LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 195

Chương 8: KIẾN UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ BA HỮU, phần 4

* Các pháp do vô minh làm nhân thì pháp ấy do vô minh làm duyên chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao trong đây dựa vào minh và vô minh để tạo luận?

Đáp: Là do ý của người tạo luận muốn như vậy, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Do minh và vô minh là pháp căn bản của tạp nhiễm và thanh tịnh. Nghĩa là tất cả tạp nhiễm, vô minh là căn bản. Như nói: Các thứ pháp ác, bất thiện hiện có, hoặc sinh, hoặc lớn lên đều lấy vô minh làm gốc, làm nhân, làm chủng loại, làm cùng khởi. Tất cả thanh tịnh, minh là căn bản. Như nói: Các thứ pháp thiện hiện có, hoặc sinh, hoặc lớn lên, không thứ nào là không lấy minh làm gốc, làm nhân, làm chủng loại, làm cùng khởi.

Có thuyết cho: Hai thứ ấy đều là pháp đứng đầu. Nghĩa là trong Khế kinh, Đức Thế Tôn đã nói hai thứ ấy là pháp hàng đầu. Như nói: Này Bí-sô! Vô minh là đứng đầu, vô minh là tướng trước, vô số thứ pháp ác, bất thiện đều được sinh khởi, lại do đấy mà thành không hổ thẹn. Minh là đứng đầu, minh là tướng trước, vô số thứ pháp thiện đều được sinh khởi, lại do đấy mà thành có hổ thẹn.

Có thuyết nêu: Hai thứ ấy là tướng gần gây chướng ngại cùng tạo pháp đối trị. Tức vô minh là thứ chướng ngại gần của minh. Minh là đối trị gần của vô minh.

Có thuyết cho: Hai thứ này là pháp mâu thuẫn của đối tượng cùng nhận biết. Nghĩa là vô minh trái ngược với minh. Minh thì trái ngược với vô minh.

Có thuyết nói: Hai thứ này cùng duyên, cùng gồm thâu và không cùng gồm thâu bốn Thánh đế. Cùng duyên, không cùng gồm thâu pháp hữu lậu, vô lậu. Cùng duyên, không cùng gồm thâu pháp hữu vi, vô vi.

Do các thứ nhân duyên như thế, nên người làm luận đã dựa vào minh và vô minh để tạo luận.

Nhưng minh và vô minh là pháp nhân duyên, phẩm loại sai biệt có mười một thứ: Thuộc cõi dục có bốn thứ: Là thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký. Thuộc cõi sắc có ba thứ: Tức bốn thứ trên trừ bất thiện. Thuộc cõi vô sắc cũng như vậy. Cùng pháp vô lậu.

Trong đây: Pháp thiện thuộc cõi dục: Minh và vô minh đều không làm nhân cho nó, cùng làm ba duyên là đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng.

Pháp bất thiện: Vô minh làm bốn nhân cho nó là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành. Cũng làm bốn duyên cho nó là nhân, đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng. Minh không làm nhân cho nó, chỉ làm hai duyên là sở duyên, tăng thượng.

Pháp hữu phú vô ký thuộc cõi dục: Vô minh làm bốn nhân cho nó là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành. Cũng làm bốn duyên cho nó. Minh không làm nhân cho nó, chỉ làm một duyên là tăng thượng.

Pháp vô phú vô ký thuộc cõi dục, trừ dị thục của vô minh: Vô minh không làm nhân cho nó, chỉ làm ba duyên là đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng. Minh không làm nhân cho nó, chỉ làm một duyên là tăng thượng. Dị thục của vô minh: Vô minh làm một nhân là dị thục, làm ba duyên là nhân, đẳng vô gián, tăng thượng, không có sở duyên do dị thục kia ở nơi năm thức. Minh không làm nhân cho nó, chỉ làm một duyên là tăng thượng.

Pháp thiện thuộc cõi sắc: Vô minh và minh đều không làm nhân cho nó, cùng làm ba duyên là đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng.

Pháp hữu phú vô ký thuộc cõi sắc: Vô minh làm bốn nhân cho nó là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành. Cũng làm bốn duyên cho nó. Minh không làm nhân cho nó, chỉ làm hai duyên là sở duyên, tăng thượng.

Pháp vô phú vô ký thuộc cõi sắc: Vô minh không làm nhân cho nó, chỉ làm ba duyên là đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng. Minh không làm nhân cho nó, chỉ làm một duyên là tăng thượng.

Như ba thứ thuộc cõi sắc, ba thứ thuộc cõi vô sắc cũng như vậy.

Về pháp vô lậu: Vô minh không làm nhân cho pháp ấy, chỉ làm hai duyên là sở duyên, tăng thượng. Trừ vô lậu ban đầu, những pháp vô lậu khác, minh làm ba nhân cho nó là tương ưng, câu hữu, đồng loại, và làm bốn duyên. Trừ minh ban đầu, những pháp vô lậu ban đầu còn lại, minh làm hai nhân là tương ưng và câu hữu, hoặc làm một nhân là câu hữu, làm hai duyên là nhân và tăng thượng. Minh ban đầu thì minh không làm nhân cho nó, chỉ làm một duyên là tăng thượng.

Đó gọi là ở đây đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Các pháp do vô minh làm nhân thì pháp ấy do vô minh làm duyên chăng?

Đáp: Nếu các pháp do vô minh làm nhân thì pháp ấy do vô minh làm duyên.

Trong đây, các pháp do vô minh làm nhân: Là lấy chủng loại để nói. Pháp ấy do vô minh làm năm nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành và dị thục

Do vô minh làm duyên: Tức các pháp do vô minh làm nhân là lấy chủng loại để nói. Vô minh làm bốn duyên cho chúng.

Có pháp do vô minh làm duyên nhưng không do vô minh làm nhân: Nghĩa là trừ dị thục của vô minh, các hành vô phú vô ký khác và hành thiện. Vô minh đối với các pháp ấy hoặc làm ba duyên, hoặc làm hai duyên, hoặc làm một duyên, nhưng không làm nhân cho chúng.

Hỏi: Các pháp do minh làm nhân thì pháp ấy do minh làm duyên chăng?

Đáp: Nếu các pháp do minh làm nhân thì pháp ấy do minh làm duyên.

