ, nghi từ cõi dục cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thể có được, hành giả khởi đạo thế tục có thể đoạn giới cấm thủ, nghi từ cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ. Đối với giới cấm thủ, nghi của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đạo thế tục này không đủ sức để có thể đoạn, nên dừng lại, không tiến tới. Về sau, lúc kiến đạo hiện tiền mới có thể đoạn giới cấm thủ, nghi kia.

Trong đây, giới cấm thủ, nghi: Là định rõ về tự tánh của chúng. Thuộc về Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Là định rõ về địa kia.

Tùy tín – Tùy pháp hành: Là định rõ về Bổ-đặc-già-la kia có khả năng đoạn.

Các nhẫn hiện quán biên: Là định rõ về đạo đối trị.

Đoạn: Là định rõ về hành tác của đạo kia.

Nếu giới cấm thủ, nghi có đối trị không xen tạp, đối trị quyết định, đối trị không chung là Thánh giả đoạn không phải là phàm phu đoạn, Thánh đạo đoạn không phải là thế tục đoạn, do kiến đạo đoạn không phải là do tu đạo đoạn, do nhẫn đoạn không phải do trí đoạn, là ở đây nói đến. Phần khác, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn. Phần khác là gì? Nghĩa là giới cấm thủ, nghi từ cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ. Nếu phàm phu đoạn giới cấm thủ, nghi kia là do tu đạo đoạn, Thánh giả đoạn là do kiến đạo đoạn. Phàm phu đoạn là do đạo thế tục đoạn, Thánh giả đoạn là do đạo vô lậu đoạn. Phàm phu đoạn là do trí đoạn, Thánh giả đoạn là do nhẫn đoạn. Phàm phu đoạn là dùng chín phẩm đoạn chín phẩm, Thánh giả đoạn là do một phẩm đoạn chín phẩm. Phàm phu đoạn là thường khởi đoạn, Thánh giả đoạn thì không khởi đoạn. Phàm phu đoạn không quán đế đoạn, Thánh giả đoạn thì quán đế đoạn.

Như kiết giới cấm thủ, nghi, thì kiến bộc lưu, kiến ách trong bốn bộc lưu, bốn ách, giới cấm thủ, kiến thủ trong bốn thủ, giới cấm thủ chấp giữ đây là thật trong bốn trói buộc thân, kiết nghi, kiết giới cấm thủ trong năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ trong năm kiến, tùy miên nghi, kiến trong bảy tùy miên, kiết nghi, kiết kiến thủ trong chín kiết cũng như vậy. Do tự tánh đồng, nên cùng chung cho cả chín địa và chỉ có bốn bộ.

Căn bất thiện tham do tu là hành trước, có hai trường hợp: Hoặc do tu đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Hỏi: Hành trước là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa lập trước, nghĩa đáp trước, là nghĩa của hành trước.

Nghĩa lập trước là nghĩa của hành trước: Là trước lập trường hợp do tu đạo đoạn, sau lập trường hợp không nhất định.

Nghĩa đáp trước là nghĩa của hành trước: Là trước dùng trường hợp do tu đạo đoạn để đáp, sau dùng trường hợp không nhất định để đáp.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Đáp: Nếu căn bất thiện tham, hàng học kiến tích dùng các trí đoạn là tu đạo đoạn. Nghĩa là năm bộ của căn bất thiện tham có thể được, tức do kiến khổ cho đến tu đạo đoạn. Lúc kiến đạo khởi có thể đoạn căn bất thiện tham từ kiến khổ, cho đến kiến đạo đoạn. Đối với căn bất thiện tham do tu đạo đoạn, kiến đạo này không đủ sức để có thể đoạn, nên dừng lại, không tiến bước. Về sau, lúc tu đạo thù thắng hiện tiền mới có thể đoạn căn bất thiện tham kia.

Trong đây, căn bất thiện tham: Là định rõ về tự tánh của nó.

Học kiến tích: Là định rõ về Bổ-đặc-già-la kia có khả năng đoạn.

