LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 164

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN, phần 3

4. Có trường hợp không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất cũng không phải là vô lậu: Nghĩa là đã được không phải là thế tục trí, trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền. Hoặc chưa được không phải là thế tục trí, trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền, nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu. Hoặc tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký hiện tiền. Hoặc trụ nơi định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi trời vô tưởng.

Đã được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền: Nghĩa là trong đây nơi các địa khác dùng tên trí để nói. Tức từ nơi cõi dục, định vị chí, trừ tĩnh lự thứ nhất, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nghĩa là trong các địa này từng được công đức thế tục khi hiện tiền, thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống hồ là có thể tu công đức khác ở vị lai. Lại, không phải là tĩnh lự thứ nhất nên đối với tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất đều cùng không có nghĩa tu.

Đã được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền: Nghĩa là trong đây nơi các địa khác cũng dùng tên trí để nói. Tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ nhất, cho đến Vô sở hữu xứ. Nghĩa là trong các địa này từng được công đức vô lậu khi hiện tiền, thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình huống hồ là có thể tu công đức khác ở vị lai. Lại, không phải là tĩnh lự thứ nhất nên đối với tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất đều cùng không có nghĩa tu.

Hoặc chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu: Trong đây nơi các địa khác cũng dùng tên trí để nói. Tức từ cõi dục, định vị chí, trừ tĩnh lự thứ nhất, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nghĩa là ở cõi dục, phàm phu khởi quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán chưa từng được và tuệ còn lại do văn, tư tạo thành, khi hiện tiền là phàm phu lìa nhiễm dục. Khi được các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, tức phàm phu chưa lìa nhiễm dục, dựa vào định vị chí khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán. Khi đạt các pháp noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất là đã lìa nhiễm dục, dựa vào định vị chí. Khi khởi noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất là dựa vào tĩnh lự trung gian. Khi khởi noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất là phàm phu dựa vào cận phần của tĩnh lự thứ hai làm gia hạnh, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất. Khi được đạo gia hạnh kia cùng chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, tức là phàm phu dựa vào tluu thứ hai dẫn phát năm thông. Lúc có các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát là khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Lúc ấy cũng khởi trì tức niệm (Quán sổ tức). Tức phàm phu lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khi đạt tất cả đạo vô gián, gia hạnh, giải thoát, là phàm phu dựa nơi tĩnh lự thứ ba dẫn phát năm thông. Lúc được các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát, là khởi ba vô lượng, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Có thuyết cho: Khi ấy cũng khởi trì tức niệm. Tức phàm phu lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi đạt tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là phàm phu dựa nơi tĩnh lự thứ tư dẫn phát năm thông, cùng các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián. Khi được ba đạo giải thoát là khởi ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Tức phàm phu lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là phàm phu khởi Không vô biên xứ giải thoát, biến xứ và khi đạt niệm trụ là phàm phu lìa nhiễm của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Lúc có tất cả các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là phàm phu khởi Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát, niệm trụ và khi đạt Thức vô biên xứ, biến xứ. Hoặc các bậc Thánh khởi nơi cõi dục, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán chưa từng được và tuệ còn lại do văn, tư tạo thành khi hiện tiền, là bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của cõi dục. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của cõi dục. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi có các đạo gia hạnh kia là chưa lìa nhiễm dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi đạt các đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh chưa lìa nhiễm dục, dựa nơi định vị chí, khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện, khởi nhập định diệt, tâm vi vi. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu.

Hoặc chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu: Nghĩa là trong đây nơi các địa khác cũng dùng tên trí để nói. Tức là chưa lìa nhiễm dục, nhập chánh tánh ly sinh, hiện quán bốn đế đều bốn khoảnh tâm. Đã lìa nhiễm dục, dựa nơi định vị chí, nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán đều bốn khoảnh tâm, đạo hiện quán ba khoảnh tâm, là dùng đạo vô lậu lìa nhiễm nơi cõi dục. Nếu vô lậu làm gia hạnh, khi có các đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, chưa lìa nhiễm dục, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, khi được các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, là chưa lìa nhiễm dục, khởi niệm trụ vô lậu. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ nhất hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất và vô lậu.