Trong đây, các pháp do minh làm nhân: Là theo chủng loại để nói. Pháp ấy do minh làm ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Do minh làm duyên: Tức các pháp do minh làm nhân là theo chủng loại để nói. Minh làm bốn duyên cho chúng.

Có pháp do minh làm duyên nhưng không do minh làm nhân: Nghĩa là minh ban đầu và các hành hữu lậu. Minh đối với các pháp ấy hoặc làm ba duyên, hoặc làm hai duyên, hoặc làm một duyên, nhưng không làm nhân cho chúng.

Hỏi: Các pháp do vô minh làm nhân thì pháp ấy do minh làm duyên chăng?

Đáp: Nếu các pháp do vô minh làm nhân thì pháp ấy do minh làm duyên.

Trong đây, các pháp do vô minh làm nhân: Là theo chủng loại để nói. Pháp ấy do vô minh làm năm nhân, như trước đã nói.

Do minh làm duyên: Tức các pháp do vô minh làm nhân là theo chủng loại để nói. Minh làm hai duyên cho chúng là sở duyên, tăng thượng.

Có pháp do minh làm duyên nhưng không do vô minh làm nhân: Nghĩa là trừ dị thục của vô minh, các hành vô phú vô ký khác và hành thiện. Minh đối với các pháp ấy hoặc làm bốn duyên, hoặc làm ba duyên, hoặc làm hai duyên, hoặc làm một duyên, vô minh không làm nhân cho chúng.

Hỏi: Các pháp do minh làm nhân thì pháp ấy do vô minh làm duyên chăng?

Đáp: Nếu các pháp do minh làm nhân thì pháp ấy do vô minh làm duyên.

Trong đây, các pháp do minh làm nhân: Là theo chủng loại để nói. Pháp ấy do minh làm ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Do vô minh làm duyên: Tức các pháp do minh làm nhân là theo chủng loại để nói. Vô minh làm hai duyên cho chúng là sở duyên, tăng thượng.

Có pháp do vô minh làm duyên nhưng không do minh làm nhân: Nghĩa là minh ban đầu và các hành hữu lậu. Vô minh đối với các pháp ấy hoặc làm bốn duyên, hoặc làm ba duyên, hoặc làm hai duyên, hoặc làm một duyên, minh không làm nhân cho chúng.

Hỏi: Các pháp do vô minh làm nhân thì pháp ấy là bất thiện chăng?

Đáp: Nếu là pháp bất thiện thì pháp ấy do vô minh làm nhân. Trong đây, pháp bất thiện do vô minh làm nhân là theo chủng loại để nói. Pháp ấy do vô minh làm bốn nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành.

Có pháp do vô minh làm nhân nhưng không phải là bất thiện: Nghĩa là dị thục của vô minh và hành hữu phú vô ký. Trong đây, dị thục của vô minh do vô minh làm một nhân là dị thục. Hành hữu phú vô ký là theo chủng loại để nói.

Do vô minh làm bốn nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành. Nhưng pháp ấy không phải là bất thiện mà là vô ký.

Hỏi: Các pháp do minh làm nhân thì pháp ấy là thiện chăng?

Đáp: Nếu pháp do minh làm nhân thì pháp ấy là thiện. Trong đây, pháp thiện do minh làm nhân là theo chủng loại để nói. Pháp ấy do minh làm ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Có pháp là thiện nhưng không phải do minh làm nhân: Nghĩa là minh ban đầu và hành thiện hữu lậu. Trong đây, minh ban đầu là thiện, nhưng không do minh làm nhân, vì không có trước và cùng đều là minh. Hành thiện hữu lậu cũng không do minh làm nhân, do không có nghĩa của nhân.

Hỏi: Từng có pháp không do minh làm nhân, không do vô minh làm nhân, pháp ấy không phải là không nhân chăng?

Đáp: Có. Là trừ dị thục của vô minh, các thứ còn lại là hành vô phú vô ký, minh ban đầu, hành thiện hữu lậu. Các pháp như thế không do minh và vô minh làm nhân, nhưng chúng không phải không có nhân.

Trong đây, trừ dị thục của vô minh, các thứ còn lại là hành vô phú vô ký: Là theo chủng loại để nói. Có bốn nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại, biến hành.

Minh ban đầu: Có hai nhân là tương ưng, câu hữu.

Hành thiện hữu lậu: Là theo chủng loại để nói. Có ba nhân là tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Hỏi: Minh ban đầu cùng vô lậu đắc cũng không do minh và vô minh làm nhân, nhưng chúng không phải là không nhân, trong đây vì sao không nói?

Đáp: Văn ấy nên nói như vầy: Minh ban đầu cùng với vô lậu đắc, nhưng không nói như thế, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Đắc này gồm thâu nơi minh ban đầu trong nhân câu hữu, cho nên không nói.

Lời bình: Thuyết kia không nên nói như vậy. Vì đắc không phải là nhân câu hữu của minh ban đầu. Nên nói là gồm thâu trong phẩm minh ban đầu. Nếu nói là minh ban đầu, nên biết là đã nói về tụ của nó. Nghĩa của các pháp minh và vô minh đã nói rộng trong phẩm Duyên Khởi của chương Tạp Uẩn.

***

Chương 8: KIẾN UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ TƯỞNG, phần 1

* Các pháp sinh từ tưởng vô thường thì chúng tương ưng với tưởng vô thường chăng? Những chương như thế cùng giải thích nghĩa của chương, đã lãnh hội rồi, nên phân biệt rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận sự thiếu hiểu biết về pháp tương ưng, ý cho pháp tương ưng là không thật có, tức hiển bày: Pháp tương ưng quyết định là thật có, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các pháp sinh từ tưởng vô thường thì chúng tương ưng với tưởng vô thường chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có pháp sinh từ tưởng vô thường không tương ưng với tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng vô thường hiện tiền tất diệt, tưởng khác hiện tiền tất sinh, do pháp tương ưng kia.

Trong đây nói: Tưởng vô thường không gián đoạn thì tưởng vô thường khổ cho đến tưởng diệt tùy một mà hiện tiền.

