LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 46

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ BẤT THIỆN, phần 1

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Chương như thế và giải thích về nghĩa của chương đã lãnh hội rồi, sau đấy nên giải thích rộng.

Ba kiết ấy v.v… đều là pháp do Khế kinh đã nói, chỉ trừ năm kiết và chín mươi tám tùy miên. Trong đây, nên trừ hai phần Luận như thế. Vì sao? Vì tất cả A-tỳ-đạt-ma đều nhằm giải thích Khế kinh, nhưng hai phần Luận này đã không phải do Khế kinh nói, thế nên phải loại trừ.

Tôn giả Diệu Âm nói: Tất cả A-tỳ-đạt-ma đều là giải thích kinh. Nhân nơi kinh như thế như thế, nên tạo luận như thế như thế. Những gì không phải do kinh nói, đều nên loại trừ.

Có thuyết cho: Không nên loại trừ hai phần Luận này. Vì sao? Vì hai phần Luận kia cũng là Khế kinh nói. Nghĩa là nơi Kinh Tăng Nhất A Hàm đã nói năm kiết trong năm pháp, chín mươi tám tùy miên trong chín mươi tám pháp. Bấy giờ, vì đã trải qua thời gian lâu xa nên đều có sự mất mát, thất lạc. Luận sư của bản Luận này do diệu lực của nguyện trí nên đã nhớ nghĩ, quán xét về bài Tựa thứ hai này để giải thích Khế kinh.

Có thuyết nêu: Hai phần Luận ấy tuy không phải do kinh nói, nhưng không nên loại trừ.

Hỏi: Năm kiết đã không phải là pháp do Khế kinh nói, vì sao không loại trừ?

Đáp: Vì các Luận đều tùy nơi ý lạc của tác giả, không trái với pháp tướng, muốn tạo là nên tạo. Nghĩa là trong Luận này nói kiết biến hành, kiết không phải biến hành, kiết biến hành không phải là biến hành. Nói kiết biến hành: Là như ba kiết. Nói kiết không phải biến hành: Là như năm kiết. Nói kiết biến hành không phải là biến hành: Là như chín kiết. Do vậy, năm kiết này tuy không phải là kinh nói, nhưng không nên loại trừ.

Hỏi: Chín mươi tám tùy miên đã không phải là pháp do Khế kinh nói, vì sao không loại trừ?

Đáp: Vì A-tỳ-đạt-ma đều là giải thích bảy thứ tùy miên trong kinh là do kinh đã nói. Nay người tạo luận phân biệt rộng về hành tướng, cõi, bộ có sai biệt, thế nên phần Luận ấy cũng không nên loại trừ.

Hỏi: Vì sao ở Luận này trước hết là thành lập chương?

Đáp: Vì muốn chỉ rõ về nghĩa của các môn. Nếu không lập chương, môn thì nghĩa sẽ không do đâu mà được hiển bày. Như người vẽ bức tranh tô màu, không thể vẽ bức tranh màu ở hư không. Lại nữa, vì muốn cho Luận này được trụ lâu dài trong đời. Nghĩa là trong Luận này tuy đã khéo kiến lập các Uẩn, Phẩm, Chương, Môn, nhưng nơi hàng trăm ngàn chúng mới có một người có khả năng trì tụng đầy đủ, huống chi là không khéo kiến lập thì ai là người có thể trì tụng đủ với câu văn lộn xộn như thế. Không có người trì tụng thì tác phẩm sẽ nhanh chóng ẩn mất.

Lại nữa, nếu không thành lập chương thì sẽ chẳng có gì, tức không có chỗ để hỏi, vì tất phải có chỗ dựa để phát ra câu hỏi.

Hỏi: Vì sao Luận giả căn cứ vào Kinh để lập Chương?

