LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 155

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ ĐẲNG TÂM, phần 5

* Ở cõi dục khi mạng chung sinh nơi cõi dục có bao nhiêu căn diệt? Cho đến nói rộng.

Ở đây chỉ rõ về nhiều môn khác nhau. Nghĩa là khác nhau về cõi, về Bổ-đặc-già-la, về căn, về tử hữu, về trung hữu, về sinh hữu, về chết dần, về chết tức thời.

Hỏi: Ở cõi dục khi mạng chung sinh nơi cõi dục có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc bốn, chín, tám, mười ba, chín, mười bốn, mười, mười lăm.

Chết dần: Nếu tâm vô ký có bốn, tức các căn thân, mạng, ý, xả. Nếu tâm thiện có chín, nghĩa là bốn căn trước thêm năm căn như tín v.v…

Chết tức thời: Nếu vô hình: Tâm vô ký có tám là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả. Tâm thiện có mười ba là tám căn trước thêm năm căn như tín v.v… Nếu một hình: Tâm vô ký có chín là tám căn trước thêm một hình. Tâm thiện có mười bốn là chín căn trước thêm năm căn như tín v.v… Nếu hai hình: Tâm vô ký có mười là chín căn trước thêm một hình. Tâm thiện có mười lăm là mười căn trước thêm năm căn như tín v.v…

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi dục.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc tám, chín, mười. Vô hình có tám, là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạng, xả. Một hình có chín, là tám căn trước thêm một hình. Hai hình có mười, là chín căn trước thêm một hình.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi dục.

Hỏi: Ở cõi dục khi mạng chung sinh nơi cõi sắc có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc bốn, hoặc chín, hoặc mười bốn.

Chết dần: Nếu tâm vô ký có bốn, là các căn thân, mạng, ý, xả. Nếu tâm thiện có chín, là bốn căn trước thêm năm căn như tín v.v…

Chết tức thời: Tâm vô ký có chín, là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả và nữ căn nam căn tùy vào một. Tâm thiện có mười bốn, là chín căn trước thêm năm căn như tín v.v…

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi dục.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Tám, là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi sắc.

Hỏi: Ở cõi dục khi mạng chung sinh nơi cõi vô sắc có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc bốn, chín, hoặc chín, mười bốn, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi dục.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Ba, là các căn ý, mạng, xả.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Ở cõi sắc khi mạng chung sinh nơi cõi sắc có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc tám, mười ba. Tâm vô ký có tám là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả. Tâm thiện có mười ba là tám căn trước thêm năm căn như tín v.v…

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Tám, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi sắc.

Hỏi: Ở cõi sắc khi mạng chung sinh nơi cõi dục có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc tám, mười ba, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc tám, chín, mười, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi dục.

Hỏi: Ở cõi sắc khi mạng chung sinh nơi cõi vô sắc có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc tám, mười ba, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc ba, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Ở cõi vô sắc khi mạng chung sinh nơi cõi vô sắc có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc ba, hoặc tám. Tâm vô ký có ba là các căn mạng, ý, xả. Tâm thiện có tám là ba căn trước thêm năm căn như tín v.v…

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Ba, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Ở cõi vô sắc khi mạng chung sinh nơi cõi dục có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc ba, hoặc tám, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc tám, chín, mười, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi dục.

Hỏi: Ở cõi vô sắc khi mạng chung sinh nơi cõi sắc có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Hoặc ba, tám, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc tám, như nói ở trước.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc về cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi sắc.

Hỏi: Khi A-la-hán bát Niết-bàn có bao nhiêu căn diệt sau cùng?

Đáp: Hoặc bốn, chín, tám, ba. Ở cõi dục dần dần Bát Niếtbàn có bốn, là các căn thân, mạng, ý, xả. Bát Niết-bàn ngay tức thời có chín, là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả và nam căn nữ căn tùy vào một. Ở cõi sắc có tám là các căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, mạng, ý, xả. Ở cõi vô sắc có ba là các căn mạng, ý, xả.

Hỏi: Do nhân duyên gì tất cả hữu tình mạng chung, kiết sinh tất trụ ở xả thọ?

Đáp: Trong năm thọ không có hành tướng mờ tối yếu kém như xả thọ. Ở trong mười thời không có lúc nào mờ tối yếu kém như khi tử và sinh, cho nên mạng chung kiết sinh trụ nơi xả thọ.

***

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 5: BÀN VỀ NHẤT TÂM, phần 1

* Các pháp cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp ấy cùng với tâm tương ưng chăng? Các chương như vậy cùng giải thích nghĩa của chương, đã lãnh hội rồi nên phân biệt rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chặn ý tưởng cho tương ưng không phải là thật có, cho đến nói rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các pháp cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp ấy cùng với tâm tương ưng chăng?

Đáp: Nếu pháp cùng với tâm tương ưng, pháp ấy cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt: Nghĩa là tất cả tâm sở pháp.