Pháp tương ưng kia: Là trừ tưởng, còn lại chín pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa, địa có tầm có tứ, địa không tầm chỉ có tứ, địa không tầm không tứ và tâm. Các pháp như thế sinh từ tưởng vô thường, do tưởng vô thường làm đẳng vô gián duyên nên khởi, nhưng chúng không tương ưng với tưởng vô thường. Chúng cùng với tưởng khổ vô ngã cho đến tưởng diệt tùy một mà tương ưng.

2. Có pháp tương ưng với tưởng vô thường không sinh từ tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng khác hiện tiền tất diệt, tưởng vô thường hiện tiền tất sinh pháp tương ưng kia.

Trong đây nói: Tưởng vô thường khổ cho đến tưởng diệt tùy một không gián đoạn tưởng vô thường hiện tiền.

Pháp tương ưng kia: Là trừ tưởng, còn lại chín pháp đại địa v.v…, nói rộng như trên. Các pháp như thế tương ưng với tưởng vô thường, nhưng chúng không sinh từ tưởng vô thường. Tưởng vô thường khổ cho đến tưởng diệt tùy một làm đẳng vô gián duyên mà khởi.

3. Có pháp sinh từ tưởng vô thường cũng tương ưng với tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng vô thường hiện tiền tất diệt, tưởng vô thường hiện tiền tất sinh, pháp tương ưng kia.

Ở đây nói là trong tụ của tưởng vô thường sau. Trừ tưởng vô thường, còn lại là tâm tâm sở pháp, nói rộng như trên. Các pháp như thế sinh từ tưởng vô thường, tưởng vô thường làm đẳng vô gián duyên mà khởi, chúng cũng tương ưng với tưởng vô thường, vì trong tụ kia có. Tưởng vô thường tuy sinh từ tưởng vô thường, nhưng không tương ưng với tưởng vô thường, là vì tự tánh đối với tự tánh do ba nhân duyên nên không tương ưng, như trước đã nói.

4. Có pháp không phải sinh từ tưởng vô thường cũng không tương ưng với tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng khác hiện tiền tất diệt, tưởng khác hiện tiền tất sinh pháp tương ưng kia. Trong đây nói tưởng vô thường khổ cho đến tưởng diệt tùy một không gián đoạn, tùy một hiện tiền, là pháp tương ưng với các tưởng kia, nói rộng như trên. Các pháp như thế không sinh từ tưởng vô thường, tưởng khác làm đẳng vô gián duyên mà khởi, cũng không tương ưng với tưởng vô thường, nhưng tương ưng với các tưởng khác.

Như tưởng vô thường, cho đến tưởng diệt cũng như thế, tùy chỗ ứng hợp đều nêu ra bốn trường hợp, như vậy liền có mười thứ bốn trường hợp.

***

* Các pháp sinh từ tưởng vô thường thì chúng cùng duyên với tưởng vô thường chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chặn sự thiếu hiểu biết đối với thể tánh của đối tượng duyên, chấp tánh của đối tượng duyên là không thật có, tức làm sáng tỏ: Tánh của đối tượng duyên quyết định là thật có, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các pháp sinh từ tưởng vô thường thì chúng cùng duyên với tưởng vô thường chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có pháp sinh từ tưởng vô thường không cùng duyên với tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng vô thường hiện tiền tất diệt, tưởng khác hiện tiền tất sinh, do có duyên khác kia. Trong đây, nói tưởng vô thường duyên nơi sắc uẩn không gián đoạn duyên nơi các uẩn như thọ v.v… tưởng vô thường khổ, tưởng khổ vô ngã tùy một hiện tiền. Duyên nơi uẩn khác và giới, xứ khác nói cũng như vậy. Pháp kia từ tưởng vô thường sinh nhưng không cùng duyên với tưởng vô thường mà duyên với pháp khác.

2. Có pháp cùng duyên với tưởng vô thường không phải sinh từ tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng khác hiện tiền tất diệt, tưởng vô thường hiện tiền tất sinh, do có duyên ấy. Trong đây, nói duyên nơi các uẩn như sắc v.v… tưởng vô thường khổ, tưởng khổ vô ngã tùy một không gián đoạn tức duyên nơi uẩn kia, tưởng vô thường hiện tiền. Về giới, xứ nói cũng như vậy. Pháp kia cùng duyên với tưởng vô thường nhưng không phải sinh từ tưởng vô thường. Tưởng vô thường khổ, tưởng khổ vô ngã tùy một làm đẳng vô gián duyên mà khởi.

Hỏi: Trong đây nói tưởng nào cùng với tưởng nào là đồng cùng duyên? Là nói tưởng vô thường cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên hay là nói tưởng vô thường cùng với tưởng khác là đồng cùng duyên? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Đáp: Cả hai đều có lỗi.

Nếu nói tưởng vô thường cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên thì văn ở đây nói làm sao thông? Như nói: Do kia có duyên này.

Nếu nói tưởng vô thường cùng với tưởng khác là đồng cùng duyên thì văn ở đây lại làm sao thông? Như nói: Pháp kia không phải sinh từ tưởng vô thường. Có khi tưởng kia từ tưởng vô thường sinh.

Đáp: Trong đây nói tưởng vô thường cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên, nên nói cùng duyên với tưởng vô thường.

Hỏi: Nếu như vậy thì văn ở đây nói làm sao thông? Như nói: Do kia có duyên này.

Đáp: Có thuyết nói: Văn ấy nên nói như vầy: Nghĩa là tưởng khác hiện tiền tất diệt, tưởng vô thường hiện tiền tất sinh pháp tương ưng kia. Đây tức nói pháp tương ưng của tưởng vô thường cùng tương ưng với tưởng vô thường.

Nên nói như vầy: Ở đây gồm thâu ba tưởng: Là tưởng vô thường sau, khởi tưởng khác, tưởng khác sau lại khởi tưởng vô thường. Tức trong đây nói sau khởi tưởng vô thường cùng với tưởng vô thường trước đồng duyên nên nói cùng duyên với tưởng vô thường. Như vậy cả hai văn đều khéo thông. Hoặc có khi hỏi về điều này tức nay nên xét chọn.

