LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 142

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ CĂN, phần 1

* Có hai mươi hai căn, đó là: 1. Nhãn căn. 2. Nhĩ căn. 3. Tỷ căn. 4. Thiệt căn. 5. Thân căn. 6. Nữ căn. 7. Nam căn. 8. Mạng căn. 9. Ý căn. 10. Lạc căn. 11. Khổ căn. 12. Hỷ căn. 13. Ưu căn. 14. Xả căn. 15. Tín căn. 16. Tinh tấn căn. 17. Niệm căn. 18. Định căn. 19. Tuệ căn. 20. Vị tri đương tri căn. 21. Dĩ tri căn. 22. Cụ tri căn. Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là học, vô học, phi học phi vô học? Các chương như thế cùng giải thích nghĩa của chương đã lãnh hội rồi nên phân biệt rộng.

Hỏi: Vì sao Tôn giả dùng hai mươi hai căn để tạo luận?

Đáp: Đây là do ý muốn của Tôn giả, tùy theo ý muốn ấy miễn là không trái với pháp tướng để tạo phần Luận này, vậy không nên nêu vấn nạn về nguyên do.

Có thuyết nói: Không nên hỏi, vì Tôn giả ấy đã lấy hai mươi hai căn do Khế kinh nói. Khế kinh kia là chỗ dựa căn bản của Luận này. Căn cứ vào kinh kia để tạo phần Luận này, nên không thể nêu vấn nạn về nguyên do. Vì Tôn giả đối với hai mươi hai căn do Đức Phật giảng nói không thể giảm bớt để nói là hai mươi mốt căn hay tăng thêm để nói là hai mươi ba căn. Vì các điều Phật nói là không thêm bớt, nên không thể tăng giảm. Như không thể tăng giảm, thì không thể nhiều ít, không thể tổn hại hay tăng ích, vô lượng vô biên nên biết cũng như thế. Vì các điều Đức Phật giảng nói là vô lượng vô biên, không thể ở trong đó làm thành thứ có hạn lượng, có biên giới được. Vô lượng là ý nghĩa khó lường xét. Vô biên là lời văn khó nhận biết. Ví như biển cả là vô lượng vô biên, thì vô lượng là sâu, vô biên là rộng. Những điều Đức Thế Tôn giảng nói nên biết cũng như vậy. Tuy số lượng là trăm ngàn câu-chi-na-dữu-đa, các Đại Luận sư như Tôn giả Xá-lợi-tử v.v… đối với nghĩa của hai câu văn do Đức Phật thuyết giảng có thể tạo ra trăm ngàn bộ luận để phân biệt giải thích, dẫu đem hết tánh giác của mình để thuyết minh cũng không thể đạt đến biên vực. Thế nên đừng nêu vấn nạn về Tôn giả kia.

Hỏi: Gác việc Tôn giả kia sang một bên, xin hỏi vì sao Đức Thế Tôn giảng nói Khế kinh này?

Đáp: Vì Đức Phật quan sát về trình độ, hoàn cảnh của người được giáo hóa, khi nghe pháp này thì được nhiều lợi ích.

Lại nữa, kinh này có duyên khởi riêng. Nghĩa là có vị Phạm chí tên là Sinh Văn đến chỗ Đức Phật vui vẻ thăm hỏi xong, liền ngồi sang một bên, bạch Phật: Nên nêu ra bao nhiêu căn gồm thâu hết các căn? Đức Phật bảo: Ta nói có hai mươi hai căn gồm thâu hết các căn. Nếu có người cản trở điều này, lại nói có các căn khác nên biết lời kẻ ấy nói là vô nghĩa. Nếu hỏi trở lại thì kẻ ấy lại sinh ngu tối lầm lạc. Vì sao? Vì không phải là cảnh giới của mình. Do lời hỏi của Phạm chí nên Đức Phật giảng nói Khế kinh này, vậy không nên hỏi về ý Phật giảng nói.

Hỏi: Đặt ý Phật giảng nói sang một bên, xin hỏi vì sao Phạm chí chỉ hỏi các căn, không hỏi về uẩn, giới, xứ v.v…?

Đáp: Tùy theo chỗ nghi mà ông ta hỏi, không nên nêu vấn nạn. Hoặc vì Phạm chí ấy tánh khéo tìm xét, tùy theo sự nghe biết, mừng vui đến hỏi. Vì khi biết rõ nghĩa của căn thì sẽ hiểu biết khắp chín mươi sáu đạo.

Hỏi: Do lượng nơi các căn, như có người ly hệ thiết lập một căn là mạng căn, hiện hữu khắp các vật trong ngoài, nên người này đặt ra điều cấm là không uống nước lạnh, không cắt chặt cỏ tươi vì chúng có mạng sống. Xin hỏi: Các ngoại đạo đối với các vật bên ngoài chấp có căn gì gọi là pháp có căn?

Đáp: Có ngoại đạo đối với vật bên ngoài chấp có ý căn. Có ngoại đạo đối với vật bên ngoài chấp có mạng căn. Có ngoại đạo đối với vật bên ngoài chấp có hai căn. Do ý căn nên gọi là pháp có căn, do mạng căn nên gọi là pháp có mạng. Có ngoại đạo đối với vật bên ngoài chấp có hai căn, là nghiệp và ý, tùy theo chỗ thích ứng để nói. Lại như ngoại đạo Ba-la-thiết-lợi nói: Mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng gọi là Thánh tu tập căn.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo đó gọi là Ba-la-thiết-lợi?

Đáp: Đó là tên được đặt, không nên hỏi về lý do đặt tên. Vì tên là theo giả lập, bất tất đều có thật nghĩa.

Có thuyết nói: Đây là họ của người ấy. Tức Bà-la-môn thường có họ là Kiêu-tha, có họ là Phiệt-tha, có họ là Phiến-dật-lược, có họ là Kiều-trần-na, có họ là Bà-la-đọa-xà, có họ là Ba-la-thiết-lợi.

Có thuyết nêu: Đây là tạp chủng, tức từ Bà-la-môn và Sát-đế-lợi sinh ra, tên là Ba-la-thiết-lợi, như từ loài lừa và ngựa sinh ra loài la.

