LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 175

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ BẤT HOÀN, phần 2

* Như Khế kinh nói: Phật nói với các Bí-sô: Có bảy nẻo thiện sĩ, có thể tiến tới đoạn dứt các kiết khác, được bát Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao kiến lập bảy nẻo thiện sĩ? Là do quả Sa-môn của cõi, là do xứ sở của địa, hay là do phiền não của căn nên kiến lập? Nếu như vậy thì có lỗi gì?

Nếu do quả Sa-môn của cõi nên kiến lập thì chỉ nên nói một, là Bất hoàn hành cõi sắc.

Nếu do xứ sở của địa nên kiến lập thì chỉ nên nói bốn, hoặc mười sáu.

Nếu do phiền não của căn nên kiến lập thì chỉ nên nói có chín, vì các thứ kia đều có chín phẩm.

Đáp: Đều không dùng ba duyên đó để kiến lập, chỉ dùng phẩm sinh, bất sinh nơi hành trên để kiến lập bảy thứ. Nếu do đấy nên lập phẩm sinh thứ nhất, tức do đấy nên lập phẩm bất sinh thứ nhất. Nếu do đấy nên lập phẩm sinh thứ hai, tức do đấy nên lập phẩm bất sinh thứ hai. Nếu do đấy nên lập phẩm sinh thứ ba, tức do đấy nên lập phẩm bất sinh thứ ba.

Lại, do hành trên nghĩa vượt hơn nên lập thượng lưu là một. Do đấy nên kiến lập bảy nẻo thiện sĩ. Nghĩa là về sinh hoặc có siêng tu đạo, có mau chóng tiến đạo. Hoặc có siêng tu đạo không có mau chóng tiến tới đạo. Hoặc không có siêng tu đạo, không có mau chóng tiến đạo. Đầu tiên là thứ nhất, kế là thứ hai, sau là thứ ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Lại do hành trên nghĩa vượt hơn, nên lập thượng lưu là một. Do đấy nên lập bảy nẻo thiện sĩ.

Lại nữa, sinh có thượng căn, trung căn, hạ căn, như thứ lớp là ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói. Phiền não có sai biệt trái với đây nói cũng như vậy.

Lại nữa, sinh có đạo thượng phẩm, đạo trung phẩm, đạo hạ phẩm, như thứ lớp là ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói.

Lại nữa, sinh có nghiệp phẩm thượng, nghiệp phẩm trung, nghiệp phẩm hạ, như thứ lớp là ba. Đây là dựa nơi nghiệp vô lậu để nói. Nếu dựa nơi nghiệp hữu lậu để nói, thì điều nói sau là thứ nhất, điều tiếp theo là thứ hai, điều thứ nhất là thứ ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói.

Có thuyết cho: Sinh có tinh tấn tăng thượng cũng được thắng tuệ. Có tinh tấn tăng thượng không được thắng tuệ. Có được thắng tuệ không phải là tinh tấn tăng thượng. Như thứ lớp là ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói.

Có thuyết nói: Sinh có thường gia hạnh cũng có cùng lúc gia hạnh. Có thường gia hạnh không có cùng lúc gia hạnh. Có cùng lúc gia hạnh không có thường gia hạnh. Như thứ lớp là ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói.

Có thuyết nêu: Sinh có ở nơi sinh tử thấy lỗi lầm tai họa phẩm thượng. Có ở nơi sinh tử thấy lỗi lầm tai họa phẩm trung. Có ở nơi sinh tử thấy lỗi lầm tai họa phẩm hạ. Như thứ lớp là ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói. Đối với Niếtbàn tạo công đức thắng giải có sai biệt nói cũng như vậy.

Có thuyết nói: Sinh hoặc có Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na phẩm thượng. Hoặc có phẩm trung. Hoặc có phẩm hạ. Như thứ lớp là ba. Như sinh có ba thì bất sinh cũng như vậy. Ngoài ra như trước đã nói. Những căn thiện khác có sai biệt nói cũng như vậy.

Có thuyết cho: Đức Thế Tôn chỉ rõ: Từ bảy phần vị, bảy chủng tánh, bảy môn, bảy bậc, bảy dấu vết, bảy con đường, vượt Phi tưởng phi phi tưởng xứ dứt bỏ kiết do tu đạo đoạn trừ, chứng quả A-la-hán là khó đoạn dứt, khó hủy hoại, nên nói bảy nẻo thiện sĩ như thế.

Hỏi: Như sinh, bất sinh mỗi thứ có ba, thượng lưu cũng như vậy, tức là vượt hoàn toàn, vượt một nửa và nơi tất cả xứ mất, vì sao chỉ nói có một?

Đáp: Sinh, bất sinh đều là một hữu nối tiếp, trong đó phần vị sai biệt khó nhận biết, muốn khiến nhận biết nên đều nói ba thứ. Còn ba thứ thượng lưu, sinh luôn tự biện giải, chỗ sai biệt dễ nhận biết, thế nên chỉ tùy vào nghĩa vượt hơn của hành trên hợp nói một thứ.

Lại nữa, sinh và bất sinh là một thời hạn ngắn, nghĩa sai biệt ít, mức độ khác nhau dễ nhận biết, thế nên phân làm ba. Còn thượng lưu thì thời hạn dài, sai biệt có nhiều thứ, mức độ khác nhau khó biện giải, nên hợp lập làm một.

Lại nữa, sinh và bất sinh cũng có nhiều nghĩa. Thượng lưu cũng có nghĩa riêng. Muốn đem hai văn để cùng hiển bày cho nhau nên nói như vậy.

