LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 101

Chương 3: TRÍ UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ THA TÂM TRÍ, phần 3

Đã nói về tự tánh của hai trí (Tha tâm trí và Túc trụ tùy niệm trí), nay sẽ nói về tướng xen tạp và không xen tạp của hai thứ trí ấy.

Hỏi: Các tha tâm trí đều hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp: Ở đây, tha tâm trí chung cho cả ba đời. Còn hiện nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác chỉ là hiện tại, nhưng chung cho cả tha tâm trí và không phải tha tâm trí, nên có bốn trường hợp:

1. Có tha tâm trí không phải là hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác: Nghĩa là tha tâm trí ở quá khứ và vị lai. Điều này có tướng của tha tâm trí nhưng không có dụng của hiện nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác. Tức là nếu thuộc quá khứ thì tác dụng đã diệt, nếu là vị lai thì tác dụng chưa có.

2. Có hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác không phải là tha tâm trí: Nghĩa là như có một loại người hoặc khi nhìn thấy tướng, hoặc nghe tiếng nói, hoặc được sinh nơi xứ như thế, nên có được trí có thể hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác.

Về việc nhìn thấy tướng hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác: Như trong nẻo người có trường hợp Thích tử Ô-ba-nan-đà, khi đến nhà của một vị cận sự, thấy bên cửa có một con trâu nghé màu lông loang lổ, liền nói với chủ: Nếu có được tấm ngọa cụ như da con nghé có màu lông loang lổ đứng ở cửa kia thì há chẳng là đẹp đẽ nhất sao? Khi ấy, vị Cư sĩ nghĩ: Thích tử này có ý định muốn được tấm da con nghé kia để làm ngọa cụ! Bèn giết nghé, lột da đem cho vị Thích tử ấy. Ô-ba-nan-đà nhận tấm da, trở về trụ xứ. Trâu mẹ mất con, kêu rống thảm thiết bỏ đi tìm mãi. Nên biết trong nẻo người, có trí nhìn thấy tướng nhận biết.

Về nghe tiếng nói hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác trong nẻo người: Như sự việc cũng của vị Thích tử Ô-ba-nan-đà, khi thấy một vị Cư sĩ mặc áo mới đẹp đi vào khu vườn rừng Thệ Đa, liền đến nói với người ấy: Nếu có được ba y và phu cụ giống như áo ông đang mặc thì há còn gì đẹp bằng! Khi đó, vị Cư sĩ nọ nghĩ: Nhất định là ông Thích tử này muốn được áo của mình đang mặc để làm y, ngọa cụ! Bèn cởi áo đem cho. Nên biết ở nẻo người, có trí nghe tiếng nói nhận biết.

Có thuyết nói: Hai sự việc vừa dẫn đều thuộc về hoặc nghe tiếng nói, hoặc nhìn thấy tướng. Còn văn của Bản luận này nên nói như vầy: Hoặc nhìn thấy tướng, hoặc do bói toán, nên có thể hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác.

Hoặc nhìn thấy tướng: Như trước đã nói cùng các thứ thấy nghe khác về những hành tác, ngôn ngữ để nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác.

Hoặc do bói toán: Tức như vô số cách bói toán của các ngoại đạo nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác.

Về xứ sinh có được trí hiện nhận biết các tâm tâm sở pháp của người khác: Nghĩa là như nơi địa ngục v.v… có các sự việc ấy là thế nào? Tức trong Địa ngục cũng có trường hợp: Xứ sinh có được trí có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác, nhưng không hiện riêng các sự việc để có thể nói.

Hỏi: Người này nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác vào lúc nào?

Đáp: Là lúc mới sinh vào địa ngục, chưa chịu khổ. Vì khi thọ khổ thì hãy còn không nhận biết tâm mình đang nghĩ gì, huống là có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác.

Hỏi: Người ấy trụ vào tâm nào: Thiện, nhiễm ô, hay vô phú vô ký để nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác?

Đáp: Cả ba thứ đều có thể nhận biết được.

Hỏi: Trụ vào ý thức hay trụ vào năm thức để nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác?

Đáp: Chỉ trụ vào ý thức.

Hỏi: Về tâm vô phú vô ký: Là trụ nơi tâm đường oai nghi, là trụ nơi tâm xứ công xảo, hay là trụ nơi tâm dị thục sinh để nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác?

Đáp: Chỉ trụ nơi tâm đường oai nghi. Vì sao? Vì người kia không hiện khởi tâm xứ công xảo, còn tâm dị thục sinh chỉ nơi năm thức mới có.

Ở nẻo Bàng sinh cũng có sự việc nơi xứ sinh đạt được trí có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác. Làm thế nào nhận biết?

Như chuyện xưa kể: Có một chị nọ bế đứa con để nằm một chỗ rồi đi làm việc khác. Khi ấy, một con sói đi đến tha đứa bé chạy đi. Những người trông thấy liền rượt đuổi theo, hỏi sói: Sao mày lại tha con của người ta? Sói trả lời: Vì trong năm trăm đời ở quá khứ mẹ nó đã hại con tôi và tôi trong năm trăm đời cũng hại lại con bà ấy, oán thù cứ thế nối mãi đến nay chưa dứt. Nếu bà ấy có thể bỏ oán thù đi thì tôi cũng bỏ. Những người này đem chuyện thuật lại với mẹ đứa bé: Nếu bà thương tiếc con thì hãy bỏ tâm oán thù đi. Bà ấy đáp: Tôi đã bỏ rồi đấy. Nhưng sói nhìn biết thực tâm bà ấy chưa bỏ, chỉ sợ mất con nên dối bảo là bỏ, bèn cắn hại đứa bé rồi bỏ đi.

Hỏi: Loài bàng sinh nhận biết được tâm của người khác vào lúc nào?

Đáp: Vào lúc đầu, giữa, sau thảy đều có thể nhận biết được.

Hỏi: Bàng sinh trụ vào tâm nào: Thiện, nhiễm ô, hay vô phú vô ký để nhận biết được tâm của người khác?

Đáp: Trụ vào cả ba thứ đều có thể nhận biết.

Hỏi: Bàng sinh trụ vào ý thức hay trụ vào năm thức để nhận biết được tâm của người khác?

Đáp: Chỉ trụ vào ý thức.

Hỏi: Về tâm vô phú vô ký: Bàng sinh trụ vào tâm đường oai nghi, trụ vào tâm xứ công xảo, hay trụ vào tâm dị thục sinh để nhận biết được tâm của người khác?

Đáp: Trụ vào cả ba thứ đều có thể nhận biết được. Bàng sinh cũng hiện khởi tâm xứ công xảo và tâm dị thục sinh nơi ý thức cũng có, không phải như ở địa ngục quyết định không nhận quả dị thục thiện.

Ở nẻo Quỷ cũng có sự việc nơi xứ sinh đạt được trí có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác. Do đâu nhận biết?