Đáp: Các nhà tạo luận đều nhằm giải thích kinh, nhưng trong các kinh hiện có vô số các thứ nghĩa không giống nhau. Nay Luận này giải thích lập làm Tạp Uẩn, cho đến nghĩa kiến lập làm Kiến Uẩn, nhưng trong mỗi mỗi Uẩn đều gồm đủ tất cả nghĩa.

Lại nữa, vì nhằm hiển bày nghĩa của Khế kinh có vô lượng, không phải như sách ngoại, văn nhiều nghĩa ít, hoặc hoàn toàn vô nghĩa. Như sách La-ma-diễn-noa có một vạn hai ngàn tụng mà chỉ nói rõ hai việc: 1. Nói rõ về La phạt noa kiếp tư đa khứ. 2. Nói rõ về La ma tướng Tư đa la.

Kinh của Phật thì không như vậy. Hoặc văn, hoặc nghĩa đều vô lượng, vô biên. Vô lượng là nghĩa khó lường xét. Vô biên là lời văn khó nhận biết. Ví như biển cả là vô lượng, vô biên. Vô lượng là sâu, vô biên là rộng. Lại nữa, vì muốn chứng tỏ Khế kinh có thể nêu vấn nạn, không phải như sách ngoài không thể nêu vấn nạn, vì nếu khi nêu lên thì càng trở nên vô nghĩa. Như khỉ con không chịu nổi việc đánh đập, đụng chạm, nếu lúc nào đánh đập, hoặc đụng chạm, nó sẽ phóng uế nhơ nhớp. Kinh Phật thì không như vậy, có thể tạo nên các vấn nạn. Hoặc khi vấn nạn sinh tịnh giới cùng sự tiếp xúc vi diệu của sắc, căn thiện. Như áo dày nhiều lớp sản xuất ở thành Ba-la-nê-tư, có thể chịu đựng sự đập vò, chạm xúc mạnh. Nếu khi vò đập mạnh sẽ phát màu sắc tươi sạch và sự tiếp xúc thắng diệu.

Lại nữa, vì muốn làm sáng tỏ Khế kinh, mở bày ra thì vi diệu. Nghĩa là có ba sự việc, che khuất thì tốt đẹp, mở ra thì không tốt đẹp: 1. Người ngu. 2. Người nữ. 3. Luận thư của ngoại đạo.

Lại có ba sự việc mở ra thì tốt đẹp, che khuất lại thì không tốt đẹp: 1. Người trí. 2. Mặt trời, mặt trăng. 3. Kinh, Luận của pháp Phật.

Lại nữa, vì muốn hiển bày Khế kinh có thể xét chọn, không phải như sách bên ngoài không kham nổi việc xét chọn, vì nếu khi xét chọn có thể khiến cho mắt tuệ của hữu tình bị tổn giảm, như người ngắm xem mặt trời khiến nhãn căn bị tổn hại. Pháp Phật thì không như vậy, vì có thể tạo nên tư duy, lựa chọn. Nếu lúc tư duy, lựa chọn, mắt tuệ sẽ được tăng trưởng. Như người ngắm trăng, nhãn căn được tăng trưởng.

Hỏi: Vì sao Luận này trước thành lập chương, sau nêu ra câu hỏi?

Đáp: Như cách thức cất nhà, muốn cất nhà trước là phải đắp nền, sau đó mới dựng cột, kèo. Như thế, Tôn giả muốn cất ngôi nhà pháp, như đắp nền pháp, nên trước hết phải lập chương. Như dựng cột, kèo, sau đó mới lắp cửa.

Lại nữa, như cách thức trồng cây, muốn trồng cây trước phải sửa sang đất, sau đó mới trồng. Như thế, Tôn giả muốn trồng cây pháp, như cách sửa sang đất, nên trước hết phải lập chương, như cách trồng cây, nên về sau mới lập môn.