Lại nữa, sinh và bất sinh nơi nẻo thiện sĩ, tướng của chúng hiện tiền dễ nhận rõ, do chúng mau chóng hướng tới Bát Niết-bàn, nên đều phân làm ba. Còn thượng lưu nơi nẻo thiện sĩ, tướng ẩn giấu khó nhận biết, do hãy còn trải qua nhiều sinh tử, nên chỉ hợp nói là một.

Hỏi: Vì sao trong kinh ba thứ bất sinh dùng ba dụ để hiển bày, còn đối với ba thứ sinh thì không như vậy?

Đáp: Như dùng ba dụ để hiển bày ba thứ bất sinh, nên biết là cũng đã hiển bày ba thứ sinh. Thế nên ở trước nói: Nếu do đấy nên lập phẩm sinh thứ nhất tức do đấy nên lập phẩm bất sinh thứ nhất, cho đến nói rộng.

Lại nữa, do bất sinh khi hướng đến xứ sinh như người đi đường, trong đó có khi đi chưa xa liền Bát Niết-bàn. Có khi đi hơi xa mà Bát Niết-bàn. Có khi đi đã xa, sắp tới xứ sinh mà Bát Niết-bàn. Do vậy Đức Thế Tôn dùng ba dụ để hiển bày. Còn ba thứ trong sinh đều đến xứ sinh, không còn hướng tới nơi nào khác xa gần có sai biệt, nên không dụ riêng.

Lại nữa, ba thứ bất sinh là vi tế, không hiện ra, khó nhận biết, khó hiểu, nên dùng dụ để hiển bày. Còn ba thứ trong sinh thì thô, hiện ra, dễ nhận biết, nên không dùng dụ để làm rõ.

Lại nữa, ba thứ bất sinh thuộc về cõi, không phải hướng tới sinh, gồm thâu không phải là nẻo, tướng không viên mãn, nên dùng dụ để hiển bày. Ba thứ sinh thì không như vậy, nên không cần dụ để hiển bày.

Lại nữa, Đức Phật quán xét vị lai có kẻ cố chấp đối với trung hữu sinh hủy báng, như Luận sư Phân biệt v.v… Đức Phật nhân đó muốn quyết định nghĩa của trung hữu, nên dùng ba dụ để hiển bày về diệt có sai biệt. Ở nơi sinh hữu không có hủy báng ấy, cho nên đối với ba thứ sinh không phải nói dụ.

Lại nữa, Trung Bát Niết-bàn sự việc Sinh Bát Niết-bàn do ba việc nên hơn: 1. Thọ khổ ít. 2. Mau chóng diệt lửa phiền não. 3. Mau chóng bỏ gánh nặng của uẩn, nên dùng ba dụ để làm rõ, còn sinh thì không như vậy, nên không nêu dụ để làm rõ.

Hỏi: Trung Bát Niết-bàn khởi Thánh đạo của địa nào để tiến tới đoạn dứt các kiết khác được quả A-la-hán?

Đáp: Khởi Thánh đạo của tự địa. Nghĩa là nếu trụ nơi địa của tĩnh lự thứ nhất, Trung hữu Bát Niết-bàn, thì vị kia khởi Thánh đạo nơi địa của tĩnh lự thứ nhất. Cho đến nếu trụ nơi địa của tĩnh lự thứ tư, Trung hữu Bát Niết-bàn, thì vị kia khởi Thánh đạo nơi địa của tĩnh lự thứ tư.

Hỏi: Khi đắc quả rồi vị kia cũng có khởi Thánh đạo của định vị chí, tĩnh lự trung gian chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Cũng có khởi. Nghĩa là nếu trước đã dựa nơi định kia được quả Bất hoàn, thì nay cũng có thể khởi.

Nên nói như vầy: Nên nói là không khởi. Vì sao? Vì pháp là như vậy.

Lại nữa, do thời gian ngắn, vị kia được quả xong là mau chóng Bát Niết-bàn, vì sao còn có việc khởi vô lậu ở địa khác?

Lại nữa, trung hữu chỉ tùy thuận Thánh đạo của địa căn bản, không phải là địa cận phần, vì Thánh đạo của địa cận phần là thuộc về khổ đạo, khó hiện tiền.

Lại nữa, nếu địa có định cũng có sinh thì trụ nơi trung hữu khởi Thánh đạo. Định vị chí có định nhưng không có sinh, tĩnh lự trung gian tuy cũng có sinh nhưng đó là chỗ sinh của phàm phu, không phải là bậc Thánh. Bốn tĩnh lự căn bản có định, có sinh, nên trụ nơi trung hữu khởi Thánh đạo.

Hỏi: Vị kia vì sao không khởi Thánh đạo cõi vô sắc?

Đáp: Do thời gian đầu chưa được, thời gian sau vô dụng. Lại nữa, vì cõi kia thuộc địa khác, khó hiện tiền. Lại nữa, cõi kia thuộc khổ đạo nên không muốn khởi.

Hỏi: Vì sao không nói Dự lưu, Nhất lai là nẻo thiện sĩ?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Trong đây, Đức Thế Tôn dùng bảy nẻo thiện sĩ để khen ngợi hàng đệ tử bậc trung (Bất hoàn). Hoặc ở chỗ khác, có khi khen ngợi hàng đệ tử bậc thượng (A-la-hán). Như tụng nói:

A-la-hán cực vui

Do tâm không tham, ái

Và ngã mạn đã đoạn

Vĩnh viễn dứt lưới nghi.

Hoặc ở chỗ khác, có khi khen ngợi hàng đệ tử bậc hạ như trong Kinh Trì Dụ đã nói rộng. Nay ở đây cũng do khen ngợi hàng đệ tử bậc trung nên không nói Dự lưu, Nhất lai.