Có pháp cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp ấy không phải cùng với tâm tương ưng: Nghĩa là sắc tùy tâm chuyển, tâm bất tương ưng hành.

Trong đây, khởi nghĩa là sinh. Trụ nghĩa là lão. Diệt nghĩa là vô thường.

Hỏi: Các pháp cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp ấy cùng một đối tượng duyên với tâm chăng?

Đáp: Nếu pháp cùng một đối tượng duyên với tâm, pháp ấy cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt: Nghĩa là tất cả tâm sở pháp.

Có pháp cùng với tâm một khởi, một trụ, một diệt, pháp ấy không cùng một đối tượng duyên với tâm: Nghĩa là sắc tùy tâm chuyển, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chận ý tưởng cho đối tượng duyên không phải là thật có, cho đến nói rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Tùy tâm chuyển có mười thứ nghĩa: Là một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, một dị thục, thiện thì thiện, bất thiện thì bất thiện, vô ký thì vô ký, gắn liền trong một đời. Một quả: Là quả ly hệ. Một đẳng lưu: Là quả đẳng lưu. Một dị thục: Là quả dị thục. Gắn liền trong một đời: Là đồng gồm thâu một đời. Đây là theo tướng chung mà nói.

Nếu nói riêng: Trong đạo hữu lậu đoạn kiết có tám nghĩa tùy chuyển: Một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, một dị thục, là thiện, gắn liền nơi một đời. Trong đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn hữu lậu và các phẩm tâm hữu lậu thiện khác có bảy nghĩa tùy chuyển: Một khởi, một trụ, một diệt, một đẳng lưu, một dị thục, là thiện, gắn liền nơi một đời. Trong đạo vô lậu đoạn kiết cũng có bảy nghĩa tùy chuyển: Một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, là thiện, gắn liền nơi một đời. Trong đạo gia hạnh, giải thoát, thắng tấn vô lậu có sáu nghĩa tùy chuyển: Một khởi, một trụ, một diệt, một đẳng lưu, là thiện, gắn liền nơi một đời.

Phẩm tâm bất thiện có bảy nghĩa tùy chuyển: Một khởi, một trụ, một diệt, một đẳng lưu, một dị thục, là bất thiện, gắn liền nơi một đời. Phẩm tâm vô ký có sáu nghĩa tùy chuyển: Một khởi, một trụ, một diệt, một quả, một đẳng lưu, là vô ký, gắn liền nơi một đời.

Lại, tâm tâm sở pháp lần lượt cùng đối chiếu, do năm nhân duyên nên gọi là tùy chuyển. Nghĩa là: 1. Nơi nương dựa. 2. Đối tượng duyên. 3. Hành tướng. 4. Quả. 5. Dị thục.

Tâm cùng với sắc tùy tâm chuyển, tâm bất tương ưng hành lần lượt cùng đối chiếu, do hai nhân duyên nên gọi là tùy chuyển: 1. Quả. 2. Dị thục.

Nghĩa tùy chuyển đã nói rộng như trong Chương Tạp Uẩn.

Các pháp cùng với tâm cùng khởi, không lìa tâm, pháp ấy cùng với tâm cùng trụ, cùng diệt, không lìa tâm chăng? Cho đến nói rộng. Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trong phẩm trước tuy đã nói rõ tâm tâm sở pháp cùng sátna diệt, nhưng chưa biện giải về sắc v.v… Nay muốn biện giải nên tạo ra phần Luận này.

Lại, là để ngăn chận lối chấp của Sa-môn, luận về ba sát-na. Nghĩa là có Sa-môn cho: Các sắc pháp trụ trong ba sát-na. Cho: Tâm tâm sở sát-na tức diệt. Luận kia lại có hai thứ: 1. Luận tạp sinh. 2. Luận thứ đệ. Luận tạp sinh nói như vầy: Dựa vào nhãn căn thứ nhất sinh nhãn thức thứ nhất, chúng cùng sinh xong, nhãn căn trụ, nhãn thức diệt. Dựa vào nhãn căn thứ hai sinh nhãn thức thứ hai, chúng cùng sinh xong, nhãn căn trụ, nhãn thức diệt. Dựa vào nhãn căn thứ ba sinh nhãn thức thứ ba, chúng cùng sinh xong, nhãn căn trụ, nhãn thức diệt. Nên biết tức cùng với nhãn thứ nhất cùng diệt.

Hỏi: Thuyết kia có lỗi gì?

Đáp: Nhãn thức thứ nhất kia có chỗ dựa sinh, không có chỗ dựa diệt. Nhãn thức thứ hai cũng như vậy. Nhãn thức thứ ba có chỗ dựa sinh, tuy có chỗ dựa diệt, nhưng là chỗ dựa của thứ khác. Đó gọi là lỗi của thuyết kia. Thức tùy theo chỗ nương dựa nên có sinh diệt.