Như chuyện xưa kể: Có một cô gái nọ bị quỷ hành khiến thân hình gầy ốm sắp chết. Ông thầy chú thuật hỏi quỷ: Vì sao nhà ngươi lại theo quấy nhiễu cô gái này? Quỷ đáp: Vì trong năm trăm đời ở quá khứ cô gái ấy thường hại mạng tôi và tôi trong năm trăm đời cũng hại lại, oán thù cùng báo đến nay chưa dứt. Nếu cô ấy bỏ thù oán cũ thì tôi cũng bỏ. Nhân đấy ông thầy chú thuật lại nói với cô gái: Nếu cô thương tiếc mạng sống thì nên bỏ tâm thù oán ấy đi. Cô gái nói: Vâng tôi xin bỏ. Nhưng quỷ quán xét biết cô gái chưa bỏ, chỉ vì sợ chết nên hứa dối, bèn cướp mạng sống của cô gái rồi biến mất.

Hỏi: Loài quỷ nhận biết được tâm của người khác vào lúc nào?

Đáp: Vào lúc đầu, giữa, sau thảy đều có thể nhận biết được.

Hỏi: Loài quỷ trụ vào tâm nào: Thiện, nhiễm ô, hay vô phú vô ký để nhận biết được tâm của người khác?

Đáp: Trụ vào cả ba thứ đều có thể nhận biết.

Hỏi: Loài quỷ trụ vào ý thức hay trụ vào năm thức để nhận biết được tâm của người khác?

Đáp: Chỉ trụ vào ý thức.

Hỏi: Về tâm vô phú vô ký: Loài quỷ trụ vào tâm đường oai nghi, trụ vào tâm xứ công xảo, hay trụ vào tâm dị thục sinh để nhận biết được tâm của người khác?

Đáp: Trụ vào cả ba thứ đều có thể nhận biết, như đã nói ở loài Bàng sinh.

Ở nẻo Trời cũng có sự việc nơi xứ sinh đạt được trí có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác, nhưng vì vi tế nên không nói riêng. Các thứ khác như ở nẻo Quỷ và Bàng sinh đã nói rộng.

Ở nẻo Người không có sự việc nơi xứ sinh đạt được trí có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác. Vì sao? Vì ở đấy không phải là nơi thích hợp. Vì ở đấy có trí thấy hình tướng, nghe lời nói thù thắng đã ngăn che gây tổn hại. Hoặc có tha tâm thông và nguyện trí đã lấn át trí nơi xứ sinh đạt được kia.

Hỏi: Những ai nơi xứ sinh đạt được trí nhận biết và bao nhiêu tâm nhận biết được bao nhiêu nẻo?

Đáp: Có thuyết nói: Đều chỉ tự nhận biết.

Lại có thuyết cho: Ở địa ngục chỉ nhận biết được địa ngục, bàng sinh nhận biết được hai nẻo, quỷ nhận biết được ba nẻo, trời nhận biết được năm nẻo.

Luận Thi Thiết nói: Long vương Ai La Phiệt Noa Thiện Trụ nhận biết được tâm của hàng trời là do trí tỷ tướng (Trí so sánh các tướng) mà nhận biết, không phải là do trí nơi xứ sinh đạt được.

Lời bình: Nên nói như vầy: Đối với bốn nẻo nơi xứ sinh đạt được trí đều nhận biết được năm nẻo, về lý không trái.

Hỏi: Ở nẻo người cũng có loại trí bản tánh niệm sinh, nên có thể nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác, vì sao ở đây không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, tức biết nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn. Lại nữa, vì ít nên không nói. Nghĩa là ở nẻo người, số người có được loại trí ấy rất ít nên không nói.

Lại có thuyết nêu: Vì loại trí bản tánh niệm sinh ấy không thể hiện nhận biết được tâm tâm sở pháp của người khác, nên ở đây không nói.

1. Có tha tâm trí cũng là hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác: Nghĩa là nếu trí do tu tạo thành, là quả của sự tu tập, là nương dựa để tu, được rồi không mất, có thể hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp hiện tại của người khác trong cõi dục và cõi sắc, hoặc là tâm tâm sở vô lậu. Đây là tha tâm trí thông ở hiện tại đã giải thích rộng ở trước.

2. Có không phải là tha tâm trí cũng không phải là hiện nhận biết được các tâm tâm sở pháp của người khác: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tướng là tên được gọi của đối tượng, cho đến nói rộng. Tức là trong hành uẩn trừ chung tha tâm trí thông của ba đời và trừ các trí nhìn thấy tướng, nghe lời nói, do nơi xứ sinh đạt được, có thể hiện nhận biết các tâm tâm sở pháp của người khác, còn lại là các hành uẩn khác, bốn uẩn hoàn toàn, cùng với pháp vô vi đều thuộc về trường hợp thứ tư này.

Hỏi: Các túc trụ tùy niệm trí đều hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, túc trụ tùy niệm trí là chung cả ba đời, còn hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước chỉ là hiện tại, nhưng chung cho cả túc trụ tùy niệm trí và không phải túc trụ tùy niệm trí, nên có bốn trường hợp:

1. Có túc trụ tùy niệm trí không phải là hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước: Nghĩa là túc trụ tùy niệm trí ở quá khứ và vị lai. Vì thứ này có tướng của túc trụ tùy niệm trí nhưng không có dụng hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước. Vì thuộc về quá khứ thì tác dụng đã diệt, còn vị lai thì tác dụng chưa có.

2. Có hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước không phải là túc trụ tùy niệm trí: Nghĩa là như có một người đã được trí bản tánh niệm sinh, hoặc trí nơi xứ sinh đạt được, có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước. Trí bản tánh niệm sinh hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước chỉ có nơi nẻo người, còn bốn nẻo kia không có. Về trí do nơi xứ sinh đạt được có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước chỉ ở địa ngục v.v… mới có. Sự việc đó như thế nào? Như Khế kinh nói: Ở trong địa ngục, các hữu tình cùng gọi bảo nhau: Lạ thay! Là tự lầm lẫn! Chúng ta ở quá khứ từng nghe các Sa-môn, Bà-la-môn nói về lỗi lầm tai họa của các dục, có thể dẫn đến các sự đáng sợ hãi ở vị lai, các vị nên đoạn trừ chúng. Tuy nghe giảng nói như thế nhưng chúng ta không tin, nay do nơi dục ấy nên phải chịu khổ não dữ dội.

Hỏi: Những kẻ kia nhớ biết được các sự việc đời trước vào lúc nào?

Đáp: Lúc mới vào Địa ngục, khi chưa chịu khổ, nếu đã thọ khổ thì các sự việc mới xảy ra hãy còn không nhớ nổi, có đâu nhớ biết được các sự việc đời trước.

Hỏi: Những kẻ ấy trụ vào tâm nào để nhớ biết được các sự việc đời trước?

Đáp: Trụ vào tâm thiện, nhiễm ô hay vô phú vô ký đều có thể nhớ biết được. Đối với sáu thức chỉ trụ vào ý thức. Đối với ba tâm vô ký chỉ trụ vào tâm đường oai nghi để nhớ biết.

Hỏi: Trí do nơi xứ sinh đạt được của những kẻ kia nhớ biết được bao nhiêu đời?

Đáp: Có thể nhớ biết được một đời, tức là từ khi chết rồi sinh đến ở đây.

Có thuyết cho: Nhớ biết được đến năm trăm đời.