Có thuyết cho: Do Đức Thế Tôn nói bảy nẻo thiện sĩ này vốn là sai khác đối với Dự lưu, Nhất lai. Nghĩa là hai quả ấy tuy được gọi là thiện sĩ, như Khế kinh nói: Thế nào là thiện sĩ? Là nếu thành tựu chánh kiến hữu học cho đến chánh định. Thế nào là thiện sĩ hơn hết? Là nếu thành tựu chánh kiến vô học cho đến chánh định. Nhưng hai quả kia không được gọi là nẻo thiện sĩ, là do hãy còn xa, không phải có thể tới gần đến thiện sĩ hơn hết. Chỉ bậc Bất hoàn gọi là thiện sĩ, cũng gọi là nẻo thiện sĩ, vì bậc ấy là thiện sĩ, lại có thể tiến gần đến thiện sĩ hơn hết. Do nghĩa đó nên Dự lưu, Nhất lai không phải là nẻo thiện sĩ.

Có thuyết nêu: Trong phần vị hữu học, nếu đã vượt cõi, đã đắc quả, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai tuy đã đắc quả nhưng chưa vượt cõi.

Có thuyết cho: Trong phần vị hữu học, nếu đã vượt cõi, vĩnh viễn đoạn dứt nghiệp phiền não bất thiện, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai đều không có hai thứ như vậy.

Có thuyết nói: Ở phần vị hữu học, nếu đã đắc quả và vĩnh viễn đoạn dứt nghiệp phiền não bất thiện, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không thể như thế, nên không lập là nẻo thiện sĩ.

Như nghiệp phiền não bất thiện, nghiệp phiền não của hai quả có dị thục tương ưng với không hổ không thẹn cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Trong phần vị hữu học, nếu đã vượt cõi và vĩnh viễn đoạn dứt năm kiết thuận phần dưới, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không như thế.

Có thuyết cho: Trong phần vị hữu học, nếu đã đắc quả và vĩnh viễn đoạn dứt năm kiết thuận phần dưới, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không như thế.

Có thuyết nói: Trong phần vị hữu học, nếu đã vĩnh viễn đoạn dứt pháp cùng có của phi thiện sĩ thì lập là nẻo thiện sĩ. Những gì gọi là pháp cùng có của phi thiện sĩ? Là vui thích nơi tại gia, luyến ái vợ con, tham đắm các vật dụng như y phục, đồ nằm, thức ăn uống, ưa dùng các thứ tràng hoa, chuỗi ngọc trang sức và các thứ hương trang điểm thân, chứa cất các tài vật bất tịnh như vàng bạc, châu báu, kho lẫm, ruộng vườn, tôi tớ, voi ngựa v.v… Cùng do tâm nhiễm nên tiếp xúc với những thân tướng bất tịnh tích tập, liên hệ các ác mà sinh tưởng tịnh, nhiễm quen sự dục. Hoặc có khi nổi giận khởi các nghiệp tổn não như dùng chân đá tay đấm, gây khổ sở hữu cho hữu tình. Hàng Dự lưu, Nhất lai còn có những việc như thế, nên không nói ở trong nẻo thiện sĩ.

Có thuyết cho: Trong phần vị hữu học, nếu không còn vào trong thai tạng của mẹ là nhà ngục tối tăm, ở đó tiếp nhận các thứ bất tịnh, thân phần trụ ép giữa hai sinh tạng, thục tạng, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai còn có những việc như thế, nên không được lập nơi bảy nẻo thiện sĩ.

Tôn giả Diệu Âm nói: Nếu hàng hữu học đã đoạn dứt dục tham, giận dữ, không ở nơi thai mẹ thọ nhận khổ bức bách, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không như vậy.

Có thuyết nói: Nếu hàng hữu học không bị cảnh giới thuận nghịch nhiễu loạn tâm thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không như vậy.

Có thuyết cho: Nếu hướng sinh nơi cõi trên, không thoái chuyển trở lại, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không như vậy.

Có thuyết nêu: Nếu hàng hữu học đã được tu đủ các tĩnh lự, tuy thoái chuyển nhưng không mất tĩnh lự, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai thì không như vậy.

Có thuyết nói: Nếu hàng hữu học chỉ hành pháp thiện sĩ, không hành pháp chẳng phải thiện sĩ, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hàng Dự lưu, Nhất lai cũng hành pháp chẳng phải thiện sĩ, do nghĩa như thế nên không được lập là nẻo thiện sĩ.

Hỏi: Bất hoàn hành cõi vô sắc đối với Bất hoàn hành cõi sắc có năm sự việc hơn là: 1. Hơn về cõi. 2. Hơn về địa. 3. Hơn về đoạn dứt phiền não. 4. Hơn về trừ bỏ uẩn. 5. Hơn về Tam-ma-địa. Vì sao không lập là nẻo thiện sĩ?

Đáp: Đáng lẽ nói nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Nếu thô hiện, dễ thấy rõ, thì lập là nẻo thiện sĩ. Các hành nơi cõi kia không hiển bày nên không nói.

Có thuyết cho: Đức Phật vì muốn khuyến dụ các Thánh giả chưa lìa nhiễm của cõi dục là xứ có nhiều lỗi lầm tai họa khiến mau chóng lìa bỏ nên nói Bất hoàn hành cõi sắc là nẻo thiện sĩ. Đức Phật không khuyến dụ bậc Thánh chưa lìa nhiễm của cõi sắc là xứ ít lỗi lầm tai họa khiến mau chóng lìa bỏ nên không nói Bất hoàn hành cõi vô sắc là nẻo thiện sĩ.

Có thuyết nêu: Nếu thân có sắc nương vào xứ có sắc có các oai nghi tịch tĩnh như đi đến v.v… có thể khiến kẻ khác nhận biết là thiện sĩ thì lập là nẻo thiện sĩ. Hành ở cõi vô sắc không có sự việc như thế, nên không lập là nẻo thiện sĩ.