Luận thứ đệ nói như vầy: Dựa vào nhãn căn thứ nhất sinh nhãn thức thứ nhất, chúng cùng sinh rồi, nhãn căn trụ, nhãn thức diệt. Tiếp theo lại dựa vào đó sinh nhãn thức thứ hai, nhãn căn trụ, nhãn thức diệt. Sau lại dựa vào đó sinh nhãn thức ba. Thức này cùng với nhãn cùng lúc mà diệt.

Hỏi: Thuyết kia có lỗi gì?

Đáp: Nhãn thức thứ nhất kia có chỗ dựa sinh không có chỗ dựa diệt. Nhãn thức thứ hai không có chỗ dựa sinh, không có chỗ dựa diệt. Nhãn thức thứ ba không có chỗ dựa sinh, có chỗ dựa diệt. Đó là lỗi của thuyết kia. Thức tùy theo chỗ nương dựa nên có sinh diệt.

Lại, hai luận ấy có lỗi chung khác. Như cho nơi nẻo người, sau khi mất sinh vào địa ngục. Nẻo người chưa bỏ hết đã được địa ngục, như vậy tức là nẻo tạp loạn, thân tạp loạn. Nẻo tạp loạn: Nghĩa là hữu tình kia là nẻo địa ngục, cũng là nẻo người. Thân tạp loạn: Nghĩa là hữu tình kia có thân địa ngục, cũng có thân người, nên là lỗi lớn. Dựa nơi ý của luận kia, nếu khi nhập định vô tưởng, diệt tận thì đại chủng của các căn cùng với tâm cùng khởi, không lìa tâm, nhưng chúng lìa tâm mà trụ, lìa tâm mà diệt.

Để ngăn chận lối chấp ấy nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các pháp cùng với tâm cùng khởi, không lìa tâm, pháp ấy cùng với tâm cùng trụ, cùng diệt, không lìa tâm chăng?

Đáp: Hữu tình cõi dục, cõi sắc không trụ nơi định vô tưởng, diệt tận, đại chủng của các căn cùng với tâm cùng khởi, không lìa tâm, cùng với tâm cùng trụ, cùng diệt, không lìa tâm. Nếu trụ nơi định vô tưởng, diệt tận, các căn liền lìa tâm.

Hỏi: Thế nào là lìa tâm?

Đáp: Là các căn kia lìa tâm mà khởi, lìa tâm mà trụ, lìa tâm mà diệt, khi tâm tâm sở đoạn dứt, chúng vẫn nối tiếp.

***

* Như nói: Không tu nhãn căn cho đến ý căn. Thế nào là không tu nhãn căn, cho đến nói rộng? Tu có bốn thứ là tu đắc, tu tập, tu đối trị, tu trừ bỏ. Biện giải đầy đủ như nơi Chương Trí Uẩn. Nay dựa vào hai thứ tu sau để tạo luận.

Hỏi: Thế nào là không tu các căn như nhãn v.v…? Lại, thế nào là tu?

Đáp: Cho đến các căn như nhãn v.v… đạo đối trị chưa sinh, gọi là không tu căn. Đây là dựa vào tu đối trị để nói. Lại, cho đến các phiền não hiện có duyên nơi nhãn chưa đoạn dứt, chưa nhận biết, gọi là không tu căn. Đây là dựa vào tu trừ bỏ để nói.

Nếu các căn như nhãn v.v… đạo đối trị đã sinh, gọi là tu căn. Đây là dựa vào tu đối trị để nói. Lại, các phiền não hiện có duyên nơi nhãn đã đoạn dứt, đã nhận biết, gọi là tu căn. Đây là dựa vào tu trừ bỏ để nói.

Đó gọi là ở đây đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Thế nào là không tu nhãn căn cho đến thân căn?

Đáp: Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa sự thấm nhuần, chưa lìa vui thích, chưa lìa khao khát. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc, căn ấy đối với đạo này chưa tu, chưa an.

Như không tu nhãn căn, thì không tu nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn cũng như vậy.

Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham: Nghĩa là mắt chưa lìa ái.

Chưa lìa dục: Nghĩa là đối với ái dục chưa đoạn dứt, chưa nhận biết.

Chưa lìa sự thấm nhuần: Nghĩa là đối với ái thấm nhuần chưa đoạn dứt, chưa nhận biết.

Chưa lìa vui thích: Nghĩa là đối với vui thích ai chưa đoạn dứt, chưa nhận biết.

Chưa lìa khao khát: Nghĩa là đối với khao khát ái chưa đoạn dứt, chưa nhận biết.

Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc: Nghĩa là đạo vô gián có thể đoạn dứt hết ái nơi cõi sắc.

Căn ấy đối với đạo này chưa tu, chưa an: Nghĩa là chưa tu tập và chưa an dứt. Tu nghĩa là tu tập, an nghĩa là tu đắc. Lại, khởi gọi là tu, diệt gọi là an. Lại, đã sinh gọi là tu, đã diệt gọi là an.

