LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 150

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ XÚC, phần 2

Hỏi: Nếu khi thiên nhãn hiện tiền, thì nhãn sinh đắc bị đoạn dứt chăng? Nếu bị đoạn dứt thì vì sao không có sắc dị thục sinh đoạn dứt rồi lại nối tiếp?

Do người tạo A-tỳ-đạt-ma không muốn khiến sắc dị thục sinh đoạn dứt rồi nối tiếp. Nếu không đoạn dứt thì thiên nhãn và nhãn sinh đắc, cả hai cùng thấy sắc, làm sao không lầm lẫn, rối loạn?

Đáp: Nên nói là không đoạn dứt, do sắc dị thục đoạn rồi không còn nối tiếp. Thế nên Tôn giả Diệu Âm hỏi như vầy: Khi thiên nhãn hiện tiền thì nhãn sinh đắc nên nói là đoạn hay không đoạn? Đáp: Nên nói là không đoạn. Tức ở nơi xứ có đại chủng của sắc giới và thiên nhãn được tạo cùng hiện tiền.

Hỏi: Nếu vậy thì thiên nhãn và nhãn sinh đắc cả hai cùng nhìn thấy sắc, vì sao không lầm lẫn, rối loạn?

Đáp: Khi thiên nhãn khởi thì nhãn sinh đắc trụ nơi đồng phần của nó, nên không có lỗi. Ví như thức khác khi hiện tiền, tuy không thấy sắc, nhưng mắt không bị đoạn dứt. Đây cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao không cùng thấy?

Đáp: Do trong một thân không có hai thức cùng khởi. Khi ấy, thức dựa vào thiên nhãn, không dựa vào nhãn sinh đắc.

Có thuyết nói: Có sắc không phải là cảnh của nhãn sinh đắc, vì thấy sắc ấy nên khởi thiên nhãn hiện tiền, lúc đó nhãn sinh đắc tuy không đoạn, nhưng do không dùng đến thế nên không cùng thấy.

Có thuyết cho: Khi thiên nhãn khởi, nhãn sinh đắc đoạn.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao không có sắc dị thục sinh đoạn rồi có thể nối tiếp? Như vậy thời trái với thuyết của người tạo A-tỳ-đạtma chăng?

Đáp: Đoạn có hai thứ: 1. Đoạn tạm thời. 2. Đoạn rốt ráo. Đoạn tạm thời là có thể nối tiếp, không phải đoạn rốt ráo, thế nên không có lỗi.

Có thuyết nêu: Bấy giờ nhãn sinh đắc diệt, thiên nhãn sinh. Thiên nhãn diệt nhãn sinh đắc sinh. Trong thân, nhãn căn chưa từng là không có, nên không thể cho là đoạn.

Có thuyết biện: Khi ấy, nhãn sinh đắc đoạn cũng không có lỗi. Cũng có sắc dị thục sinh đoạn rồi nối tiếp. Làm sao biết như thế? Như Khế kinh nói: Nhất Thiết Thí Vương, khi ấy đưa tay tự móc lấy hai mắt thí cho Bà-la-môn. Do tư nguyện thù thắng nên khiến mắt bình phục.

Lại như kinh nói: Ác hành khi ấy lấy móc sắt Khiết-địa-la móc lấy mắt của Thiện hạnh. Cũng do tư nguyện thù thắng của Bồ-tát nên nhãn căn trở lại như cũ.

Luận Thi Thiết nói: Ở địa ngục có núi đè bẹp hữu tình khiến thân nát bấy, sau đó không lâu, các căn lại sinh. Trong các địa ngục loại như vậy không phải là một. Nên biết sắc dị thục sinh đoạn rồi có thể nối tiếp.

Nên nói như thế này: Khi khởi thiên nhãn nhãn sinh đắc không diệt. Sắc dị thục đoạn cũng không có nghĩa nối tiếp.

Hỏi: Những chuyện trước đã nêu dẫn làm sao thông suốt?

Đáp: Chúng không chống trái nhau, vì đều có nghĩa riêng. Tức như chuyện nói về Nhất Thiết Thí Vương. Khi ấy, chỉ do tâm thí thành tựu đầy đủ, nên nói như vậy, thật sự là chưa móc mắt. Việc đó như thế nào?

Nghĩa là Đức Phật ngày xưa, khi còn làm Bồ-tát, từng làm quốc vương tên Nhất Thiết Thí, có khả năng làm thỏa mãn ý muốn của tất cả người đến cầu xin. Tên tuổi của ông cả hàng người, trời đều biết. Khi ấy trời Đế Thích biết việc này, nên suy niệm: Ông vua ấy tuệ thí không biết mệt mỏi như vậy là vì cầu Chánh đẳng Bồ đề vô thượng hay là mong cầu ngôi vị trời danh tiếng ở thế gian. Nếu cầu ngôi vị trời hoặc vì ta gây oán, phải nên đến đó thử nghiệm để biết ý nguyện bố thí kia.

Đế Thích liền hóa làm một người Bà-la-môn, đội mão có dây vàng lòng thòng, tay chống gậy vàng, đến trước chỗ vua, chú nguyện vua: Mong vua luôn là bậc tôn quý thù thắng.

Vua hỏi Phạm chí: Ông tới đây muốn xin thứ gì? Đáp: Tôi đến đây chính là cần dùng mắt của vua.

Vua liền đem bốn thứ báu làm mắt để cho, ông ta không nhận, nói: Tôi cần mắt, mấy thứ này đâu cần làm gì?

Nghe nói vậy, vua liền dùng hai tay định móc mắt. Trời Đế Thích đã biết sự quyết tâm thí của vua, nên liền ngăn, nói: Muốn cầu đạt thứ gì, nên có thể thí điều khó thí? Ông muốn cầu ngôi vua Phạm thiên, Đế Thích chăng? Hay cầu sự quy kính về danh tiếng của thế gian?