Có thuyết cho: Nếu xứ có năm Bất hoàn, có thể thiết lập bảy nẻo thiện thì lập là nẻo thiện sĩ. Bất hoàn hành cõi vô sắc, không có đủ năm thứ, không thể thiết lập bảy nẻo thiện sĩ, cho nên không nói.

Có thuyết nói: Nếu cõi nào chỉ là xứ sinh của bậc Thánh thì lập làm nẻo thiện sĩ. Hành ở cõi vô sắc thì không như thế.

Có thuyết nêu: Nếu đã được tu đủ các tĩnh lự, tuy thoái chuyển nhưng không mất tĩnh lự, thì lập là nẻo thiện sĩ. Hành ở cõi vô sắc thì không như vậy.

Có thuyết cho: Nếu cõi đã lìa pháp chẳng phải thiện sĩ, có các thiện sĩ tới lui đàm luận, thì nơi cõi ấy lập là nẻo thiện sĩ. Cõi vô sắc thì không như thế, nên không lập là nẻo thiện sĩ.

Hỏi: Vì sao A-la-hán không phải là nẻo thiện sĩ?

Đáp: Cũng nên nói A-la-hán là nẻo thiện sĩ, nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, hướng sinh nơi cõi trên thì lập là nẻo thiện sĩ. A-la-hán là không sinh cho nên không lập.

Lại nữa, hướng đạt quả trên nên lập là nẻo thiện sĩ. A-la-hán là quả trên, lại không có quả trên để có thể hướng đến, thế nên không lập.

Hỏi: A-la-hán thời giải thoát cũng hướng đến quả trên, nghĩa là cầu đạt bất động, vì sao không phải là nẻo thiện sĩ?

Đáp: Bậc ấy hướng đến chủng tánh trên, chẳng phải là hướng đến quả trên.

Lại nữa, nếu bậc Thánh tạo thành phiền não nhưng không tạo thành pháp phi thiện sĩ, thì lập là nẻo thiện sĩ. A-la-hán không tạo thành phiền não, cho nên không nói.

Lại nữa, trong phần vị hữu học có trường hợp tạo thành pháp phi thiện sĩ, nên đối với trường hợp ấy thiết lập bảy nẻo thiện sĩ. Ở phần vị vô học thì không như thế, cho nên không nói.

Lại nữa, Bất hoàn là nẻo thiện sĩ, A-la-hán là nẻo thiện sĩ hơn hết, nếu nói A-la-hán là nẻo thiện sĩ tức là tổn giảm không phải cho là thật, thế nên không nói.

Hỏi: Như đã nói về tu đủ các tĩnh lự, thì sự việc ấy dùng gì làm tự tánh?

Đáp: Dùng năm uẩn làm tự tánh.

Hỏi: Vì sao nói là tu đủ tĩnh lự? Nói tu đủ là nhằm hiển bày điều gì?

Đáp: Xông tỏa khắp nên gọi là tu đủ. Hợp xông ướp nên gọi là tu đủ. Khiến cho trang nghiêm tốt đẹp nên gọi là tu đủ. Khiến càng sáng sạch nên gọi là tu đủ.

Phái Thí Dụ nói: Duyên nơi pháp kia nên gọi là tu đủ.

Xông tỏa khắp nên gọi là tu đủ: Là như áo để trong rương dùng mùi thơm xông tỏa khắp. Các Sư Du-già cũng lại như thế, do hai sátna vô lậu trước sau xông khắp một sát-na hữu lậu trung gian.

Hợp xông ướp nên gọi là tu đủ: Như hoa cùng với cỏ thơm hợp xông khiến phát sinh mùi thơm. Các Sư Du-già cũng lại như thế, do hai sát-na vô lậu kề cận xông ướp phát khởi nơi một sát-na hữu lậu.

Khiến cho trang nghiêm tốt đẹp nên gọi là tu đủ: Như dùng các hoa rải khắp lên trên tháp miếu khiến càng trang nghiêm, tốt đẹp. Hành giả cũng như vậy, là dùng hai sát-na vô lậu rải lên một sát-na hữu lậu khiến nó càng tốt đẹp.

Khiến càng sáng sạch nên gọi là tu đủ: Như dùng vàng v.v… đặt trong lò lửa, nấu chảy điều luyện khiến vàng sáng sạch. Hành giả cũng như vậy, dùng một sát-na hữu lậu để trong hai sát-na vô lậu, thường xuyên điều luyện khiến càng trở nên tinh diệu.

Duyên nơi pháp kia nên gọi là tu đủ: Là phái kia nói dùng hai sát-na vô lậu duyên nơi một sát-na hữu lậu, nên gọi là tu đủ.

Về cõi: Đối tượng tu đủ gắn liền với cõi sắc. Chủ thể tu đủ không hệ thuộc nơi cõi.

Về địa: Chủ thể và đối tượng tu đủ đều ở nơi địa của bốn tĩnh lự căn bản.

Hỏi: Nơi cõi vô sắc có tu đủ chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Là không, vì cõi ấy là khó thấy, vì vi tế.

Có thuyết cho: Đức Phật đối với cõi vô sắc có tu đủ, không phải là hàng Độc giác, Thanh văn.

Về chỗ nương dựa: Là dựa nơi cõi dục, cõi sắc.

Về hành tướng: Có thuyết nói: Chủ thể và đối tượng tu đủ đều tạo ra mười sáu hành tướng bậc Thánh. Vì sao? Vì hành tướng bậc Thánh không gián đoạn, có thể khởi Thánh đạo. Thánh đạo không gián đoạn lại khởi hành tướng bậc Thánh.