Trong đây nói tưởng nào cùng với tưởng nào là đồng cùng duyên? Nghĩa là nói tưởng vô thường cùng với tưởng khác là đồng cùng duyên hay là nói tưởng khác cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên? Hai thứ này có gì sai biệt? Nếu nói tưởng vô thường cùng với tưởng khác là đồng cùng duyên thì văn ở đây nói làm sao thông? Như nói: Có pháp cùng duyên với tưởng vô thường. Nếu tưởng khổ vô ngã không gián đoạn thì tưởng vô thường sinh, tưởng kia cùng với tưởng khổ vô ngã đồng cùng duyên không phải là tưởng vô thường. Nếu nói tưởng khác cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên, thì có khi pháp kia là từ tưởng vô thường sinh, tức không nên nói không phải là tưởng vô thường sinh.

Có thuyết cho: Trong đây nói tưởng vô thường cùng với tưởng khác là đồng cùng duyên.

Hỏi: Nếu như vậy thì văn ở đây nói làm sao thông? Như nói: Có pháp cùng duyên với tưởng vô thường.

Đáp: Nên nói như vầy: Nghĩa là tưởng khác hiện tiền tất diệt, tưởng vô thường hiện tiền tất sinh pháp tương ưng của tưởng kia. Nếu như vậy thì pháp kia nên từ tưởng vô thường sinh cũng cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên.

Nên nói như vầy: Trong đây nên nói tưởng vô thường cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên. Thế nên ở đây gồm thâu chung ba tưởng: Là tưởng vô thường ban đầu, tiếp theo là khởi tưởng khác, tưởng khác không gián đoạn lại khởi tưởng vô thường. Ở đây nói là tưởng vô thường sinh sau cùng với tưởng vô thường sinh trước là đồng cùng duyên. Như vậy cả hai lỗi cùng lìa.

1. Có pháp sinh từ tưởng vô thường cùng duyên với tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng vô thường hiện tiền tất diệt, tưởng vô thường hiện tiền tất sinh, do kia có duyên này. Trong đây nói duyên nơi các uẩn như sắc v.v… tưởng vô thường không gián đoạn tức duyên nơi uẩn kia nên tưởng vô thường hiện tiền. Giới, xứ nói cũng như vậy. Pháp kia từ tưởng vô thường sinh cũng cùng với tưởng vô thường là đồng cùng duyên.

2. Có pháp không phải sinh từ tưởng vô thường cũng không phải cùng duyên với tưởng vô thường: Nghĩa là tưởng khác hiện tiền tất diệt, tưởng khác hiện tiền tất sinh, do kia có duyên khác. Trong đây nói duyên nơi uẩn khác, tưởng vô thường khổ, tưởng khổ vô ngã tùy một không gián đoạn duyên nơi uẩn khác, tưởng vô thường khổ, tưởng khổ vô ngã tùy một hiện tiền. Giới, xứ nói cũng như vậy. Pháp kia không phải từ tưởng vô thường sinh, tưởng khác làm đẳng vô gián duyên mà khởi, cũng không phải là cùng duyên với tưởng vô thường, mà là tưởng khác, duyên khác.

Như tưởng vô thường, cho đến tưởng diệt cũng như vậy.

Hỏi: Trong đây đã nói về tưởng khác là có thế như vậy. Còn tưởng bất tịnh, tưởng chán ăn uống quá khứ duyên với quá khứ, hiện tại duyên với hiện tại, vị lai nếu sinh thì duyên với vị lai, vì sao được thành trường hợp thứ ba?

Đáp: Dựa vào tương tợ để nói cũng không có lỗi. Nghĩa là tưởng bất tịnh trước duyên nơi những xương nối nhau diệt, tưởng bất tịnh sau lại duyên nơi những xương nối nhau sinh. Do tướng của cảnh tương tợ nên cũng gọi là một. Tưởng chán ăn uống cũng như vậy.

***

* Các pháp do tâm dẫn khởi, không phải là không do tâm, cho đến nói rộng.

Trong chương Nghiệp Uẩn ở trước đã chỉ rõ về quả yêu mến, không yêu mến do tâm khởi, nên phần vị có sai biệt. Ở đây là chỉ rõ hai nghiệp thân ngữ do tâm mà khởi nên phần vị có sai biệt.

Tâm có hai thứ: 1. Chuyển. 2. Tùy chuyển. Chuyển nghĩa là có thể dẫn phát hai nghiệp thân ngữ nơi trước khi nó khởi. Tùy chuyển là giúp cho hai nghiệp thân ngữ cùng với pháp kia cùng sinh. Trong đây nói chuyển, không nói tùy chuyển.

Các pháp đã nói thì đấy là gì?

Hoặc có thuyết nói: Các pháp nghĩa là luật nghi biệt giải thoát.

Nếu nói như vậy: Các pháp là luật nghi biệt giải thoát, tức thuyết kia nói: Các pháp do tâm khởi. Nghĩa là luật nghi biệt giải thoát do sức của tâm dẫn khởi, không phải là không do tâm. Không có việc lìa sức của tâm mà được luật nghi kia.

Hỏi: Nếu khi tâm khởi thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm khởi trước, sau là pháp kia. Nghĩa là trước khởi tâm như vầy: Ta sẽ thọ luật nghi biệt giải thoát, sau đấy liền chính thức khởi biểu nghiệp của luật nghi.

Hỏi: Nếu khi tâm diệt thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm diệt trước, sau là pháp kia. Nghĩa là tâm kia trước sinh rồi diệt, sau đến biểu nghiệp của luật nghi kia sinh rồi lại diệt. Vì sao? Vì các hành vô thường đã hủy hoại, nên sinh nơi không có sức để có thể tạm thời dừng trụ, do sát-na không gián đoạn tất tàn diệt.

Hỏi: Nếu khi tâm được thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm được trước, sau là pháp kia. Nghĩa là tâm thiện kia do hai duyên nên được: 1. Căn thiện nối tiếp. 2. Cõi, địa luôn tới lui.

Luật nghi kia do biểu hiện nên được.

Hỏi: Nếu khi tâm bỏ thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Pháp kia bỏ trước, sau mới là tâm. Nghĩa là luật nghi kia do bốn duyên nên bỏ: 1. Bỏ học xứ. 2. Hai hình sinh. 3. Căn thiện đoạn dứt. 4. Bỏ chúng đồng phần. Có thuyết nói: Khi phạm tội căn bản cũng bỏ. Tâm kia do hai duyên nên bỏ: 1. Căn thiện đoạn dứt. 2. Vượt khỏi cõi địa.