Hoặc tất cả tâm nhiễm ô hiện tiền: Nghĩa là tâm tương ưng với phiền não, tùy phiền não nơi ba cõi. Do kẻ kia thuận phần thoái chuyển, thể tánh nặng chìm tương ưng với biếng nhác. Do vậy, chủ yếu là thuận phần thắng tấn, thể tánh nhẹ nhàng tương ưng với tinh tấn mới có thể tu.

Hoặc tất cả tâm vô ký hiện tiền: Nghĩa là tâm vô phú vô ký nơi ba cõi do tâm ấy không bền, không trụ, không thật, tánh yếu kém như hạt giống mục. Do vậy, phải có tâm bền, trụ, thật, tánh mạnh thịnh mới có thể tu.

Hoặc trụ nơi định vô tưởng, định diệt tận: Nghĩa là các định đó không có tâm. Cần phải do có tâm mới có thể tu.

Sinh nơi trời Vô tưởng: Có thuyết nói: Trời đó toàn bộ chúng đồng phần không khởi tâm thiện. Có thuyết cho: Trời ấy tâm thiện tuy có khởi, nhưng không phải là chỗ nương dựa của tu tập, nên không có nghĩa tu. Ở đây chỉ nói sinh nơi địa tu nhưng không tu, thì sinh nơi xứ khác cũng không tu, điều này dễ nhận biết nên không nói.

Như nói về tĩnh lự thứ nhất, thì tĩnh lự thứ hai, thứ ba nói cũng như vậy. Vì các địa này đối với việc lìa nhiễm nơi địa dưới, khi đạt đạo giải thoát sau cùng đều có nhập địa căn bản, có khi không nhập.

Hỏi: Nếu tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư thì người kia cũng tu vô lậu chăng? Nếu như tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư thì người kia cũng tu tịnh chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư không phải là vô lậu: Nghĩa là đã được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền. Hoặc chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu vô lậu.

Đã được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền: Nghĩa là hàng phàm phu và bậc Thánh, hoặc là học cho đến hoặc là Như Lai, là hiện pháp lạc trụ v.v… khởi tĩnh lự thứ tư thế tục từng được hiện tiền, thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống hồ là có thể tu công đức khác ở vị lai. Nhưng nơi phần vị hiện tiền tức là tu tập, nên được gọi là tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư.

Hoặc chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu vô lậu: Nghĩa là hàng phàm phu lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ ba, đạt đạo giải thoát sau cùng và lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư. Nếu tĩnh lự thứ tư làm gia hạnh, thì khi có đạo gia hạnh kia, tức phàm phu dựa vào tĩnh lự thứ tư dẫn phát năm thông, cùng các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, khi được ba đạo giải thoát là khởi ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất. Ở nơi thời như thế là khởi chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu vô lậu.

2. Có trường hợp tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư không phải là tịnh: Nghĩa là đã được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền. Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh. Hoặc chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ tư và chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư không phải là tịnh.

Đã được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền: Nghĩa là các bậc Thánh, hoặc là học cho đến hoặc là Như Lai, là hiện pháp lạc trụ v.v…, khởi tĩnh lự thứ tư vô lậu từng được khi hiện tiền, thì thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống hồ là có thể tu các công đức khác ở vị lai. Nhưng nơi phần vị hiện tiền tức là tu tập nên được gọi là tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư.

Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh: Nghĩa là dựa vào tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán mỗi thứ đều ba khoảnh tâm, đạo hiện quán là bốn khoảnh tâm. Bậc Thánh dựa nơi tĩnh lự thứ tư, lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ tư cho đến Vô sở hữu xứ. Khi được tất cả đạo vô gián, giải thoát là lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lúc được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát là dựa vào tĩnh lự thứ tư, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Lúc được đạo vô gián, giải thoát, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, khi đạt chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Nơi thời như thế là khởi chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh.