Ở nẻo Bàng sinh có trí do nơi xứ sinh đạt được có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước. Như Khế kinh nói: Có con chó Loa âm, ngày xưa là Phạm chí tên Đao-đề-na, nhớ lại sự việc đời trước con ông liền khiến lên tòa cao ăn cơm, chỉ bày châu báu chôn giấu, đều theo lời chó ấy chỉ dẫn nên tìm thấy được.

Hỏi: Con vật nhớ biết được các sự việc đời trước vào lúc nào?

Đáp: Vào lúc đầu, giữa, sau đều có thể nhớ biết được.

Hỏi: Con vật trụ vào tâm nào để nhớ biết được các sự việc đời trước?

Đáp: Trụ vào tâm thiện, nhiễm ô hoặc vô phú vô ký đều có thể nhớ biết được. Đối với sáu thức chỉ trụ vào ý thức. Đối với ba tâm vô ký đều có cả ba.

Hỏi: Trí do nơi xứ sinh đạt được kia có thể nhớ biết được bao nhiêu đời?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ nhớ được một đời, tức là từ khi chết rồi sinh đến ở đây.

Lời bình: Nên nói như vầy: Có thể nhớ được nhiều đời. Như con sói nhớ biết được sự việc của năm trăm đời.

Ở nẻo Quỷ cũng có trí do nơi xứ sinh đạt được có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước. Như tụng nói:

Xưa ta gom tiền của

Dùng pháp hoặc phi pháp

Người khác nay giàu vui

Riêng ta chịu nghèo khổ.

Hỏi: Loài quỷ kia nhớ biết được các sự việc đời trước vào lúc nào?

Đáp: Vào lúc đầu, giữa, sau đều có thể nhớ biết được.

Hỏi: Loài quỷ trụ vào tâm nào để nhớ biết được các sự việc đời trước?

Đáp: Trụ vào tâm thiện, nhiễm ô hay vô phú vô ký đều có thể nhớ biết được. Đối với sáu thức chỉ trụ vào ý thức. Về ba thứ tâm vô ký thì trụ chung cả ba thứ.

Hỏi: Trí do nơi xứ sinh đạt được kia có thể nhớ biết được bao nhiêu đời?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ nhớ được một đời, tức là từ khi chết rồi sinh đến ở đây.

Lời bình: Nên nói như vầy: Có thể nhớ được nhiều đời. Như loài quỷ có thể nhớ biết được sự việc của năm trăm đời.

Ở nẻo Trời cũng có trí do nơi xứ sinh đạt được có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước. Như tụng nói:

Ta thí rừng Thệ Đa

Mong Đại pháp vương trụ

Hiền Thánh Tăng thọ dụng

Nên tâm ta hoan hỷ.

Hỏi: Vị ấy nhớ biết được các sự việc đời trước vào lúc nào?

Đáp: Vào lúc đầu, giữa, sau đều có thể nhớ biết được.

Hỏi: Vị ấy trụ vào tâm nào để nhớ biết được các sự việc đời trước?

Đáp: Trụ vào tâm thiện, nhiễm ô, hay vô phú vô ký đều có thể nhớ biết được. Đối với sáu thức chỉ trụ vào ý thức. Về ba thứ tâm vô ký thì trụ chung cả ba thứ.

Hỏi: Trí do nơi xứ sinh đạt được của vị ấy có thể nhớ biết bao nhiêu đời?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ nhớ được một đời, tức là từ khi chết rồi sinh đến ở đây.

Lời bình: Nên nói như vầy: Có thể nhớ biết được nhiều đời.

Ở nẻo Người không có trí do nơi xứ sinh đạt được hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước, vì ở đấy không phải là nơi chốn thích hợp. Vì bị trí bản tánh niệm sinh ngăn che, gây tổn hại, cũng bị túc trụ tùy niệm thông và nguyện trí lấn át.

1. Có túc trụ tùy niệm trí cũng là hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước: Nghĩa là trí do tu tạo thành là quả của sự tu tập, là nương vào sự tu tập, được rồi không mất, có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước với đủ các thứ tướng trạng ngôn thuyết. Đây là túc trụ tùy niệm trí thông nơi hiện tại đã giải thích rộng ở trước.

2. Có không phải là túc trụ tùy niệm trí cũng không phải là hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Tướng là tên được gọi của đối tượng, cho đến nói rộng. Tức là trong hành uẩn trừ chung túc trụ tùy niệm trí thông của ba đời và trừ trí bản tánh niệm sinh ở hiện tại, trí do nơi xứ sinh đạt được có thể hiện nhớ nhận biết được các sự việc đời trước, còn lại là các hành uẩn khác, bốn uẩn hoàn toàn cùng pháp vô vi đều thuộc trường hợp thứ tư này.

Hỏi: Các túc trụ tùy niệm trí đều nhận biết được các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ của người khác chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp. Ở đây, trường hợp thứ nhất là duyên với túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của mình. Trường hợp thứ hai là duyên với nguyện trí và gia hạnh của túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của người khác. Trường hợp thứ ba là duyên với túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của người khác. Trường hợp thứ tư là duyên với nguyện trí và gia hạnh của túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của mình. Đó gọi là ở xứ này đã tóm lược về Tỳ-bà-sa.

1. Có thứ là túc trụ tùy niệm trí không phải là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ của người khác: Nghĩa là như trí do tu tạo thành, là quả của sự tu tập, là dựa vào sự tu tập, được rồi không mất, là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ nơi đời trước của mình. Đây tức là duyên với túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của mình, là duyên nơi sự việc đời trước của mình ở đời quá khứ.

2. Có thứ là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ của người khác không phải là túc trụ tùy niệm trí: Nghĩa là như trí do tu tạo thành, là quả của sự tu tập, là dựa vào sự tu tập, được rồi không mất, là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ nơi đời này của người khác. Đây tức là duyên với nguyện trí và gia hạnh của túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của người khác, là duyên nơi sự việc quá khứ của người khác ở đời hiện tại.

3. Có thứ là túc trụ tùy niệm trí cũng là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ của người khác: Nghĩa là trí do tu tạo thành, là quả của sự tu tập, là dựa vào sự tu tập, được rồi không mất, là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ nơi đời trước của người khác. Đây tức duyên với túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của người khác, là duyên nơi sự việc đời trước của người khác ở đời quá khứ.

4. Có thứ không phải là túc trụ tùy niệm trí cũng không phải là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ của người khác: Nghĩa là trí do tu tạo thành, là quả của sự tu tập, là dựa vào sự tu tập, được rồi không mất, là nhận biết về các uẩn, xứ, giới, tâm nối tiếp ở quá khứ nơi đời này của mình. Đây tức duyên với nguyện trí và gia hạnh của túc trụ tùy niệm trí nơi sự nối tiếp của mình, là duyên nơi sự việc quá khứ ở đời này của mình.