Hỏi: Nếu ở cõi dục mạng chung sinh trở lại nơi cõi dục thì người ấy có thể trước bỏ pháp kia, sau mới là tâm. Nếu ở cõi dục mạng chung sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc và bát Niết-bàn thì pháp kia cùng với tâm cùng lúc mà bỏ. Vì sao nói là pháp kia bỏ trước sau mới là tâm?

Đáp: Trong đây chỉ nói ở cõi dục mạng chung sinh trở lại nơi cõi dục. Người ấy khi mất là bỏ chúng đồng phần nên luật nghi biệt giải thoát cũng bỏ. Tuy bỏ chúng đồng phần nhưng không bỏ tâm.

Có thuyết cho: Ở cõi dục mạng chung sinh nơi cõi sắc, cõi vô sắc và bát Niết-bàn cũng là trong đây đã nói. Người ấy khi sắp mất thì sức của thân suy yếu, hoặc khổ bức xúc do đoạn mạt-ma (tử huyệt) nên liền mất những luật nghi thân ngữ đã thọ. Sau khi mất tâm mới bỏ.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao có thể nói Bí-sô kia mạng chung?

Đáp: Vẫn là tên gọi cũ nên không có lỗi. Như vua mất ngôi cũng gọi là vua.

Hỏi: Các vật của người xuất gia như y bát kia v.v… làm thế nào để phân?

Đáp: Bí-sô kia nơi thời trước cũng từng phân tài vật như thế của vị khác. Lúc này, Bí-sô ấy mạng chung, vị khác trở lại phân các vật nọ.

Lại, trước nay là lần lượt truyền nhau điều được chấp nhận. Từng nghe, xưa có vị Tiên nhân qua đời, những vị đồng phạm hạnh đem tài vật của vị tiên ấy giao nộp cho nhà vua, thưa: Đây là tài sản hiện có của vị tiên kia. Vị ấy không có người thừa kế, nay đem nộp cho vua mong vua thâu nhận. Vua ra lệnh đem trở về và bảo: Các vật của người xuất gia đã thọ dụng, chúng tôi là người thế tục không nên thọ nhận. Từ nay trở đi, các vị xuất gia nếu có qua đời, mọi vật dụng hiện có của vị ấy, những người đồng phạm hạnh nên cùng phân chia. Do sự mở đầu chấp thuận ấy, nên không có lỗi.

Lời bình: Như thuyết nói trước là đúng. Vì sao? Do khổ bức xúc không phải là duyên của việc bỏ giới. Vốn chính là kỳ hạn cho đến mạng chung, không phải chưa mất, lìa đoạn thiện mà khiến giới bỏ, cho nên tâm sát-na sau cùng nơi mạng chung mới cùng với luật nghi cùng lúc đều mất.

Hỏi: Nếu khi tâm thọ dị thục thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Hoặc bấy giờ, hoặc lúc khác.

Bấy giờ: Nghĩa là một sát-na, hoặc một tương tục, hoặc một phần vị, hoặc một chúng đồng phần.

Lúc khác: Nghĩa là sát-na khác, hoặc tướng tục khác, hoặc phần vị khác, hoặc chúng đồng phần khác. Do thời hiện tại có bốn thứ.

Lại có thuyết nói: Các pháp nghĩa là không luật nghi.

Nếu nói như thế: Các pháp là không luật nghi, tức thuyết kia nói: Các pháp do tâm khởi: Nghĩa là do sức của tâm không luật nghi dẫn khởi. Không phải là không do tâm: Nghĩa là không có việc lìa sức của tâm mà được không luật nghi.

Hỏi: Nếu khi tâm khởi thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm khởi trước, sau là pháp kia. Nghĩa là trước khởi tâm như vầy: Ta sẽ thọ nhận, làm những sự việc như thế. Sau liền chính thức khởi biểu nghiệp không luật nghi.

Hỏi: Nếu khi tâm diệt thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm diệt trước, sau là pháp kia. Nghĩa là tâm ấy sinh rồi diệt. Sau không luật nghi sinh rồi lại diệt. Giải thích như trước.

Hỏi: Nếu khi tâm được thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm được trước, sau là pháp kia. Nghĩa là tâm bất thiện ấy do hai duyên nên được: 1. Từ lìa dục thoái chuyển. 2. Cõi, địa luôn tới lui. Không luật nghi kia do biểu hiện nên được.

Hỏi: Nếu khi tâm bỏ thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Pháp kia bỏ trước, sau mới là tâm. Nghĩa là không luật nghi do bốn duyên nên bỏ: 1. Thọ luật nghi. 2. Được tĩnh lự. 3. Hai hình sinh. 4. Bỏ chúng đồng phần. Tâm bất thiện kia do một duyên nên bỏ, là khi lìa dục nhiễm.

Hỏi: Nếu khi tâm thọ dị thục thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Hoặc là bấy giờ, hoặc là lúc khác. Như trước đã giải thích.

Lại có thuyết nói: Các pháp nghĩa là không phải luật nghi, không phải không luật nghi nơi hành diệu, hành ác của thân, ngữ hiện có.

Nếu nói như vậy: Các pháp là không phải luật nghi, không phải không luật nghi nơi hành diệu, hành ác hiện có của thân ngữ, tức thuyết kia nói: Các pháp do tâm khởi. Nghĩa là nơi hành diệu hành ác của thân ngữ kia do sức của tâm dẫn khởi, không phải là không do tâm. Tức không có việc lìa sức của tâm mà được những hành diệu hành ác của thân ngữ kia.

Hỏi: Nếu khi tâm khởi thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm khởi trước, sau là pháp kia. Nghĩa là trước khởi tâm như vầy: Ta sẽ làm các sự việc như thế, như thế. Sau mới chính thức khởi thân ngữ biểu kia.

Hỏi: Nếu khi tâm diệt thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm diệt trước, sau là pháp kia. Như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu khi tâm được thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Tâm được trước, sau là pháp kia. Nghĩa là tâm thiện kia do hai duyên nên được: 1. Căn thiện tương tục. 2. Cõi, địa luôn tới lui. Tâm bất thiện kia cũng do hai duyên nên được: 1. Từ lìa dục thoái chuyển. 2. Cõi, địa luôn tới lui. Hành diệu hành ác của thân ngữ kia do biểu hiện nên được.