Nên biết trong đây: Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham v.v…: Nghĩa là dựa vào tu đối trị để nói, hoặc dựa vào tu trừ bỏ để nói. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc: Nghĩa là dựa vào tu trừ bỏ để nói, hoặc dựa vào tu đối trị để nói.

Có thuyết nói: Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham: Nghĩa là nhãn căn duyên với ái chưa đoạn dứt, chưa nhận biết. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc: Nghĩa là nhãn căn duyên với các phiền não khác chưa đoạn dứt, chưa nhận biết.

Có thuyết cho: Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham: Nghĩa là chưa đoạn được những trói buộc. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc: Nghĩa là chưa chứng đắc lìa những trói buộc.

Như chưa đoạn dứt được trói buộc, chưa chứng đắc lìa trói buộc, thì chưa tổn giảm lỗi lầm, chưa tu tập công đức, chưa bỏ thấp kém, chưa chứng thắng diệu, chưa dứt vô nghĩa, chưa được có nghĩa, chưa xua tan nóng bức có ái, chưa nhận lấy diệu lạc không ái, nên biết cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham: Nghĩa là đạo vô gián chưa khởi tác dụng. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc: Nghĩa là đạo giải thoát chưa khởi tác dụng.

Có thuyết nói: Nếu đối với nhãn căn chưa lìa tham: Nghĩa là chưa có thể lìa nhiễm của cõi dục, cho đến lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc: Nghĩa là chưa có thể lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư.

Như không tu nhãn căn, thì không tu bốn căn còn lại cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là không tu ý căn?

Đáp: Nếu đối với ý căn chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa sự thấm nhuần, chưa lìa vui thích, chưa lìa khao khát. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham vô sắc, ý căn đối với đạo này chưa tu, chưa an.

Nếu đối với ý căn chưa lìa tham: Nghĩa là đối với ý căn chưa lìa ái.

Những câu còn lại như nói ở trước.

Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham vô sắc: Nghĩa là đạo vô gián có thể đoạn dứt hết ái của cõi vô sắc.

Căn ấy đối với đạo này chưa tu, chưa an: Như đã nói ở trước.

Nên biết trong đây: Nếu đối với ý căn chưa lìa tham: Nghĩa là dựa vào tu đối trị để nói, hoặc dựa vào tu trừ bỏ để nói. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham vô sắc: Nghĩa là dựa vào tu trừ bỏ để nói, hoặc dựa vào tu đối trị để nói.

Tiếp theo có ba thuyết như trước nên biết.

Có thuyết thứ năm nói: Nếu đối với ý căn chưa lìa tham: Nghĩa là chưa có thể lìa nhiễm của cõi dục, cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham vô sắc: Nghĩa là chưa có thể lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Như nói: Tu nhãn căn cho đến thân căn.

Hỏi: Thế nào là tu nhãn căn cho đến thân căn?

Đáp: Nếu đối với nhãn căn đã lìa tham, đã lìa dục, đã lìa sự thấm nhuần, đã lìa vui thích, đã lìa khao khát. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham sắc, căn ấy đối với đạo này đã tu, đã an.

Như tu nhãn căn, tu nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là tu ý căn?

Đáp: Nếu đối với ý căn đã lìa tham, đã lìa dục, đã lìa sự thấm nhuần, đã lìa vui thích, đã lìa khao khát. Lại, đạo vô gián có thể đoạn dứt hết tham vô sắc, ý căn ấy đối với đạo này đã tu, đã an.

Những câu văn này cùng trái với phần không tu nói ở trước, nên nói rộng.

***

* Những Hành giả không thành tựu học căn, đạt được học căn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Có kẻ ngu đối với sự thoái chuyển chấp thoái chuyển là không thật có. Nhằm ngăn chận ý tưởng đó, làm sáng tỏ thoái chuyển là có thật, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Những Hành giả không thành tựu học căn, đạt được học căn, tất cả đều nhập chánh tánh ly sinh chăng?

Đáp: Nếu nhập chánh tánh ly sinh thì tất cả không thành tựu học căn, đạt được học căn. Có trường hợp không thành tựu học căn, đạt được học căn, nhưng không phải nhập chánh tánh ly sinh: Nghĩa là khi thoái chuyển quả A-la-hán, những học căn kia trước bỏ, nay được.

Hỏi: Những Hành giả không thành tựu học căn, đạt được học căn, tất cả là đẳng vô gián của pháp Thế đệ nhất chăng?

Đáp: Nếu là đẳng vô gián của pháp Thế đệ nhất thì tất cả không thành tựu học căn, đạt được học căn. Có trường hợp không thành tựu học căn, đạt được học căn, nhưng không phải là đẳng vô gián của pháp Thế đệ nhất: Nghĩa là khi thoái chuyển quả A-la-hán, những học căn kia trước bỏ, nay được.

Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần Luận này?