Vua nói: Những thứ ấy ta đều không mong cầu, ta chỉ cầu lìa khỏi sinh, lão, bệnh, tử, đạt bậc Ứng Chánh Đẳng Giác là sở nguyện của ta.

Nghe xong, Đế Thích liền hiện nguyên hình, tán thán vua: Đại vương là bậc Bồ-tát chân thật, không bao lâu nhất định đạt được quả vị Bồ đề Vô thượng. Nói rồi, liền biến mất.

Như thế, khi đó thật sự chưa móc mắt.

Lại như việc dẫn kinh Thiện Ác Hạnh. Nhãn căn của Thiện Hạnh là chủng tử hữu dư do tư nguyện thù thắng nên viên mãn hơn trước. Trong các địa ngục cũng đồng với cách giải thích ấy.

Nếu là chủng tử vô dư thì không thể sinh, cho nên sắc dị thục đoạn dứt không nối tiếp là có lý. Do vậy, khi thiên nhãn hiện tiền thì nhãn sinh đắc không đoạn.

Hỏi: Như sinh nơi cõi dục khởi thiên nhãn thì sinh nơi cõi sắc cũng khởi chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Không khởi. Do trong cõi sắc, chỗ thấy được nhiều hay ít là tùy theo nhãn sinh đắc. Nhãn tu đắc cũng như vậy, không có tác dụng riêng, cho nên không khởi.

Nên nói như vầy: Là cũng khởi hiện tiền.

Hỏi: Cùng với nhãn sinh đắc đồng l1 lại có dụng gì?

Đáp: Muốn hiện bày thông tuệ diệu dụng nên khởi hiện tiền. Lại, thân trung hữu không có cảnh của nhãn sinh đắc, nên khởi thiên nhãn nhìn xem trung hữu có khác biệt.

Hỏi: Sinh nơi cõi dục nên thiên nhãn khởi là hơn hay sinh nơi cõi sắc khởi thiên nhãn là hơn?

Đáp: Khởi từ cõi dục mãnh liệt, nhạy bén nên hơn. Nghĩa là Đức Phật, Độc giác, Thanh văn đạt đến cứu cánh, khởi thiên nhãn có tác dụng mạnh mẽ, nhạy bén, không phải sinh nơi cõi sắc có thể hiện tiền. Nơi cõi sắc chỗ khởi, chỗ dựa nên hơn. Nghĩa là nơi ấy dựa vào thân rộng lớn, thắng diệu nên thiên nhãn được khởi là nhiều, hết sức vi diệu, không phải là mắt trong cõi dục có thể khởi được. Tức hai cõi khởi, mỗi cõi đều có hơn, kém.

Hỏi: Thiên nhãn tu đắc và nhãn sinh đắc có gì khác nhau?

Đáp: Tên gọi là khác nhau. Tức gọi là thiên nhãn, là nhãn sinh đắc.

Có thuyết nói: Thể cũng có khác. Nghĩa là nhãn sinh đắc có đồng phần và bỉ đồng phần, còn thiên nhãn tu đắc chỉ là đồng phần. Lại, nhãn sinh đắc chung cho cả sự nuôi lớn và dị thục sinh, còn thiên nhãn tu đắc chỉ có sự nuôi lớn.

Có thuyết nêu: Nhân cũng có khác. Nghĩa là nhãn sinh đắc là quả của nghiệp, còn thiên nhãn tu đắc là quả của tu tập.

Hỏi: Vậy nhãn không sinh đắc cũng là quả của tu tập chăng?

Đáp: Nó có phần ít là tu quả của tu tập, phần ít là sinh đắc tức là quả dị thục của trí. Thiên nhãn chỉ là quả của tu tập.

Có thuyết cho: Thiên nhãn do lực tác ý của gia hạnh nên mới được hiện tiền. Còn nhãn sinh đắc thì không như vậy.

Có thuyết nêu: Quả cũng có khác. Nghĩa là nhãn sinh đắc làm nơi nương dựa cho thức thiện, nhiễm, vô ký. Còn thiên nhãn tu đắc chỉ làm nơi nương dựa cho thức vô ký.

Có thuyết biện: Cảnh cũng có khác. Nghĩa là nhãn sinh đắc không thấy trung hữu. Còn thiên nhãn tu đắc có thể thấy trung hữu.

Có thuyết nói: Dụng cũng có khác. Nghĩa là thiên nhãn tu đắc đối với nhãn sinh đắc, tác dụng của nó là bừng sáng, vi diệu, thù thắng, thanh tịnh, minh bạch, nhạy bén, vi tế, nên có khác nhau.

Hỏi: Một niệm được khởi có bao nhiêu quả thông?

Đáp: Các hữu tình muốn khiến không lưu lại sự việc biến hóa, thiên nhãn, thiên nhĩ không có đồng phần kia, họ nói một niệm chỉ khởi một quả thông, nghĩa là năm thông tùy theo một.

Các hữu tình muốn khiến có lưu lại sự việc biến hóa, thiên nhãn, thiên nhĩ không có đồng phần kia, họ nói một niệm khởi được hai quả thông là của thần cảnh thông và bốn thông còn lại tùy theo một.

Các hữu tình muốn khiến có lưu lại sự việc biến hóa, thiên nhãn, thiên nhĩ có đồng phần kia, họ nói một niệm được khởi bốn quả thông, là quả thần cảnh thông, thiên nhãn, thiên nhĩ và hai thứ còn lại tùy theo một, là tha tâm thông, túc trụ tùy niệm thông. Cảnh giới nơi mỗi thứ đều khác nên không cùng khởi.

Nên nói như vầy: Nên biết thuyết thứ hai nêu ra là đúng, do sự biến hóa có thể lưu lại, thiên nhãn, thiên nhĩ tất không đồng phần kia, chủ yếu là khi dùng mới hiện tiền.