Nên nói như vầy: Là chủ thể tu đủ tạo ra mười sáu hành tướng. Đối tượng tu đủ hoặc tạo ra mười sáu hành tướng, hoặc tạo ra hành tướng khác, là như vô lượng, giải thoát, thắng xứ v.v…

Về đối tượng duyên: Có thuyết nói: Chủ thể tu đủ dùng đối tượng tu đủ làm đối tượng duyên. Còn đối tượng duyên của đối tượng tu đủ thì không nhất định.

Nên nói như vầy: Là chủ thể tu đủ duyên nơi bốn Thánh đế, còn đối tượng tu đủ duyên với tất cả pháp.

Về niệm trụ: Có thuyết nói: Chủ thể và đối tượng tu đủ đều tạo ra pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Đối tượng tu đủ là bốn niệm trụ. Chủ thể tu đủ chỉ là pháp niệm trụ.

Nên nói như vầy: Cả chủ thể và đối tượng tu đủ đều cùng tạo ra bốn niệm trụ.

Về trí: Có thuyết nói: Chủ thể tu đủ là khổ tập loại trí. Đối tượng tu đủ là thế tục trí.

Nên nói như vầy: Chủ thể tu đủ là bốn pháp, bốn loại trí. Đối tượng tu đủ là thế tục trí. Nếu nói chung thì bậc hữu học có bảy trí, bậc vô học có chín trí trừ tha tâm trí.

Về kết hợp với Tam-ma-địa: Có thuyết nói: Chủ thể tu đủ kết hợp với hai Tam-ma-địa là Không, Vô nguyện. Đối tượng tu đủ không kết hợp với Tam-ma-địa.

Nên nói như vầy: Chủ thể tu đủ kết hợp với ba Tam-ma-địa. Đối tượng tu đủ không kết hợp với Tam-ma-địa.

Về tương ưng với căn: Nói chung thì chủ thể và đối tượng tu đủ đều tương ưng với ba căn là lạc, hỷ, xả.

Về ba đời: Chủ thể và đối tượng tu đủ đều có đủ ba đời: Quá khứ, vị lai, hiện tại.

Về duyên nơi ba đời: Có thuyết nói: Chủ thể tu đủ thì duyên với quá khứ, vị lai. Đối tượng tu đủ thì duyên với ba đời và tách khởi đời.

Nên nói như vầy: Là cùng duyên với cả ba đời và tách khỏi đời. Trước đã nói chủ thể tu đủ duyên nơi bốn đế, không nên nói khác.

Về thiện, bất thiện, vô ký: Chủ thể và đối tượng tu đủ đều là thiện.

Về duyên nơi thiện v.v…: Đều cùng duyên với ba thứ.

Về thuộc ba cõi và không hệ thuộc: Đối tượng tu đủ thuộc cõi sắc. Chủ thể tu đủ thì không hệ thuộc.

Về duyên nơi thuộc cõi và không hệ thuộc: Là cùng duyên nơi thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Về học, vô học, phi học phi vô học: Chủ thể tu đủ hoặc là học, hoặc là vô học. Đối tượng tu đủ là phi học phi vô học.

Về duyên với học v.v…: Là cùng duyên với cả ba thứ.

Về do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn, không đoạn: Đối tượng tu đủ là do tu đạo đoạn. Chủ thể tu đủ là không đoạn.

Về duyên nơi kiến đạo đoạn v.v…: Cùng duyên nơi ba thứ.

Về duyên nơi danh, duyên nơi nghĩa: Cùng duyên cả nơi danh, nghĩa.

Về duyên nơi tự tương tục, tha tương tục, không tương tục: Cùng duyên nơi ba thứ. Ở nơi xứ nào khởi? Ở nơi cõi dục, cõi sắc khởi. Nhưng đầu tiên khởi là ở cõi dục, nẻo người, thuộc ba châu. Ở đấy khởi rồi, hoặc thoái chuyển hoặc không thoái chuyển, sau sinh nơi cõi sắc, lại khởi hiện tiền.

Về do gia hạnh đắc, lìa nhiễm đắc, sinh đắc: Đức Phật do lìa nhiễm đắc. Ngoài ra là do gia hạnh đắc. Gia hạnh như thế nào? Nghĩa là sư Du-già trước nhập tĩnh lự thứ tư, khởi nhiều sát-na vô lậu, từ đấy tức khởi nhiều sát-na hữu lậu, sau đó lại khởi nhiều sát-na vô lậu. Như thế, trở lại càng về sau thì giảm dần, cho đến hai sát-na vô lậu sau cùng không gián đoạn, hai sát-na hữu lậu hiện tiền. Hai sátna hữu lậu không gián đoạn, hai sát-na vô lậu lại hiện tiền. Ngang tới đây gọi là gia hạnh của tu đủ tĩnh lự đã viên mãn. Từ đấy về sau, không do công dụng, nhưng có thể từ một sát-na vô lậu không gián đoạn, khởi một sát-na hữu lậu. Tức sát-na này không gián đoạn lại khởi một sát-na vô lậu. Như thế sát-na hữu lậu là ở giữa, trước sau là sát-na vô lậu, nên gọi là cùng tu đủ tĩnh lự. Bấy giờ gọi là tu đủ tĩnh lự căn bản thành tựu. Như thế tu đủ tĩnh lự thứ tư rồi, nhân nơi uy lực ấy, tùy theo chỗ ứng hợp, cũng có thể tu đủ ba tĩnh lự dưới. Trước, dựa nơi cõi dục (Nẻo người, ba châu). Tu đủ các tĩnh lự như vậy rồi, sau sinh nơi cõi sắc, do sức của tập quán, lại có thể như trước, theo chỗ thích hợp tu đủ tĩnh lự.

Hỏi: Những loại Bổ-đặc-già-la nào tu đủ tĩnh lự?

