LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 107

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ TU TRÍ, phần 3

Hàng phàm phu khi đã lìa nhiễm ở cõi dục, trong các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí. Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu thế tục trí và tha tâm trí.

Khi đã lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ nhất, nếu dựa vào tĩnh lự thứ nhất để tạo gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu thế tục trí và tha tâm trí. Nếu dựa vào cận phần của tĩnh lự thứ hai để tạo gia hạnh thì trong đạo gia hạnh kia, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí. Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu thế tục trí và tha tâm trí.

Khi đã lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ hai, thứ ba, nên biết cũng như thế.

Khi đã lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư để tạo gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu thế tục trí và tha tâm trí. Nếu dựa vào cận phần của Không vô biên xứ để tạo gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy nơi chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí.

Khi đã lìa nhiễm ở Không vô biên xứ, trong các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí.

Khi đã lìa nhiễm ở Thức vô biên xứ và Vô sở hữu xứ, nên biết cũng như thế.

Hàng phàm phu khi chưa lìa nhiễm cõi dục, khởi bốn thứ vô lượng, hai thứ giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm (Quán sổ tức), niệm trụ. Khi khởi noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí.

Hàng phàm phu khi đã lìa nhiễm cõi dục, khởi bốn thứ vô lượng, ba thứ giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ v.v…, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu thế tục trí và tha tâm trí. Khi khởi noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí. Khi khởi bốn giải thoát ở vô sắc, hai biến xứ và niệm trụ, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí.

Khi dẫn phát năm thông, trong các đạo gia hạnh, hai đạo giải thoát, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu thế tục trí và tha tâm trí. Trong một đạo giải thoát, ở hiện tại tu thế tục trí và tha tâm trí, ở vị lai cũng tu thế tục trí và tha tâm trí. Trong năm đạo vô gián, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí. Trong hai đạo giải thoát thì không tu trí vô ký.

Bậc Thánh trong kiến đạo, nếu ở hiện tại có công đức như thế mà tu vị lai, tức cũng tu công đức như thế. Như khi các nhẫn hiện tiền, nếu hiện tại tu nhẫn như thế, ở vị lai cũng tu nhẫn như thế. Khi các trí hiện tiền, nếu ở hiện tại tu trí như thế, tức ở vị lai cũng tu trí như thế, trừ ba khoảnh khắc tâm. Ở vị lai cũng tu thế tục trí, nghĩa là khi có khổ, tập, diệt, loại trí thì ở vị lai cũng tu thế tục trí hiện quán biên.

Hỏi: Vì sao trong kiến đạo chỉ tu đồng phần, còn trong tu đạo lại có thể tu cả đồng phần và không đồng phần?

Đáp: Vì ở chỗ kiến đạo, định đối trị với định, nên chỉ tu đồng phần. Còn ở chỗ tu đạo, bất định đối trị với bất định, nên có thể tu cả đồng phần và không đồng phần.

Lại nữa, do đối tượng duyên của kiến đạo là duyên với định đối trị với định, nên chỉ tu đồng phần. Còn do đối tượng duyên của tu đạo là duyên với bất định đối trị với bất tịnh, nên có thể tu cả đồng phần và không đồng phần.

Lại nữa, ở kiến đạo vì mới được chủng tánh Thánh, mới tu được các hành tướng Thánh của bốn Thánh đế, nên chỉ tu đồng phần. Còn ở tu đạo đã được chủng tánh Thánh, đã tu được các hành tướng Thánh của bốn Thánh đế, nên có thể tu cả đồng phần và không đồng phần.

Lại nữa, ở kiến đạo vì mới được kiến đế, mới được hiện quán, nên chỉ tu đồng phần. Còn ở tu đạo đã được kiến đế, đã được hiện quán, nên có thể tu cả đồng phần và không đồng phần.

Khi đạo loại trí không có tha tâm trí, ở hiện tại tu hai trí là đạo và loại, ở vị lai tu sáu trí tức trừ thế tục trí và tha tâm trí. Nếu có tha tâm trí, ở hiện tại tu hai trí là loại và đạo, ở vị lai tu bảy trí tức trừ thế tục trí.

Bậc Thánh khi nhờ đạo thế tục lìa nhiễm cõi dục, nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tùy tu hai thứ là bốn pháp trí hay bốn loại trí, còn ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Nếu thế tục trí làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh nơi chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Nơi đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, còn ở vị lai tu tám trí. Nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh nơi chín đạo giải thoát ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu tám trí. Trong chín đạo vô gián, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí.

Cho đến khi lìa nhiễm ở Vô sở hữu xứ, nên biết cũng như thế.

Khi do đạo vô lậu lìa nhiễm cõi dục, nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, còn ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ là bốn pháp trí và bốn loại trí, còn ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Trong chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, ở hiện tại tùy tu hai thứ là bốn pháp trí và bốn loại trí, còn ở vị lai tu bảy trí trừ tha tâm trí. Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại tùy tu hai thứ là bốn pháp trí và bốn loại trí, còn ở vị lai tu tám trí.

Khi lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tu thế tục trí, còn ở vị lai tu tám trí. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ là bốn pháp trí và bốn loại trí, còn ở vị lai tu tám trí. Trong chín đạo vô gián, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, còn ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Trong chín đạo giải thoát, ở hiện tại tùy tu hai thứ hai pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí.

Cho đến khi lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ nên biết cũng như thế.

Khi lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, còn ở vị lai tu tám trí. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí. Trong chín đạo vô gián, ở hiện tại tùy tu hai thứ hai pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu sáu trí tức trừ thế tục trí và tha tâm trí. Trong tám đạo giải thoát, ở hiện tại tùy tu hai thứ hai pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ thế tục trí. Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại tùy tu hai thứ là hai loại trí, ở vị lai tu tám trí và tu vô lượng căn thiện ở cả ba cõi.