Hoặc chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ tư hiện tiền, nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư không phải là tịnh: Trong đây nơi các địa khác cũng dùng tên trí để nói, tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ tư, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nghĩa là bậc Thánh dựa vào định vị chí để lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, dựa nơi định vị chí là đã lìa nhiễm tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia là đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Bậc Thánh dựa nơi định vị chí khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện, khởi vô ngại giải và vô ngại giải thế tục khi tăng trưởng, khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Và khi tăng trưởng, tức bậc Thánh dựa nơi tĩnh lự thứ nhất để lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, là nương nơi tĩnh lự thứ nhất đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, khi được đạo gia hạnh kia, thì tập tu tĩnh lự thứ nhất, khi tâm ở trung gian là đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Bậc Thánh dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát và tha mm trí thông thế tục. Khi được đạo giải thoát, tức bậc Thánh đó dựa vào tĩnh lự thứ nhất, khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện.

Có thuyết cho: Lúc ấy cũng khởi trì tức niệm. Khởi vô ngại giải và vô ngại giải thế tục khi tăng trưởng, thì khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Và khi tăng trưởng, tức bậc Thánh dựa nơi tĩnh lự trung gian để lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư, cho đến lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, dựa nơi tĩnh lự trung gian là đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Bậc Thánh khi dựa nơi tĩnh lự trung gian, khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện. Khởi vô ngại giải và vô ngại giải thế tục khi tăng trưởng, thì khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng, cùng khi tăng trưởng.

Như nói dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, thì dựa nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba cũng như vậy. Có sai khác: Là dựa nơi tĩnh lự thứ ba, thì trừ hỷ vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, ngoài ra đều như trước đã nói. Tức bậc Thánh dùng đạo thế tục lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, nếu dùng cận phần của Không vô biên xứ làm gia hạnh, thì khi được hết thảy đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, tức Thánh giả kia đã dùng đạo thế tục, lìa nhiễm của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, tức vị kia dựa vào định vô sắc, dùng đạo vô lậu lìa nhiễm của bốn vô sắc. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh kia, là dựa vào định vô sắc, A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh khi khởi vô sắc giải thoát thế tục và hai biến xứ sau, tức là dựa nơi định vô sắc khởi niệm trụ thế tục, hai vô ngại giải, và hai vô ngại giải thế tục khi tăng trưởng, thì khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng, và khi tăng trưởng khởi nhập diệt định tưởng, lúc tâm vi tế. Nơi thời như vậy là khởi chưa được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ tư hiện tiền, nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư không phải là tịnh.

Và chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư không phải là tịnh: Trong đó nơi các địa khác dùng tên trí để nói. Tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ tư, cho đến Vô sở hữu xứ. Nghĩa là dựa nơi định vị chí, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi đạt đạo gia hạnh kia, lúc được chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là dựa nơi định vị chí đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì lúc được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, tức bậc Thánh đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa nơi định vị chí, khởi niệm trụ vô lậu, vô ngại giải vô lậu khi tăng trưởng, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ nhất, lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ tư cho đến Vô sở hữu xứ.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, tức dựa nơi tĩnh lự thứ nhất đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, tức tạp tu tĩnh lự thứ nhất.

Lúc tâm ở trước sau, tức bậc Thánh đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi tha tâm trí thông vô lậu, niệm trụ vô lậu và vô ngại giải vô lậu khi tăng trưởng. Tĩnh lự trung gian như nói về định vị chí. Tĩnh lự thứ hai, thứ ba thì như nói tĩnh lự thứ nhất. Tức bậc Thánh dựa vào Không vô biên xứ, lìa nhiễm từ Không vô biên xứ cho đến Vô sở hữu xứ.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, là lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, là dựa nơi Không vô biên xứ, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, khởi vô lậu Không vô biên xứ giải thoát, dựa vào Không vô biên xứ khởi niệm trụ vô lậu và hai vô ngại giải vô lậu khi tăng trưởng.