Đáp: Là bậc Thánh, không phải là hàng phàm phu, chung cho cả hai bậc hữu học, vô học. Nghĩa là các vị Tín thắng giải, Kiến chí, Thời giải thoát, Bất thời giải thoát đều có thể tu đủ.

Hỏi: Những vị kia vì sao tu đủ tĩnh lự?

Đáp: Do ba nhân duyên nên tu đủ tĩnh lự: 1. Ưa thích đẳng chí. 2. Sợ hãi phiền não. 3. Ưa thích thọ sinh.

Ưa thích đẳng chí: Nghĩa là vì đạt hiện pháp lạc trụ, hoặc vì thọ dụng pháp tài của bậc Thánh, hoặc vì có được công đức diệu dụng, hoặc vì quán xét sự việc vốn đã làm, hoặc vì để dẫn khởi công đức thù thắng.

Sợ hãi phiền não: Nghĩa là sợ thoái chuyển, khởi phiền não hiện tiền, mất công đức hơn hết. Hoặc sợ thoái chuyển, khởi phiền não hiện tiền thiêu đốt thân tâm.

Ưa thích thọ sinh: Nghĩa là ưa thích sinh nơi năm Tịnh cư kia, là xứ không chung với phàm phu. Vị Tín thắng giải do đủ ba nhân duyên nên tu đủ tĩnh lự. Vị Kiến chí do hai nhân duyên nên tu đủ tĩnh lự, tức trừ sợ hãi phiền não, vì là pháp không thoái chuyển. Vị Thời giải thoát do hai nhân duyên nên tu đủ tĩnh lự, là trừ ưa thích thọ sinh, do đã loại trừ tất cả sự sinh. Vị Bất thời giải thoát do một nhân duyên nên tu đủ tĩnh lự, là trừ sợ hãi phiền não và ưa thích thọ sinh, vì đã là pháp thoái chuyển và dứt bỏ hết sự sinh.

Hỏi: Tu đủ tĩnh lự có bao nhiêu phẩm?

Đáp: Có năm phẩm: 1. Phẩm hạ. 2. Phẩm trung. 3. Phẩm thượng. 4. Phẩm thượng thắng viên mãn. 5. Phẩm thượng cực viên mãn. Nơi mỗi mỗi phẩm này, đối với phần vị thành mãn đều có ba tâm: một tâm hữu lậu, hai tâm vô lậu. Như thế, nói chung cho mười lăm tâm: năm tâm hữu lậu, mười tâm vô lậu.

Hỏi: Mười lăm tâm này là không khởi định hay là khởi định?

Đáp: Có thuyết nói: Không khởi định. Ví như kiến đạo nối tiếp hiện tiền.

Có thuyết cho: Có khởi định. Ví như tu đạo luôn khởi luôn nhập.

Nên nói như vầy: Đây tức không nhất định. Hoặc có khi không khởi định nhưng có thể khiến mười lăm tâm nối tiếp mà chuyển. Hoặc lại khởi định. Ở đây, hoặc có khi khởi ba tâm rồi mới khởi định. Hoặc có khi khởi sáu tâm rồi mới khởi định. Hoặc có khi khởi chín tâm rồi mới khởi định. Hoặc có khi khởi mười hai tâm rồi mới khởi định. Do đó đối với năm phẩm trung gian kia, hoặc khởi hoặc không khởi khi tu đủ tĩnh lự.

Hỏi: Mười lăm tâm này bao nhiêu thứ là từng được, bao nhiêu thứ là chưa từng được?

Đáp: Có thuyết nói: Năm là chưa từng được. Mười là từng được. Nghĩa là năm tâm khi hiện tiền trước, mười tâm còn lại là tu vị lai.

Có thuyết cho: Mười là chưa từng được. Năm là từng được.

Nghĩa là mười tâm khi hiện tiền trước, năm tâm còn lại là tu vị lai.

Nên nói như vầy: Đây tức bất định. Hoặc có mười lăm tâm đều là chưa từng được. Hoặc có mười lăm tâm đều là từng được. Hoặc có phần ít là từng được, phần ít là chưa từng được.

Hỏi: Mười lăm tâm này bao nhiêu thứ là chuyển, bao nhiêu thứ là tùy chuyển?

Đáp: Có thuyết nói: Năm tâm trước là chuyển. Mười tâm sau là tùy chuyển.

Có thuyết cho: Mười tâm trước là chuyển. Năm tâm sau là tùy chuyển.

Nên nói như vầy: Đây tức bất định. Hoặc tất cả đều là chuyển. Hoặc tất cả đều là tùy chuyển. Hoặc phần ít là chuyển, phần ít là tùy chuyển.

Hỏi: Nếu loại phẩm này chuyển tức loại phẩm ấy tùy chuyển hay cũng có loại phẩm khác?

Đáp: Có thuyết nói: Nếu loại phẩm này chuyển thì loại phẩm ấy tùy chuyển. Nghĩa là trí, đối tượng duyên, hành tướng, niệm trụ, trước sau cùng thuận mới thành tu đủ. Thế nên, nếu thứ này chuyển tất thứ ấy tùy chuyển. Không như thế thì sự tu đủ bị chướng ngại.

Có thuyết cho: Nếu loại phẩm này chuyển thì loại phẩm khác tùy chuyển. Nghĩa là trí, đối tượng duyên, hành tướng, niệm trụ, khác loại cùng xen nhau mới thành tu đủ. Thế nên, nếu thứ này chuyển tất thứ khác tùy chuyển. Không như thế tức nên trái với nghĩa tu đủ.