Như thế nên nói: Đây là họ của người ấy, ông ta có một đệ tử tên là Ốt-đát-la, đã có một lúc đến chỗ Đức Phật vui vẻ thăm hỏi rồi ngồi sang một bên. Khi ấy, Đức Phật bảo: Thầy của ông là Ba-lathiết-lợi có nói với các ông về pháp tu căn chăng? Ốt-đát-la thưa: Thầy tôi có nói. Đức Phật hỏi: Nói như thế nào? Ông ta đáp: Thầy tôi nói mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng gọi là Thánh tu tập căn, đều không nhận lấy. Đức Phật lại hỏi: Nếu như thế thì kẻ mù cũng nên gọi là Thánh tu tập căn vì họ không thấy sắc. Khi đó Tôn giả A-nan-đà đứng hầu bên Phật, đang quạt cho Ngài, cũng hỏi: Nếu thế thì những người điếc cũng nên gọi là Thánh tu tập căn vì họ không nghe âm thanh.

Hỏi: Nếu như ngoại đạo số lượng có đến trăm ngàn câu-china-dữu-đa đều là hạng trí tuệ biện tài như Tôn giả Xá-lợi-tử thì Đức Phật đều có thể hàng phục, do đâu Đức Thế Tôn nêu hỏi câu đầu rồi, Tôn giả Khánh Hỷ lại nêu hỏi tiếp câu thứ hai, vì sao Đức Thế Tôn không ngăn lại?

Đáp: Đức Phật quan sát thấy nơi yết hầu của Tôn giả Khánh Hỷ có tướng lạ, biết là muốn hỏi, nên Ngài tự ý dừng lại. Do Đức Phật từ xa xưa nơi ba vô số kiếp, khi luôn siêng năng tinh tấn tu tập hạnh Bồ-tát, hãy còn không hề đoạn dứt biện tài hiện có của người khác, cho đến các đệ tử Ngài cũng không hề ngăn cấm, huống nữa là nay đã thành Phật mà lại đoạn dứt biện tài của người khác chăng?

Lại, Đức Phật biết rõ nếu tự mình nói, hoặc Tôn giả Khánh Hỷ nói đều như nhau không khác, không có tăng giảm, nên không ngăn chận.

Lại, nhằm hiển bày việc thầy, trò đều có thể hàng phục kẻ khác. Nếu như thầy, trò đều có thể hàng phục kẻ khác mới gọi là khéo hàng phục, nên Đức Phật không ngăn chận.

Lại, muốn cho người kia không nói gì khác. Nghĩa là nếu Đức Thế Tôn tạo ra câu hỏi thứ nhất, Tôn giả Khánh Hỷ không tạo ra câu hỏi thứ hai, thì người ngoại đạo kia khi trở về giữa đồng đạo của họ sẽ kiêu mạn nói: Tuy ta có bị thầy họ hàng phục nhưng không phải là đệ tử. Còn họ tuy có thể hàng phục được ta nhưng không phải là thầy ta.

Nếu Đức Phật, Thế Tôn nêu câu hỏi thứ nhất và Tôn giả Khánh Hỷ lại nêu câu hỏi thứ hai, thì người kia sẽ dứt bỏ vĩnh viễn tâm kiêu mạn, vì hàng đệ tử hãy còn có thể hàng phục chúng ta được huống nữa là thầy của họ. Nếu như thầy ta có đến đó thì cũng không thể đối địch được huống là chúng ta.

Lại, muốn làm thỏa mãn ý của Phạm chí kia, khiến ông ta nghĩ: Sa-môn Kiều-đáp-ma là người pháp lực thù thắng, không ai hơn, lại có thể hàng phục tất cả các Luận sư khác, nhưng không ai có thể hàng phục được, đó là bậc đáng tôn quý nhất trong các Luận sư. Từ xưa đã có những Đại Luận sư nổi tiếng nhất hãy còn không thể đối địch huống gì là chúng ta. Nếu đệ tử của Ngài đã chuyện trò cùng ta, ta cũng nên tiếp đón lại, há không phải lẽ? Đức Phật bao giờ cũng làm trọn ý những người được hóa độ, do ý nghĩ này nên dẫn dắt được họ, vì thế Ngài không ngăn chận lời vấn nạn của Tôn giả Khánh Hỷ.

Lại nữa, Đức Phật muốn dùng Tôn giả Khánh Hỷ làm người chứng nghĩa, vì chúng ngoại đạo này rất tin trọng Tôn giả, do thân tướng dung mạo đẹp đẽ, oai nghiêm, lại khéo nhận biết về Luận Thanh minh Nhân đà la. Ý Phật muốn ngoại đạo kia hỏi người mình tin cậy để tự nghiệm xét xem tông thuyết của thầy mình có đúng lý hay không, nên Đức Phật không ngăn chận khi Tôn giả Khánh Hỷ nêu hỏi.

Lại nữa, vì muốn hiển bày Đức Thế Tôn không hề nghĩ có ai hơn mình. Nghĩa là các ngoại đạo suy nghĩ trong hàng đệ tử có người hơn mình nên phải ngăn lại lời biện luận của họ, còn Đức Phật thì không có việc đó. Giả như có số lượng trăm ngàn câu-chi-na-dữu-đa các đệ tử đầy đủ trí tuệ biện tài như Tôn giả Xá-lợi-tử cũng không thể cùng Phật vấn nạn v.v… huống nữa là có thể hơn Phật.

Lại nữa, nhằm hiển bày pháp đoạn dứt các thứ keo kiệt cấu uế của mình. Nghĩa là các ngoại đạo không chấp thuận cho đệ tử mình cùng người khác luận nghị vấn nạn, vì không muốn các đệ tử ấy nhân đó nhận được nhiều tiếng khen, sự cung kính và các lợi dưỡng. Đức Phật thì không như thế. Giả sử ở thế gian này, tất cả mọi người đều được vô biên tiếng tăm, lợi dưỡng thì Đức Phật cũng không hề mảy may ganh ghét, thế nên Đức Phật không ngăn lời Tôn giả Khánh Hỷ nêu hỏi.

Lại nữa, nhằm hiển bày hàng đệ tử của mình cũng thắng được kẻ khác. Nghĩa là các ngoại đạo sợ môn đồ của mình khi cùng người khác tranh luận, nêu vấn nạn thì bị thua kém phải mang nhục. Còn đệ tử của Đức Thế Tôn thì không ai là không hơn kẻ khác. Nếu khi tranh luận, vấn nạn thì càng có lợi là giúp chánh pháp của Như Lai thêm sáng tỏ, thế nên Ngài không ngăn chận.