Các trí: Là định rõ về đạo đối trị.

Đoạn: Là định rõ về đạo kia đã hành tác.

Nếu căn bất thiện tham có đối trị không xen tạp, đối trị quyết định, đối trị không chung là Thánh giả đoạn không phải là phàm phu đoạn, do tu đạo đoạn không phải do kiến đạo đoạn, do trí đoạn không phải do nhẫn đoạn, là ở đây nói đến. Phần khác, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn. Phần khác là gì? Là căn bất thiện tham của bốn bộ trước, tức do kiến khổ cho đến kiến đạo đoạn. Căn bất thiện tham kia, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, Thánh giả đoạn là do kiến đạo đoạn. Phàm phu đoạn là do đạo thế tục đoạn, Thánh giả đoạn là do đạo vô lậu đoạn. Phàm phu đoạn là do trí đoạn, Thánh giả đoạn là do nhẫn đoạn. Phàm phu đoạn là dùng chín phẩm đoạn chín phẩm, Thánh giả đoạn là dùng một phẩm đoạn chín phẩm. Phàm phu đoạn thường khởi để đoạn, Thánh giả đoạn thì không khởi đoạn. Phàm phu đoạn không quán đế đoạn, Thánh giả đoạn thì quán đế đoạn.

Hỏi: Trong đây đã nói, nếu căn bất thiện tham, bậc học kiến tích dùng các trí đoạn là do tu đạo đoạn: Là chứng tỏ căn bất thiện tham là do tu đạo đoạn trong thân Thánh giả. Phần khác, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn, là chứng tỏ căn bất thiện tham do kiến đạo đoạn trong thân của phàm phu và Thánh giả. Ngoài ra còn có căn bất thiện tham do tu đạo đoạn trong thân phàm phu, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết nghĩa này là nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, căn bất thiện tham trước đã nói, trong đây cũng đã nói. Vì sao? Vì sự khác nhau của bộ mà lập phiền não, không do các phiền não ở thân. Bộ có năm, không có sáu, Thánh giả lúc kiến đạo hiện tiền là đoạn do kiến đạo đoạn. Về sau, nếu lúc tu đạo hiện ở trước là đoạn do tu đạo đoạn. Phàm phu lúc tu đạo hiện ở trước là đoạn chung về năm bộ, vì các phàm phu không thể phân biệt được năm bộ có sai biệt, nên chỉ có thể đoạn tổng quát.

Nói phàm phu đoạn là nói do tu đạo đoạn: Tức đã nói rồi, nên không nói riêng.

Lại nữa, nói học kiến tích dùng các trí đoạn: Tức đã nói rõ do tu đạo đoạn, nên không nói riêng.

Tu đạo đoạn trong thân phàm phu: Tức là học kiến tích do trí đoạn.

Như căn bất thiện tham, thì căn bất thiện giận, si, dục lậu trong ba lậu, bộc lưu dục, ách dục trong bốn bộc lưu, bốn ách, dục thủ trong bốn thủ, tham dục, giận dữ trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, ba cái còn lại, trừ cái ố tác, nghi trong năm cái, kiết giận trong năm kiết, kiết giận, kiết tham dục trong năm kiết thuận phần dưới, tùy miên dục tham, tùy miên giận dữ trong bảy tùy miên, kiết giận trong chín kiết cũng như thế. Do tự tánh đồng, nên cùng kết hợp chung cho cả năm bộ nơi cõi dục.

Hữu lậu, vô minh lậu do kiến là hành trước, có ba trường hợp: Hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Hỏi: Hành trước là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa lập trước, nghĩa đáp trước, là nghĩa của hành trước.

Nghĩa lập trước là nghĩa của hành trước: Là trước lập trường hợp do kiến đạo đoạn, tiếp theo là lập trường hợp do tu đạo đoạn, sau lập trường hợp bất định.