Hỏi: Cõi dục biến hóa sắc có bốn thứ là quả của tĩnh lự thứ nhất, cho đến quả của tĩnh lự thứ tư. Thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ nhất, là có thể thấy đủ hết bốn thứ sắc chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Thấy đủ hết vì đều thuộc về sắc xứ của cõi dục.

Có thuyết nêu: Chỉ thấy quả của tĩnh lự thứ nhất không phải là thứ khác. Do nhân hơn hẳn, như nhân không phải là cảnh, quả, cũng nên như vậy.

Thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ hai, có thể thấy được sắc nơi quả của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, không phải là thứ khác.

Thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ ba, có thể thấy được sắc nơi quả của ba tĩnh lự trước, không phải là thứ khác.

Thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ tư, có thể thấy được sắc nơi quả của bốn tĩnh lự.

Nên nói như vầy: Nghĩa là như thuyết thứ nhất nói thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ nhất có thể thấy sắc của tĩnh lự thứ nhất, cõi dục, cho đến thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ tư, có thể thấy sắc của bốn tĩnh lự, cõi dục.

Hỏi: Thiên nhãn có được do dựa vào tĩnh lự thứ tư có thể thấy sắc của bốn tĩnh lự, cõi dục: Là thấy sắc của cõi dục, mắt tức thấy sắc nơi địa khác, hay là khởi thêm mắt khác nữa để thấy sắc nơi địa khác? Nếu thấy sắc nơi cõi dục, mắt tức thấy sắc nơi địa khác, thì sao một mắt có thể thấy hai cảnh thô tế được? Nếu khởi thêm mắt khác để thấy sắc của địa khác thì thiên nhãn của tĩnh lự thứ tư nên có năm loại vì mỗi thứ chỉ thấy sắc của một địa. Tức không nên nói: Thiên nhãn của địa này lấy năm địa là cảnh.

Đáp: Có thuyết nói như vầy: Tức thấy sắc nơi cõi dục là mắt có thể thấy các sắc nơi địa khác.

Hỏi: Làm sao một mắt có thể thấy hai cảnh thô tế?

Đáp: Đây cũng không có lỗi. Như khi nhìn quả núi lớn, tức các sắc thô, tế cùng lúc có thể thấy. Thấy sắc thô là như thấy cả ngàn cành của đại thọ. Thấy sắc tế là như thấy cỏ thấp nhỏ ở khoảng giữa. Như vậy, nơi tĩnh lự thứ tư, một mắt có thể thấy các sắc của năm địa thì đâu có lỗi gì?

Có sư khác cho: Thấy sắc của cõi dục là mắt khác, cho đến thấy sắc của tĩnh lự thứ tư là mắt khác.

Hỏi: Nếu vậy thì thiên nhãn của tĩnh lự thứ tư nên có năm loại, mỗi thứ đều chỉ thấy sắc của một địa, tức không nên nói: Thiên nhãn của địa này lấy năm địa làm cảnh?

Đáp: Thiên nhãn của một địa có năm loại riêng cũng không có lỗi. Căn cứ nơi chủng loại của địa để nói chung về một mắt thấy cảnh của năm địa, chẳng phải là không ở trong chỗ thấy đều khác. Như nơi chương Định Uẩn nói: Dựa vào tĩnh lự thứ nhất dẫn phát thiên nhãn thì tột cùng nơi khả năng thấy là sắc thuộc xứ nào? Đáp: Cho đến thuộc xứ Phạm thế.

Dựa vào tĩnh lự thứ hai dẫn phát thiên nhãn thì tột cùng nơi khả năng thấy là sắc thuộc xứ nào? Đáp: Cho đến thuộc xứ Cực quang tịnh.

Dựa vào tĩnh lự thứ ba dẫn phát thiên nhãn thì tột cùng nơi khả năng thấy là sắc thuộc xứ nào? Đáp: Cho đến thuộc xứ Biến tịnh.

Dựa vào tĩnh lự thứ tư dẫn phát thiên nhãn thì tột cùng nơi khả năng thấy là sắc thuộc xứ nào? Đáp: Cho đến thuộc xứ Quảng quả.

Hỏi: Bên cạnh thì thấy tột cùng được bao nhiêu?

Đáp: Có thuyết nói: Như thấy ở trên.

Có thuyết cho: Bên cạnh thấy thì rộng.

Nên nói như vầy: Văn ấy chỉ nói thấy ở trên có sai biệt, không nói cảnh bên cạnh. Nhưng tùy theo thế mạnh của căn nên thấy bên cạnh không nhất định, có xa có gần, như những chỗ khác nói.

Luận Thi Thiết nói: Như nơi trời Tứ Đại vương chúng, do trí, do thấy nên hiểu rõ nơi người. Người đối với trời Tứ Đại vương chúng thì không thể như thế, trừ người tu tập có thần thông hoặc nhờ uy lực của kẻ khác. Cho đến trời Tha Hóa Tự Tại, đối với người cũng như vậy.

Nghĩa là nơi trời Tứ Đại vương chúng v.v… cũng là cảnh của mắt người, có cõi cùng một hệ thuộc, nhưng do hết sức xa nên không thể thấy. Nếu được thần thông tự có thể tới nơi để thấy. Hoặc là nhờ sức của kẻ khác dẫn đến cõi ấy để có thể nhìn xem.

Hỏi: Nếu trời kia tới đây có thể thấy chăng?

Đáp: Thấy.

Hỏi: Nếu vậy vì sao trong phần kia không nói?

Đáp: Cảnh giới ít nên không nói.

Lại nữa, đây tức thuộc sức dẫn của nơi khác, nên không nói riêng.