Như nói dựa nơi Không vô biên xứ như vậy, thì dựa nơi Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Có sai khác tức hai xứ kia là lìa nhiễm ở địa trên. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư không phải là tịnh.

3. Có trường hợp tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư cũng là vô lậu. Nghĩa là chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu vô lậu. Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu tịnh. Hoặc chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu.

Chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu vô lậu: Nghĩa là bậc Thánh dùng đạo thế tục, lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ ba, khi được đạo giải thoát sau cùng, tức vị ấy dựa nơi tĩnh lự thứ tư để lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ tư cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, dựa vào tĩnh lự thứ tư, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, bậc thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi có được đạo gia hạnh kia, là tạp tu tĩnh lự thứ tư lúc tâm ở trung gian. Tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ tư dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát và tha tâm trí thông thế tục. Khi được đạo giải thoát, tức bậc Thánh dựa vào tĩnh lự thứ tư khởi ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện. Khi ấy dựa nơi tĩnh lự thứ tư, khởi vô ngại giải và vô ngại giải thế tục khi tăng trưởng, thì khởi nguyện trí vô tránh, định biên vực cùng khi tăng trưởng, tức nương vào tĩnh lự thứ tư, khởi không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng và khi tăng trưởng. Nơi thời như thế là khởi chưa được tịnh nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu vô lậu.

Hoặc chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu tịnh: Nghĩa là dựa vào tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh, khổ tập diệt hiện quán, mỗi thứ đều một khoảnh tâm. Dựa nơi tĩnh lự thứ tư để lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ tư cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, là dựa nơi tĩnh lự thứ tư đắc quả A-la-hán. Khi tận trí đầu tiên khởi, dựa vào tĩnh lự thứ tư, bậc tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia và đạo giải thoát sau cùng, là tạp tu tĩnh lự thứ tư. Khi tâm ở trước sau, là dựa vào tĩnh lự thứ tư, khởi tha tâm trí thông vô lậu, niệm trụ vô lậu, và vô ngại giải vô lậu khi tăng trưởng. Nơi thời như thế là khởi chưa được vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu tịnh.

Hoặc chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu: Nghĩa là trong đây nơi các địa khác, dùng tên trí để nói. Tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ tư, cho đến Vô sở hữu xứ. Nghĩa là dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ ba, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi được đạo giải thoát sau cùng, tức dựa nơi địa kia đắc quả A-la-hán, khi được tận trí đầu tiên và dựa vào địa ấy, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động. Lúc được đạo giải thoát sau cùng, dựa nơi định vô sắc đắc quả A-la-hán. Khi tận trí đầu tiên khởi, tức dựa vào địa kia, bậc A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, lúc được đạo giải thoát sau cùng. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu.

4. Có trường hợp không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư cũng không phải là vô lậu. Nghĩa là đã được không phải là thế tục trí, trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền. Hoặc chưa được không phải thế tục trí, trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu. Hoặc tất cả tâm nhiễm ô, tâm vô ký hiện tiền. Hoặc trụ nơi định vô tưởng, định diệt tận, sinh nơi trời Vô tưởng.

Đã được không phải là thế tục trí của tĩnh lự thứ tư hiện tiền: Trong đây nơi địa khác đã dùng tên trí để nói. Tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ tư, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nghĩa là các địa này, từng được công đức thế tục khi hiện tiền, thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống là có thể tu công đức khác ở vị lai. Lại, không phải là tĩnh lự thứ tư, nên đối với tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư đều cùng không có nghĩa tu.

Đã được không phải là trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền: Trong đây cũng dùng tên trí để nói các địa khác. Tức từ định vị chí, trừ tĩnh lự thứ tư, cho đến Vô sở hữu xứ. Nghĩa là các địa này, từng được công đức vô lậu khi hiện tiền, thế phần kia hãy còn không theo kịp sát-na thứ hai của chính mình, huống là có thể tu công đức khác ở vị lai. Lại, không phải là tĩnh lự thứ tư, nên đối với tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư đều cùng không có nghĩa tu.