Bậc Tín thắng giải chưa lìa nhiễm cõi dục, khi luyện căn tạo kiến chí, nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, còn ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Trong đạo vô gián, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu sáu trí tức trừ tha tâm trí và thế tục trí. Trong đạo giải thoát, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai: Có thuyết nói: Tu sáu trí tức trừ tha tâm trí và thế tục trí. Có thuyết nói: Tu bảy trí tức trừ tha tâm trí.

Bậc Tín thắng giải đã lìa nhiễm cõi dục, khi luyện căn tạo kiến chí, nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, còn ở vị lai tu tám trí. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí. Trong đạo vô gián, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu sáu trí tức trừ tha tâm trí và thế tục trí. Trong đạo giải thoát, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai: Có thuyết nói: Tu bảy trí tức trừ thế tục trí. Có thuyết nói: Tu tám trí.

A-la-hán thời giải thoát khi luyện căn tạo bất động, nếu do thế tục làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tu thế tục trí, ở vị lai tu tám trí. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí. Trong chín đạo vô gián, ở hiện tại tùy tu hai thứ hai pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu sáu trí tức trừ tha tâm trí và thế tục trí. Trong tám đạo giải thoát, ở hiện tại tùy tu hai thứ hai pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ thế tục trí. Trong đạo giải thoát thứ chín, ở hiện tại tùy tu hai thứ hai pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí và tu vô lượng căn thiện ở ba cõi.

Bậc Thánh khi chưa lìa nhiễm cõi dục, khởi bốn thứ vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trì tức và niệm trụ, ở hiện tại tu thế tục trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí.

Khi tạp tu tĩnh lự, nơi khoảng sát-na đầu tiên, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Khoảng sát-na thứ hai, ở hiện tại tu thế tục trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Khoảng sát-na thứ ba, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi dẫn phát năm thông, trong năm đạo vô gián, ở hiện tại tu thế tục trí, ở vị lai tu bảy trí tức trừ tha tâm trí. Trong các đạo gia hạnh nơi hai đạo giải thoát, ở hiện tại tu thế tục trí, ở vị lai tu tám trí. Trong một đạo giải thoát, ở vị lai tu tám trí, ở hiện tại tu tha tâm trí và thế tục trí. Có thuyết nói: Cũng tùy tu hai thứ đạo pháp trí hay đạo loại trí. Tha tâm trí nơi hai đạo giải thoát thì không tu trí vô ký.

Bậc Thánh đã lìa nhiễm cõi dục, khởi bốn thứ vô lượng, giải thoát thế tục, thắng xứ, biến xứ, quán bất tịnh, niệm trì tức, niệm trụ thế tục, vô ngại giải thế tục, vô tránh, nguyện trí, định biên vực, Tamma-địa Không – Không, Vô nguyện – Vô nguyện, Vô tướng – Vô tướng, nhập định tưởng diệt, tâm vi tế v.v…, ở hiện tại tu thế tục trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi khởi tha tâm trí vô lậu, ở hiện tại tùy tu hai thứ đạo pháp, đạo loại trí hoặc tha tâm trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi dựa vào địa tĩnh lự, khởi niệm trụ vô lậu, vô ngại giải nghĩa vô lậu, ở hiện tại tùy tu hai thứ là bốn pháp trí và bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi khởi vô ngại giải biện vô lậu, ở hiện tại tùy tu hai thứ đạo pháp trí và đạo loại trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi dựa vào định vô sắc khởi niệm trụ vô lậu, vô ngại giải biện vô lậu, giải thoát vô lậu, ở hiện tại tùy tu hai thứ bốn loại trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi dựa vào định vô sắc khởi vô ngại giải biện vô lậu, ở hiện tại tu loại trí và đạo trí, ở vị lai tu tám trí.

Khi khởi nhập định diệt tận và tâm vi tế, ở hiện tại chỉ tu thế tục trí, ở vị lai cũng chỉ tu thế tục trí.

Đó gọi là ở xứ này đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Nếu tu pháp trí thì cũng tu loại trí chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa ấy không nhất định, do đó:

1. Có thứ là tu pháp trí không phải là loại trí: Nghĩa là khi pháp trí nhập hiện quán về khổ, tập, diệt, đạo và bậc A-la-hán học kiến tích khi đã được pháp trí hiện tiền.

Ở đây: Khi pháp trí nhập hiện quán về khổ, tập, diệt, đạo: Là khi ở kiến đạo có bốn pháp trí, chỉ tu pháp trí không tu loại trí. Vì sao? Vì ở kiến đạo nếu hiện tại có công đức như thế thì tu vị lai, tức tu công đức như thế, và khi pháp trí hiện tiện thì chỉ tu phẩm pháp trí ở vị lai, còn khi loại trí hiện tiền thì chỉ tu phẩm loại trí vị lai.

Bậc A-la-hán học kiến tích khi đã được pháp trí hiện tiền: Học tức là Bổ-đặc-già-la Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn. Tích tức là bốn Thánh đế. Vì tuệ vô lậu đã thấy đầy đủ vết tích của bốn Đế, nên gọi là học kiến tích. Còn A-la-hán tức là tuệ giải thoát hoặc là câu giải thoát.

Bậc học và vô học này khi đã được pháp trí hiện tiền thì chỉ tu pháp trí là tu tập, nên không tu loại trí. Vì sao? Vì pháp đã từng được khi hiện tiền, nhưng sức lực yếu kém không thể bắt kịp với sát-na thứ hai, huống lại có thể tu các thứ vị lai xa xôi khác được sao?