Nghĩa đáp trước là nghĩa của hành trước: Là trước dùng trường hợp do kiến đạo đoạn để đáp, kế đến dùng trường hợp tu đạo đoạn để đáp, sau dùng trường hợp không nhất định để đáp.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Đáp: Nếu hữu lậu, vô minh lậu thuộc về Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hàng Tùy tín, Tùy pháp hành, các nhẫn hiện quán biên để đoạn là kiến đạo đoạn. Nghĩa là hữu lậu từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thể được. Vô minh lậu từ cõi dục cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thể được, hành giả khởi đạo thế tục, có thể đoạn hữu lậu từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ, có thể đoạn vô minh lậu từ cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ. Đối với hữu lậu và vô minh lậu nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đạo thế tục này không có sức để đoạn trừ, nên trụ lại, không tiến tới. Về sau, lúc kiến đạo hiện ở trước mới có thể đoạn hữu lậu và vô minh lậu kia.

Trong đây, hữu lậu, vô minh lậu: Là định rõ về tự tánh của chúng.

Thuộc về Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Là định rõ về địa kia.

Tùy tín, Tùy pháp hành: Là định rõ về Bổ-đặc-già-la có khả năng đoạn trừ.

Các nhẫn hiện quán biên: Là định rõ về đạo đối trị.

Đoạn: Là định rõ về đạo kia đã hành tác. Nếu hữu lậu, vô minh lậu có đối trị không xen tạp, đối trị quyết định, đối trị không chung là Thánh giả đoạn không phải phàm phu đoạn, Thánh đạo đoạn không phải thế tục đoạn, do kiến đạo đoạn không phải do tu đạo đoạn, do nhẫn đoạn không phải do trí đoạn, là ở đây nói đến.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nếu hữu lậu, vô minh lậu do bậc học kiến tích dùng các trí đoạn trừ là tu đạo đoạn. Nghĩa là hữu lậu, vô minh lậu kia có năm bộ, lúc kiến đạo hiện tiền là đoạn bốn bộ trước. Đối với hữu lậu, vô minh lậu do tu đạo đoạn, kiến đạo này không có sức để đoạn nên dừng lại, không tiến tới. Về sau, lúc tu đạo thù thắng hiện tiền mới có thể đoạn hữu lậu, vô minh lậu kia.

Trong đây, hữu lậu, vô minh lậu: Là định rõ về tự tánh của chúng. Học kiến tích: Là định rõ về Bổ-đặc-già-la có khả năng đoạn trừ.

Các trí: Là định rõ về đạo đối trị có khả năng đoạn.

Đoạn: Là định rõ về đạo đối trị đã hành tác.

Nếu hữu lậu, vô minh lậu có đối trị không xen tạp, đối trị quyết định, đối trị không chung là Thánh giả đoạn không phải phàm phu đoạn, do tu đạo đoạn không phải do kiến đạo đoạn, do trí đoạn không phải do nhẫn đoạn, là ở đây nói đến. Phần khác là nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn. Phần khác là gì? Nghĩa là hữu lậu từ tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ, là vô minh lậu của cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, năm bộ trong thân phàm phu, bốn bộ trong thân Thánh giả. Nếu phàm phu kia đoạn là do tu đạo đoạn, Thánh giả đoạn là do kiến đạo đoạn. Phàm phu đoạn là do đạo thế tục đoạn, Thánh giả đoạn là do đạo vô lậu đoạn. Phàm phu đoạn là do trí đoạn, Thánh giả đoạn là do nhẫn đoạn. Phàm phu đoạn là dùng chín phẩm đoạn chín phẩm, Thánh giả đoạn là dùng một phẩm đoạn chín phẩm. Phàm phu đoạn thường khởi để đoạn, Thánh giả đoạn thì không khởi đoạn. Phàm phu đoạn không quán đế để đoạn, Thánh giả đoạn thì quán đế để đoạn.