Hoặc chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu: Trong đây cũng nói địa khác gọi là trí. Tức từ cõi dục, trừ tĩnh lự thứ tư, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nghĩa là phàm phu khởi ở cõi dục, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán chưa từng được và tuệ còn lại do văn, tư tạo thành khi hiện tiền. Tức là phàm phu lìa nhiễm nơi cõi dục, khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, tức phàm phu dựa nơi định vị chí khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất. Tức phàm phu dựa vào tĩnh lự thứ nhất để lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, khi khởi đạo gia hạnh, dựa nơi tĩnh lự thứ nhất dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát, lúc ấy khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Có thuyết nói: Bấy giờ cũng khởi trì tức niệm. Tức phàm phu dựa vào tĩnh lự trung gian để lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, khi khởi đạo gia hạnh, khi dựa nơi tĩnh lự trung gian khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Như nói dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, như thế thì dựa nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba nói cũng như vậy. Có sai khác: Là lìa nhiễm ở trên địa kia và tĩnh lự thứ ba, trừ giải thoát thắng xứ, hỷ vô lượng. Tức phàm phu dựa vào cận phần của tĩnh lự thứ tư, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi được đạo gia hạnh kia, có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, tức phàm phu dựa vào cận phần của Không vô biên xứ, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, khi được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, tức phàm phu dựa vào Không vô biên xứ, khởi lìa nhiễm của địa dưới, được đạo giải thoát thứ chín và khởi để lìa nhiễm của tự địa, khi được đạo gia hạnh, khởi Không vô biên xứ giải thoát, biến xứ và niệm trụ. Tức phàm phu dựa vào cận phần của Thức vô biên xứ, lìa nhiễm nơi Không vô biên xứ, khi được đạo gia hạnh kia, có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát.

Như dựa nơi Không vô biên xứ như thế, thì dựa nơi Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ nói cũng như vậy. Có sai khác: Là Vô sở hữu xứ thì trừ biến xứ. Tức phàm phu dựa vào cận phần của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, khi được đạo gia hạnh kia, có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Tức phàm phu dựa nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, lìa nhiễm của địa dưới, được đạo giải thoát thứ chín, và khi khởi giải thoát Phi tưởng phi phi tưởng xứ cùng niệm trụ.

Nếu bậc Thánh ở cõi dục, khởi quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ, ba nghĩa quán chưa từng được và tuệ còn lại do văn, tư tạo thành khi hiện tiền, tức bậc Thánh kia dùng đạo thế tục lìa nhiễm từ cõi dục cho đến tĩnh lự thứ hai. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi đạt được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, dùng đạo vô lậu, lìa nhiễm từ cõi dục cho đến tĩnh lự thứ hai. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh ấy dùng đạo thế tục lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba.

Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, là dùng đạo vô lậu, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì lúc có đạo gia hạnh kia, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa vào định vị chí luyện căn tạo kiến chí.

Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi dựa vào định vị chí khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện. Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa nơi tĩnh lự thứ nhất luyện căn tạo kiến chí. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức bậc Thánh ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa nơi tĩnh lự thứ nhất dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát, và tha tâm trí thông thế tục. Khi được đạo giải thoát, tức vị kia dựa nơi tĩnh lự thứ nhất khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện.

Có thuyết nói: Lúc ấy cũng khởi trì tức niệm. Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa vào tĩnh lự trung gian luyện căn tạo kiến chí. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức Thánh giả ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi dựa nơi tĩnh lự trung gian, khởi ba vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện. Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa vào tĩnh lự thứ hai luyện căn tạo kiến chí. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức Thánh giả ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa vào tĩnh lự thứ hai dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát, và tha tâm trí thông thế tục. Lúc được đạo giải thoát, tức dựa nơi tĩnh lự thứ hai khởi bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện.

Có thuyết cho: Lúc đó cũng khởi trì tức niệm. Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa nơi tĩnh lự thứ ba luyện căn tạo kiến chí. Nếu thế tục làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, tức Thánh giả ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa vào tĩnh lự thứ ba dẫn phát năm thông, các đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, hai đạo giải thoát, và tha tâm trí thông thế tục. Lúc được đạo giải thoát, tức dựa nơi tĩnh lự thứ ba khởi ba vô lượng, quán bất tịnh, niệm trụ thế tục, ba nghĩa quán, bảy xứ thiện.