Lại nữa, vì muốn chỉ rõ văn nghĩa trong pháp được thuyết giảng là thiện, đầy đủ, không hề có những nhận thức dị biệt. Nghĩa là các ngoại đạo, trong pháp được nêu giảng là xấu ác, văn nghĩa thường mâu thuẫn, thầy trò nhận thức khác nhau, theo chỗ kiến lập, nêu giảng, giải thích, thầy trò của họ mọi thứ đều trái nghịch. Còn trong chánh pháp của Phật không hề có lỗi lầm này, tùy chỗ kiến lập, thuyết giảng, lãnh hội, thầy trò đều cùng một vị, do đấy cùng duyên đối với ngoại đạo kia. Đức Phật cùng Tôn giả Khánh Hỷ đều nêu ra một câu hỏi.

Hỏi: Ngoại đạo nếu cho người mù điếc là Thánh tu tập căn vì sao thành vấn nạn?

Đáp: Đó là một vấn nạn lớn, cũng là nói chung về lỗi lầm của ngoại đạo không thể đối ứng. Nghĩa là nếu cho người mù, điếc cũng gọi là Thánh tu căn thì các ông cần gì phải bỏ nhà cửa xuất gia, ngày đêm siêng tu các phạm hạnh, chỉ cần hủy hoại hai căn tai và mắt cũng đã thành bậc Thánh tu căn. Cho nên lời nói trước gọi là một vấn nạn lớn, cũng là sự trách cứ chung nơi tất cả ngoại đạo.

Lại, phái Thắng Luận nói có năm căn tức là mũi, lưỡi, mắt, thân và tai. Phái Số Luận cho là có mười một căn, tức gồm năm giác căn, năm nghiệp căn cùng ý căn. Năm giác căn tức các căn mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Năm nghiệp căn là các căn lời nói, tay, chân, đại tiểu tiện, kể cả ý căn là mười một căn.

Hoặc có thuyết nói: Có một trăm hai mươi căn. Nghĩa là mắt, tai, mũi mỗi thứ có hai (trái và phải) tức là sáu. Lưỡi, thân, ý, mạng và năm thọ căn, năm căn như tín v.v… gồm chung là hai mươi. Sáu nẻo, mỗi nẻo có hai mươi, vậy là một trăm hai mươi. Họ bảo A-tố-lạc là nẻo thứ sáu.

Có thuyết nêu: Căn có nghĩa là chủ. Ngoại đạo kia nói có một trăm hai mươi chủ, cũng như các chủ trời, rồng, A-tố-lạc, chủ người v.v… Cần phải thọ nhận một trăm hai mươi xứ như thế thì thân tướng thắng diệu mới được giải thoát.

Phạm chí Sinh Văn nghe nói có nhiều căn như thế, lại không đồng nên sinh nghi hoặc không biết thứ nào là thật, là đúng. Lại nghe nơi vương cung họ Thích sinh một thái tử có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu cùng tám mươi vẻ đẹp, thân như sắc vàng ròng, có vòng hào quang chiếu sáng một tầm, ai trông thấy cũng hoan hỷ nhìn không hề chán, Ngài đã bỏ ngôi vị Luân vương vượt thành xuất gia, siêng năng tinh tấn tu tập các hạnh khổ khó làm và đã chứng đắc đạo quả Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, là bậc thấy tất cả, biết tất cả, đoạn dứt tất cả các lưới nghi, tạo lập hết thảy quyết định, có thể giải đáp hết cội nguồn của tất cả vấn nạn. Nghe xong vị Phạm chí này liền đến chỗ Đức Phật, ngồi qua một bên và thưa: Nói về căn thì Sa-môn nói có bao nhiêu căn gồm thâu hết các căn?

Hỏi: Vì sao Phạm chí kia không kể rõ việc đã nghe thấy các căn khác nhau rồi mới thưa hỏi lại hỏi thẳng vào các căn?

Đáp: Vì ông này có tuệ xấu ác, sợ Đức Phật sau khi nghe kể các căn kia sẽ chọn lựa những căn nào hay, đúng nhất để nói, nên ông ta hỏi chung. Đức Phật căn cứ vào lời hỏi ấy liền đáp: Ta nói có hai mươi hai căn gồm thâu hết các căn, nếu có người cản trở điều này lại nói có các căn khác, nói rộng cho đến không phải là cảnh giới của họ.

Hỏi: Đức Thế Tôn vì sao lại nói: Nếu có người cản trở điều này lại nói có các căn khác, nên biết lời nói của người ấy là vô nghĩa. Nếu hỏi trở lại thì kẻ ấy lại sinh ngu tối lầm lạc. Vì sao? Vì không phải là cảnh giới của mình.

Đáp: Là vì muốn khiến cho ông ta biết về chỗ đã nghe ở trước, từ một căn cho đến một trăm hai mươi căn đều không phải là đúng thật, và có nghĩa nói: Ta là bậc biết tất cả, thấy tất cả, hãy còn không thể đối với hai mươi hai căn ấy giảm bớt một căn để nói là hai mươi moat, hay tăng thêm một căn để cho là hai mươi ba, huống nữa là các ngoại đạo thấy biết hẹp hòi, đối với các căn có thể tăng giảm để nói có từ một đến một trăm hai mươi căn chăng?

Do các nhân duyên như vậy nên Phạm chí kia chỉ đến hỏi Đức Phật về căn không hỏi về uẩn, giới v.v…

Hỏi: Hai mươi hai căn này về tên gọi có hai mươi hai, còn về thật thể có bao nhiêu?

Đáp: Các vị thuộc Đối pháp nói: Tên gọi là hai mươi hai, thật thể là mười bảy, trong đó nam căn, nữ căn và ba căn vô lậu không có thể riêng.

Hỏi: Vì sao nam căn, nữ căn không có Thể riêng?

Đáp: Vì hai căn này do thân căn gồm thâu. Như nói: Thế nào là nữ căn? Tức là phần ít của thân căn. Thế nào là nam căn? Tức là phần ít của thân căn.

Hỏi: Vì sao ba căn vô lậu cũng không có Thể riêng?

Đáp: Ba căn này thuộc chín căn gồm thâu. Chín căn là ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn và năm căn như tín v.v… Chín căn này có phần vị gọi là vị tri đương tri căn, có phần vị gọi là dĩ tri căn, có phần vị gọi là cụ tri căn. Tức vị kiến đạo, vị tu đạo, vị vô học đạo, như thứ lớp nên nhận biết.