Lại, Luận kia nói: Như cõi trời Phạm chúng, do trí, do thấy nên hiểu biết đối với người. Người đối với trời Phạm chúng thì không thể như thế, trừ người tu tập có thần thông, hoặc nhờ uy lực của kẻ khác. Cho đến trời Sắc Cứu Cánh, đối với người cũng như vậy.

Hỏi: Luận kia đã nói: Trừ người có tu tập, lời ấy chấp nhận được. Vì sao nói trừ người có thần thông hay nhờ uy lực của kẻ khác? Vì sao? Vì tuy có thần thông hoặc uy lực của kẻ khác dẫn đến trời kia, nếu không có thiên nhãn thì không thể thấy. Còn như nếu có thiên nhãn, tuy không tới xứ đó, cũng có thể thấy được?

Đáp: Luận kia chỉ nên nói là trừ có người tu tập, nhưng lại có thêm lời ấy là có ý sâu xa riêng. Nghĩa là dựa vào phương khác nơi Phạm thiên để nói. Sắc của phương khác nơi Phạm thiên cũng là cảnh giới của thiên nhãn được dẫn phát dựa vào tĩnh lự thứ nhất v.v… ở phương này, nhưng do hết sức xa nên tuy được mắt ấy cũng vẫn không thể thấy. Nếu tự có thần thông hay nhờ sức của kẻ khác dẫn tới đó mới có thể dùng thiên nhãn để thấy. Trừ người có tu tập là nói để làm sáng tỏ chỗ đạt được thiên nhãn. Nói hai câu sau là để làm rõ nhân của việc tới đó. Do vậy, chỗ Luận kia đã nói là có ý sâu xa riêng.

Luận Thi Thiết lại nói: Trong tĩnh lự thứ nhất có ba thiên xứ, là trời Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm.

Hỏi: Như vậy ba xứ trời ấy đều cùng thấy nhau chăng?

Đáp: Chúng đều cùng thấy nhau.

Hỏi: Như Khế kinh nói làm sao thông? Như nói: Phạm vương có được tự thể như hình tượng đồng tử, không phải là cảnh giới của thiên nhãn thuộc Phạm chúng.

Đáp: Đó là cảnh giới mắt của vị ấy, nhưng Đại Phạm vương dùng sức thần thông ngăn chận khiến chúng kia không thấy.

Tĩnh lự thứ hai có ba thiên xứ, là trời Thiểu quang, Vô lượng quang, Cực quang tịnh.

Hỏi: Như vậy ba xứ trời ấy đều cùng thấy nhau chăng?

Đáp: Chúng đều cùng thấy nhau.

Tĩnh lự thứ ba có ba thiên xứ, là trời Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh.

Hỏi: Như vậy ba xứ trời ấy đều cùng thấy nhau chăng?

Đáp: Chúng đều cùng thấy nhau.

Tĩnh lự thứ tư có tám thiên xứ, là trời Vô vân, Phước sinh, Quảng quả, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh.

Hỏi: Như vậy tám xứ trời ấy là đều cùng thấy nhau chăng?

Đáp: Chúng đều cùng thấy nhau do cùng một hệ thuộc.

Luận Pháp Uẩn nói: Giáp vòng của mắt có thời có phần. Ở cõi sắc, thiên nhãn do đại chủng tạo, thanh tịnh hiện tiền, do thiên nhãn này có thể thấy trước sau, hai bên, trên dưới, có các sắc sai khác. Thấy các sắc trước sau, hai bên: Là mọi cản trở của đá, vách v.v… đều không che khuất. Thấy các sắc bên dưới: Là đất hay nước cũng không ngăn che. Thấy các sắc bên trên: Là không có mây mù nào có thể ngăn che.

Hỏi: Thiên nhãn như vậy có thể cùng một lúc thấy tức khắc các cảnh sắc của mười phương chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Có thể thấy, do căn của thiên nhãn sáng rõ, trong suốt, tự nhiên chiếu khắp, như ngọc báu ma ni phát sáng trùm khắp.

Có thuyết cho: Không thể cùng lúc thấy tức khắc được.

Hỏi: Vậy điều nơi Luận Pháp Uẩn nói làm sao thông?

Đáp: Luận ấy nói là thiên nhãn không bị cản trở nơi các phương, không phải cho là có thể cùng lúc thấy tức khắc khắp hết. Nghĩa là mắt người v.v… chỉ có thể thấy sắc theo chỗ hướng tới của mặt, muốn thấy các phía khác phải xoay trở, cúi ngước mới thấy. Thiên nhãn thì không như vậy. Mặt hướng về một phương, nhưng tùy theo ý muốn có thể thấy không cần phải xoay chuyển. Cho nên nói: Có thể trông thấy các phương trên, dưới, không phải cho là thấy mười phương trong cùng một lúc.

Có thuyết nói: Ý tịnh nên có thể thấy.

Hỏi: Ý tịnh là tín, tức tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng, không phải là thể của thấy, làm sao có thể thấy được?

Đáp: Đó là dựa vào ý căn không bị quấy đục theo mật ý mà nói. Nghĩa là nếu khi ý căn không dong ruổi, tán loạn, lìa mọi quấy đục, có thể khiến cho nhăn căn thấy sắc sáng tỏ, nên nói như vậy.

Có thuyết cho: Do thắng giải nên thấy.

Hỏi: Nói thắng giải là tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng, không phải là thể của thấy, làm sao có thể thấy?

Đáp: Là dựa theo ý lạc của Sư Du Già an lập nên nói như vậy. Nghĩa là Sư Du Già khởi ý lạc như vầy: Khiến ta trong một niệm thấy sắc nơi mười phương. Nhưng khả năng thấy sắc không phải là thắng giải.

Lại, Luận Thi Thiết nói như vầy: Những người hiện nhập định biến xứ màu xanh, khi từ định ấy khởi, thấy tất cả đều màu xanh.