Ở đây: Nguyện trí chỉ duyên nơi các pháp hữu lậu ở quá khứ trong đời này. Túc trụ tùy niệm trí chỉ duyên nơi các pháp hữu lậu thuộc quá khứ của đời trước. Còn gia hạnh của túc trụ tùy niệm trí cũng chỉ duyên nơi các pháp hữu lậu trong quá khứ ở đời này. Nhưng các nguyện trí duyên chung cả ba đời, ở đây chỉ giữ lấy duyên nơi các pháp hữu lậu trong quá khứ của đời này.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh đã nói ở trước lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy tuệ làm tự tánh. Đó gọi là bản tánh, là tự tánh của trí bản tánh niệm sinh, là ngã vật, tự thể, tướng phần nơi bản tánh.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là trí bản tánh niệm sinh? Trí ấy có nghĩa gì?

Đáp: Sinh: Là các pháp hữu lậu của đời trước. Trí: Là trí của đời này có thể nhận biết rõ sự việc ấy. Niệm: Là trí ấy cùng sinh với niệm thù thắng. Nói bản tánh: Là nhận xét phân biệt do tu mà được. Tức trí bản tánh do diệu lực của niệm thù thắng nên nhận biết được các pháp hữu lậu sinh ra trong quá khứ, nên gọi là trí bản tánh niệm sinh.

Lại nữa, trụ vào tâm của bản tánh, do diệu lực của niệm thù thắng phát khởi trí này, nhận biết các pháp hữu lậu sinh trong quá khứ, nên gọi là trí bản tánh niệm sinh.

Tâm của bản tánh: Là thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký, không do tu được, nên gọi là bản tánh.

Lại nữa, bản tánh là tự tánh của các pháp: Tức tự tánh của các pháp hữu lậu sinh ra trong quá khứ. Trí này do niệm lực nhận biết được bản tánh sinh ra, nên gọi là trí bản tánh niệm sinh.

Lại nữa, bản tánh là tánh của pháp đời trước, tức tánh của pháp hữu lậu sinh ở quá khứ. Trí do niệm lực nhận biết được bản tánh sinh ra, nên gọi là trí bản tánh niệm sinh.

Hỏi: Trí này cùng sinh pháp có nhiều thứ, vì sao chỉ nói có niệm?

Đáp: Vì sức của niệm tăng. Như bốn niệm trụ, trì tức niệm, túc trụ tùy niệm trí v.v… tuy đều do tuệ làm Thể, nhưng do sức của niệm tăng, nên gọi là niệm trụ v.v… Như điều phục trừ bỏ tưởng sắc, tuy Thể là tuệ, nhưng do sức của tưởng tăng, nên gọi là phục trừ tưởng sắc. Ở đây cũng như vậy, tuy Thể là tuệ, nhưng vì sức của niệm tăng, nên gọi là trí bản tánh niệm sinh.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh này ở nơi cõi nào có?

Đáp: Chỉ ở cõi dục có.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh này ở nẻo nào có?

Đáp: Chỉ ở nẻo người có. Vì sao? Vì chỉ ở nẻo người nơi cõi dục mới tạo ra các nghiệp thù thắng dẫn khởi đạt được trí này. Lại, ở nẻo người có trí tuệ mạnh nhanh hơn các nẻo khác.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh này do nghiệp lực nào dẫn khởi?

Đáp: Có thuyết nói: Như các hữu tình vui vẻ, ngôn thuyết nhã nhặn, khéo léo khiến kẻ khác đều vui, do nghiệp lực ấy nên có thể dẫn khởi trí này.

Lại có thuyết cho: Hoặc các hữu tình thường vui truyền các sự việc tốt đẹp khiến thân tâm nhiều người đều vui vẻ, an lạc, do nghiệp lực ấy nên có thể dẫn khởi trí này.

Có Sư khác nêu: Hoặc các hữu tình thấy kẻ khác đang lo lắng sợ hãi, liền tìm phương cách an ủi làm nơi nương dựa, khiến những kẻ khác ấy hết sợ, do nghiệp lực ấn nên có thể dẫn khởi trí này.

Lại có thuyết nói: Hoặc các hữu tình thấy người khác đang sầu não, dùng giáo pháp khai ngộ, dẫn dụ khiến họ hết lo sầu, do nghiệp lực ấy nên có thể dẫn khởi trí này.

Có thuyết khác cho: Hoặc các hữu tình thấy các chốn hiểm trở, chật hẹp lo tu sửa khiến trở nên rộng rãi, kẻ qua lại không gặp khó khăn, do nghiệp lực này nên ở trong thai mẹ không bị các khổ bức bách, vì thế nên có được trí này.

Hoặc có thuyết nêu: Nếu các hữu tình bố thí cho người khác đủ các thức ăn uống ngon quý, do nghiệp lực đó nên có thể dẫn sinh trí này.

Lời bình: Nên nói như vầy: Nếu các hữu tình không gây ra nghiệp não hại kẻ khác, lại luôn tạo nhiều lợi ích cho mọi người, do nghiệp lực này nên khi ở trong thai mẹ không bị các bệnh phong nhiệt, đàm, lạnh bức bách, lúc sinh ra cũng không bị các khổ bức bách, do đó có thể nhớ biết được các sự việc đời trước. Nên có thuyết này: Nếu các hữu tình khi ở trong thai mẹ và lúc sinh ra, không bị các bệnh khổ bức bách, đều có thể nhớ biết được các sự việc trong đời quá khứ. Chỉ do bệnh của mẹ và các khổ bức bách nên đều quên mất.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh này thì đầu, giữa, sau, thời gian nào là vượt hơn?

Đáp: Việc đó không nhất định. Có khi mới sinh thì hơn hết, như ông Thế-bạt-la lúc mới sinh liền biết nói, bảo: “Nay trong nhà có nhiều tiền của vật dụng, con có thể tùy ý đem bố thí được không?”.

Hoặc có người ở tuổi trung niên thì vượt hơn như Tôn giả Hộ Quốc v.v… Hoặc có người vượt hơn ở tuổi lão niên như Am-bà-sắt-dĩ, nói rộng như trong Khế kinh.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh này có thể nhớ biết được sự việc của bao nhiêu đời?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ nhớ được sự việc của một đời. Nghĩa là từ khi chết rồi sinh đến ở đây.

Hoặc có thuyết cho: Có thể nhớ được sự việc của hai đời cho đến bảy đời. Như trong thành Vương-xá có kẻ đồ tể trẻ tuổi tên là Già-trá, là bạn thuở nhỏ của vua Vị Sinh Oán, thường thưa với thái tử (Vị Sinh Oán): “Khi làm vua, anh sẽ cho em nguyện gì?”. Thái tử nói: “Ta sẽ ban cho ngươi tất cả những gì người xin”. Sau đó, Vị Sinh Oán giết cha lên ngôi. Già-trá đến chỗ nhà vua nhắc lại lời hứa. Vua bảo: “Tùy ý nhà ngươi muốn”. Già-trá xin vua cho anh ta độc quyền làm nghề đồ tể trong thành Vương-xá. Vua hỏi: “Nay vì sao nhà ngươi lại xin làm việc ác đó, không sợ cái khổ nơi mai sau chăng?”. Người đồ tể trẻ tâu: “Các nghiệp thiện, ác đều không có quả báo, sợ gì?”. Vua hỏi: “Sao nhà ngươi biết?”. Già-trá tâu: “Tôi nhớ rõ cả sáu đời của mình sống trong thành Vương-xá này luôn làm nghề đồ tể, kiếp sau cùng được sinh lên trời Ba Mươi Ba hưởng nhiều vui thú. Từ xứ trời đó mạng chung liền sinh vào chốn này, được làm bạn nhỏ với vua từ bé, cho nên biết quả báo của các nghiệp thiện, ác nhất định là không có”. Nghe xong sinh nghi, vua liền đến thưa cùng Đức Phật. Phật bảo vua: “Việc đó là có thật, không dối! Nhưng vì người ấy có một lần dâng cúng thức ăn cho vị Độc giác rồi phát nguyện tà: Cho tôi luôn ở trong thành Vương-xá này và độc quyền làm nghề đồ tể, sau đó được sinh lên trời. Do nhân của nghiệp thù thắng đó mà có được quả đúng như lời ước. Quả ứng với nghiệp thiện trước đó nay đã hết, bảy ngày sau người ấy sẽ chết sinh vào địa ngục Hào khiếu, lần lượt chịu các quả khổ do nghiệp giết mổ từ trước”. Vì thế nên biết trí này nhớ biết tối đa là bảy đời.