Nên nói như vầy: Đây tức không nhất định. Nghĩa là nếu pháp trí là chuyển thì hoặc pháp trí, hoặc loại trí là tùy chuyển. Nếu loại trí là chuyển thì hoặc loại trí hoặc pháp trí là chuyển. Các trí khác cũng như vậy. Nếu duyên hữu vi là chuyển thì hoặc duyên hữu vi, hoặc duyên vô vi là tùy chuyển. Duyên nơi pháp cũng như vậy. Nếu hành tướng vô thường là chuyển, thì hoặc hành tướng vô thường hoặc hành tướng khổ v.v… là tùy chuyển. Các hành tướng còn lại cũng như vậy. Nếu thân niệm trụ là chuyển, thì hoặc thân niệm trụ hoặc thọ niệm trụ v.v… là tùy chuyển. Các niệm trụ còn lại cũng như vậy.

Hỏi: Nếu chuyển, tùy chuyển hoặc không đồng thì hành tướng, đối tượng duyên có tạp loạn. vì sao đối với tu đủ tĩnh lự không tạo trở ngại?

Đáp: Do nơi phần vị gia hạnh trước đã tu thành thục, đường thẳng đã thành, tuy lại tạp loạn, nhưng đối với việc tu đủ không tạo trở ngại. Như trong kiến đạo và đạo thế tục lìa nhiễm, tuy hành tướng, đối tượng duyên trên dưới tạp loạn, nhưng không gây trở ngại. Đây cũng như vậy.

Hỏi: Nếu chuyển, tùy chuyển hoặc cũng đồng, vì sao được gọi là tu đủ tĩnh lự? Không phải ở nơi một loại hành tướng, đối tượng duyên mới được gọi là cùng đủ?

Đáp: Hữu lậu, vô lậu cùng xen nhau, cùng lẫn lộn, gọi là tu đủ. Không phải cho là trí v.v… trước sau khác nhau nên gọi là tu đủ.

Hỏi: Vì sao tu đủ tĩnh lự cần có hữu lậu vô lậu cùng xen tạp khởi lên?

Đáp: Là muốn hiển bày ở trong hai loại tĩnh lự ấy đều được nhập xuất tự tại.

Lại nữa, muốn dùng vô lậu đặt ở trước sau, xông ướp hữu lậu trung gian, khiến càng trở nên thắng diệu, sinh lên Tịnh cư.

Lại nữa, từ vô thỉ đến nay, tịnh nơi tĩnh lự đã bị vị tương ưng nơi tĩnh lự xen tạp. Nay muốn khiến tịnh và vô lậu nơi tĩnh lự lại cùng nhau nhập xuất, khiến vị tương ưng không còn xen lẫn, lần lượt cách xa.

Lại nữa, khi Hành giả nhập lâu vào tịnh nơi tĩnh lự thì nhận được sức nuôi lớn tột bậc hiện hữu khiến toàn thân sung mãn. Lúc này, muốn khiến trong thân tạm thời mở ra thông suốt, nên cùng với vô lậu cùng xen nhau khởi.

Những người muốn tu đủ bốn tĩnh lự trước hết cần phải tu đủ tĩnh lự thứ tư, khi thành mãn rồi, tiếp theo lại tu đủ tĩnh lự thứ ba, kế lại tu đủ tĩnh lự thứ hai, sau cùng là tu đủ tĩnh lự thứ nhất. Nếu trước không tu đủ tĩnh lự thứ tư, thì rốt cuộc không thể tu đủ địa dưới.

Hỏi: Nhân luận sinh luận: Vì sao trước tất phải tu đủ tĩnh lự thứ tư, sau mới có thể tu ba địa dưới?

Đáp: Vì tĩnh lự thứ tư là viên mãn tột bậc trong các tĩnh lự. Là chỗ dựa để khởi công đức tối thắng. Có thể dẫn phát diệu lạc khinh an tối thắng. Khiến cho chỗ dựa là thân được nhuần khắp sung mãn. Là nơi chốn nương dựa của nhiều công đức. Là định bất động. Là tối thắng trong hạnh an lạc. Là bậc nhất trong khả năng đảm nhận công việc.

Lại nữa, tĩnh lự thứ tư đứng ở trên hết trong định vô lậu, đối với trên với dưới đều có ba địa.

Lại nữa, tĩnh lự thứ tư đã được hơn Hằng hà sa số chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương dựa vào đấy để chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Lại nữa, tĩnh lự thứ tư gồm đủ cả năm thứ nhân, năm thứ quả. Năm thứ nhân là năm phẩm tu đủ. Năm thứ quả là năm trời Tịnh cư.

Hỏi: Tu đủ ba tĩnh lự dưới có bao nhiêu phẩm?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ có ba phẩm là hạ, trung, thượng. Do địa bên dưới không có năm Tịnh cư.

Nên nói như vầy: Cũng có năm phẩm.

Hỏi: Địa dưới không có năm quả, làm sao có năm phẩm nhân?

Đáp: Tuy không có năm quả, nhưng pháp định của địa ấy có năm phẩm. Lại nữa, địa dưới tuy không có quả là năm Tịnh cư, nhưng có năm phẩm căn.

Hỏi: Nhân luận sinh luận: Ba tĩnh lự dưới đã có năm phẩm tu đủ, vì lý do gì không có quả là năm Tịnh cư?

Đáp: Vì đấy không phải là nơi chốn thích hợp, cho đến nói rộng.

Lại nữa, bậc Thánh chán bổ xứ cùng sinh với phàm phu, nên cầu sinh Tịnh cư. Nếu nơi địa dưới có Tịnh cư tức ở nơi xứ cùng sinh với phàm phu, không thể chán lìa nên đối với xứ trên chưa lìa được nhiễm.

Lại nữa, bậc Thánh muốn vượt khỏi nơi chốn thọ sinh của phàm phu, nên sinh nơi Tịnh cư. Nếu địa dưới có Tịnh cư tức là không thể vượt qua nơi chốn thọ sinh của phàm phu, đối với địa trên còn có nơi chốn của phàm phu.