Như hữu lậu, vô minh lậu, thì bộc lưu hữu, ách hữu, bộc lưu vô minh, ách vô minh trong bốn bộc lưu, bốn ách, ngã ngữ thủ trong bốn thủ, kiết tham, kiết mạn trong năm kiết, ý xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân, tùy miên vô minh, tùy miên mạn, tùy miên hữu tham trong bảy tùy miên, kiết vô minh, kiết ái, kiết mạn trong chín kiết cũng như thế. Vì tự tánh là đồng, nên đều cùng chung cho cả tám, chín địa và năm bộ.

Hành trước có ba thứ: 1. Hành trước không chung. 2. Hành trước hoàn toàn. 3. Hành trước đầu tiên.

Hành trước không chung: Là như ba kiết v.v… Hành trước hoàn toàn: Là như ba căn bất thiện v.v… Hành trước đầu tiên: Là như hữu lậu, vô minh lậu v.v…

Nếu các phiền não thuộc chung về ba cõi, chỉ do kiến đạo đoạn trừ, thì kiến là hành trước, có hai trường hợp như ba kiết v.v… Nếu các phiền não chỉ thuộc về cõi dục, chung cho cả năm bộ, thì tu là hành trước, có hai trường hợp như ba căn bất thiện v.v… Nếu phiền não thuộc chung cả ba cõi, cũng chung cho năm bộ, thì kiến là hành trước, có ba trường hợp như hữu lậu, vô minh lậu v.v… Đó gọi là ở đây đã tóm lược Tỳ Bà Sa.

Cái ố tác do tu đạo đoạn, phàm phu, Thánh giả đều dùng chín phẩm trí để đoạn. Như cái ố tác, thì kiết tật, kiết xan trong năm kiết, năm kiết thuận phần trên, năm ái thân trước trong sáu ái thân, kiết tật, kiết xan trong chín kiết cũng như thế. Vì đồng là do chín phẩm trí đoạn. Cái nghi, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn. Ở đây chỉ có bốn bộ trước của cõi dục.

Trong chín mươi tám tùy miên, hai mươi tám thứ do kiến đạo đoạn, nghĩa là bốn bộ trước nơi Hữu đảnh. Mười thứ do tu đạo đoạn, nghĩa là các bộ nơi ba cõi do tu đạo đoạn. Ngoài ra, nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn, nghĩa là bốn bộ trước của tám địa dưới.

Hỏi: Nếu hai mươi tám thứ do kiến đạo đoạn, mười thứ do tu đạo đoạn, ngoài ra là không nhất định, vì sao Luận Phẩm Loại Túc nói trong chín mươi tám tùy miên có tám mưới tám thứ do kiến đạo đoạn, mười thứ do tu đạo đoạn?

Đáp: Văn của Luận này là liễu nghĩa, còn văn của Luận kia là không liễu nghĩa. Văn của Luận này không có ý nghĩa riêng, văn của Luận kia có ý nghĩa riêng. Văn của Luận này không có nhân duyên riêng, văn của Luận kia có nhân duyên riêng. Văn của Luận này dựa vào thắng nghĩa đế mà nói, văn của Luận kia dựa vào thế tục đế mà nói.

Lại nữa, Luận kia dựa vào thứ lớp, dựa vào sự trói buộc gồm đủ, dựa vào trường hợp không phải siêu việt mà nói. Luận này trái với các điều vừa nêu mà nói.

Lại nữa, Luận kia chỉ căn cứ ở Thánh giả lìa nhiễm không phải là phàm phu, là tác dụng của Thánh đạo, không phải thế tục mà nói.

Luận này là căn cứ chung nơi phàm phu, Thánh giả lìa nhiễm, căn cứ vào tác dụng của Thánh đạo và đạo thế tục mà nói.

Lại nữa, Luận này là nói quyết định, Luận kia là dựa vào dị môn mà nói. Nghĩa là trước tức lìa nhiễm nơi cõi dục cho đến Vô sở hữu xứ, nhập chánh tánh ly sinh. Người đó ở trong kiến đạo cũng chứng vô lậu, lìa trói buộc được pháp do kiến đạo đoạn của tám địa dưới. Vì vậy nên nói có tám mươi tám thứ do kiến đạo đoạn, mười thứ tu đạo đoạn.