Lại có thuyết nêu: Trí này có thể nhớ đến sự việc của cả năm trăm đời. Như có vị Bí-sô tự nhớ được năm trăm đời trong quá khứ, đã bị đọa làm quỷ đói. Mỗi khi nhớ đến thời gian ông ta đã bị đói khát thì hết sức kinh sợ, khắp mình ướt đẫm mồ hôi. Ông liền bỏ hết sự việc, dốc sức tinh tấn tu tập, trải qua thời gian lâu sau chứng quả Dự lưu. Ông nghĩ: “Nhờ các Bí-sô giúp đỡ ban cho các thứ vật dụng khiến ta dứt sạch hết các nỗi sợ hãi. Nay phải tìm các thứ vật dụng ấy để đáp tạ ân trước”. Nghĩ rồi, bèn đi khắp mọi nơi tìm kiếm các thứ vật dụng ấy. Bấy giờ, các Bí-sô thấy thế hỏi: “Trước đây ông có ít việc nay sao nhiều thế?”. Ông ấy liền thuật lại đầy đủ sự việc ngày trước. Lại có một Bí-sô tự nhớ lại năm trăm đời quá khứ đã bị đọa vào địa ngục. Mỗi khi nhớ lại thời gian chịu khổ trong địa ngục thì khắp lỗ chân lông nơi toàn thân ông đều rướm máu, nên mình mẩy và áo quần đều rất hôi hám, mỗi ngày phải dùng nước tắm rửa giặt giũ. Mọi người đều nói ông ấy là chấp, cho nước làm sạch. Thế là ông bỏ hết công việc, chuyên cần tu tập, trải qua thời gian lâu chứng được quả A-la-hán. Sau đó, ông không thường tắm rửa giặt giũ nữa. Những người kia đều lấy làm lạ hỏi, ông bèn thuật lại đầy đủ việc xưa. Do đấy nên biết trí này nhớ biết được cả đến năm trăm đời.

Lại có Sư khác nói: Trí này có thể nhớ biết được các sự việc của kiếp thành và kiếp hoại ở quá khứ. Như Phật khi xưa lúc còn làm Bồ-tát, vì hóa độ chúng hữu tình nên phát thệ nguyện lớn. Có một kiếp Ngài làm vua Chiên-đồ-la tên là Tam Câu, thông suốt tất cả Kinh, Luận, Chú thuật. Khi đó, Tôn giả A-nan làm con của vua ấy tên là Sư Tử Nhĩ, dung mạo khôi ngô tuấn tú vào bậc nhất trên đời, Tôn giả Xá-lợi-tử thì làm Bà-la-môn tên là Trì Kiên, cũng thông tỏ Kinh, Luận và các sách vở liên hệ, vị này có một người con gái tên là Trinh Khiết, dung nhan tươi đẹp, ai cũng thích nhìn. Lúc ấy, vua đến chỗ vị Bà-la-môn cầu hôn cho con. Ông Trì Kiên hết sức giận dữ, bảo vua: “Trong các dòng họ thì ông là loại thấp kém, còn ta là Phạm chí thuộc tộc họ cao quý. Nay sao ông lại đến đây coi thường làm nhục ta thế?”. Vua bảo Bà-la-môn: “Tộc họ cao quý, hèn hạ không luôn nhất định mãi như vậy. Ông thấy thế nào mà quá đỗi kiêu căng đến thế? Ông từng nghe biết sách Phạm, chữ Phạm do ai tạo ra không?”. Trì Kiên đáp: “Ta nghe từ đời trước có vị Bà-la-môn tên là Cù-tầnđà tạo ra”. Vua bảo: “Cù-tần-đà thời ấy nay chính là ta đây”. Vua lại hỏi: “Ông lại từng nghe các sách và chữ Khư-lư-sắt-trá do ai tạo ra chăng?”. Bà-la-môn đáp: “Tôi nghe từ thuở đời trước có bậc Đại Tiên nhân tên là Khư-lư-sắt-trá tạo ra”. Vua bảo: “Đại Tiên nhân khi ấy nay chính là ta”. Vua lại hỏi: “Ông cũng đã từng nghe các Kinh Luận Phệ Đà và các sách có liên quan trên đời do ai tạo ra chăng?”. Vị Bà-la-môn đáp: “Các bộ sách đó thuộc về các Kinh, Luận như thế, có những cuốn nào v.v… đều do các vị Bà-la-môn, các Tiên nhân tạo ra v.v…”. Nhà vua bảo: “Những người ấy chính là ta ngày xưa v.v… có những tên, chữ như thế ông đều biết cả v.v… Vì sao bây giờ ông lại quá kiêu căng khi thấy ta?”. Trì Kiên lần lượt so xét cặn kẽ mọi việc thì thấy những điều vua nói đều đúng thực, không hề lầm lẫn, nên tâm hết sức kính mến nhận gả con. Do đấy nên biết trí này có thể nhớ biết được các sự việc nơi kiếp thành và kiếp hoại ở quá khứ.

Như Khế kinh nói: Đức Phật bảo chủ ấp: Ta tự nhớ biết từ chín mươi mốt kiếp ở quá khứ đến nay đối với phước điền tịnh giới, luôn bố thí thức ăn uống v.v… không hề thiếu sót bỏ phế, lại cũng nhớ rõ không vì ăn uống mà trái phạm giới luật.

Hỏi: Đức Thế Tôn đã dùng túc trụ tùy niệm trí hay trí bản tánh niệm sinh để nhớ biết được các sự việc như vậy? Nếu nói như thế thì có lỗi gì? Nếu Ngài dùng túc trụ tùy niệm trí nhớ biết được các sự việc đó thì vì sao chỉ nói nhớ có chín mươi mốt kiếp, không nói nhiều hơn? Còn nếu Ngài dùng trí bản tánh niệm sinh để nhớ biết được các sự việc đó thì vì sao trước có thuyết nói trí này chỉ nhớ được một đời, có thuyết nói nhớ được hai đời đến bảy đời, có thuyết cho là nhớ đến năm trăm đời, có thuyết nói là nhớ được kiếp thành và kiếp hoại, nhưng không thấy nói có thể nhớ biết chín mươi mốt kiếp?