2. Có thứ là tu loại trí không phải là pháp trí: Nghĩa là khi loại trí nhập hiện quán về khổ, tập, diệt và bậc A-la-hán học kiến tích khi đã được loại trí hiện tiền.

Ở đây: Khi loại trí nhập hiện quán về khổ, tập, diệt: Là khi có ba loại trí ở trong kiến đạo thì chỉ tu loại trí, không tu pháp trí. Nghĩa như trước đã nói.

Bậc A-la-hán học kiến tích khi đã được loại trí hiện tiền: Nghĩa là bậc học, vô học khi từng được loại trí hiện tiền, trước hết tu loại trí, không tu pháp trí. Nghĩa như đã nói ở trước.

3. Có thứ cùng tu cả hai: Nghĩa là khi loại trí nhập hiện quán về đạo, bậc A-la-hán học kiến tích khi chưa được trí vô lậu hiện tiền, chưa được thế tục trí hiện tiền, nhưng khi ấy có thể cùng tu cả hai.

Trong đây, nói về: Khi loại trí nhập hiện quán về đạo: Là khi sau kiến đạo, đạo loại trí có thể tu pháp trí cũng tu loại trí. Do trong phần vị này, bỏ đạo đã từng được để được đạo chưa từng được. Chứng được một vị đoạn dứt các kiết, tức thì được tám trí, cùng lúc tu cả mười sáu hành tướng.

Bậc A-la-hán học kiến tích khi chưa được trí vô lậu hiện tiền: Là ở phần vị hữu học, do đạo vô lậu lìa được nhiễm cõi dục. Nếu do vô lậu làm gia hạnh thì trong đạo gia hạnh ấy nơi chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, cho đến khi lìa nhiễm ở Vô sở hữu xứ cũng như vậy.

Khi lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu do vô lậu làm gia hạnh, thì đạo gia hạnh ấy nơi chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, có tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh ấy nơi đạo vô gián và đạo giải thoát, khi tâm trước sau tu đủ các tĩnh lự, khởi tha tâm trí vô lậu, niệm trụ vô lậu, giải thoát vô lậu, các thứ ở phần vị học như thế, khi chưa được trí vô lậu hiện tiền nhưng có thể tu pháp trí, cũng tu loại trí.

Hoặc ở phần vị vô học, lúc lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi được đạo giải thoát thứ chín, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Hoặc vô lậu làm gia hạnh, khi được đạo gia hạnh ấy, nơi chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, lúc này tâm trước sau tu đủ các tĩnh lự, khởi tha tâm trí vô lậu, niệm trụ vô lậu, vô ngại giải vô lậu, giải thoát vô lậu… các phần vị vô học như thế chưa được trí vô lậu hiện tiền nhưng có thể tu pháp trí cũng tu loại trí.

Khi chưa được thế tục trí hiện tiền nhưng có thể cùng tu cả hai. Nghĩa là ở phần vị hữu học dùng đạo thế tục lìa nhiễm cõi dục. Nếu do thế tục làm gia hạnh thì khi được đạo gia hạnh ấy, nơi chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát… cho đến khi lìa nhiễm ở Vô sở hữu xứ cũng như thế.

Khi lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu do thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh ấy có bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu do thế tục làm gia hạnh, tức khi có đạo gia hạnh ấy, lúc tâm tu đủ tĩnh lự trung gian, dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh nơi năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát, khởi bốn thứ vô lượng, giải thoát thế tục, thắng xứ, biến xứ, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, nhập diệt định tưởng, tâm vi tế… Nếu ở phần vị vô học, có bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh ấy, tâm tu đủ tĩnh lự trung gian, dẫn phát năm thông. Khi được các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát, khởi bốn vô lượng, giải thoát thế tục, thắng xứ, biến xứ, niệm trụ thế tục, vô ngại giải thế tục, vô tránh, nguyện trí, định biên vực, các Tam-ma-địa Không – Không, Vô nguyện – Vô nguyện, Vô tướng – Vô tướng, nhập diệt định tưởng, tâm vi tế… Các thứ phần vị học và vô học như thế v.v… khi chưa được thế tục trí hiện tiền, nhưng có thể tu pháp trí, loại trí ở vị lai.

4. Có thứ cùng không tu. Nghĩa là bậc A-la-hán học kiến tích, khi đã được thế tục trí hiện tiền. Nhưng khi chưa được thế tục trí hiện tiền thì đều cùng không tu pháp trí, loại trí. Tất cả phàm phu, tâm nhiễm ô, tâm vô ký, ở nơi định vô tưởng, định diệt, trời vô tưởng, nhẫn vô lậu, thì đều không tu.

Trong đây nói bậc A-la-hán học kiến tích khi đã được thế tục trí hiện tiền: Nghĩa là các bậc hữu học và vô học, khi đã được thế tục trí hiện tiền, lực dụng yếu kém, hãy còn không thể tu các công đức hữu lậu cùng loại ở vị lai, huống là có thể tu được các phẩm pháp trí, loại trí khác loại ở vị lai.

Khi chưa được thế tục trí hiện tiền thì đều cùng không tu: Nghĩa là tức phần vị hữu học, vô học, chưa từng được tuệ do văn, tư tạo thành, và khi nhập định diệt, tâm vi vi hiện tiền thì đều không thể tu pháp trí, loại trí.

Tất cả phàm phu: Nghĩa là ở phần vị phàm phu, những khi có tâm hiện tiền đều không thể tu pháp trí, loại trí, vì đấy không phải là pháp nơi đối tượng tu của hàng phàm phu.

Tâm nhiễm ô: Nghĩa là các Thánh giả khi có tâm nhiễm ô hiện tiền đều không thể tu pháp trí, loại trí. Vì tâm nhiễm ô là thuận với phần thoái chuyển, tánh ấy là chìm nặng tương ưng với biếng trễ, tự mình hãy còn không tu được, huống là có thể tu các công đức vô lậu khác. Chủ yếu là thuận với phần thù thắng, tánh ấy là nhanh nhạy tốt đẹp, tâm tương ưng với tinh tấn, mới có thể tu thiện.