Có thuyết nêu: Khi ấy cũng khởi trì tức niệm. Tức khởi nhập diệt định khi tâm vi vi.

Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải thế tục trí của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu.

Hoặc chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu: Trong đây các địa khác cũng dùng tên trí để nói. Tức từ định vị chí cho đến tĩnh lự thứ ba. Nghĩa là dựa nơi định vị chí cho đến tĩnh lự thứ ba, nhập chánh tánh ly sinh, hiện quán bốn đế mỗi thứ bốn khoảnh tâm, dùng đạo vô lậu lìa nhiễm nơi cõi dục. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là dùng đạo vô lậu lìa nhiễm nơi cõi dục. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, dựa vào định vị chí, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất và thứ hai. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, khi có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa vào định vị chí luyện căn tạo kiến chí.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, tức Thánh giả ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi dựa vào định vị chí khởi niệm trụ vô lậu, dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì đạo gia hạnh kia, khi có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa nơi tĩnh lự thứ nhất luyện căn tạo kiến chí.

Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, tức bậc Thánh ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, khởi tha tâm trí thông vô lậu cùng niệm trụ vô lậu, thì dựa vào tĩnh lự trung gian, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có được đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, là lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát kia, là chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa nơi tĩnh lự trung gian luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, tức Thánh giả ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa vào tĩnh lự trung gian, khởi niệm trụ vô lậu, lúc ấy dựa nơi tĩnh lự thứ hai, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có tất cả đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, là lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa vào tĩnh lự thứ hai luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát kia, tức Thánh giả ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, dựa nơi tĩnh lự thứ hai để khởi tha tâm trí thông vô lậu và niệm trụ vô lậu, khi ấy dựa vào tĩnh lự thứ ba lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi được đạo gia hạnh kia, có chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, là chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, bậc tín thắng giải dựa nơi tĩnh lự thứ ba luyện căn tạo kiến chí. Nếu vô lậu làm gia hạnh, thì khi có các đạo gia hạnh, vô gián, giải thoát, tức bậc Thánh ấy chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, khi dựa vào tĩnh lự thứ ba để khởi tha tâm trí thông vô lậu và niệm trụ vô lậu. Nơi thời như thế là khởi chưa được không phải trí vô lậu của tĩnh lự thứ tư hiện tiền nhưng không tu tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu.

Hoặc tất cả tâm nhiễm ô, cho đến sinh nơi trời Vô tưởng: Như đã nói ở trong phần tĩnh lự thứ nhất.

Như nói về tĩnh lự thứ tư thì cho đến Vô sở hữu xứ nói cũng như vậy. Vì các địa này, đối với việc lìa nhiễm của địa dưới, khi được đạo giải thoát sau cùng, đều tất nhập nơi địa căn bản.

Hỏi: Vì sao dựa vào cận phần, lìa nhiễm nơi cõi dục, cho đến lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ hai, thì đạo giải thoát sau cùng hoặc là cận phần, hoặc nhập nơi căn bản. Còn lìa nhiễm từ tĩnh lự thứ ba cho đến Vô sở hữu xứ, thì đạo giải thoát sau cùng quyết định nhập địa căn bản?

Đáp: Ba cận phần dưới và địa căn bản về thọ nhận có khác nhau, nên khi đối với việc cầu được địa căn bản, tức có khi có thể nhập, có khi không thể nhập. Còn năm cận phần trên cùng với địa căn bản về thọ nhận là không khác, nên khi đối với việc cầu được địa căn bản, tức nhất định là có thể nhập. Các Sư Du-già dựa nơi địa cận phần, lìa nhiễm của địa dưới, tất đối với địa căn bản của chính mình sinh vui thích. Tâm lực có thể khởi tức khởi.

HẾT – QUYỂN 164