Đáp: Nên nói là Đức Thế Tôn dùng túc trụ tùy niệm trí để nhớ biết được các sự việc ấy.

Hỏi: Nếu thế vì sao chỉ nói nhớ chín mươi mốt kiếp không nói nhớ nhiều hơn?

Đáp: Thật ra có thể nhớ nhiều hơn nhưng chỉ nói nhớ chừng ấy thôi.

Hỏi: Vì sao lại không nói nhiều hơn?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Nếu nói nhớ nhiều hơn thì tất cả ai cũng sinh nghi, còn nếu nói ít hơn thì cũng khởi ngờ vực chất vấn. Cho nên tùy việc mà nói, đối với lý không trái cũng không nên vấn nạn. Lại nữa, từ thời ấy Ngài kiến lập bảy Đức Phật – Thế Tôn, vậy nên nói riêng. Lại nữa, từ thời ấy đến nay Ngài tu nghiệp tướng hảo, thế nên nói riêng. Lại nữa, từ đó đến nay đạo nghiệp của Ngài luôn thanh tịnh không còn bị đọa vào các nẻo ác, luôn thọ thân nam và nhớ biết được sự việc nơi đời trước, thế nên nói riêng.

Lại có thuyết cho: Đức Thế Tôn dùng trí bản tánh niệm sinh để nhớ biết được các sự việc đó.

Hỏi: Nếu thế vì sao ở trước có thuyết nói trí ấy chỉ nhớ có một đời, cho đến có thuyết cho là nhớ được kiếp thành kiếp hoại, mà không nói nhớ được chín mươi mốt kiếp?

Đáp: Trước nói là nói về người khác nhớ được nhiều ít không nói Phật, nếu nói Phật thì cũng phải nói là nhớ nhiều.

Hỏi: Trí bản tánh niệm sinh có thể nhớ biết được các sự việc của trung hữu không?

Đáp: Có thuyết nói là không thể nhớ biết được. Vì sao? Là vì các sự việc của trung hữu quá vi tế, không phải là cảnh của trí này.

Lời bình: Nên nói là trí bản tánh niệm sinh cũng có thể nhớ biết được các sự việc của trung hữu. Vì sao? Vì nếu không nhớ biết thì trí này nhận biết về cảnh trở thành gián đoạn lẫn lộn, tức là phần ít này thì có thể nhận biết còn phần ít kia thì không thể nhận biết.

Hỏi: Bồ-tát ở đời trước đã có trí bản tánh niệm sinh, đối với đời sau cùng là cũng có chăng? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Nếu có thì vì sao sức của duyên không mạnh hơn sức của nhân? Còn như không có thì vì sao Bồ-tát không trở thành suy thoái?

Đáp: Nên nói là ở thân sau cùng của Bồ-tát cũng có trí bản tánh niệm sinh.

Hỏi: Nếu thế thì vì sao sức của duyên không mạnh hơn sức của nhân?

Đáp: Không phải là không có sức của duyên, gọi là có sức của nhân bên trong, do lợi căn nên gọi là có sức của nhân bên trong. Nghĩa là Bồ-tát này căn tánh là tối thắng đối với các hữu tình, gọi là có sức của nhân. Lại những ai cho là Bồ-tát không có sức của duyên? Như có chư Thiên trời Tịnh cư hiện ra các thứ già, bệnh, chết v.v… để phát khởi khiến Bồ-tát có tâm chán lìa sinh tử, há chẳng phải là sức của duyên? Lại như Thích nữ Lộc vì Bồ-tát nói tụng tán thán Niết-bàn, phát khởi giúp Bồ-tát hiểu biết, có tâm vui thích Niết-bàn, cũng là sức của duyên. Như tụng nói:

Không lâu Ngài sẽ được

An lạc dùng làm mẹ

Không lo sầu là cha

Tịch diệt là vợ hiền!

Bồ-tát thấy nghe các sự việc như thế rồi đã tăng tâm chán lìa và vui thích nên vượt thành xuất gia. Lại, ở đời quá khứ có vô lượng chư Phật đã giảng nói tư lương Bồ-đề cho Bồ-tát. Các sự việc như thế đều gọi là sức của duyên.

Có thuyết cho: Thân sau cùng của Bồ-tát không có trí bản tánh niệm sinh.

Hỏi: Nếu như thế vì sao Bồ-tát không trở nên suy thoái?

Đáp: Tuy không có trí này, nhưng Bồ-tát có túc trụ tùy niệm trí thù thắng và nguyện trí v.v…, nên không suy thoái.

Lời bình: Nên biết ở đây thuyết trước là đúng lý, vì từ chín mươi mốt kiếp Bồ-tát luôn luôn có trí ấy.

***

* Thế nào là Tâm thời ái giải thoát? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm để phân biệt các nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Bí-sô không nên vui thích các nơi chốn đông đảo và ham mê các thứ hý luận. Nếu vui thích các nơi chốn đông đảo, ham mê các thứ hý luận, lại có thể chứng được tâm thời ái giải thoát và tâm bất động giải thoát, thì không có điều ấy. Nếu các Bí-sô không vui thích các nơi chốn đông đảo, không ham mê các thứ hý luận, có thể chứng được hai thứ giải thoát, thì có sự việc ấy. Tuy nói như thế, nhưng Khế kinh không giải thích rộng về nghĩa, không nói về tự tánh của hai thứ giải thoát ấy cùng nhân duyên đạt được. Nơi chương Căn Uẩn của Luận này, tuy nói hai thứ nhân duyên đạt được, nhưng không nói rõ về tự tánh. Nay muốn hiển bày các điều ấy.

Lại nữa, vì nhằm ngăn chận các Tông chỉ khác và làm rõ về chánh lý.

Như có thuyết cho: Tâm thời ái giải thoát là hữu học, là có tạo tác, tâm bất động giải thoát là vô học, là không có tạo tác. Nay nhằm ngăn chận các ý tưởng ấy, nêu rõ hai thứ giải thoát này đều là vô học và đều không tạo tác.

Hoặc có thuyết nói: Tâm thời ái giải thoát là hữu lậu, tâm bất động giải thoát là vô lậu. Nay nhằm ngăn chận ý tưởng này và chỉ rõ cả hai thứ giải thoát ấy đều là vô lậu.

Lại có người nêu: Tâm thời ái giải thoát là hữu vi, tâm bất động giải thoát là vô vi. Nay nhằm ngăn chận ý tưởng này và nêu bày rõ cả hai thứ giải thoát ấy đều là hữu vi.

Do các nhân duyên vừa nêu trên nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là Tâm thời ái giải thoát?

Đáp: Là tận trí của A-la-hán thời giải thoát, hoặc là chánh kiến vô học tương ưng với tâm thắng giải, đã thắng giải, sẽ thắng giải.

Hỏi: Thế nào là Tâm bất động giải thoát?

Đáp: Là pháp bất động nơi tận trí và vô sinh trí của A-la-hán, hoặc là chánh kiến vô học tương ưng với tâm thắng giải, đã thắng giải, sẽ thắng giải.

Trong đây, nói tận trí, vô sinh trí và chánh kiến vô học tương ưng với tâm: Nghĩa là phân biệt về hữu học và hữu lậu.