Tâm vô ký: Nghĩa là những Thánh giả, khi các tâm vô ký hiện tiền tức đều không thể tu pháp trí, loại trí. Vì tâm vô ký thì thấp kém, yếu ớt, như hạt giống bị hư nát, tự tu hãy còn không được, huống là có thể tu các công đức vô lậu khác, cần phải có tâm ý vững chắc thù thắng mới có thể tu các công đức.

Định vô tưởng, định diệt: Nghĩa là khi trụ vào định vô tưởng cùng trụ nơi định diệt thì đều không thể tu pháp trí, loại trí. Do chủ yếu là phải ở phần vị có tâm mới có thể tu, còn trong phần vị không tâm thì không thể tu.

Trời vô tưởng: Có thuyết nói: Khi sinh vào xứ ấy nơi tất cả thời đều không khởi tâm thiện, nên không thể tu pháp trí, loại trí.

Có thuyết cho: Sinh vào xứ ấy tuy có khởi tâm thiện, nhưng không thể tu pháp gia hạnh thiện, do nơi xứ ấy chỉ khởi thiện sinh đắc, hãy còn không thể tu gia hạnh hữu lậu, huống chi là đối với pháp trí, loại trí nơi xứ ấy há làm sao có thể tu được!

Khi có nhẫn vô lậu: Nghĩa là khi có được tám nhẫn vô lậu trong kiến đạo thì không thể tu hai trí kia. Vì bấy giờ chỉ có thể tu các công đức của tự loại không phải là loại khác.

Hỏi: Vì sao khi đã được các pháp thiện hiện tiền nhưng không thể tu các công đức thiện khác ở vị lai?

Đáp: Vì tác dụng yếu kém. Do đã thọ dụng, đã gây tạo các sự việc, đã cho quả.

Lại nữa, do đã tu, đã dứt bỏ nên không còn lực dụng.

Lại nữa, khi khởi pháp đã được hiện tiền, tức trước đã tu đắc, nay lại tu tập, hai thứ tu ấy hiện hành ở đời chỉ có tổn giảm không có tăng trưởng, há có thể lại tu các pháp thiện chưa từng được? Như người sinh sống dùng số tiền của đã được tích tập từ trước, tức chỉ có tổn giảm, không có tăng thêm. Há gọi là lại tích tập tiền của chưa từng tích tập?

Lại nữa, nếu đã dùng nhiều công sức để khởi pháp thiện mới có thể tu các pháp thiện khác ở vị lai. Nay, khi đã khởi được pháp thiện hiện tiền thì không còn nhiều dụng công nên không thể tu các pháp thiện ở vị lai.

Lại nữa, nếu khi pháp thiện đã được hiện tiền, mà còn có thể tu các pháp thiện ở vị lai, tức như khi Đức Thế Tôn sắp nhập Niếtbàn, thứ lớp nhập các tĩnh lự, đẳng chí, lại cũng nên có thể tu các công đức ở vị lai. Khi Đức Thế Tôn hiện khởi tận trí lần đầu, tức đã tu đắc đủ tất cả các công đức. Nay nếu lại tu là vì ở trước tức nên chưa được. Nếu vậy thì công đức ở phần vị trước chưa viên mãn, khi mới thành Phật tức nên không phải là chứng đắc rốt ráo quả Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Chớ nên có lỗi lầm này! Tức biết khi pháp thiện đã được hiện tiền thì nhất định không thể tu các pháp thiện ở vị lai. Về nghĩa của việc tu các trí khác, như văn đã nói rộng. Căn cứ theo khuôn mẫu ở trước nên biết về tướng của chúng.

***

* Pháp trí cho đến đạo trí, ở trong tám trí này mỗi mỗi thứ duyên với bao nhiêu trí?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để ngăn chận các Tông chỉ khác và làm sáng tỏ chánh lý. Nghĩa là hoặc có thuyết cho: Các sở duyên duyên là không có thật Thể. Vì để ngăn chận lối chấp ấy và hiển bày sở duyên duyên là thật có tự Thể, nên tạo ra phần Luận này.

Đáp: Pháp trí duyên với bảy trí, tức tám trí trừ loại trí.

Loại trí duyên với bảy trí tức tám trí trừ pháp trí. Vì sao? Vì pháp trí thì duyên với loại dưới, loại trí thì duyên với loại trên, nên chúng không duyên nhau. Như có hai người cùng trụ tại một xứ, một người thì nhìn xuống đất, còn người kia thì nhìn lên trời. Hai người như thế là không cùng thấy mặt nhau.

Tha tâm trí, thế tục trí đều duyên với tám trí, vì hai trí này có thể duyên chung với tâm tâm sở pháp.

Khổ trí, tập trí cùng duyên với hai trí, đó là tha tâm trí và thế tục trí, vì hai trí này chỉ có thể duyên với phẩm tâm hữu lậu.

Diệt trí thì không duyên với trí, vì duyên với vô vi.

Đạo trí thì duyên với bảy trí, tức tám trí trừ thế tục trí, vì duyên với đạo đế.

Các thuyết khác đối với sự việc này đã nêu riêng câu hỏi: Pháp trí cho đến đạo trí, ở trong tám trí thì mỗi mỗi thứ duyên với bao nhiêu trí? Tức tự trả lời:

Pháp trí duyên với bốn trí, tức trừ bốn trí loại, khổ, tập, diệt.

Loại trí duyên với bốn trí, tức trừ bốn trí pháp, khổ, tập, diệt.