Tôn giả Diệu Âm cũng nói: Luận này nói là dựa vào lý quyết định, còn Luận Phẩm Loại Túc nói có tám mươi tám thứ tùy miên do kiến đạo đoạn là dựa vào sự chứng đắc giải thoát vô lậu mà nói. Hoặc dựa vào sự đắc quả theo thứ lớp mà nói.

Hỏi: Vì sao gọi là do kiến đạo đoạn? Vì sao gọi là do tu đạo đoạn? Kiến không lìa tu, tu không lìa kiến, vì sao kiến lập hai tên gọi về đoạn?

Đáp: Tuy trong kiến đạo cũng có tu như thật có thể chứng đắc và trong tu đạo cũng có kiến như thật có thể đạt được, nhưng kiến là tuệ, tu là không phóng dật. Như thật là nghĩa rộng thêm, hoặc là nghĩa mãnh liệt, nhạy bén. Trong kiến đạo thì tuệ nhiều, không phóng dật ít, còn trong tu đạo thì không phóng dật nhiều, tuệ ít. Vì vậy tên gọi về chỗ đoạn trừ có khác nhau.

Lại nữa, như thật là nghĩa bình đẳng, hoặc là nghĩa giống nhau. Tuy trong kiến đạo có từng ấy tuệ, nhưng cũng có từng ấy không phóng dật. Trong tu đạo có từng ấy không phóng dật, cũng có từng ấy tuệ. Nhưng trong kiến đạo thì tác dụng của tuệ tăng hơn hẳn, còn tác dụng của không phóng dật thì yếu kém. Trong tu đạo thì tác dụng của không phóng dật tăng hơn hẳn, còn tác dụng của tuệ lại yếu kém, nên tên gọi về chỗ đoạn trừ có khác nhau.

Tôn giả Thế Hữu nói: Tuy quán bốn đế để đoạn các phiền não, nhưng không thể phân biệt đây là do kiến đạo đoạn, đây là do tu đạo đoạn, nhưng do lực của kiến đoạn trừ, loại bỏ hẳn, nên gọi là kiến đạo đoạn. Như đã đắc đạo, hoặc tập, hoặc tu, hoặc đã hành tác nhiều, phẩm loại sai biệt lần lượt khiến nhỏ và mỏng dần, cho đến rốt ráo đều đoạn hết, gọi là tu đạo đoạn.

Có thuyết cho: Do kiến đạo đoạn, cũng gọi là do tu đạo đoạn, vì trong kiến đạo cũng có tu như thật. Do tu đạo đoạn, cũng gọi là do kiến đạo đoạn, vì trong tu đạo cũng có kiến như thật. Nơi nghĩa này, nếu do lực của kiến đoạn trừ, loại bỏ, gọi là kiến đạo đoạn. Như đã đắc đạo, hoặc tập, hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, phẩm loại sai biệt đã làm cho mỏng, nhỏ dần, cho đến rốt ráo đều đoạn hết, gọi là tu đạo đoạn.

Hỏi: Ở đây nói có nghĩa gì?