Tâm thắng giải tức là hiện tại. Đã thắng giải tức là quá khứ. Sẽ thắng giải tức là vị lai. Đây tức phân biệt chỗ khác nhau về giải thoát vô vi, làm sáng tỏ hai thứ giải thoát này chỉ dùng tâm vô lậu vô học tương ưng với thắng giải làm tự tánh. Nhưng trong tất cả pháp chỉ có hai pháp là tự tánh của giải thoát. Nghĩa là trong pháp vô vi thì trạch diệt là tự tánh của giải thoát, trong pháp hữu vi thì thắng giải thuộc về pháp đại địa là tự tánh của giải thoát.

Thắng giải này có hai thứ: 1. Nhiễm ô: Nghĩa là tương ưng với tham v.v… gọi là tà thắng giải. 2. Không nhiễm ô: Nghĩa là tương ưng với không tham v.v… gọi là chánh thắng giải.

Chánh thắng giải này lại có hai thứ: 1. Hữu lậu: Tức là các thứ quán bất tịnh, trì tức niệm, vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… tương ưng với thắng giải. 2. Vô lậu: Tức là thắng giải học và vô học.

Thắng giải học: Nghĩa là thắng giải thuộc về bốn hướng và ba quả, tức khổ pháp trí nhẫn cho đến Định kim cang dụ tương ưng với thắng giải.

Thắng giải vô học: Nghĩa là thắng giải thuộc về quả A-la-hán, tức tận trí và vô sinh trí, chánh kiến vô học tương ưng với thắng giải.

Thắng giải vô học lại có hai thứ: 1. Tâm thời ái giải thoát: Tức là thắng giải thuộc về năm thứ quả A-la-hán, cũng gọi là Thời giải thoát. 2. Tâm bất động giải thoát: Tức là thắng giải thuộc về pháp bất động nơi quả A-la-hán, cũng gọi là Bất thời giải thoát.

Hai thứ giải thoát này đều có hai thứ: Một là tâm giải thoát, là lìa tham ái. Hai là tuệ giải thoát, là lìa vô minh.

Hỏi: Nếu hai thắng giải vô học, lìa tham ái nên gọi là tâm giải thoát, lìa vô minh nên gọi là tuệ giải thoát, thì các điều nơi Luận Tập Dị Môn nói làm sao thông? Như nói: Thế nào là tâm giải thoát? Nghĩa là căn thiện không tham đối trị các tham ái. Thế nào là tuệ giải thoát? Nghĩa là căn thiện không si đối trị vô minh.

Đáp: Luận Tập Dị Môn nên nói như vầy: Thế nào là tâm giải thoát? Nghĩa là căn thiện không tham tương ưng với thắng giải. Thế nào là tuệ giải thoát? Nghĩa là căn thiện không si tương ưng với thắng giải. Tức nên nói thế nhưng không nói là vì có ý sâu xa riêng. Nghĩa là nương vào căn thiện để làm rõ thắng giải. Nếu nương vào không tham nên tâm giải thoát tham ái, ở đây tương ưng với thắng giải nên gọi là tâm giải thoát. Nếu nương vào không si nên tuệ giải thoát vô minh, ở đây tương ưng với thắng giải nên gọi là tuệ giải thoát. Thế nên ở đây hai thứ tâm giải thoát đều lấy thắng giải vô học làm tự tánh. Đó gọi là tự tánh của giải thoát, là bản tánh, tướng phần, tự thể, ngã vật của giải thoát.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Thế nào là Thời giải thoát? Giải thoát ấy có nghĩa gì?

Đáp: Do giải thoát kia phải đợi thời mới thực hiện được. Thời tuy có nhiều nhưng lược nêu có sáu thứ: 1. Khi được y phục tốt đẹp. 2. Khi được ăn uống ngon. 3. Khi có ngọa cụ tốt đẹp. 4. Khi được chỗ ở tốt đẹp. 5. Khi được giảng nói pháp hay. 6. Khi được Bổ-đặcgià-la tốt.

1. Đợi khi có được y phục tốt đẹp: Là người ấy cần có được y phục mịn mỏng, tươi sạch, đẹp đẽ, khi đó mới được giải thoát, nếu không như thế thì không được giải thoát.

2. Đợi khi có được ăn uống ngon: Là người ấy cần có được các thức ăn uống ngon như tô, sữa, mật ong v.v… khi đó mới được giải thoát, nếu không như thế thì không được giải thoát.

3. Đợi khi có được ngọa cụ tốt đẹp: Là người ấy cần có được ngọa cụ, giường nệm dày mềm, mịn v.v… khi đó mới được giải thoát, nếu không như thế thì không được giải thoát.

4. Đợi khi có được chỗ ở tốt đẹp: Là người ấy cần có được phòng nhà đẹp sạch, yên tĩnh, khi đó mới được giải thoát, nếu không như thế thì không được giải thoát.

5. Đợi khi có được giảng nói pháp hay: Là người ấy cần có được những lời dạy khuyên, giáo pháp trao truyền đúng lý, ứng cơ, khi đó mới được giải thoát, nếu không như thế thì không được giải thoát.

6. Đợi khi có được Bổ-đặc-già-la tốt: Là người ấy cần có được những vị đủ đức hạnh thù thắng, tánh nhu hòa, hiền hậu dễ chung sống, khi đó mới được giải thoát, nếu không như thế thì không được giải thoát.

Hỏi: Thế nào là Bất thời giải thoát? Giải thoát ấy có nghĩa gì?

Đáp: Do giải thoát kia không đợi thời để đạt được. Thời tức là sáu thứ như trước đã nói:

1. Không đợi khi có được y phục tốt đẹp: Là người ấy tuy đang có y phục phấn tảo xấu cũ, nhưng có thể nhanh chóng được giải thoát, hơn hẳn người thời giải thoát khi có y phục quý giá.

2. Không đợi khi có được ăn uống ngon: Là người ấy tuy chỉ ăn uống đạm bạc, nhưng có thể nhanh chóng được giải thoát, hơn hẳn người thời giải thoát khi có được thức ăn uống trăm vị.

3. Không đợi khi có được ngọa cụ tốt đẹp: Là người ấy tuy có các thứ ngọa cụ bằng đá hoặc thô xấu, cũ kỹ v.v… nhưng có thể nhanh chóng được giải thoát, hơn hẳn người thời giải thoát khi có những thứ ngọa cụ thượng diệu.

4. Không đợi khi có được chỗ ở tốt đẹp: Là người ấy tuy phải sống tạm nơi ồn ào hoặc chỗ ở chật hẹp thiếu thốn, nhưng có thể nhanh chóng được giải thoát, hơn hẳn người thời giải thoát khi có được chỗ ở đẹp đẽ, yên tĩnh. Vì người ấy chán ghét sự ồn ào kia nên nhanh chóng nhập định.

5. Không đợi khi có được giảng nói pháp hay: Là người ấy tuy bị khuyên dạy theo những giáo pháp sai trái, không hợp trình độ, cơ duyên, nhưng có thể nhanh chóng được giải thoát, hơn hẳn người thời giải thoát khi có đủ sự dạy khuyên đúng lý, hợp trình độ. Do chán ghét điều giảng nói kia nên người ấy sớm nhập định.