Đáp: Tuy trước đã làm sáng tỏ tự thể của nhập chánh tánh ly sinh, nhưng chưa hiển bày việc nhập đẳng vô gián duyên. Nay muốn làm rõ điều ấy, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Những Hành giả bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, tất cả đều từ quả đến quả chăng?

Đáp: Nếu từ quả đến quả thì tất cả đều bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu: Nghĩa là người Dự lưu khi chứng quả Nhất lai là bỏ những gồm thâu của quả Dự lưu cùng các căn vô lậu của đạo quả vượt hơn, được quả Nhất lai gồm thâu các căn vô lậu.

Từ quả đến quả: Là từ quả Dự lưu đến quả Nhất lai. Người Nhất lai khi chứng quả Bất hoàn, người Bất hoàn khi chứng quả A-la-hán, nên biết cũng như vậy.

Như khi chứng quả, khi thoái chuyển quả cũng như vậy.

Có trường hợp bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, không phải là từ quả đến quả: Nghĩa là khi đạo loại trí khởi hiện quán biên, hoặc A-la-hán thời giải thoát khi luyện căn tạo bất động.

Hỏi: Khi đạo loại trí khởi là có thể như thế, còn A-la-hán thời giải thoát khi luyện căn tạo bất động làm sao có thể như thế?

Đáp: Văn này chỉ nên nói: Khi đạo loại trí khởi hiện quán biên, không nói đến những trường hợp khác. Nhưng nói đến điều khác là muốn làm sáng tỏ trong đây chỉ nói từ quả khác loại đến quả khác. A-la-hán thời giải thoát khi luyện căn tạo bất động, tánh loại tuy khác, nhưng quả loại không khác, nên không gọi là từ quả đến quả.

Hỏi: Những Hành giả bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, tất cả căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, không phải là căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi: Nghĩa là khi thoái chuyển các quả A-la-hán, Bất hoàn, Nhất lai, và khi dùng đạo thế tục đạt được quả Nhất lai, Bất hoàn, lúc ấy căn vô lậu không hiện tiền.

2. Có trường hợp căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi, không phải là bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu: Nghĩa là đã được căn vô lậu hiện tiền. Còn diệt khởi, tức trước đã được tất cả quả hướng vô lậu, các căn nối tiếp nhau khởi, diệt, đó không phải là được khởi đạo từng được hiện tiền, cũng không phải là bỏ Thánh đạo, chỉ là nơi ba thời mới bỏ, nhưng không phải là thời này. Ba thời là thời thoái chuyển, thời được quả và thời luyện căn.

3. Có trường hợp bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, cũng là căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi: Nghĩa là khi đạo loại trí khởi hiện quán biên và khi dùng đạo vô lậu đạt được quả Nhất lai, Bất hoàn, khi được quả A-la-hán, khi A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động.

Khi đạo loại trí khởi hiện quán biên, bỏ căn vô lậu: Nghĩa là do kiến đạo gồm thâu. Được căn vô lậu: Nghĩa là do tu đạo gồm thâu. Căn vô lậu diệt: Nghĩa là phẩm câu sinh của đạo loại nhẫn. Căn vô lậu khởi: Nghĩa là phẩm câu sinh của đạo loại trí.

Khi dùng đạo vô lậu đạt được quả Nhất lai, bỏ căn vô lậu: Nghĩa là thuộc về quả Dự lưu cùng đạo quả vượt hơn. Được căn vô lậu: Nghĩa là thuộc về quả Nhất lai. Căn vô lậu diệt: Nghĩa là thuộc về đạo vô gián thứ sáu. Căn vô lậu khởi: Nghĩa là thuộc về đạo giải thoát thứ sáu.

Khi dùng đạo vô lậu đạt được quả Bất hoàn, tùy chỗ ứng hợp cũng như vậy.

Khi được quả A-la-hán, bỏ căn vô lậu: Nghĩa là thuộc về quả Bất hoàn và đạo quả vượt hơn. Được căn vô lậu: Nghĩa là thuộc về quả A-la-hán. Căn vô lậu diệt: Nghĩa là phẩm câu sinh của định kim cang dụ. Căn vô lậu khởi: Nghĩa là phẩm câu sinh của tận trí đầu tiên.

Khi A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, bỏ căn vô lậu: Nghĩa là thuộc đạo giải thoát thời. Được căn vô lậu: Nghĩa là thuộc đạo giải thoát bất thời. Căn vô lậu diệt: Nghĩa là thuộc đạo vô gián thứ chín. Căn vô lậu khởi: Nghĩa là thuộc đạo giải thoát thứ chín.

Những phần vị luyện căn khác thì lược bớt nên không nói.

4. Có trường hợp không phải là bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, cũng không phải là căn vô lậu diệt, căn vô lậu khởi: Nghĩa là trừ các trường hợp nêu trước.