Lại, do nhiều thời trụ trong rừng xanh, sau đó đến nơi khác thì thấy đều là màu xanh. Dựa vào đấy nên nói do thắng giải nên thấy.

Có thuyết cho: Nhãn căn của người chuyển thành thiên nhãn thì có thể thấy không bị cản trở. Đây là chỗ lập của ngoại đạo Số luận. Phái ấy nói như vầy: Thiên nhãn khởi lên tức là nơi mắt người luôn rèn tập, chuyển đổi, trở thành sáng sạch, thù thắng, so với trước lập dùng thiên (Thiên nhãn) để gọi. Như đi trong rừng xanh nơi Trung Ấn Độ hoặc trải qua hàng tuần cho đến luôn rèn tập, nên mở mắt ra là thấy toàn màu xanh. Khi tu tập thiên nhãn cũng lại như thế.

Nếu như vậy thì người mù tức nên không thể tu thiên nhãn thông này. Như thế là trái với Thánh giáo và những việc hiện thấy. Lại, pháp vô thường thì thế nào là chuyển biến? Hết thảy thiên nhãn đều gọi là không có đối. Tức các vật như đá, vách v.v… đều không thể ngăn cản.

Hỏi: Tất cả thiên nhãn khi thấy sắc là có bị chướng ngại chăng? Nếu có bị chướng ngại vì sao nói là không đối? Nếu không bị chướng ngại làm sao trụ nơi sắc kia?

Đáp: Trong việc thấy sắc, nên nói là có chướng ngại.

Hỏi: Nếu vậy vì sao nói là không đối?

Đáp: Đối có hai thứ: Một là cảnh giới có đối. Hai là chướng ngại có đối. Nếu dựa vào cảnh giới có đối thì thiên nhãn gọi là có đối, ở nơi cảnh giới của chính nó không thể vượt qua. Nếu dựa vào chướng ngại có đối, thì thiên nhãn gọi là không có đối, các thứ chướng ngại như đá, vách v.v… đều không thể ngăn cản. Đây là căn cứ nơi tác dụng của cảnh mà nói. Nếu căn cứ nơi tự thể thì cũng thuộc về chướng ngại có đối, do tánh hết sức vi tế.

Lại, các thiên nhãn ở trong cảnh giới thì các Sư Du Già tùy theo dục tự tại. Đối với chỗ thấy theo dục thì có đối ngại. Đối với chỗ thấy không theo dục thì không đối ngại.

Hết thảy thiên nhãn sáng rõ tăng thượng do ánh sáng dẫn phát.

Hỏi: Thiên nhãn khi muốn thấy sắc trong chỗ tối làm sao có thể thấy?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là do thần thông dẫn khởi ánh sáng nên có thể trông thấy các sắc kia. Điều này không hợp lý. Không được thần thông tức nên không thể tu khởi thiên nhãn. Nên nói như vầy: Khi mới dẫn khởi thông, nếu lìa ánh sáng thì không thể thấy sắc.

Khi thông đã thành đầy đủ, nếu lìa ánh sáng cũng có thể thấy sắc.

Hỏi: Thần thông, thiên nhãn cùng có ánh sáng, có gì khác nhau?

Đáp: Ánh sáng của thần thông, hoặc do tự tánh mà có, hoặc do biến hóa mà có. Còn ánh sáng của thiên nhãn chỉ là tự tánh mà có.

Có thuyết nói như vầy: Ánh sáng của thiên nhãn hoặc từ tự tánh mà có, hoặc do biến hóa mà có. Còn ánh sáng của thần thông chỉ do biến hóa mà có.

Trong các Tố-đát-lãm (Kinh) Tỳ-nại-da (Luật) đều nói: Bồ-tát thành tựu thiên nhãn dị thục sinh, đêm ngày đều thấy cách mặt hàng do-tuần.

Hỏi: Bồ tát đã thành mắt dị thục sinh thật sự không phải là thiên nhãn, vì sao lập tên gọi này?

Đáp: Nhãn căn của Bồ-tát, thể dụng đều thù thắng. Như ở thế gian sự việc hơn hẳn đều giả lập là thiên (Trời).

Hỏi: Các hữu tình khác cũng có khả năng thấy xa về mặt trời, mặt trăng, núi v.v…, Bồ-tát chỉ thấy xa cách mặt hàng do-tuần sao gọi là vượt hơn?

Đáp: Như chỗ thường thấy kia, Bồ-tát cũng có thể thấy cách mặt hàng do-tuần là căn cứ nơi không bị chướng ngại mà nói. Nghĩa là nơi xứ không bị chướng ngại, các hữu tình khác tuy có thể thấy xa, nhưng nếu có chướng ngại thì vật để trong lòng bàn tay cũng không thể thấy. Bồ-tát thì không như vậy. Thấy cách mặt hàng do-tuần, dù nơi chốn có chướng ngại hay không đều có thể thấy suốt được cả.

Lại, hữu tình khác tuy có thể thấy xa nhưng chỉ thấy vật thô, không thấy vật vi tế. Bồ-tát không như thế, cách mặt hàng do-tuần cho đến đầu sợi lông cũng có thể thấy như thường.

Lại, hữu tình khác tuy có thể thấy xa nhưng chỉ thấy vào ban ngày, ban đêm thì không thấy. Bồ-tát không như vậy, cách mặt hàng do-tuần dù đêm hay ngày đều thấy.

Có thuyết nêu: Đối với chỗ thấy xa gần của hữu tình khác, Bồtát vượt hơn họ một do-tuần, nên nói như vậy.

Hỏi: Bồ-tát thành tựu tịnh nhãn như vậy, nên thấy thân nữ đầy những bất tịnh, do duyên ấy nên có sự nhiễm tập chăng?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Bồ-tát, phiền não chưa dứt hết, chưa nhận biết khắp, thế nên còn bị vô minh làm mê hoặc, không nên nêu vấn nạn. Như không nên nêu vấn nạn về kẻ vô minh, kẻ ngu tối bị rơi hầm.