Lại, ở trong sự nối tiếp của tùy tín hành, tùy pháp hành gọi là vị tri đương tri căn. Ở trong sự nối tiếp của tín giải, kiến chí, thân chứng gọi là dĩ tri căn. Ở trong sự nối tiếp của bậc tuệ giải thoát, câu giải thoát gọi là cụ tri căn. Chín căn này tập hợp tùy theo phần vị nói thành ba thứ, nên không có thể riêng. Do đó nói hai mươi hai căn tên gọi có hai mươi hai, thật thể có mười bảy.

Tôn giả Pháp Cứu nói: Tên gọi có hai mươi hai, thật thể có mười bốn. Tức là năm thứ trước cùng mạng căn, xả căn, định căn không có thật thể riêng.

Hỏi: Vì sao Tôn giả nói mạng căn không có thật thể?

Đáp: Mạng căn là hành uẩn bất tương ưng gồm thâu. Tôn giả nói hành uẩn bất tương ưng không có thật thể.

Hỏi: Vì sao lại nói xả căn không có Thể riêng?

Đáp: Tôn giả nói khi lìa lạc thọ, khổ thọ thì không khác gì với thọ không khổ không vui. Vì sao? Vì các thọ hiện có hoặc là vui, hoặc là khổ, hoặc không khổ không vui, vì sao lại gọi là thọ?

Hỏi: Nếu thế thì kinh nói có ba thọ làm sao thông?

Đáp: Tôn giả nói lạc thọ, khổ thọ có trên, có dưới, có nhanh, có chậm, có nóng vội, có yên tĩnh. Các thứ trên, nhanh, nóng vội, gọi là lạc thọ, khổ thọ, còn các thứ dưới, chậm, yên tĩnh gọi là thọ không khổ không vui. Thể của chúng không nhất định như nghi, luôn chuyển.

Hỏi: Vì sao Tôn giả nói định căn cũng không có Thể riêng?

Đáp: Vì lìa tâm thì không có thể nhất định. Như nói thế nào là định? Đó là tánh của tâm chuyên vào một cảnh. Thế nên các căn, tên gọi có hai mươi hai, thật thể có mười bốn.

Tôn giả Giác Thiên nói: Tên gọi là hai mươi hai, nhưng thật thể chỉ là một, đó là ý căn. Tôn giả nói: Các pháp hữu vi có hai tự tánh: Một là đại chủng. Hai là tâm. Nếu lìa đại chủng thì không có sắc được tạo, nếu lìa tâm thì không có tâm sở. Các sắc đều là những khác nhau của đại chủng, vô sắc đều là sự sai biệt của tâm. Do nghĩa này nên thật thể của căn chỉ có một.

Như thật nghĩa, nên như lúc đầu nói tên gọi có hai mươi hai, thật thể có mười bảy. Như tên gọi và thật thể, các thứ tên nêu đặt và thể nêu đặt, tên khác tướng và thể khác tướng, tên khác tánh và thể khác tánh, tên riêng tánh và thể riêng tánh, tên phân biệt và thể phân biệt, tên giác ngộ và thể giác ngộ nên biết cũng như thế. Đó gọi là tự tánh, ngã vật, tánh tướng, tự thể của các căn.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là căn? Căn có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa tăng thượng là nghĩa của căn. Nghĩa sáng rõ là nghĩa của căn. Nghĩa hiện bày là nghĩa của căn. Nghĩa quán xét vui vẻ là nghĩa của căn. Nghĩa đoan nghiêm là nghĩa của căn. Nghĩa cao tột là nghĩa của căn. Nghĩa thù thắng là nghĩa của căn. Nghĩa chủ tể là nghĩa của căn.

Hỏi: Nếu nghĩa tăng thượng là nghĩa của căn, thì các pháp hữu vi lần lượt tăng thượng, các pháp vô vi đối với hữu vi tăng thượng, tức tất cả các pháp đều nên lập làm căn, vì sao Đức Thế Tôn chỉ lập có hai mươi hai thứ?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Đức Phật hiểu biết thấu đáo về các pháp, khéo nhận biết về thể tướng dụng của các pháp, kẻ khác thì không thể nhận biết. Nếu pháp nào có tướng của căn thì lập làm căn, không có thì không lập, vậy đừng nên nêu vấn nạn.

Có thuyết nêu: Tăng thượng duyên có dưới có trên, có hơn có kém, các thứ nào trên và hơn thì lập làm căn, các thứ nào dưới và kém thì không lập.

Có thuyết cho: Tuy tất cả các pháp đều có nghĩa tăng thượng duyên, nhưng không phải đều có nghĩa tăng thượng sáng rõ, hiện bày, cho đến nghĩa chủ tể. Như hai mươi hai căn, tất cả các hữu tình tuy đều cùng có nghĩa tăng thượng duyên, nhưng có thứ, có loài thì vượt hơn. Như trong cõi quỷ thì Diệm ma vương là hơn, trong nẻo bàng sinh thì sư tử chúa là hơn, trong thôn thì chủ thôn là hơn, trong nước thì quốc vương, trong bốn đại châu thì Chuyển luân vương, ở cõi dục thì trời Tự Tại, trong ngàn thế giới thì có Phạm vương và ở trong cả ba cõi thì Đức Phật là bậc tối thắng. Nơi tất cả loài hữu tình Đức Phật được xưng tụng riêng là đấng Pháp vương không gì sánh bằng. Như thế các pháp tuy đều là tăng thượng duyên nhưng không phải tất cả đều có tăng thượng, cho đến nghĩa chủ tể. Như về hai mươi hai căn, Đức Phật chỉ nói có hai mươi hai căn.

Hỏi: Nếu nghĩa tăng thượng là nghĩa của căn thì những căn nào đối với pháp gì là tăng thượng?

Đáp: Nhãn căn đối với bốn xứ là tăng thượng: Một là trang nghiêm tự thân. Hai là hướng dẫn nuôi sống tự thân. Ba là chỗ nương dựa cho nhãn thức. Bốn là tạo sự việc không chung.

Trang nghiêm tự thân: Như người có thân hình đẹp đẽ, các chi phần đều đầy đủ, nhưng thiếu đôi mắt thì mọi người không thích nhìn, nên đối với việc trang nghiêm tự thân thì mắt là tăng thượng.