Tha tâm trí duyên với bảy trí, tức trừ diệt trí.

Thế tục trí duyên với sáu trí, trừ diệt trí và đạo trí.

Khổ, tập, diệt, đạo trí thì duyên với năm trí, trừ khổ, tập, diệt trí.

***

* Pháp trí cho đến đạo trí, tự tha cùng đối chiếu là duyên với bao nhiêu thứ?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn ngăn chận các Tông chỉ khác nhằm hiển bày chánh lý. Tức như có thuyết chấp: Duyên không có thật thể. Để ngăn chận ý tưởng này và làm rõ bốn duyên là thật có tự thể, nên tạo ra phần Luận này.

Pháp trí cùng với pháp trí làm bốn duyên, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở đây, so với những điều đã nêu nơi phẩm Bất thiện thuộc phần Kiết Uẩn ở trước có khác nhau? Nghĩa là ở đây thì nói pháp trí cùng với pháp trí làm bốn duyên. Còn nơi phẩm Bất thiện lại nói hữu thân kiến cùng với hữu thân kiến hoặc làm bốn, ba, hai, một duyên?

Đáp: Như ở đây nói thì nơi phẩm kia cũng nên như thế. Như nơi phẩm kia đã nói thì ở đây cũng nên như vậy. Chỉ là nhằm hiển thị về tướng khác văn khác khiến người thọ trì sinh vui thích.

Lại nữa, vì muốn hiện bày hai môn, hai tóm lược, hai hình ảnh, hai trình độ, hai thứ bậc, hai lối vào, hai ngọn đuốc, khiến nhận biết về điều đã nói lại cùng sáng tỏ.

Lại nữa, nơi phẩm kia nói là liễu nghĩa, còn ở đây nói là không liễu nghĩa. Nơi phẩm kia nói là không có ý riêng, còn ở đây nói là có ý riêng. Nơi phẩm kia nói là không có duyên riêng, còn ở đây nói là có duyên riêng. Nơi phẩm kia nói là dựa vào thắng nghĩa, còn ở đây nói là dựa vào thế tục.

Lại nữa, nơi phẩm kia đã dựa vào bốn thứ sai biệt để nói, tức là: 1. Sai biệt về cảnh giới. 2. Sai biệt về đời. 3. Sai biệt về sát-na. 4. Sai biệt về đẳng vô gián duyên. Còn ở đây chỉ dựa vào một thứ sai biệt để nói, là sai biệt về đẳng vô gián duyên

Pháp trí cùng với pháp trí làm bốn duyên, đó là: Nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên.

Trong đây: Nhân như pháp hạt giống. Đẳng vô gián như pháp mở rộng. Sở duyên như pháp chống đỡ. Tăng thượng thì như pháp không chướng ngại.

Pháp trí cùng với pháp trí làm nhân duyên: Nghĩa là làm một nhân, tức là nhân đồng loại

Làm đẳng vô gián duyên: Nghĩa là pháp trí không gián đoạn đối với pháp trí hiện tiền.

Làm sở duyên duyên: Nghĩa là pháp trí duyên với pháp trí mà sinh.

Làm tăng thượng duyên: Nghĩa là pháp trí không ngăn trở pháp trí sinh khởi.

Cùng với loại trí làm ba duyên, tức trừ sở duyên duyên. Nghĩa là pháp trí cùng với loại trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên.

Làm nhân duyên: Nghĩa là pháp trí cùng với loại trí làm một nhân, tức là nhân đồng loại.

Làm đẳng vô gián duyên: Nghĩa là pháp trí không gián đoạn đối với loại trí hiện tiền

Làm tăng thượng duyên: Nghĩa là pháp trí không ngăn trở loại trí sinh khởi.

Trừ sở duyên duyên: Nghĩa là pháp trí cùng với loại trí đều cùng không duyên nhau,

Cùng với tha tâm trí làm bốn duyên: Nghĩa là pháp trí cùng với tự tương tục nơi tha tâm trí làm nhân, đẳng vô gián, không phải là sở duyên. Cùng với tha tương tục nơi tha tâm trí làm sở duyên, không phải là nhân, đẳng vô gián. Các thứ còn lại như trước đã nói.

Cùng với thế tục trí làm ba duyên, trừ nhân duyên. Nghĩa là nhân duyên như pháp hạt giống, nên vô lậu cùng với hữu lậu không phải là pháp hạt giống. Tức pháp trí cùng với thế tục trí không phải là nhân duyên, chỉ làm ba duyên.

Cùng với khổ, tập, diệt trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên. Nghĩa là khổ, tập trí thì duyên với hữu lậu, còn pháp trí là vô lậu, nên không phải là sở duyên của hai trí kia. Diệt trí thì duyên với pháp vô vi, còn pháp trí là hữu vi nên không phải là sở duyên của diệt trí.

Cùng với đạo trí làm bốn duyên, tức như trước đã nói.

Loại trí cùng với loại trí làm bốn duyên. Tức căn cứ theo pháp trí ở trước để nhận biết về tướng.

Tha tâm trí cùng với tha tâm trí làm bốn duyên. Ở đây, nhân duyên nghĩa là một nhân đồng loại. Các thứ còn lại như trước đã nói.

Cùng với thế tục trí làm bốn duyên. Ở đây, nhân duyên nghĩa là hai nhân đồng loại và dị thục. Các thứ còn lại như trước đã nói.

Cùng với khổ, tập trí làm bốn duyên. Nghĩa là tha tâm trí vô lậu cùng với khổ, tập trí làm một nhân đồng loại, định rõ không phải là sở duyên, vì hai trí kia duyên với hữu lậu. Nếu tha tâm trí hữu lậu thì cùng với khổ tập trí làm sở duyên, định rõ không phải là nhân duyên, vì hữu lậu không cùng với vô lậu làm nhân duyên.