Có thuyết cho: Bồ-tát nhiễm tập là khi không quán bất tịnh. Khi quán bất tịnh thì không nhiễm tập.

Có thuyết nêu: Đời trước Bồ-tát đã từng vun trồng nghiệp thọ dụng thù thắng, đối với những gì thọ dụng không thấy bất tịnh, đối với những gì không thọ dụng liền thấy bất tịnh.

Nên nói như vầy: Bồ-tát thành tựu trí tuệ dũng mãnh sắc bén, khéo quán xét về công đức và lỗi lầm khác nhau. Thân các người nữ cũng gồm chứa đủ công đức và lỗi lầm. Bồ-tát khi quán xét phần công đức kia, thì vượt trên mọi tham đắm vướng mắc về dục. Nếu khi quán xét về phần lỗi lầm thì hơn hẳn tất cả người quán bất tịnh. Quán về công đức kia nên có nhiễm tập.

Hỏi: Mắt của Chuyển luân vương có thể thấy xa tới đâu?

Đáp: Làm vua bốn châu cách mặt đều có thể thấy bốn câu-lô-xá. Cho đến làm vua một châu cách mặt đều có thể thấy một câu-lô-xá.

Hỏi: Mắt của quan chủ kho báu có thể thấy xa tới đâu?

Đáp: Quan của vua bốn châu thấy ba câu-lô-xá. Cho đến quan của vua một châu thấy nửa câu-lô-xá. Như Khế kinh nói: Luân vương có lúc muốn thử uy lực của quan chủ kho báu xem như thế nào. Vua giong thuyền đi chơi trên sông Hằng, liền ra lệnh: Nay ta cần châu báu. Quan giữ kho báu vâng dạ xin trở về lo liệu. Vua không vui, nói:

Chính ngươi phải dâng lên ngay ở đây. Quan giữ kho báu hoảng hốt liền lấy hai tay khuấy mạnh trong nước, đúng lúc lấy ra đủ các thứ châu báu đem dâng lên vua, thưa: Bệ hạ cần thứ gì chọn lấy, thứ nào không cần dùng bỏ lại xuống nước.

Hỏi: Mắt của Luân vương hơn mắt của quan chủ kho báu, vì sao không tự chọn lấy lại bảo quan kia chọn lấy?

Đáp: Các bậc tôn thắng theo pháp nên như thế. Như các bậc tôn quý khác, tuy có thể tự nhận biết về thức ăn uống, y phục, những thứ cần dùng cho đời sống hiện có ở đâu, nhưng họ đều không tự lấy, ở đây cũng như vậy.

Có Sư khác nêu: Các Chuyển luân vương đời trước đã tích tập nghiệp chiêu cảm bề tôi hầu hạ. Nghiệp ấy nay đã chín muồi, nên cần những thứ gì đều có bề tôi hiến lên. Nếu vua tự lấy thì nghiệp kia không có giá trị.

Hỏi: Nhân luận sinh luận: Thế nào gọi là các Chuyển luân vương tạo nghiệp chiêu cảm bề tôi hầu hạ?

Đáp: Cha mẹ, sư trưởng theo như pháp dạy bảo luôn kính thuận không trái ấy là nghiệp này. Nếu trước từng hành tập nghiệp như vậy thì chiêu cảm được nhiều kẻ hầu hạ, muốn thứ gì đều được có đủ.

Hỏi: Từng nghe nước sông Hằng có nơi sâu tới một do-tuần, làm sao quan chủ kho báu đưa tay đụng tới đáy sông để lấy các vật báu?

Đáp: Do sức tăng thượng nơi nghiệp của Chuyển luân vương nên khiến vật báu vọt lên.

Có thuyết nói: Thần Dược-xoa, Kiền-đạt-phược mang vật báu đến trao cho.

Có thuyết biện: Luôn có mười ngàn thiên thần đi theo quan chủ kho báu để cấp trao theo lệnh sai khiến.

Hỏi: Vì sao quan chủ kho báu tâu vua: Những thứ vật báu nào không cần dùng thì bỏ lại xuống sông?

Đáp: Là hiển bày nghiệp quả của vua là không thể nghĩ bàn. Mọi thứ cần dùng tùy theo nơi đều có được, không giống với vua khác, sợ duyên của thân mạng có thiếu hụt, nên trong thời gian dài có tích chứa.

Hỏi: Thiên nhãn của Phật, Độc giác, Thanh văn có thể thấy được bao nhiêu thế giới sắc?

Đáp: Thiên nhãn của Thanh văn không tạo gia hạnh thì thấy được Tiểu thiên thế giới. Nếu tạo gia hạnh thì thấy được Trung thiên thế giới. Thiên nhãn của Độc giác không tạo gia hạnh thì thấy được Trung thiên thế giới. Nếu tạo gia hạnh thì thấy được Đại thiên thế giới. Thiên nhãn của Đức Thế Tôn không tạo gia hạnh thì thấy Đại thiên thế giới. Nếu tạo gia hạnh thì có thể thấy Vô lượng vô biên thế giới.

Như thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông v.v… cũng như vậy.

***

* Địa ngục thành tựu bao nhiêu căn? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao ở đây chỉ nói thành tựu về phần vị hết sức nhiều, hết sức ít, chẳng phải phần vị khác?

Đáp: Do ý của người tạo luận muốn như vậy, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Là nhằm trừ lỗi do văn tạp loạn. Nghĩa là nếu nói đủ về tất cả phần vị thì văn tạp loạn khó có thể thọ trì, nên chỉ dựa vào biên vực nhiều ít nhất để nói.