Hướng dẫn nuôi sống tự thân: Là do mắt nên nhìn thấy các sắc tốt xấu, rời bỏ chỗ nguy hiểm đi đến chỗ an lành, khiến thân trụ lâu.

Làm chỗ nương dựa cho nhãn thức: Là nhãn thức và các pháp tương ưng nương vào đó để sinh.

Tạo sự việc không chung: Là chỉ có nhãn căn nhìn thấy sắc không phải là các căn khác.

Nhĩ căn đối với bốn xứ là tăng thượng: Một là trang nghiêm tự thân. Hai là hướng dẫn nuôi sống tự thân. Ba là làm chỗ nương dựa cho nhĩ thức. Bốn là tạo sự việc không chung.

Trang nghiêm tự thân: Tức tuy có thân hình đẹp đẽ, đầy đủ các chi phần, nhưng nếu thiếu hai tai thì mọi người không thích nhìn, nên đối với việc trang nghiêm tự thân thì nhĩ căn là tăng thượng.

Hướng dẫn nuôi sống tự thân: Tức do tai nên nghe được tiếng tốt xấu, rời bỏ chỗ nguy hiểm đi đến chỗ an lành, khiến thân trụ lâu.

Làm chỗ nương dựa cho nhĩ thức: Tức nhĩ thức cùng các pháp tương ưng nương vào đó sinh ra.

Tạo sự việc không chung: Vì chỉ có nhĩ căn mới nghe được tiếng, không phải là các căn khác.

Có Sư khác cho: Nhãn căn hướng dẫn nuôi sống sinh thân là hơn. Nhĩ căn hướng dẫn nuôi sống pháp thân là hơn. Như có kệ nói:

Ví như người mắt sáng

Tránh được chỗ hiểm nguy

Đời người có trí sáng

Khéo lìa được khổ dữ.

Đa văn nên biết pháp

Đa văn nên lìa tội

Đa văn bỏ vô nghĩa

Đa văn được Niết-bàn.

Lại có thuyết nêu: Nhãn căn, nhĩ căn đều có thể hướng dẫn nuôi dưỡng sinh thân và pháp thân. Hướng dẫn nuôi dưỡng sinh thân như trước đã nói. Hướng dẫn nuôi sống pháp thân: Do nhãn căn nên gần gũi với các bậc thiện tri thức. Do nhĩ căn nên lắng nghe chánh pháp.

Do đó có thể dẫn đến tác ý như lý, pháp tùy pháp hành, cho đến lần lượt chứng đắc Niết-bàn. Thế nên Khế kinh nói: Này Phạm chí Phạm Thọ! Chớ nên hủy hoại hai căn là nhãn và nhĩ.

Hỏi: Vì sao trong số các căn chỉ nói chớ nên hủy hoại hai căn?

Đáp: Do hai căn nhãn và nhĩ, nên khi Phật xuất hiện ở đời, có thể làm đường đến, làm cửa hướng nhập pháp Phật. Lại, do mắt thấy, tai nghe nên khi gặp Phật có thể so sánh nhận biết đó là Đức Phật. Như nói: Bí-sô! Nếu các Bí-sô không thể nhận biết được tâm Phật thì nên cầu hai xứ là được nghe và được thấy. Do đấy riêng nói chớ nên hủy hoại hai căn.

Các căn mũi, lưỡi, thân đều đối với bốn xứ là tăng thượng: Một là trang nghiêm tự thân. Hai là hướng dẫn nuôi sống tự thân. Ba là làm chỗ nương cho thức. Bốn là tạo sự việc không chung.

Trang nghiêm tự thân: Tuy có thân hình đẹp đẽ, đầy đủ các chi phần, nhưng ba căn này tùy theo đấy bị thiếu thì mọi người không thích nhìn.

Hướng dẫn nuôi sống tự thân: Do ba căn này thọ dụng các thứ ăn uống khiến thân trụ lâu, do đoạn thực là hương vị xúc.

Làm chỗ nương cho thức: Tỷ thức và các pháp tương ưng nương vào tỷ căn sinh ra. Thiệt thức và các pháp tương ưng nương vào thiệt căn sinh ra. Thân thức và các pháp tương ưng nương vào thân căn sinh ra.

Tạo sự việc không chung: Tức chỉ có mũi mới có thể ngửi, chỉ có lưỡi mới có thể nếm, chỉ có thân mới có thể chạm xúc, không phải là các căn khác.

Ý căn đối với hai xứ là tăng thượng: Một là có thể nối tiếp thân sau. Hai là tự tại tùy chuyển.

Có thể nối tiếp thân sau: Như nói: Nếu thức không nhờ vào thai mẹ thì danh sắc được thành yết-la-lam chăng? Thưa không, bạch Đức Thế Tôn!

Tự tại tùy chuyển: Như có kệ nói:

Thế gian, tâm dẫn dắt

Cũng khiến tâm khổ nhọc

Tâm nếu nơi sinh kia

Đều tự tại tùy chuyển.

Có thuyết nói: Ý căn đối với phẩm nhiễm và tịnh là tăng thượng. Như nói: Do tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm, tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh.

Hai căn nam, nữ đối với hai xứ là tăng thượng: Một là hữu tình khác. Hai là phân biệt khác.

Hữu tình khác: Tức do hai căn này khiến phân biệt các loại hữu tình nam, nữ khác nhau.

Phân biệt khác: Tức do hai căn này nên có hình dạng, tiếng nói v.v… đều khác nhau. Nghĩa là vào kiếp đầu tiên không có nam, nữ khác biệt, sau này ở nơi ấy do ít sắc được tạo ra nên có nam nữ, hình thể, tướng mạo, dáng điệu, nói năng, y phục, ham thích ăn uống v.v… đều khác nhau.

Có thuyết nói: Hai căn này đối với phẩm nhiễm, tịnh là tăng thượng. Nếu phần nhiễm vượt hơn thì sự việc dâm dục đối với hai căn ấy không hề bị trở ngại, chỉ do hai căn này nếu bị hư hoại hoặc thiếu thì không thể tạo việc không luật nghi cùng không thể thọ tạo năm nghiệp vô gián, cũng không thể đoạn dứt các căn thiện. Nếu phần tịnh vượt hơn, hai căn nam, nữ ấy hư hoại hoặc thiếu, thì không thể khởi tất cả các luật nghi, không thể lìa nhiễm ở ba cõi, không thể gieo trồng chủng tử của ba thừa.