Hỏi: Nếu khi tâm bỏ thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Pháp kia bỏ trước, sau mới là tâm. Nghĩa là hành diệu, hành ác của thân ngữ kia do ba duyên nên bỏ: 1. Ý lạc dứt. 2. Bỏ gia hạnh. 3. Thế mạnh hết. Tâm thiện kia do hai duyên nên bỏ. Tâm bất thiện kia do hai duyên nên bỏ. Đều như trước đã nói.

Hỏi: Nếu khi tâm thọ dị thục thì bấy giờ là pháp kia chăng?

Đáp: Hoặc là bấy giờ, hoặc là lúc khác. Như trước đã giải thích.

***

* Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn ngăn dứt tông chỉ của kẻ khác, hiển bày nghĩa của mình. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp không phải là pháp thật có.

Hoặc lại có thuyết cho: Vô lậu, hữu vi cũng là đối tượng đoạn trừ.

Hoặc lại có thuyết nói: Gia hạnh đã khởi vô phú vô ký cũng là đối tượng tu tập.

Hoặc lại có thuyết nêu: Chỉ có Niết-bàn là đối tượng tác chứng.

Nay nhằm ngăn dứt những ý tưởng đó, hiển bày: Đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp là pháp thật có. Đoạn trừ chỉ là hữu lậu. Tu tập chỉ là pháp thiện, hữu vi, đối tượng chứng đắc là chung cho tất cả pháp thiện, cùng dựa nơi định khởi vô phú vô ký, nên tạo ra phần Luận này.

Đối tượng thông đạt: Nghĩa là tất cả pháp đều là đối tượng thông đạt của tuệ thiện.

Đối tượng nhận biết khắp: Nghĩa là tất cả pháp đều là đối tượng nhận biết khắp của trí nhận biết khắp.

Như nói: Đối tượng thông đạt là gì? Là tất cả pháp. Đối tượng nhận biết khắp là gì? Là tất cả pháp.

Đối tượng đoạn trừ nghĩa là tất cả pháp hữu lậu, là đối tượng nên đoạn trừ của đạo đối trị. Như nói: Pháp của đối tượng đoạn trừ là gì? Là tất cả pháp hữu lậu.

Đối tượng tu là tất cả pháp hữu vi thiện. Đó là tu đắc, tu tập tùy một hoặc cùng cả hai. Như nói: Pháp của đối tượng tu là gì? Là tất cả pháp hữu vi thiện.

Đối tượng tác chứng là tất cả điều thiện và vô phú vô ký do dựa nơi định đã khởi, là những thứ đáng vui thích, ưa chuộng cầu đạt. Như nói: Pháp của đối tượng tác chứng là gì? Là tất cả pháp thiện cùng dựa nơi Tam-ma-bát-để sinh khởi các thứ thiên nhãn, thiên nhĩ vô phú vô ký.

Hỏi: Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp, không phải là đối tượng đoạn, không phải là đối tượng tu, không phải là đối tượng tác chứng chăng?

Đáp: Có, là hư không, phi trạch diệt. Hai pháp như vậy là đối tượng thông đạt, là đối tượng thông đạt của tuệ thiện, cũng là đối tượng nhận biết khắp, là đối tượng nhận biết khắp của trí nhận biết khắp.

Không phải là đối tượng đoạn vì vô lậu, không phải là đối tượng tu vì vô vi, không phải là đối tượng tác chứng vì không phải là pháp có thể vui thích ưa chuộng cầu đạt.

Hỏi: Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp, không phải là đối tượng đoạn, không phải là đối tượng tu, là đối tượng tác chứng chăng?

Đáp: Có, nghĩa là trạch diệt. Đây là đối tượng tác chứng vì là pháp đáng vui thích ưa chuộng cầu đạt. Ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp, không phải là đối tượng đoạn, là đối tượng tu, là đối tượng tác chứng chăng?

Đáp: Có, là pháp hữu vi vô lậu. Đây là hữu vi thiện đã tu. Ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp, là đối tượng đoạn, là đối tượng tu, là đối tượng tác chứng chăng?

Đáp: Có, là hành hữu lậu thiện. Đây là hữu lậu đã đoạn. Ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp, là đối tượng đoạn, không phải là đối tượng tu, là đối tượng tác chứng chăng?

Đáp: Có, là thiên nhãn, thiên nhĩ do định đã khởi. Đây là hữu lậu đã đoạn, không phải đã tu vì vô ký, là đối tượng tác chứng vì dựa nơi định khởi cầu đạt được. Ngoài ra như trước đã giải thích.

Hỏi: Từng có pháp là đối tượng thông đạt, đối tượng nhận biết khắp, là đối tượng đoạn, không phải là đối tượng tu, là đối tượng tác chứng chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là trừ định đã khởi thiên nhãn, thiên nhĩ, còn lại là hành vô ký khác và pháp bất thiện. Nghĩa như trước đã giải thích.

Hỏi: Các Sư nước ngoài nói: Pháp vô phú vô ký của đối tượng tác chứng có tám thứ: Nghĩa là dựa nơi định khởi thiên nhãn, thiên nhĩ, cùng hai vô ngại giải pháp, từ, vô phú vô ký của hai thức kia và nguyện trí, tâm biến hóa. Ở đây vì sao chỉ nói thiên nhãn, thiên nhĩ, không phải là pháp khác?

Đáp: Các Sư nước ngoài đã tụng văn cú như thế này: Thế nào là pháp của đối tượng tác chứng? Nghĩa là tất cả pháp thiện, cùng dựa nơi Tam-ma-bát-để đã khởi pháp vô phú vô ký. Các Sư nước Ca-thấp-di-la cũng nên nói như thế, nhưng không nói là có ý sâu xa riêng. Nghĩa là dựa nơi định khởi thiên nhãn, thiên nhĩ, còn thức là gồm thâu trong phần nói về thiên nhãn, thiên nhĩ. Nếu nói về chỗ nương dựa, nên biết là đã nói về người nương dựa. Hai vô ngại giải pháp, từ cùng nguyện trí đều chỉ là thiện, cũng là đối tượng tu tập, không phải thuộc về phần này, tức không nên nêu vấn nạn. Tâm biến hóa giống như công xảo chuyển, không phải là điều hết sức vui thích, ưa chuộng, nên ở đây không nói. Do đấy nên không tùy theo các Sư kia đã nói.