Ở đây, tiếng tướng là dựa vào tên gọi chuyển, tức ba trường hợp trước đã không gồm thâu pháp làm trường hợp thứ tư. Việc này lại là thế nào? Nghĩa là ở phần vị các phàm phu cho đến phần vị tăng thượng nhẫn, đối với căn vô lậu không phải bỏ, không phải được, không phải diệt, không phải khởi. Khi trụ nơi pháp Thế đệ nhất, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt nhưng khởi. Nếu các Thánh giả trụ nơi khổ pháp trí nhẫn cho đến khi được đạo pháp trí, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, hoặc cũng diệt cũng khởi. Khi trụ nơi đạo loại trí nhẫn, đối với căn vô lậu cũng bỏ, cũng được, cũng diệt, cũng khởi.

Khi từ quả Dự lưu chứng quả Nhất lai, dùng đạo thế tục: Nghĩa là nếu đạo vô lậu làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, diệt nhưng không phải khởi. Nếu đạo thế tục làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, năm đạo giải thoát, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt, không phải khởi. Khi trụ nơi đạo vô gián thứ sáu, đối với căn vô lậu cũng bỏ cũng được, không phải diệt, không phải khởi. Dùng đạo vô lậu: Nghĩa là nếu đạo thế tục làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt nhưng khởi. Nếu đạo vô lậu làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, năm đạo vô gián, năm đạo giải thoát, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, cũng diệt, cũng khởi. Khi trụ nơi đạo vô gián thứ sáu, đối với căn vô lậu cũng bỏ, cũng được, cũng diệt, cũng khởi.

Từ quả Nhất lai chứng quả Bất hoàn, tùy chỗ thích ứng cũng như vậy.

Từ quả Bất hoàn chứng quả A-la-hán, khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, dùng đạo thế tục: Nghĩa là nếu đạo vô lậu làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, diệt nhưng không phải khởi. Nếu đạo thế tục làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt, không phải khởi. Dùng đạo vô lậu: Nghĩa là nếu đạo thế tục làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt nhưng khởi. Nếu đạo vô lậu làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, cũng diệt, cũng khởi.

Như lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ cũng như vậy.

Khi lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu đạo thế tục làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt nhưng khởi. Nếu đạo vô lậu làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, tám đạo vô gián, tám đạo giải thoát, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, cũng diệt, cũng khởi. Khi trụ nơi đạo vô gián thứ chín, đối với căn vô lậu, cũng bỏ, cũng được, cũng diệt, cũng khởi.

Khi tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, nếu đạo thế tục làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt nhưng khởi. Nếu đạo vô lậu làm gia hạnh, khi trụ nơi đạo gia hạnh, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, cũng diệt, cũng khởi. Khi trụ nơi đạo vô gián, đối với căn vô lậu cũng bỏ, cũng được, cũng diệt, cũng khởi.

Khi A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động, như lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nói tạp tu tĩnh lự, nơi sát-na đầu tiên, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, diệt nhưng không khởi. Nơi sát-na thứ hai, đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt nhưng khởi. Khi ở sát-na thứ ba, như nói ở sát-na thứ nhất.

Nếu khi dẫn phát năm thông, năm đạo vô gián, ba đạo giải thoát, hoặc khởi vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ, thế tục, quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ thế tục, vô ngại giải thế tục, nguyện trí vô tránh, biên vực định, không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng, nhập định diệt, tưởng vi tế, lúc đó đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, không phải diệt, không phải khởi.

Nếu khi khởi tha tâm thông vô lậu, hoặc khởi niệm trụ vô lậu, giải thoát vô lậu, vô ngại giải vô lậu v.v… lúc ấy đối với căn vô lậu không phải bỏ nhưng được, cũng diệt, cũng khởi.

Nếu khi khởi tâm vi vi, hoặc khi khởi văn, tư, tuệ, đối với căn vô lậu không phải bỏ, không phải được, không phải diệt, không phải khởi.

Đối với những phần vị khác nhau như thế, tùy chỗ thích hợp làm trường hợp thứ tư, cho nên lược nói là trừ các tướng đã nêu trước.

***

* Các vị tri đương tri căn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Như trong Luận Phẩm Loại Túc nói: Thế nào là vị tri đương tri căn? Nghĩa là các tuệ căn, học tuệ chưa kiến đế, chưa hiện quán. Hoặc các căn nơi bậc Tùy tín hành, Tùy pháp hành, đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán, đó gọi là vị tri đương tri căn. Văn của Luận kia chỉ nói hiện tại hòa hợp có thể có tác dụng gánh vác, do vị tri đương tri căn không phải là quá khứ, vị lai. Chớ có sinh nghi: Chỉ hiện tại hòa hợp mà có thể có tác dụng gánh vác, do vị tri đương tri căn này không phải là quá khứ, vị lai. Nhằm khiến cho nghi kia có được quyết định, cùng làm sáng tỏ nơi ba đời đều là căn ấy, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các vị tri đương tri căn, tất cả chúng đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp là vị tri đương tri căn, nhưng đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán không thể hiện quán: Nghĩa là vị tri đương tri căn ở nơi quá khứ hoặc vị lai. Chúng có tướng của vị tri đương tri căn, nên cũng gọi là vị tri đương tri căn, nhưng chúng đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán không thể hiện quán, vì tác dụng của quá khứ đã dứt, còn nơi vị lai tác dụng chưa khởi.