Mạng căn đối với hai xứ là tăng thượng: Một là khiến nói là có căn. Hai là khiến căn không dứt mất. Mạng căn nếu hiện có tức có thể nói có các căn và khiến các căn nối tiếp an trụ.

Có thuyết nêu: Mạng căn đối với bốn xứ là vượt hơn: Một là nối tiếp chúng đồng phần. Hai là duy trì chúng đồng phần. Ba là bảo vệ nuôi dưỡng chúng đồng phần. Bốn là khiến chúng đồng phần không đoạn dứt.

Năm thọ căn đối với phẩm tạp nhiễm là tăng thượng. Vì các hữu tình do sức mạnh thúc đẩy của thọ nên khắp bốn phương mãi theo đuổi tìm cầu, len vào các nẻo đường hiểm đầy xiềng xích, trói buộc, trèo lên núi cao, chui vào hang động, bò chạy, té lăn vẫn cứ lao tới. Hoặc ra tận biển khơi rước lấy bao tai ương như sóng to bão dữ, hoặc rơi vào vùng nước xoáy, hoặc gặp thất thú Ma la, hoặc gặp gió đen gió xoáy mang đến bãi hoang, đá ngầm, hoặc rơi vào chốn long cung xấu ác, vùng La sát bà, gặp nạn Kim tỳ la, gặp nạn cướp biển giết chóc v.v… Có các khổ nạn như thế chỉ do thọ.

Hỏi: Các thọ vô lậu đối với các phẩm tạp nhiễm tăng thượng như thế nào?

Đáp: Khi mới khởi tu gia hạnh và hướng nhập thì cũng có tăng thượng đối với các phẩm tạp nhiễm. Nghĩa là người tu hành quán, lúc tìm cầu các thọ cũng theo đuổi mong tìm các thứ ăn uống, y phục v.v… Do sức mạnh thúc đẩy đó nên sinh đắm nhiễm.

Có thuyết cho: Thọ đối với các phần nhiễm, tịnh, các lạc thọ đều vượt hơn. Nếu phần nhiễm vượt hơn: Như nói đối với lạc thọ tham tùy tăng. Nếu phần tịnh vượt hơn: Như nói an lạc nên tâm định. Nếu thọ đối với phần nhiễm vượt hơn: Như nói đối với khổ thọ thì sân giận tùy tăng. Nếu đối với phần tịnh vượt hơn: Như nói khổ làm chỗ nương dựa cho tín. Thọ không khổ không vui đối với phần nhiễm vượt hơn: Như nói đối với thọ không khổ không vui, vô minh tùy tăng. Đối với phần tịnh vượt hơn: Như nói sáu thứ ý cận hành xả dựa vào xuất ly.

Năm căn như tín v.v… đối với phẩm thanh tịnh là tăng thượng. Như kệ nói:

Tín sinh nên nương về

Vượt dòng, biển phóng dật

Tinh tấn trừ hết khổ

Tuệ nên được thanh tịnh.

Lại nói: Các Thánh đệ tử của Ta đầy đủ tâm tín, nên Y-sư-ca có thể trừ bỏ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện. Lại, Đức Phật nói với Tôn giả Khánh Hỷ: Do tinh tấn nên có thể chứng đắc Bồ đề.

Lại nói: Hàng Thánh đệ tử của Ta có đầy đủ lực tinh tấn, lìa bỏ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.

Lại nói: Niệm có khả năng hành tác phòng hộ tất cả. Các hàng Thánh đệ tử của Ta có đủ niệm phòng hộ nên lìa bỏ pháp bất thiện, tu tập pháp thiện.

Lại nói: Định là chánh đạo, không định là tà đạo, nên tâm định thì được giải thoát không phải là tâm không định. Khi tâm định thì có thể biết rõ các uẩn sinh diệt.

Lại nói: Hàng Thánh đệ tử của Ta đầy đủ vòng hoa của ba thứ định, nên có thể lìa pháp bất thiện, tu tập pháp thiện. Lại nói kệ:

Tuệ cao nhất thế gian

Thuận hướng nơi quyết trạch

Hay biết đúng các pháp

Diệt hết khổ già chết.

Lại nói: Trong tất cả pháp, tuệ là tối thượng.

Lại nói: Này các chị em! Hàng Thánh đệ tử của Ta có thể dùng lưỡi dao tuệ cắt đứt tất cả các thứ kiết, phược, tùy miên, triền cấu.

Lại nói: Hàng Thánh đệ tử của Ta có đủ tường chắn trí tuệ, có khả năng ngăn chận pháp ác, tăng trưởng pháp thiện.

Vị tri đương tri căn đối với chưa thấy đế mà thấy là tăng thượng.

Dĩ tri căn đối với đã thấy đế, diệt trừ các lỗi của phiền não là tăng thượng.

Cụ tri căn đối với việc đã trừ bỏ các lỗi của phiền não, được hiện pháp lạc trụ là tăng thượng.

Do đó, các căn này đối với khắp các xứ kia đều có nghĩa tăng thượng nên gọi là căn.

Tôn giả Lũ-sa-phiệt-ma nói: Chỉ có một thứ ý là căn thắng nghĩa, là ở bên trong, là hiện hữu khắp, là có đối tượng duyên.

Bên trong: Tức thuộc về xứ bên trong.

Hiện hữu khắp: Tức có khắp từ ngục Vô gián đến cõi trời Hữu đảnh.

Có đối tượng duyên: Tức duyên với tất cả các pháp.

Các căn khác như nhãn v.v… không có đủ các nghĩa này, thế nên không lập làm căn thắng nghĩa. Nghĩa là năm căn như nhãn v.v… tuy thuộc xứ bên trong nhưng không phải là hiện hữu khắp, không phải là có đối tượng duyên.

Mạng căn tuy có hiện hữu khắp nhưng không phải là xứ bên trong, cũng không có đối tượng duyên.

Các căn khổ, lạc, ưu, hỷ tuy có đối tượng duyên nhưng không phải là hiện hữu khắp và ở bên trong.

Xả căn và năm căn như tín v.v… tuy hiện hữu khắp, có đối tượng duyên, nhưng không phải là ở bên trong.

Ba căn vô lậu cũng như nói về chín căn.