Lại nữa, nếu dựa nơi gia hạnh đang cầu đạt được, là tăng thượng, thì ở đây nói đến. Thức của thiên nhãn, thiên nhĩ không có gia hạnh riêng, chỉ nhân nơi chỗ cầu thiên nhãn, thiên nhĩ mà được. Các tâm biến hóa nhân khởi gia hạnh cầu lìa nhiễm mà được, đều không phải là tăng thượng, nên ở đây không nói.

Lại nữa, thiên nhãn, thiên nhĩ thiết lập rộng gia hạnh, tạm thời thành tựu, đó là hy hữu, nên ở đây nói đến. Thức kia cùng tâm biến hóa, nhân nơi lìa nhiễm dục, hoặc khi trở lại cõi, địa, không dụng công mà được, được rồi thì luôn nơi ba đời thành tựu, không cho là hy hữu, nên ở đây không nói.

Lại nữa, thiên nhãn, thiên nhĩ là quả của sự tu tập, là quả của định thâu nhận chi, lìa nhiễm dục, sau đấy có thể hiện tiền, nơi tất cả thời nhận biết là chẳng không, khởi tất không có đồng phần kia, chỉ thành tựu tất có tác dụng, là chỗ nương dựa chung của thiên nhãn thiên nhĩ, là căn bản thù thắng của việc chán lìa sinh tử, nên ở đây nói đến. Các pháp khác thì không như vậy, thế nên không nói.

Trong đây đã nói về phi trạch diệt: Nghĩa là các hữu tình diệt trừ nhưng không lìa trói buộc, không trạch pháp mà được, khi được thì không lìa trói buộc.

Còn trạch diệt đã nêu: Nghĩa là các hữu tình diệt trừ là lìa trói buộc, là trạch pháp mà được, khi được liền lìa trói buộc. Hai diệt này nói rộng như trong phẩm Ái Kính nơi chương Tạp Uẩn.

***

* Từng có pháp không duyên nơi nhân duyên, không duyên nơi pháp duyên, không duyên nơi pháp câu sinh chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để ngăn chận tông chỉ của kẻ khác làm rõ nghĩa của mình. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Các tướng hữu vi không có thể tánh thật. Như phái Thí Dụ nói. Vì sao? Họ cho: Các tướng hữu vi là bất tương ưng hành, thuộc về hành uẩn. Các bất tương ưng hành đều không có thật thể.

Hoặc lại có thuyết nói: Các tướng hữu vi là pháp vô vi. Như phái Luận Phân Biệt nói. Vì sao? Họ cho: Nếu tướng hữu vi là hữu vi, thì sức của nó yếu kém đâu có thể sinh thứ khác, cho đến còn khiến thứ khác diệt. Do chúng vô vi nên tức có thể sinh ra pháp cho đến diệt pháp.

Hoặc có thuyết nêu: Trong tướng hữu vi thì sinh trụ lão là hữu vi. Diệt là vô vi. Vì sao? Họ nói: Các pháp khiến sinh lão trụ thì dễ, khiến chúng diệt thì khó. Nếu tướng vô thường là hữu vi thì tánh nó yếu kém làm sao có thể diệt thứ khác? Do là vô nên tánh của nó mạnh thịnh có thể diệt các pháp.

Lại có thuyết nói: Sắc pháp sinh lão trụ vô thường thì thể tức là sắc. Những thứ khác cũng như vậy.

Hoặc có thuyết nói: Các tướng hữu vi là pháp tương ưng.

Nay chính là để ngăn chận những thứ dị chấp ấy, làm sáng tỏ: Tướng hữu vi là thật có tánh, không phải là pháp vô vi, không phải tức là sắc, là không tương ưng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Từng có pháp không duyên nơi nhân duyên, không duyên nơi pháp duyên, không duyên nơi pháp câu sinh, là có, là có tánh, không phải là không, không phải là không tánh, khác với sắc, khác với thọ tưởng thức, khác với hành tương ưng chăng?

Đáp: Có, nghĩa là năm thức thân. Chúng là pháp tương ưng và duyên nơi sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Ý thức thân, nó là pháp tương ưng, sinh lão trụ vô thường hiện có thì pháp này không duyên, là bất tương ưng hành, không có đối tượng duyên. Nhân duyên này không duyên nơi pháp duyên, không duyên nơi pháp câu sinh, trước đã nói sáu thức thân cùng pháp tương ưng làm nhân, tức cùng với pháp kia là câu sinh. Do đấy đã ngăn chận ý chấp cho tướng hữu vi là vô vi. Không phải pháp vô vi từ nhân sinh ra. Đây là có pháp, không phải là không có pháp. Là có tánh, không phải là pháp giả, không phải là không, không phải là không có tánh. Đây là quyết định về nghĩa như trước đã nói.

Lại nữa, hai câu trước là thành lập luận của mình. Hai câu sau là ngăn chận phá bỏ luận của người khác.

Thành lập luận của mình: Như người thuyết pháp thiện thì thành lập tông chỉ của việc thuyết pháp thiện. Kẻ thuyết pháp ác thì thành lập tông chỉ của việc thuyết pháp ác. Luận giả của Ứng lý thì thành lập tông chỉ của Luận Ứng Lý. Luận giả Phân biệt thì thành lập tông chỉ của Luận Phân Biệt.

Ngăn chận phá bỏ luận của người khác: Là như người thuyết pháp thiện thì ngăn chận phá bỏ tông chỉ của kẻ thuyết pháp ác. Kẻ thuyết pháp ác thì ngăn chận phá bỏ tông chỉ của người thuyết pháp thiện. Luận giả Ứng lý thì ngăn chận phá bỏ tông chỉ của Luận giả Phân biệt. Luận giả Phân biệt thì ngăn chận phá bỏ tông chỉ của Luận giả Ứng lý.