Lại nữa, bậc Thánh chán bỏ xứ có nhiều tai họa, nên cầu sinh nơi Tịnh cư, vì trong ba địa dưới đều có tai họa, nên không có Tịnh cư.

Lại nữa, Tịnh cư là sự chiêu cảm của nghiệp thù thắng, thọ mạng dài lâu. Nếu nơi địa dưới có Tịnh cư thì khi ba tai họa khởi lên thiên chúng có thọ mạng nhất định kia phải mạng chung chăng? Nếu mạng chung thì thọ lượng nhất định của họ không nên chết yếu giữa chừng. Nếu không mạng chung tức nên cùng với tai họa khởi tạo ra trở ngại? Như nói: Nếu xứ có một hữu tình tuy nhỏ như trứng kiến nhưng tai họa trọn không hủy hoại. Muốn khiến không có lỗi như thế, nên địa dưới không có Tịnh cư.

Tôn giả Thế Hữu nói: Vì sao địa dưới không có Tịnh cư? Là do tu đủ tĩnh lự mới sinh nơi Tịnh cư. Khi tu đủ tĩnh lự tất đã lìa nhiễm của ba địa dưới, không phải ở nơi địa đã lìa nhiễm mà được thọ sinh, cho nên Tịnh cư không phải sở hữu của địa dưới. Lại, hạng lợi căn mới có thể tu đủ. Người có thể tu đủ tất có thể mau chóng vượt khỏi địa dưới bất tịnh, đến xứ thuần tịnh, nên địa dưới không có Tịnh cư. Lại, người kia cần phải đạt được định biên vực làm chỗ dựa cho định mới có thể tu đủ. Người có thể tu đủ tức mới sinh lên xứ kia. Thế nên ở địa dưới không có Tịnh cư.

Đại đức nói: Hữu tình nơi địa dưới phần nhiều khi thế giới hoại thì sinh lên, khi thành thì sinh xuống. Sinh nơi Tịnh cư không có sự việc như vậy, nên địa dưới không có trời Tịnh cư.

Hỏi: Vì sao Tịnh cư chỉ có năm, không tăng không giảm?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Không nên nêu hỏi về điều này. Vì sao? Vì nếu hoặc nhiều hoặc ít đều cũng sinh nghi. Không nên do nghi mà làm trái với lý. Tức ở trong nghĩa như thật của pháp tướng chỉ nên có năm không tăng không giảm.

Có thuyết nói: Vì đối với xứ không cùng sinh của phàm phu chỉ có năm, nên xứ sinh của bậc Thánh cũng chỉ có năm. Xứ không cùng sinh của phàm phu có năm là ba nẻo ác, châu Bắc và trời Vô tưởng.

Có thuyết cho: Tu đủ tĩnh lự có năm phẩm, nên nơi chốn chiêu cảm là Tịnh cư cũng chỉ có năm.

Hỏi: Tu đủ tĩnh lự vì sao chỉ có năm không thêm bớt?

Đáp: Uy lực của sự tu đủ chỉ là từng ấy. Như mười lăm tâm của kiến đạo, do uy lực chỉ có từng ấy không tăng không giảm. Như vậy uy lực của tu đủ tĩnh lự cũng là mười lăm tâm, không tăng không giảm. Lại nữa, tu đủ tĩnh lự là công đức thù thắng, không thuộc phẩm trung hạ, chỉ có thượng hạ, thượng trung, thượng thượng, thượng thắng, thượng cực, nên chỉ có năm.

Các Sư khác nói: Tu đủ tĩnh lự tức là điều luyện năm căn như tín v.v… Như thứ lớp ấy tùy một tăng thượng mà thành năm phẩm nên chỉ có năm. Vì thế do tu đủ có năm phẩm nên Tịnh cư cũng chỉ có năm.

Có thuyết nêu: Tĩnh lự thứ tư có chín phẩm căn thiện, thứ lớp sinh nơi chín xứ: Nghĩa là căn thiện hạ hạ thì sinh nơi trời Vô Vân. Căn thiện hạ trung thì sinh nơi trời Phước Sinh. Cho đến căn thiện thượng thượng thì sinh nơi trời Sắc cứu cánh. Nơi các xứ ấy là không thể tăng giảm, cho nên Tịnh cư chỉ nên có năm.

Có thuyết cho: Tĩnh lự thứ tư có chín phẩm phiền não. Nếu hoàn toàn chưa điều phục chín phẩm phiền não ấy thì sinh nơi trời Vô Vân. Điều phục phẩm thượng thượng thì sinh nơi trời Phước Sinh. Cho đến điều phục phẩm hạ trung thì sinh nơi trời Sắc cứu cánh. Không có việc điều phục phẩm hạ hạ mà thọ sinh. Thế nên Tịnh cư chỉ có năm thứ.

Hỏi: Từng có tu đủ tĩnh lự nhưng không sinh nơi Tịnh cư chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là tu đủ tĩnh lự rồi, hoặc thành hiện pháp Bát Niết-bàn, hoặc thoái chuyển sinh nơi địa dưới, hoặc tiến lên sinh nơi cõi vô sắc. Ở đây nghĩa là người không ưa thích Tịnh cư tu đủ tĩnh lự.

Hỏi: Từng có khởi đủ năm phẩm tu đủ tĩnh lự nhưng sinh nơi trời Vô Vân v.v… chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là có Hành giả trước sinh nơi trời Vô Vân, kế đến là sinh nơi trời Phước Sinh, tiếp theo là sinh nơi trời Quảng quả, sau mới theo thứ lớp sinh nơi năm Tịnh cư.

HẾT – QUYỂN 175