Hỏi: Địa ngục thành tựu bao nhiêu căn? Bàng sinh cho đến các vô sắc. Tùy tín hành cho đến Câu giải thoát, thành tựu bao nhiêu căn?

Đáp: Địa ngục nhiều nhất là mười chín, ít nhất là tám. Mười chín nghĩa là trừ ba căn vô lậu, tức có đủ bảy sắc căn, do không đoạn điều thiện. Tám là thân, mạng, ý và năm thọ căn, tức mất sáu sắc căn, do đã đoạn điều thiện.

Bàng sinh nhiều nhất là mười chín, ít nhất là mười ba. Mười chín nghĩa là trừ ba căn vô lậu, tức có đủ bảy sắc căn. Mười ba là thân, mạng, ý, năm thọ và năm căn như tín v.v…, tức lúc sắp mạng chung trước là bỏ sáu sắc căn.

Như nói về bàng sinh, quỷ giới cũng như vậy.

Người đoạn căn thiện nhiều nhất là mười ba, ít nhất là tám. Mười ba nghĩa là trừ một hình và năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu. Tám là thân, mạng, ý, năm thọ căn, tức khi sắp mạng chung, cùng nơi địa ngục đã mất sáu sắc căn.

Hạng tà định tụ nhiều nhất là mười chín, ít nhất là tám. Mười chín là như nhiều nhất của địa ngục. Tám là như phần ít nhất của hạng đoạn căn thiện. Trừ ở địa ngục đã mất sáu sắc căn.

Hạng chánh định tụ nhiều nhất là mười chín, ít nhất là mười một. Mười chín là trừ một hình và hai căn vô lậu, tức bậc Thánh chưa lìa nhiễm dục, không thiếu căn. Mười một là mạng, ý, ba thọ, năm căn như tín v.v…, một căn vô lậu, tức bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc.

Hạng bất định tụ nhiều nhất là mười chín, ít nhất là tám. Nhiều nhất là mười chín như nơi tà định tụ nhiều nhất. Tám là như kẻ đoạn căn thiện ít nhất, cùng phàm phu sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu mạng, ý, xả và năm căn như tín v.v…

Châu Thiệm Bộ nhiều nhất là mười chín, ít nhất là tám. Mười chín là hai hình, trừ ba căn vô lậu, và bậc Thánh chưa lìa nhiễm dục, trừ một hình, hai căn vô lậu. Tám là thân, mạng, ý, năm thọ căn, tức kẻ đoạn căn thiện khi sắp mạng chung.

Như châu Thiệm Bộ, châu Tỳ Đề Ha, Cù Đà Ni cũng như vậy.

Châu Câu Lô nhiều nhất là mười tám, ít nhất là mười ba. Mười tám là trừ một hình, ba căn vô lậu. Mười ba là thân, mạng, ý, năm thọ, năm căn như tín v.v…, tức phần vị khi sắp mạng chung. Châu kia không có Phiến sí bán trạch ca (Một trong năm loại bán trạch ca. Bán trạch ca: Hoàng môn, nam căn không đủ) không hình, hai hình. Kẻ đoạn căn thiện, tà định, chánh định và lìa nhiễm.

Trời Tứ Đại vương chúng (Trời Tứ Thiên Vương) nhiều nhất là mười chín, ít nhất là mười bảy. Mười chín là trừ một hình, hai căn vô lậu, tức bậc Thánh chưa lìa nhiễm dục. Mười bảy là trừ một hình, ưu căn, ba căn vô lậu, tức phàm phu đã lìa nhiễm dục.

Như trời Tứ Đại vương chúng, trời Ba Mươi Ba cho đến Tha Hóa Tự Tại cũng như vậy.

Trời Phạm chúng nhiều nhất là mười sáu, ít nhất là mười lăm. Mười sáu là trừ hai hình, hai thọ, hai căn vô lậu, tức là bậc Thánh kia. Mười lăm là trừ hai hình, hai thọ, ba căn vô lậu, tức là hàng phàm phu kia.

Như trời Phạm chúng, trời Cực quang tịnh cũng như vậy.

Trời Biến tịnh nhiều nhất là mười sáu, ít nhất là mười bốn. Mười sáu là như nói ở trước. Mười bốn là trừ hai hình, ba thọ, ba căn vô lậu, tức là phàm phu kia.

Trời Quảng quả nhiều nhất là mười sáu, ít nhất là mười ba. Mười sáu là như nói ở trước. Mười ba là trừ hai hình, bốn thọ, ba căn vô lậu, tức là phàm phu kia.

Trung hữu nhiều nhất là mười chín, ít nhất là mười ba. Mười chín là hai hình, trừ ba căn vô lậu, cùng bậc Thánh chưa lìa nhiễm dục, trừ một hình, hai căn vô lậu. Mười ba là kẻ đoạn căn thiện, trừ một hình, năm căn như tín v.v…, ba căn vô lậu và phàm phu của trời Quảng quả, trừ hai hình, bốn thọ, ba căn vô lậu.

Các vô sắc nhiều nhất là mười một, ít nhất là tám. Mười một là mạng, ý, ba thọ, năm căn như tín v.v…, một căn vô lậu, tức là bậc Thánh kia. Tám là mạng, ý, xả, năm căn như tín v.v…, tức là phàm phu kia.

Hàng Tùy tín hành nhiều nhất là mười chín, ít nhất là mười ba. Mười chín là trừ một hình, hai căn vô lậu, tức hàng trụ nơi kiến đạo chưa lìa nhiễm dục. Mười ba là thân, mạng, ý, bốn thọ, năm căn như tín v.v…, một căn vô lậu, là hàng nhập kiến đạo đã lìa nhiễm dục, khi sắp mạng chung.

Hỏi: Vì sao ở phần vị này có thể nhập kiến đạo?