Nay ở đây cũng như vậy. Hai câu trước là thành lập tông chỉ của mình. Hai câu sau là ngăn chận phá bỏ tông chỉ của kẻ khác. Nếu không thành lập tông chỉ của mình mà liền phá tông chỉ của kẻ khác tức là không luận, không chỗ nương dựa. Nếu chỉ thành lập tông chỉ của mình, không phá bỏ tông chỉ của kẻ khác thì đối với tông chỉ của mình chưa phải là khéo thành lập. Thế nên trước lập tông chỉ của mình sau mới phá bỏ luận của kẻ khác. Nghĩa nói là sinh lão trụ vô thường này có lý sâu xa như vậy, pháp nhĩ là có, là có tánh, không phải là không, không phải là không tánh. Do đấy đã ngăn chận ý chấp cho: Tướng hữu vi không phải là thật có. Đây khác với sắc, không phải là pháp sắc. Khác với thọ tưởng thức, không phải là pháp thọ tưởng thức. Do vậy đã ngăn chận ý chấp cho: Tướng như sắc v.v… tức là sắc v.v… Đây khác với hành tương ưng, là pháp không tương ưng. Do đấy đã ngăn chận lối chấp cho: Tướng hữu vi là pháp tương ưng.

Hỏi: Pháp này đối với pháp kia, nên nói là nhân, nên nói là duyên chăng?

Đáp: Nên nói là nhân, nên nói là duyên. Trong đây: Pháp này, pháp kia là nói về gì?

Có thuyết cho: Sinh lão trụ vô thường là pháp này. Cùng sáu thức thân này và pháp tương ưng là pháp kia.

Nếu nói như vậy tức thuyết kia nói: Nếu pháp này đối với pháp kia là cùng khởi, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân tức một nhân nghĩa là nhân câu hữu. Duyên thì có hai duyên nghĩa là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi sau, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân thì có ba nhân là đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên thì có ba duyên là trừ đẳng vô gián. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi trước, nên nói là duyên, không nên nói là nhân. Duyên tức có hai thứ là sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là chung, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân thì có bốn nhân là câu hữu, đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên tức có ba duyên là trừ đẳng vô gián.

Lại có thuyết nói: Trước đã nói sáu thức thân cùng pháp tương ưng là pháp này. Ở đây cùng sinh lão trụ vô thường là pháp kia.

Nếu nói như vậy tức thuyết kia nói: Nếu pháp này đối với pháp kia là cùng khởi, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân là một nhân tức nhân câu hữu. Duyên thì có hai duyên là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi sau, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân thì có ba thứ là đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên thì có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi trước, nên nói là duyên, không nên nói là nhân. Duyên thì có một là tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là chung, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân tức có bốn là câu hữu, đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên thì có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên.

Lại có thuyết nêu: Tức sinh lão trụ vô thường ở trước là pháp này. Đây là đồng loại với sinh lão trụ vô thường là pháp kia.

Nếu nói như vậy thì thuyết kia cho: Nếu pháp này đối với pháp kia là cùng khởi, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân tức có một là nhân câu hữu. Duyên có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi sau, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân thì có ba là đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên tức có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi trước, nên nói là duyên, không nên nói là nhân. Duyên tức có một là tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là chung, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân thì có bốn là câu hữu, đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên.

Lại có thuyết nói: Tức trước đã nói về sinh lão trụ vô thường là pháp này. Sinh này đồng loại sinh, cho đến vô thường này đồng loại vô thường là pháp kia.

Nếu nói như vậy thì thuyết kia nêu: Nếu pháp này đối với pháp kia là cùng khởi, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân có một nhân là câu hữu. Duyên thì có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi sau, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân có ba nhân là đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên tức có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là khởi trước, nên nói là duyên, không nên nói là nhân. Duyên có một là tăng thượng duyên. Nếu pháp này đối với pháp kia là chung, nên nói là nhân, nên nói là duyên. Nhân tức có bốn là câu hữu, đồng loại, biến hành, dị thục. Duyên có hai là nhân duyên, tăng thượng duyên.

Hỏi: Pháp này nên nói là thiện, là bất thiện, là vô ký chăng?

Đáp: Đối với pháp thiện nên nói là thiện. Đối với pháp bất thiện nên nói là bất thiện. Đối với pháp vô ký nên nói là vô ký. Do sinh, đã sinh, cho đến diệt, đã diệt thì tánh loại tất đồng.

Hỏi: Pháp này có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng, bao nhiêu thứ kiết trói buộc?

Đáp: Tùy miên duyên nơi hữu lậu của ba cõi tùy tăng, chín kiết trói buộc.

Hỏi: Vì sao không nói tùy miên duyên nơi vô lậu tùy tăng của pháp này?

Đáp: Do hai duyên nên tùy miên tùy tăng: 1. Đối tượng duyên. 2. Tương ưng. Tùy miên duyên nơi vô lậu không có đối tượng duyên. Do cảnh của tùy tăng là giải thoát, tuy có tương ưng nên tùy tăng, nhưng ở đây không có, tức không cùng với đấy tương ưng.

Trong đây, dựa vào chủng loại để nói chung nên nói: Tùy miên duyên nơi hữu lậu của ba cõi tùy tăng, chín kiết trói buộc. Nếu nói riêng, thì cõi dục đối với cõi dục, cho đến cõi vô sắc đối với cõi vô sắc: Do kiến khổ đoạn trừ tất cả, cùng do kiến tập đoạn trừ biến hành ở nơi do kiến khổ đoạn trừ.

Do kiến tập đoạn trừ tất cả, cùng do kiến khổ đoạn trừ biến hành ở nơi do kiến tập đoạn trừ.

Do kiến diệt đoạn trừ duyên nơi hữu lậu cùng biến hành ở nơi do kiến diệt đoạn trừ.

Do kiến đạo đoạn trừ duyên nơi hữu lậu cùng biến hành ở nơi do kiến đạo đoạn trừ.

Do tu đạo đoạn trừ tất cả, cùng biến hành ở nơi do tu đạo đoạn trừ.

Chín kiết của cõi dục đối với cõi dục. Sáu kiết của cõi sắc đối với cõi sắc. Sáu kiết của cõi vô sắc đối với cõi vô sắc. Như vậy, tùy miên duyên nơi hữu lậu của ba cõi cùng chín kiết, đối với pháp này đều do đối tượng duyên nên tùy tăng và trói buộc, không phải là tương ưng.

Các tướng hữu vi nói rộng như nơi phẩm Sắc, chương Tạp Uẩn.

HẾT – QUYỂN 195