Cùng với diệt trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên. Vì diệt trí kia duyên với vô vi.

Cùng với đạo pháp loại trí làm bốn duyên. Nghĩa như trước đã nói.

Thế tục trí cùng với thế tục trí làm bốn duyên. Ở đây, nhân duyên nghĩa là ba nhân đồng loại, biến hành, dị thục. Các thứ còn lại như trước đã nói.

Cùng với khổ, tập trí làm ba duyên, trừ nhân duyên. Vì hữu lậu không cùng với pháp vô lậu làm nhân duyên.

Cùng với diệt, đạo trí làm hai duyên, nghĩa là đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên, vì hai trí kia duyên với vô lậu. Các thứ còn lại như trước đã nói.

Cùng với pháp, loại trí làm ba duyên, trừ nhân duyên, vì hữu lậu cùng với vô lậu không phải như pháp chủng tử.

Cùng với tha tâm trí làm bốn duyên. Nghĩa là thế tục trí cùng với tự tương tục nơi tha tâm trí hữu lậu làm nhân đồng loại, đẳng vô gián duyên. Cùng với tự tương tục nơi tha tâm trí vô lậu làm đẳng vô gián duyên, đều không phải là sở duyên. Cùng với tha tương tục nơi tha tâm trí hữu lậu làm sở duyên, không phải là nhân, đẳng vô gián.

Khổ trí cùng với khổ trí và tập diệt trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên, như văn đã nói rộng. Do đó ở đây là căn cứ theo trước nên biết.

***

* Các kiết hệ thuộc cõi dục thì kiết ấy là do pháp trí đoạn trừ chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là pháp trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc. Loại trí thì không có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi dục. Hoặc có kẻ sinh nghi: Như pháp trí có thể đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc thì loại trí cũng có thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục chăng? Như loại trí không thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục thì pháp trí cũng không thể đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc chăng? Nhằm khiến nghi này đạt được quyết định, nên làm rõ: Pháp trí nhất định có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc. Loại trí thì nhất định không có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi dục. Thế nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao pháp trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, còn loại trí thì không thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục?

Đáp: Vì pháp trí trước đó đã đoạn trừ các kiết ở cõi dục, nên cũng có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc. Còn loại trí thì trước đó không đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, nên không thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục.

Lại nữa, vì loại trí chưa đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc nên pháp trí phải đoạn. Và pháp trí đã đoạn trừ các kiết ở cõi dục, nên loại trí không đoạn trừ.

Lại nữa, nếu loại trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi dục, thì đoạn trừ như thế nào? Là trước phải đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, sau mới đoạn trừ kiết ở cõi dục, hay là trước phải đoạn trừ các kiết ở cõi dục, sau mới đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc? Nếu trước phải đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, sau mới đoạn trừ kiết ở cõi dục, thì các kiết thô, trọng ở cõi dục trước đã đoạn rồi, lại còn gì để đoạn? Còn nếu trước phải đoạn trừ các kiết ở cõi dục, sau mới đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và cõi vô sắc, thì loại trí tức nên bị người khác quở trách. Do các kiết ở tự cõi còn chưa thể lìa bỏ thì vì sao lại muốn đoạn trừ các kiết ở cõi khác? Như vị vua chưa dẹp hết các kẻ oán địch trong nước mình, mà muốn đi chinh phục nước khác, là bị nhiều người chê trách. Lại nữa, tất cả loại trí nhất định dùng pháp trí làm nhân, còn pháp trí thì có khả năng giúp đỡ loại trí đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc. Không phải tất cả pháp trí nhất định dùng loại trí làm nhân, nên loại trí không thể giúp pháp trí đoạn trừ các kiết ở cõi dục.

Lại nữa, sau đạo loại trí, thì loại trí phần nhiều là không hiện tiền, nếu như có hiện tiền thì lực dụng yếu kém. Mà cần lìa dứt hoàn toàn các kiết ở cõi dục rồi thì thắng dụng nơi loại trí mới cùng hiện tiền. Thế nên loại trí không thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục.

Lại nữa, pháp trí cần phải loại bỏ các kiết ở cõi dục rồi, thì dụng mới mạnh mẽ, nhanh nhẹn. Do mạnh mẽ, nhanh nhẹn nên mới có thể đoạn trừ các kiết ở cõi trên. Còn loại trí cần phải lìa bỏ các kiết ở xứ Hữu đảnh rồi thì dụng mới mạnh, nhanh. Nhưng khi ấy thì các kiết ở cõi dưới đã đoạn hết, không cần phải đoạn nữa.

Lại nữa, pháp trí thì rất mạnh mẽ, nhanh nhẹn, đoạn trừ các kiết bất thiện hãy còn không dụng công, huống chi là các kiết vô ký mà không đoạn trừ được sao? Cũng như lưỡi dao cực bén hãy còn có thể chặt đứt sắt huống chi là cỏ cây. Loại trí thì không hoàn toàn mạnh mẽ nhanh nhẹn khi đoạn trừ các kiết vô ký còn phải dụng công rất nhiều, huống chi đối với các kiết bất thiện mà có thể đoạn trừ được. Cũng như dùng dao lụt chặt cỏ cây còn phải tốn rất nhiều công sức, huống là có thể chặt được sắt?

Lại nữa, pháp trí gồm đủ công năng đoạn trừ mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn. Như có tráng sĩ sức mạnh địch nổi ngàn người, nên có thể đoạn trừ các kiết ở cõi trên. Còn loại trí chỉ có thể đoạn trừ mười bốn giới, mười xứ, năm uẩn, lực dụng kém nên không thể đoạn trừ các kiết nơi cõi dưới.