Đáp: Ở đây nói kiến đạo là đạo mạnh mẽ, nhạy bén, chỉ tạm hiện tiền, trong một lúc có thể đoạn trừ chín phẩm phiền não. Còn tu đạo là đạo không mạnh mẽ, nhạy bén, cần phải tu tập thường xuyên trong thời gian lâu mới đoạn được chín phẩm phiền não. Như hai con dao bén và lụt đồng thời cắt một vật: dao bén thì cắt đứt ngay, còn dao lụt thì phải cắt dần dần mới đứt. Vừa thấy liền đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Thường tu tập để đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu do kiến đạo tăng thượng mà đoạn, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu do tu đạo tăng thượng mà đoạn, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu do hai tướng đạo là kiến, tuệ đoạn, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu do ba tướng đạo là kiến, trí, tuệ đoạn, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu do bốn tướng đạo là nhãn, minh, giác, tuệ đoạn, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu do năm tướng đạo là nhãn, minh, giác, trí, tuệ đoạn, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu dùng các nhẫn đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu dùng các trí đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu nơi chín phẩm dùng một phẩm để đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu nơi chín phẩm dùng chín phẩm để đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu dùng vị tri đương tri căn để đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu dùng dĩ tri căn để đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu như đập bể đá mà đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu như cắt đứt dây tơ của ngó sen mà đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu trái với quyết đoán mạnh mẽ gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu trái với gia hạnh gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, người chưa thấy đế mà quán đế đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu người đã thấy đế lại quán đế để đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu người dùng đạo một nhân mà đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu người dùng đạo hai nhân mà đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, như đại lực sĩ mặc đủ giáp trụ mà đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Như người gầy yếu, bệnh, phải ngồi trên xe do lừa kéo mà đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn trừ phiền não chỉ tu các hành tướng mà mình đã quán đế, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn trừ phiền não cũng tu các hành tướng của người khác đã quán lại đế, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu dùng hướng đạo chưa thành tựu quả để đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu dùng hướng đạo đã thành tựu quả để đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu dùng đạo không sai biệt về phẩm loại mà đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu dùng đạo có sai biệt về phẩm loại mà đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu do đạo của hàng Tùy tín, Tùy pháp hành mà đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu do đạo của hàng Tín thắng giải, Kiến chí, Thân chứng mà đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu do đạo khởi tức khắc lần đầu mà đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu do đạo thường xuyên khởi về sau mà đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu người kia lìa trói buộc thuộc về bốn quả Sa-môn, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu người kia lìa trói buộc thuộc về hoặc ba, hoặc hai, hoặc một quả Sa-môn, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu pháp được đoạn duyên nơi vô sự gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp được đoạn duyên nơi có sự gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu đoạn phiền não rồi, vĩnh viễn không thoái chuyển, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu đoạn phiền não rồi, hoặc có thoái chuyển, hoặc không thoái chuyển, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu đã giải thoát rồi, không còn bị trói buộc nữa, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu đã giải thoát rồi, hoặc còn bị trói buộc nữa, hoặc không còn bị trói buộc nữa, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu đã lìa trói buộc rồi, không còn bị trói buộc nữa, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lìa trói buộc rồi, hoặc còn bị trói buộc nữa, hoặc không còn bị trói buộc nữa, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, nhẫn là đạo vô gián, trí là đạo giải thoát, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn phiền não, trí là đạo vô gián, trí là đạo giải thoát, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, trí là đạo gia hạnh, nhẫn là đạo vô gián, trí là đạo giải thoát, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn trừ phiền não, trí là đạo gia hạnh, đạo vô gián, đạo giải thoát, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu pháp trước được là phi trạch diệt, sau được là trạch diệt, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp trước được là phi trạch diệt, sau được là trạch diệt, hoặc trước được là trạch diệt, sau được là phi trạch diệt, hoặc một lúc được cả hai diệt, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, do tu duyên nơi đạo một đế gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn phiền não, do tu duyên nơi đạo bốn đế gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, tu đạo bốn hành tướng, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn phiền não, tu đạo mười sáu hành tướng, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, chỉ tu đạo giống nhau, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn phiền não, tu cả đạo giống nhau, không giống nhau, gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, tu hai hoặc một Tam-ma-địa, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn phiền não, tu ba Tam-ma-địa gọi là do tu đạo đoạn.

Lại nữa, nếu lúc đoạn phiền não, không khởi đoạn, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu lúc đoạn phiền não, hoặc khởi đoạn hoặc không khởi đoạn, gọi là do tu đạo đoạn.

HẾT – QUYỂN 51