2. Có trường hợp là đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán, nhưng chúng không phải là vị tri đương tri căn: Nghĩa là các pháp không phải là căn, đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán. Việc này lại là thế nào? Là tưởng, tư, xúc, tác ý, dục, thắng giải, hổ, thẹn, không tham, không sân, khinh an, xả, không phóng dật, không hại, tầm, tứ, sắc tùy tâm chuyển, tâm bất ưng hành. Những pháp như vậy, đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán, tuy có thể hiện quán, nhưng chúng không phải là vị tri đương tri căn, do hợp chín căn làm ra căn này.

3. Có trường hợp là vị tri đương tri căn chúng cũng đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán: Nghĩa là vị tri đương tri căn đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán, tức là hiện tại hòa hợp có thể có tác dụng gánh vác là vị tri đương tri căn.

4. Có trường hợp không phải là vị tri đương tri căn chúng cũng không phải đối với bốn Thánh đế chưa hiện quán có thể hiện quán: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tức pháp không thuộc về ba trường hợp trước là thuộc về trường hợp thứ tư. Việc này lại là thế nào? Nghĩa là trừ tự tánh của vị tri đương tri căn nơi ba đời và hiện tại căn này tương ưng với pháp câu hữu không phải căn. Còn lại là những quá khứ, vị lai, căn này tương ưng với pháp câu hữu không phải căn và phẩm câu sinh của dĩ tri căn, cụ tri căn, hết thảy tâm tâm sở pháp hữu lậu, các sắc, tâm bất tương ưng hành khác và vô vi, đều là trường hợp thứ tư. Nên nói là trừ các tướng nêu trước.

Như vị tri đương tri căn, thì dĩ tri căn, cụ tri căn tùy chỗ thích ứng nói rộng cũng như vậy.

***

* Tận trí nên nói là tận trí, cho đến đạo trí chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở đây phân biệt ba trí?

Đáp: Vì ý của Luận sư Bản luận này muốn như thế, cho đến nói rộng.

Tận trí nên nói là tận trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã nhận biết khắp khổ. Ta đã vĩnh viễn đoạn dứt tập. Ta đã chứng đắc diệt. Ta đã tu tập đạo.

Hoặc pháp trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã nhận biết khắp khổ thuộc cõi dục. Ta đã vĩnh viễn đoạn dứt tập thuộc cõi dục. Ta đã chứng các hành diệt thuộc cõi dục. Ta đã tu đoạn các hành đạo thuộc cõi dục.

Hoặc loại trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã nhận biết khắp khổ thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Ta đã vĩnh viễn đoạn dứt tập thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Ta đã chứng các hành diệt thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Ta đã tu đoạn các hành đạo thuộc cõi sắc, cõi vô sắc.

Hoặc khổ trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã nhận biết khắp khổ thuộc ba cõi.

Hoặc tập trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã vĩnh viễn đoạn dứt tập ba cõi.

Hoặc diệt trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã chứng các hành diệt thuộc ba cõi.

Hoặc đạo trí, nghĩa là tự nhận biết rõ: Ta đã tu đoạn các hành đạo thuộc ba cõi.

Hỏi: Vì sao tận trí không phải tha tâm trí?

Đáp: Tận trí không thấy tự tánh, còn tha tâm trí thấy tự tánh.

Hỏi: Vì sao tận trí không phải thế tục trí?

Đáp: Tận trí là vô lậu, thế tục trí là hữu lậu.

Hiển bày về tự tánh xong, nên làm sáng tỏ về địa. Hoặc có tầm có tứ: Là dựa vào vị chí, tĩnh lự thứ nhất. Hoặc không tầm chỉ có tứ: Là dựa vào tĩnh lự trung gian. Hoặc không tầm không tứ: Là dựa vào ba tĩnh lự trên, ba vô sắc dưới.

Hiển bày về địa xong, nên làm sáng tỏ về sự tương ưng. Hoặc tương ưng với lạc căn: Là dựa vào tĩnh lự thứ ba. Hoặc tương ưng với hỷ căn: Là dựa vào tĩnh lự thứ nhất, thứ hai. Hoặc tương ưng với xả căn:

Là dựa vào vị chí, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ tư và ba vô sắc dưới.

Hiển bày về sự tương ưng xong, nên làm sáng tỏ về hành tướng. Hoặc tương ưng với vô nguyện: Là mười hành tướng. Hoặc tương ưng với vô tướng: Là bốn hành tướng.

Hỏi: Vì sao tận trí không tương ưng với không?

Đáp: Không là thắng nghĩa đi đến thắng nghĩa, còn tận trí là thắng nghĩa đi đến thế tục. Như nói nhận biết rõ: Nẻo sinh tử của ta đã hết, là đi đến chỗ ta lãnh hội, nên không tương ưng với Không.