Hỏi: Nếu chỉ ý là căn thắng nghĩa thì hai mươi mốt căn còn lại vì sao gọi là căn?

Đáp: Vì chúng làm chỗ nương dựa, làm sự nương tựa, làm tạp nhiễm, làm thanh tịnh, tạo phần vị thanh tịnh cho ý căn, nên cũng gọi là căn.

Cái gì làm chỗ nương dựa? Đó là năm căn như nhãn v.v…

Cái gì làm sự nương tựa? Đó là mạng căn.

Cái gì làm tạp nhiễm? Đó là năm thọ căn.

Cái gì làm thanh tịnh? Đó là năm căn như tín v.v…

Cái gì tạo phần vị thanh tịnh? Đó là ba căn vô lậu, tức là vị kiến, vị tu, vị vô học.

Hỏi: Vì sao nam và nữ được gọi là căn?

Đáp: Vì chúng sinh ra hữu tình, sinh khởi dục lạc, chế ngự phiền não, bị tạp nhiễm nương vào.

Sinh ra hữu tình: Là sinh ra các hữu tình thai sinh, noãn sinh.

Sinh khởi dục lạc: Nghĩa là ở nơi đó lúc đầu sinh ra dục lạc, về sau mới hiện khắp thân. Như dựa nơi chỗ giữa chân mày, lúc đầu sinh ra Thánh lạc, về sau hiện khắp thân, sự việc kia cũng như vậy.

Chế ngự phiền não: Tức tánh của ý chí này có thể tạm thời hàng phục các phiền não.

Bị tạp nhiễm nương vào: Tức hai căn này làm chỗ nương dựa cho thức nhiễm ô và các pháp tương ưng. Các xứ khác của thân căn phát sinh ba thứ thức, nhưng chỉ có chỗ này mới phát ra các thức nhiễm ô không phải là chỗ khác. Khi phát ra thức này là chỉ ý hành tập gần gũi, nên tâm đi đôi với tham.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Chỉ có sáu căn như mạng căn v.v… là căn thắng nghĩa. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, mạng là gốc của hữu tình.

Hỏi: Nếu sáu thứ như mạng v.v… là căn thắng nghĩa thì mười sáu thứ kia vì sao gọi là căn?

Đáp: Vì chúng cùng với sáu thứ như mạng v.v… làm hạt giống, làm tạp nhiễm, làm thanh tịnh, tạo phần vị thanh tịnh, nên cũng gọi là căn.

Cái gì làm hạt giống? Đó là ý căn.

Cái gì làm tạp nhiễm? Đó là năm thọ căn v.v…

Cái gì tạo thanh tịnh? Đó là năm căn như tín v.v…

Cái gì tạo phần vị thanh tịnh? Đó là ba căn vô lậu là vị kiến, vị tu, vị vô học.

Hỏi: Vì sao nam, nữ cũng được gọi là căn?

Đáp: Vì hữu tình ở cõi dục, dục là hạt giống, dục là mầm mống. Thứ này nương vào đâu mà có? Nương vào nam, nữ căn. Thế nên hai thứ ấy cũng được gọi là căn.

Tôn giả Diệu Âm nói: Tám thứ như mạng v.v… là căn thắng nghĩa. Tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nam, nữ, mạng là gốc của hữu tình.

Hỏi: Nếu tám thứ như mạng v.v… là căn thắng nghĩa, thì mười bốn thứ kia vì sao gọi là căn?

Đáp: Vì chúng cùng với tám thứ như mạng v.v… làm hạt giống, làm tạp nhiễm, tạo thanh tịnh, tạo phần vị thanh tịnh, nên cũng gọi là căn, nói rộng như trước.

Hỏi: Thân căn rất vi tế, khắp toàn thân cùng có. Vì sao ở đây chỉ nói về nam, nữ căn? Lại nói là làm sáng tỏ.

Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: Xứ ấy có thể làm sáng tỏ là nam, nữ, nên gọi là nam căn, nữ căn.

Hỏi: Người có hai hình cũng có thể làm sáng tỏ chăng?

Đáp: Hạng người ấy không thể làm sáng tỏ vì không quyết định là nam hay nữ, nên nói không phải là nam không phải là nữ.

Có thuyết nói: Xứ ấy sinh ra lưu chuyển và hoàn diệt. Lục sư ngoại đạo Bổ-thích-noa v.v… gọi là lưu chuyển. Còn Thanh văn, Độc giác và Như Lai gọi là hoàn diệt.

Tôn giả nói: Xứ ấy có thể sinh ra các bậc Tiên Mâu Ni, các bậc thông tuệ, các bậc khéo điều phục, các bậc dễ cùng trụ. Thế nên gọi là nam căn, nữ căn, cũng gọi là hiển bày.

Đã nói về tướng chung, về nguyên do của các căn, nay sẽ hiển bày về tướng riêng của mỗi thứ.

Hỏi: Thế nào là nhãn căn?

Đáp: Nếu đã thấy sắc, đang thấy sắc, sẽ thấy sắc và các thứ khác còn lại gọi là nhãn căn.

Đã thấy sắc: Tức nói về mắt ở quá khứ.

Đang thấy sắc: Tức nói về mắt ở hiện tại.

Sẽ thấy sắc: Tức nói về mắt ở vị lai.

Đây nói về đồng phần và thứ khác còn lại: Tức là nói về đồng phần kia.

Mắt đã nói rộng trong phần giới, cho đến ý căn cũng nói như thế.

Hỏi: Thế nào là nữ căn?

Đáp: Là phần ít của thân căn.

Hỏi: Thế nào là nam căn?

Đáp: Là phần ít của thân căn.

Hỏi: Thế nào là mạng căn?

Đáp: Là thọ mạng trong ba cõi.

Hỏi: Thế nào là lạc căn?

Đáp: Là nương vào sự chạm xúc, thuận các việc vui, sinh ra an vui nơi thân tâm, thọ nhận bình đẳng do thọ thâu giữ. Đó gọi là lạc căn.

Hỏi: Thế nào là khổ căn?

Đáp: Là nương vào sự chạm xúc, thuận các việc khổ, khiến thân khổ sở, thọ nhận không bình đẳng do thọ thâu giữ. Đó gọi là khổ căn.

Hỏi: Thế nào là hỷ căn?