Lại nữa, các tà kiến ở cõi dục có thể duyên với các thứ khổ, tập ở ba cõi, nên trước đã đoạn trừ chúng rồi, lại nhằm đoạn trừ đối tượng duyên của chúng. Thế nên pháp trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở hai cõi trên. Còn các tà kiến ở cõi sắc và cõi vô sắc thì không thể duyên với khổ, tập ở cõi dục, vì thế loại trí không thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục.

Lại nữa, các kiết biến hành duyên nơi cõi dục, cõi khác, tức có thể duyên với khổ tập nơi hai cõi sắc và vô sắc, trước đã đoạn trừ chúng rồi lại nhằm đoạn trừ đối tượng duyên của chúng, thế nên pháp trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở hai cõi trên. Các kiết biến hành duyên nơi cõi trên, cõi khác thì không duyên với khổ tập ở cõi dục, do đó loại trí không thể đoạn trừ các kiết ở cõi dục. Như có quốc vương trước đã diệt trừ kẻ oán địch thì sau cũng phá bỏ nơi chốn vui chơi của chúng.

Lại nữa, ở cõi dục, các uẩn bức bách hữu tình hơn cả các gánh nặng, khi đã đoạn trừ chúng rồi thì lại thường khen ngợi cách đối trị cùng diệt trừ chúng. Bấy giờ lại có thể đoạn trừ các uẩn ở cõi trên. Thế nên pháp trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi trên. Loại trí thì không có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi dục. Nhưng pháp trí thì có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, vì đó là pháp trí của diệt đạo, không phải là pháp trí của khổ tập. Vì sao? Vì pháp tức nên như thế. Nghĩa là người tu hành bị các uẩn ở cõi dục hiện bức bách hơn cả gánh nặng, khi đã trừ bỏ chúng rồi thì phải đáp lại sự đối trị và diệt trừ các thứ ác kia, nên thường lại quán xét. Và khi thường quán xét như thế, tức tự nhiên có thể đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc.

Lại nữa, cõi dục là cõi không ổn định, không phải là địa tu, không phải là địa lìa nhiễm. Còn cõi sắc và vô sắc là cõi định, là địa tu, là địa lìa nhiễm. Nên pháp của cõi không ổn định, nhàm chán thì không thể đoạn trừ các kiết ở cõi định.

Lại nữa, cõi dục thì thô trọng, cõi sắc và vô sắc là vi tế. Nên không phải pháp của cõi thô trọng nhàm chán có thể đoạn trừ các kiết ở cõi vi tế.

Lại nữa, cõi dục là thấp kém, còn cõi sắc và vô sắc là thắng diệu. Nên không phải pháp ở cõi thấp kém nhàm chán có thể đoạn trừ các kiết ở cõi thắng diệu.

Lại nữa, cõi dục là thấp, cõi sắc là trung bình, cõi vô sắc là trên. Nên không phải pháp của cõi thấp, nhàm chán có thể đoạn trừ các kiết ở cõi trung bình và cõi trên.

Lại nữa, nếu pháp trí của khổ tập có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, tức là ở nơi xứ khác tu hành chán lìa, và ở nơi xứ khác được giải thoát. Cũng như đoạn trừ sự trói buộc nơi tay, thì tay được giải thoát. Hoặc đoạn trừ sự trói buộc nơi chân, thì chân được giải thoát. Không phải đoạn trừ sự trói buộc nơi tay mà chân được giải thoát. Không phải đoạn trừ sự trói buộc nơi chân mà tay được giải thoát. Thế nên pháp trí có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, là pháp trí của diệt đạo, không phải là pháp trí của khổ tập. Song pháp trí của diệt đạo có khả năng đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc, thì chỉ sinh ở cõi dục không phải là sinh ở cõi sắc và vô sắc. Vì sao như thế? Vì tâm phương tiện của pháp trí xuất nhập chỉ sinh ra thuộc cõi dục. Còn người ở hai cõi trên đã xả bỏ tâm này rồi, tất không khởi.

Lại nữa, pháp trí tùy chuyển nơi giới chỉ là do đại chủng đã tạo của cõi dục sinh ra. Người ở hai cõi trên đã xả bỏ các đại chủng này tất không còn khởi.

Lại nữa, kẻ sinh nơi hai cõi trên tất đối với pháp trí thì việc làm đã xong, gia hạnh đã dứt hết, không còn hiện tiền. Cũng như các A-la-hán, đối với kiết của ba cõi, do đạo đối trị đã đoạn trừ, việc làm đã xong, không còn hiện tiền.

Hỏi: Nếu như thế vì sao các A-la-hán lại khởi trí vô lậu?

Đáp: Vì muốn quán xét lỗi lầm tai hại của các uẩn đã xả bỏ và nhìn thấy những lợi lạc thù thắng của diệt đạo đã đạt được, nên các vị ấy lại khởi các trí vô lậu.

Lại nữa, chư vị kia do bốn duyên nên khởi trí vô lậu: 1. Trụ vào hiện pháp lạc. 2. Vì công đức diệu dụng. 3. Quán xét việc đã làm trước. 4. Thọ dụng Thánh tài.

Tôn giả Diệu Âm nói: Đệ tử của Đức Thế Tôn sinh vào cõi vô sắc thì không khởi tĩnh lự và phát sinh các công đức trong tĩnh lự. Còn khi sinh vào cõi sắc thì cũng có thể khởi. Tôn giả kia đã nói là có nghĩa gì? Tức nêu bày: Nếu người sinh nơi cõi vô sắc thì không khởi pháp trí đoạn trừ các kiết ở cõi trên. Còn sinh ở cõi sắc, nếu chưa lìa các nhiễm ở cõi sắc và vô sắc, thì cũng có thể khởi pháp trí của diệt đạo để đoạn trừ các kiết ở cõi sắc và vô sắc.