6. Không đợi khi có được Bổ-đặc-già-la tốt: Là người ấy tuy phải sống chung với những kẻ đức hạnh kém, tánh tình hung dữ, khó gần gũi, nhưng có thể nhanh chóng được giải thoát, hơn hẳn người thời giải thoát khi cùng sống với người có đức hạnh đầy đủ. Do chán ghét những thứ xấu ác nên người ấy sớm nhập định.

Lại nữa, nương vào đạo nhỏ hẹp để được giải thoát, gọi là Thời giải thoát. Đạo nhỏ hẹp: Nghĩa là nếu nhanh chóng lắm thì trong đời thứ nhất là gieo trồng căn thiện, trong đời thứ hai là tu tập thành thục, trong đời thứ ba là được giải thoát. Các trường hợp khác thì không nhất định. Nương vào đạo rộng lớn để được giải thoát, gọi là Bất thời giải thoát. Đạo rộng lớn: Nghĩa là nếu chậm nhất, thừa Thanh văn trải qua sáu mươi kiếp mới được giải thoát, như Tôn giả Xá-lợi-tử. Thừa Độc giác trải qua một trăm kiếp mới được giải thoát, như bậc Lân giác dụ. Còn Phật thừa trải qua ba vô lượng kiếp mới được giải thoát.

Lại nữa, nếu nương vào đạo yếu kém để được giải thoát, gọi là Thời giải thoát. Đạo yếu kém: Nghĩa là đối với gia hạnh của đạo giải thoát phẩm thiện không thể thường xuyên ân cần tu tập. Tức nếu buổi sáng có tu tập thì buổi trưa, buổi chiều không thể tu tiếp. Còn nếu đầu hôm có tu tập thì giữa đêm hay gần sáng cũng không thể tiếp tục. Tuy dần dần có thể tu tập nhưng không chú trọng, siêng gắng. Nương vào đạo mạnh mẽ để được giải thoát, gọi là Bất thời giải thoát. Đạo mạnh mẽ: Nghĩa là trái với các điều nêu trên.

Lại nữa, nương vào đạo chỉ tăng thượng để được giải thoát, gọi là Thời giải thoát. Nương vào đạo quán tăng thượng để được giải thoát, gọi là Bất thời giải thoát.

Lại nữa, nương vào đạo có thể dẫn đến nẻo hạn hẹp để được giải thoát, gọi là Thời giải thoát. Đạo có thể dẫn đến nẻo hạn hẹp: Nghĩa là đạo tu tập có thể vì hợp ý hay không hợp ý, có lợi ích hay không có lợi ích, có các vật dụng tạo khổ vui dẫn đến nẻo hạn hẹp. Nương vào đạo không thể dẫn đến nẻo hạn hẹp để được giải thoát, giải thoát Bất thời giải thoát. Đạo không thể dẫn đến nẻo hạn hẹp: Nghĩa là trái với các điều nêu trên.

Lại nữa, nương vào đạo có năm thứ chủng tánh để được giải thoát, gọi là Thời giải thoát. Đạo có năm thứ chủng tánh: Nghĩa là đạo chủng tánh của pháp thoái chuyển, cho đến đạo chủng tánh của pháp gắng sức thâu đạt. Nương vào đạo có một thứ chủng tánh để được giải thoát, gọi là Bất thời giải thoát. Đạo có một thứ chủng tánh:

Nghĩa là đạo chủng tánh của pháp bất động.

Đây là nói năm thứ chủng tánh A-la-hán gọi là Thời giải thoát. Còn chủng tánh A-la-hán của pháp bất động gọi là Bất thời giải thoát.

Hỏi: Nhân luận sinh luận, vì sao năm chủng tánh A-la-hán trước lập chung làm một là Thời giải thoát, còn chủng tánh A-la-hán thứ sáu lập riêng làm một là Bất thời giải thoát?

Đáp: Là do có duyên riêng khác: Tức thời giải thoát nhiều, bất thời giải thoát ít. Nghĩa là căn cứ vào chủng tánh để nêu đặt năm thứ chủng tánh trước, gọi là A-la-hán thời giải thoát, còn chủng tánh thứ sáu gọi là bất thời giải thoát.

Có duyên riêng khác: Tức thời giải thoát ít, bất thời giải thoát nhiều. Nghĩa là căn cứ vào thừa để nêu đặt, chỉ có thừa Thanh văn là có A-la-hán thời giải thoát, còn ba thừa đều có A-la-hán bất thời giải thoát.

Có duyên riêng khác: Tức hai thứ giải thoát bằng nhau. Nghĩa là hai thứ giải thoát này đều cùng lìa hết phiền não, đều là thân vô học thanh tịnh thuộc Thánh đạo.

Lại nữa, thời giải thoát thì kém nên phải nêu đặt năm thứ, còn bất thời giải thoát thì thù thắng nên kiến lập một thứ. Như hiện nơi đời này hàng vua chúa, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, các bậc giàu sang thì số lượng rất ít, còn đám dân nghèo khổ thì số lượng rất nhiều.

Lại như ở thế gian, hàng Phật, Độc giác và Thanh văn đạt đến cứu cánh thì rất ít, còn hạng Thanh văn thường thì rất đông. Lại như nơi thế gian, kẻ ngu tối thì nhiều, còn người thông tuệ thì ít. Lại như nơi thế gian, người hành thiện thì ít, kẻ gây ác thì nhiều. Lại như nơi thế gian, hạng chánh kiến thì ít, hạng tà kiến thì nhiều. Lại như nơi thế gian, người đẹp đẽ thì ít, còn kẻ thô xấu thì đông. Lại như nơi thế gian, người hiền hòa thì ít, đám hung dữ thì nhiều. Thế nên, cả năm thứ A-la-hán yếu kém trước hợp lại gọi là thời giải thoát. Còn A-lahán thứ sáu là thù thắng nên gọi riêng là bất thời giải thoát.

Lại nữa, năm thứ A-la-hán trước ở đời dễ có được, nên hợp lại một nhóm, gọi là thời giải thoát. Còn A-la-hán thứ sáu ở đời thật khó được, nên lập riêng một thứ, gọi là bất thời giải thoát. Như ở đời hiện nay, người đi đến nơi Trung Hoa hoặc nước Chấp Sư Tử mà trở về thì rất ít, còn kẻ đi quanh xóm làng gần mà trở về thì rất nhiều. Đây cũng như thế.

Lại nữa, năm thứ A-la-hán trước không dùng nhiều công sức, không hành trì nhiều gia hạnh, không tác ý nhiều để đạt được, nên hợp lại lập thành một thứ gọi là thời giải thoát. Còn A-la-hán thứ sáu trái với các điều trên, nên lập riêng một thứ gọi là bất thời giải thoát.

Lại nữa, năm thứ A-la-hán trước có tăng có giảm nên hợp thành một thứ gọi là thời giải thoát. Còn A-la-hán thứ sáu không tăng không giảm nên lập riêng một thứ, gọi là bất thời giải thoát. Ở đây, nói tăng tức là tiến lên, còn giảm tức là thoái chuyển.

HẾT – QUYỂN 101