Đáp: Là nương vào sự chạm xúc, thuận các việc vui, khiến tâm vui vẻ, thọ nhận bình đẳng do thọ thâu giữ. Đó gọi là hỷ căn.

Hỏi: Thế nào là ưu căn?

Đáp: Là nương vào sự chạm xúc, thuận các việc khổ, khiến tâm lo buồn, thọ nhận không bình đẳng do thọ thâu giữ. Đó gọi là ưu căn.

Hỏi: Thế nào là xả căn?

Đáp: Là nương vào sự chạm xúc, thuận các việc không vui không khổ, khiến thân tâm buông xả, thọ nhận không phải bình đẳng không phải không bình đẳng do thọ gồm thâu. Đó gọi là xả căn.

Hỏi: Thế nào là tín căn?

Đáp: Đối với nẻo xuất ly, xa lìa, sinh khởi các pháp thiện, các thứ tín thuận được thừa nhận, thọ nhận an lạc, tánh tâm thanh tịnh. Đó gọi là tín căn.

Các căn tinh tấn, niệm, định, tuệ theo như văn nói rộng.

Hỏi: Thế nào là vị tri đương tri căn?

Đáp: Những người chưa thấy đế, chưa hiện quán, các tuệ căn, tuệ học, các căn hiện có nơi bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán. Đó gọi là vị tri đương tri căn.

Ở đây, đối với bốn Thánh đế chưa thấy nên gọi là người chưa thấy đế. Chưa hiện quán nên gọi là người chưa hiện quán. Các tuệ căn, tuệ học: Đây là nói tuệ căn và căn hiện có. Bậc tùy tín hành, tùy pháp hành đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán: Là nói về tám căn kia, gồm chung với đây là chín căn gọi là vị tri đương tri căn.

Hỏi: Trong chín căn này vì sao tuệ căn riêng nói hai lần, còn các căn khác chỉ nói một lần?

Đáp: Vì tuệ gọi là nghĩa thắng. Tức trong nhóm các căn thì tuệ là tối thắng. Như trong nước thì vua là hơn hết, trong thôn thì chủ thôn là hơn hết. Các căn khác thì không như thế.

Có thuyết nêu: Tuệ là dẫn đường đứng đầu. Như nói: Này các Bí-sô! Các pháp thiện sinh, minh là dẫn đường đứng đầu, minh làm nhân trước. Do đấy dẫn sinh xấu hổ hiện có.

Có thuyết nói: Tuệ có đủ ba thứ hiện quán. Nghĩa là tuệ gồm đủ ba thứ hiện quán: Một là hiện quán kiến. Hai là hiện quán duyên. Ba là hiện quán sự. Pháp tương ưng của tuệ có hai thứ hiện quán, nghĩa là trừ kiến, không phải là tánh của tuệ. Pháp có đủ của tuệ có một thứ hiện quán, tức hiện quán sự không phải thứ khác, không phải là tánh của tuệ, không phải là đối tượng duyên.

Có thuyết cho: Tuệ thấy rõ phiền não khiến không trụ lâu. Như loài chúng sinh sống nơi hang, nếu khi có người nhìn thấy thì liền chạy vào hang.

Có thuyết nói: Tuệ chiếu sáng sự nối tiếp tức các phiền não không thể xâm phạm, như trong nhà có đèn sáng kẻ trộm chẳng dám vào.

Có thuyết cho: Tuệ có khả năng chiếu sáng tất cả các pháp. Ở bên ngoài mặt trời, mặt trăng chỉ có thể chiếu sáng một giới, một xứ, một uẩn, phần ít của một đời. Còn tuệ thì có thể soi sáng khắp cả mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, ba đời và pháp vô vi.

Có thuyết nêu: Người không có tuệ thì bị trói buộc, người có tuệ tức được giải thoát.

Có thuyết biện: Tuệ vào pháp Phật thì hết sức vui thích. Nghĩa là trong pháp Phật, do hiểu biết thấu suốt là hơn hết, thế nên những người có tuệ thì thấy được pháp bảo vi diệu, ở đó rất vui mừng, như người mắt sáng đi vào vùng đầy châu báu. Nếu không có trí tuệ, tuy đi vào pháp Phật nhưng chẳng thấy gì, nên thường có tâm buồn lo, như kẻ mù vào đến chỗ thâu nhặt châu báu, lại chỉ thêm sầu não.

Có thuyết nói: Mắt tuệ như vị tướng, như dẫn đường, như có mắt, như đứng đầu, là giác, là giác chi, là đạo, là đạo chi.

Có thuyết cho: Tuệ có thể dẫn dắt các thứ Bồ-đề phần khác, khiến không sai nẻo, như người mắt sáng hướng dẫn những người mù khiến đi đúng đường. Đây cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Tuệ cũng như dao bén chặt đứt tất cả mọi thứ triền phược buộc ràng. Như nói: Này chị em! Các hàng Thánh đệ tử của Ta có thể dùng dao tuệ bén cắt đứt tất cả các thứ kiết phược, tùy miên, triền cấu.

Có thuyết nói: Tuệ như đền đài cung điện.

Tôn giả A-nê-luật-đà nói: Tôi nương vào giới, trụ nơi giới nên được lên cung điện trí tuệ vô thượng.

Có thuyết cho: Tuệ có thể an lập tự tướng và cộng tướng của các pháp. Có thể phân biệt tự tướng và cộng tướng của các pháp. Có thể phá tan ngu tối của tự thể và ngu tối của đối tượng duyên. Ở trong các pháp luôn hoạt động không tăng giảm.

Có thuyết biện: Tuệ là chỗ yêu kính của chư Phật. Chư Phật không quý chuộng các thứ của hữu tình như hình sắc, sức mạnh, giòng họ, tiền của, giàu sang, uy quyền tự tại, chỉ yêu kính tuệ, vì tuệ có khả năng giúp chứng đắc các công đức.

Có thuyết nêu: Tuệ có thể hiển bày Đức Phật là không gì sánh bằng. Nghĩa là các thứ hình sắc, sức mạnh, giòng họ, tiền của, giàu sang, uy quyền tự tại không thể hiển bày Phật là bậc tối tôn tối thắng. Chỉ có tuệ là có thể hiển bày, do Nhất thiết trí chỉ Đức Phật mới có. Các căn khác thì không như thế.

Do vô số các thứ nhân duyên như vậy nên nói tuệ căn khác với các căn khác.

HẾT – QUYỂN 142