Lời bình: Tôn giả kia không nên nói như thế? Vì sao? Vì nếu có nghĩa ấy tức nên không thể quyết định. Nghĩa là khi sinh vào cõi sắc, đối với pháp trí chỉ có phần ít có thể khởi, còn phần ít thì không thể khởi.

Phần ít có thể khởi: Đó là pháp trí của diệt đạo.

Phần ít không thể khởi: Đó là pháp trí của khổ tập.

Hoặc có xứ có thể khởi, hoặc có xứ không thể khởi.

Hoặc có xứ có thể khởi, tức là chưa lìa bỏ nhiễm của xứ ấy.

Hoặc có xứ không thể khởi, tức là đã lìa bỏ các nhiễm của xứ ấy.

Hoặc có lúc có thể khởi, hoặc có lúc không thể khởi.

Hoặc có lúc có thể khởi, tức là khi khởi đạo lìa nhiễm.

Hoặc có lúc không thể khởi, tức là khi dẫn khởi các căn thiện.

Thế nên thuyết trước đối với lý là đúng.

Hỏi: Các kiết hệ thuộc cõi dục thì kiết ấy là do pháp trí đoạn trừ chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp, vì nghĩa không nhất định:

1. Có kiết hệ thuộc cõi dục nhưng không do pháp trí đoạn trừ. Nghĩa là kiết ở cõi dục, hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, hoặc không đoạn trừ.

Trong đây: Hoặc do nhẫn đoạn trừ, tức là bốn pháp trí nhẫn đoạn trừ.

Hoặc do trí khác đoạn trừ, tức là do thế tục trí đoạn trừ.

Hoặc không đoạn trừ, tức là đã đoạn rồi, hoặc chưa khởi gia hạnh để đoạn trừ.

2. Có kiết do pháp trí đoạn trừ nhưng không phải hệ thuộc cõi dục. Nghĩa là các kiết ở cõi sắc và vô sắc do pháp trí đoạn trừ. Tức các kiết ở cõi sắc và vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã được pháp trí của diệt đạo đoạn trừ.

3. Có kiết hệ thuộc cõi dục cũng do pháp trí đoạn trừ. Nghĩa là các kiết ở cõi dục do pháp trí đoạn trừ. Tức các kiết ở cõi dục do tu đạo đoạn trừ đã được bốn pháp trí đoạn trừ.

4. Có kiết không phải hệ thuộc cõi dục cũng không phải do pháp trí đoạn trừ. Nghĩa là các kiết ở cõi sắc và vô sắc, hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, hoặc không đoạn trừ.

Trong đây: Hoặc do nhẫn đoạn trừ, tức là bốn loại trí nhẫn đoạn trừ.

Hoặc do trí khác đoạn trừ, tức do loại trí hoặc thế tục trí đoạn trừ.

Hoặc không đoạn trừ, tức là đã đoạn trừ rồi, hoặc chưa khởi gia hạnh để đoạn trừ.

Hỏi: Các kiết hệ thuộc cõi sắc, vô sắc thì kiết ấy là do loại trí đoạn trừ chăng?

Đáp: Các kiết do loại trí đoạn trừ, các kiết ấy là hệ thuộc cõi sắc và vô sắc. Nghĩa là các kiết ở cõi sắc và vô sắc do tu đạo đoạn trừ đã được bốn loại trí đoạn trừ.

Có kiết hệ thuộc cõi sắc và vô sắc, nhưng không phải do loại trí đoạn trừ. Nghĩa là các kiết ở cõi sắc và vô sắc, hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, hoặc không đoạn trừ.

Trong đây: Hoặc do nhẫn đoạn trừ, tức là bốn loại trí nhẫn đoạn trừ.

Hoặc do trí khác đoạn trừ, tức là do pháp trí, thế tục trí đoạn trừ.

Hoặc không đoạn trừ, tức là đã đoạn trừ rồi hoặc chưa khởi gia hạnh để đoạn trừ.

Hỏi: Các kiết do kiến khổ đoạn trừ, kiết ấy là do khổ trí đoạn trừ chăng?

Đáp: Các kiết do kiến khổ đoạn trừ, kiết ấy không phải do khổ trí đoạn trừ. Hoặc do nhẫn đoạn trừ, hoặc do trí khác đoạn trừ, hoặc không đoạn trừ.

Trong đây: Hoặc do nhẫn đoạn trừ, tức là do khổ loại trí nhẫn đoạn trừ.

Hoặc do trí khác đoạn trừ, tức là do thế tục trí đoạn trừ.

Hoặc không đoạn trừ, tức là đã đoạn trừ rồi, hoặc chưa khởi gia hạnh để đoạn trừ. Tất không do khổ trí có thể đoạn trừ các kiết ấy, vì trí vô lậu chỉ có thể đoạn trừ các thứ do tu đạo đoạn.

Hỏi: Nếu như các kiết do khổ trí đoạn trừ, kiết ấy cũng do kiến khổ đoạn trừ chăng?

Đáp: Các kiết do khổ trí đoạn trừ, kiết ấy không phải do kiến khổ đoạn trừ. Vì trí vô lậu chỉ đoạn trừ những thứ do tu đạo đoạn, không thể đoạn trừ được các thứ do kiến đạo đoạn. Còn các kiết do kiến tập diệt đạo đoạn trừ, đối với trí tập diệt đạo đoạn trừ kiết, căn cứ theo trên nên biết. Chỉ đạo vô gián là có thể đoạn trừ các kiết. Cho nên trong đây nói các khổ trí v.v… không thể đoạn trừ các kiết do kiến đạo đoạn.

HẾT – QUYỂN 107