Hiển bày về hành tướng xong, nên làm sáng tỏ về đối tượng duyên. Hoặc duyên nơi thuộc cõi dục. Hoặc duyên nơi thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Đây gọi là duyên với khổ, tập. Hoặc duyên nơi không hệ thuộc. Đây gọi là duyên với diệt, đạo.

Như tận trí, thì vô sinh trí cũng như vậy. Nhưng có sai biệt: Nghĩa là vô sinh trí nên nói là vô sinh trí, tức là tự nhận biết rõ: Ta không còn nhận biết khắp khổ. Không còn vĩnh viễn đoạn dứt tập. Không còn chứng đắc diệt. Không còn tu tập đạo.

Chánh kiến vô học nên nói là chánh kiến vô học. Nghĩa là dùng bốn hành tướng nhận biết về năm thủ uẩn. Dùng bốn hành tướng nhận biết về nhân của năm thủ uẩn. Dùng bốn hành tướng nhận biết về năm thủ uẩn diệt. Dùng bốn hành tướng nhận biết về đạo đoạn dứt năm thủ uẩn.

Hoặc pháp trí: Nghĩa là nhận biết bốn đế cõi dục.

Hoặc loại trí: Nghĩa là nhận biết bốn đế cõi sắc, vô sắc.

Hoặc tha tâm trí: Nghĩa là nhận biết tâm tâm sở pháp vô lậu của người khác.

Hoặc khổ tập diệt đạo trí: Nghĩa là nhận biết riêng về bốn đế của ba cõi.

Hỏi: Vì sao chánh kiến vô học không phải là thế tục trí?

Đáp: Vì đây là vô lậu, còn kia là hữu lậu.

Hiển bày về tự tánh xong, nên làm sáng tỏ về bốn thứ (Địa, tương ưng, hành tướng, đối tượng duyên) như trước đã nói. Có sai khác là ở đây cũng tương ưng với Không, cũng tạo hành tướng không vô ngã chuyển.

***

* Các tận trí đầu tiên, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trước đã nêu rõ về ba trí, nhưng chưa biện giải về đẳng vô gián duyên và đối tượng duyên có sai khác. Nay nhằm biện giải nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các tận trí đầu tiên, tất cả chúng là đẳng vô gián của đạo vô gián chăng?

Đáp: Đúng vậy. Vì tận trí đầu tiên tất từ định kim cang dụ đẳng vô gián khởi.

Hỏi: Nếu như là đạo vô gián của đẳng vô gián thì tất cả chúng là tận trí chăng?

Đáp: Đúng vậy. Do định kim cang dụ đẳng vô gián tất khởi tận trí.

Hỏi: Các vô sinh trí đầu tiên, tất cả chúng là đẳng vô gián của tận trí chăng?

Đáp: Đúng vậy. Do vô sinh trí đầu tiên tất từ đẳng vô gián của tận trí khởi.

Hỏi: Nếu như là đẳng vô gián của tận trí thì tất cả chúng là vô sinh trí chăng?

Đáp: Hoặc là tận trí nghĩa là thời giải thoát. Hoặc là vô sinh trí nghĩa là bất thời giải thoát. Hoặc là chánh kiến vô học nghĩa là thời giải thoát.

Hỏi: Các duyên khởi lên từ đạo vô gián tức các duyên khởi lên từ tận trí đầu tiên kia chăng?

Đáp: Nếu duyên sinh khởi lên từ đạo vô gián tức các duyên khởi lên từ tận trí đầu tiên. Nếu không phải duyên sinh khởi lên từ đạo vô gián thì cũng không phải duyên khởi lên từ tận trí đầu tiên: Nghĩa là định kim cang dụ tương ưng với sáu trí, tức là diệt đạo pháp trí và bốn loại trí, thì tận trí đầu tiên thuộc về hai trí, tức là khổ tập loại trí. Nếu định kim cang dụ tương ưng với khổ tập loại trí, tức cùng chung cảnh nơi đối tượng duyên của tận trí đầu tiên, do cùng duyên với bốn uẩn của Phi tưởng phi phi tưởng xứ sinh. Bốn uẩn đó gọi là sinh thuộc về sinh tử. Nếu định kim cang dụ tương ưng với diệt đạo pháp loại trí, tức khác cảnh nơi đối tượng duyên của tận trí đầu tiên. Vì đây duyên với diệt đạo của ba cõi kia, duyên với khổ tập của xứ Hữu đảnh.

Hỏi: Các duyên khởi từ tận trí tức là các duyên khởi từ vô sinh trí chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như các duyên ấy khởi từ vô sinh trí tức các duyên ấy khởi từ tận trí chăng?

Đáp: Đúng vậy. Hai trí này cùng dùng mười bốn hành tướng duyên với bốn đế.

HẾT – QUYỂN 155