Đáp: Là hàng ái hành, trong một thời gian sống luôn chán sinh tử, khi sắp qua đời tiếp xúc với khổ thọ, tâm nhàm chán chuyển tăng nên có thể nhập kiến đạo.

Như Tùy tín hành, Tùy pháp hành cũng vậy.

Tín thắng giải nhiều nhất là mười chín, ít nhất là mười một. Mười chín là trừ một hình, hai căn vô lậu, tức Tín thắng giải chưa lìa nhiễm dục. Mười một là mạng, ý, ba thọ, năm căn như tín v.v…, một căn vô lậu, là hàng Tín thắng giải nơi cõi vô sắc.

Như Tín thắng giải, hàng Kiến chí cũng như vậy.

Hàng Thân chứng nhiều nhất là mười tám, ít nhất là mười một. Mười tám là trừ một hình, ưu căn, hai căn vô lậu, là hàng Thân chứng nơi cõi dục. Mười một là như phần ít nhất của Tín thắng giải đã nói.

Như Thân chứng, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát cũng như vậy. Nhưng Thân chứng thành tựu dĩ tri căn, còn hai giải thoát thì thành tựu cụ tri căn.

Hỏi: Nhãn căn cho đến tuệ căn khi được nhận biết khắp thì bao nhiêu căn được nhận biết khắp?

Đáp: Nhãn căn khi được nhận biết khắp, cho đến lìa nhiễm sắc, có năm căn được nhận biết khắp. Ở đây, nhận biết khắp là quả của ái kia đã đoạn trừ, nhận biết khắp, nên được mang tên là nhận biết khắp. Năm căn tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khi lìa nhiễm sắc thì chúng vĩnh viễn đoạn. Tuy ở phần vị này đoạn mười ba căn, nhưng chỉ có năm căn này được đoạn rốt ráo.

Như nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn cũng như vậy.

Nữ căn khi được nhận biết khắp, cho đến lìa nhiễm dục có bốn căn được nhận biết khắp. Bốn căn là nam, nữ, ưu, khổ. Tuy ở phần vị này đoạn mười chín căn, nhưng chỉ có bốn căn ấy là được đoạn rốt ráo.

Như nữ căn, nam căn, khổ căn, ưu căn cũng như vậy.

Mạng căn khi được nhận biết khắp, cho đến lìa nhiễm vô sắc, có tám căn được nhận biết khắp. Tám căn là mạng, ý, xả và năm căn như tín v.v…

Như mạng căn, ý căn, xả căn, năm căn như tín v.v… cũng như vậy.

Lạc căn khi được nhận biết khắp, cho đến lìa nhiễm nơi trời Biến tịnh, tức lạc căn được nhận biết khắp.

Hỷ căn khi được nhận biết khắp, cho đến lìa nhiễm nơi trời Cực quang tịnh, tức hỷ căn được nhận biết khắp.

Hỏi: Nhãn căn cho đến tuệ căn khi diệt tác chứng, có bao nhiêu căn diệt tác chứng?

Đáp: Nhãn căn khi diệt tác chứng, cho đến lìa nhiễm sắc, có năm căn diệt tác chứng. Cho đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng. Năm căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Mười chín là trừ ba căn vô lậu.

Như nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn cũng như vậy.

Nữ căn khi diệt tác chứng, cho đến lìa nhiễm dục, có bốn căn diệt tác chứng. Cho đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng. Bốn căn là năm, nữ, ưu, khổ. Mười chín là như nói ở trước.

Như nữ căn, nam, ưu, khổ căn cũng như vậy.

Mạng căn khi diệt tác chứng, cho đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng, như đã nói ở trên.

Như mạng căn, ý căn, xả căn, năm căn như tín v.v… cũng như vậy.

Lạc căn khi diệt tác chứng, cho đến lìa nhiễm nơi trời Biến tịnh, tức lạc căn diệt tác chứng. Cho đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng, như nói ở trên.

Hỷ căn khi diệt tác chứng, cho đến lùa nhiễm nơi trời Cực quang tịnh, là hỷ căn diệt tác chứng. Cho đến A-la-hán có mười chín căn diệt tác chứng, như đã nói ở trên.

Hỏi: Hai môn này có gì khác nhau?

Đáp: Các hữu tình muốn khiến đạo vô gián đoạn trừ trói buộc đạt được, đạo giải thoát chứng đắc lìa trói buộc đạt được, họ nói: Như tác dụng của đạo vô gián, môn nhận biết khắp cũng như vậy.

Như tác dụng của đạo giải thoát, môn tác chứng cũng như vậy.

Các hữu tình muốn khiến đạo vô gián đoạn trừ trói buộc đạt được, cũng chứng đắc lìa trói buộc đạt được, họ nói: Như đoạn trừ trói buộc đạt được, môn nhận biết khắp cũng như vậy. Như chứng đắc lìa trói buộc đạt được, môn tác chứng cũng như vậy.

Như đoạn trừ trói buộc đạt được, chứng lìa trói buộc đạt được, thì trừ lỗi lầm, tu công đức, bỏ thấp kém chứng thắng diệu, bỏ vô nghĩa được có nghĩa, diệt hết dầu mỡ ái dục, thọ nhận an lạc không nóng bức, nên biết cũng như vậy.

Có thuyết biện: Như đoạn, chưa đoạn, môn đầu cũng như vậy. Như chứng, chưa chứng, môn sau cũng như vậy.

Có thuyết cho: Như tác chứng đầu tiên, môn đầu cũng như vậy. Như tác chứng lần nữa, môn sau cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Như khi đoạn, tác chứng, môn đầu cũng như vậy. Như đoạn rồi tác chứng, môn sau cũng như vậy.

Đó gọi là chỗ khác nhau của nhận biết khắp và tác chứng.

HẾT – QUYỂN 150