Lại nữa, như cách thức kết tràng hoa, như muốn kết thành tràng hoa, trước là xâu chỉ, sau đó mới kết hoa. Như thế, Tôn giả muốn kết tràng hoa pháp, như cách xâu chỉ, nên trước hết phải lập chương, như phương pháp kết hoa, nên sau mới lập môn.

Lại nữa, như pháp vẽ tranh màu, muốn vẽ bức tranh màu, trước là vẽ phác họa, sau mới tô các màu sắc. Như thế, Tôn giả muốn họa tượng pháp, như cách tạo mẫu, nên trước hết phải lập chương, như pháp tô màu sắc, nên sau đó mới lập môn.

Lại nữa, như phương pháp chạm khắc hình tượng, muốn chạm khắc trước là phác họa, sau mới chạm trổ. Như thế, Tôn giả muốn chạm trổ hình tượng pháp, như pháp phác họa, nên trước phải lập chương, như pháp chạm khắc vào vật, nêu sau đó mới lập môn.

Lại nữa, như pháp hành quán, sư Du-già trước là lập đại chủng và sắc được tạo, sau đó dùng sát-na cực vi để phân tích. Tôn giả cũng thế, như cách lập đại chủng và sắc được tạo, nên trước là lập chương, như dùng sát-na cực vi để phân tích, nên sau đó mới lập môn.

Lại nữa, như Đức Phật giảng nói pháp. Như Đức Phật giảng nói pháp, trước là nêu lên, sau là giải thích. Nghĩa là trước nêu rõ: Sáu giới, sáu xứ xúc, mươi tám ý cận hành và bốn nơi chốn nương dựa, gọi là hữu tình, sau lại giải thích nói: Như thế gọi là sáu giới, cho đến như thế gọi là bốn nơi chốn nương dựa. Tôn giả cũng vậy, như trước nêu pháp, nên trước là lập chương, như sau thì giải thích pháp, nên sau là lập môn.

Lại nữa, muốn làm rõ hai thứ pháp thiện xảo, tức trước là lập chương hiện bày sự thiện xảo của nghĩa, sau là tạo môn để hiện bày về văn thiện xảo. Như nghĩa thiện xảo, văn thiện xảo, nên biết nghĩa lực, văn lực, nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải, nghĩa vô ngại giải rốt ráo, pháp vô ngại giải rốt ráo cũng như vậy.

Lại nữa, nhằm chứng tỏ trí kiến của mình là không lầm lẫn. Nghĩa là nếu trí kiến có sự lầm lẫn thì việc tạo luận cũng lầm lẫn, rối loạn, không thể thành lập Uẩn, Phẩm, Chương, Môn. Nếu trí kiến của Tôn giả không lầm lẫn, rối loạn, thì công việc tạo luận cũng không tán loạn, lầm lẫn, có thể khéo thành lập Uẩn, Phẩm, Chương, Môn. Tôn giả đã chứng tỏ trí kiến của mình không sai lầm, nên trước là lập chương, sau là tạo môn.

Hỏi: Vì sao lập chương trước căn cứ vào ba kiết, sau cho đến căn cứ vào chín mươi tám tùy miên?

Đáp: Đây là ý của người tạo luận muốn thế. Nghĩa là người tạo luận thuận theo ý mình muốn mà tạo Luận này, miễn là không trái với pháp tướng, do vậy không nên nêu vấn nạn.

Hiếp Tôn giả nói: Tất cả sinh nghi. Nghĩa là nếu trước nói ba căn bất thiện, hoặc cho đến trước nói chín mươi tám tùy miên, cũng đều có nghi: Vì duyên gì lập chương, trước căn cứ vào ba kiết kia?

Nên chỉ nói những gì không trái với pháp tướng, hoặc trước hay sau đều không có lỗi.

Lại có thuyết cho: A-tỳ-đạt-ma nên lấy tướng để cầu đạt, không nên nêu vấn nạn về sự sắp xếp thứ lớp trước, sau của người tạo luận.

Hoặc có thuyết nêu: Trong Luận này cũng có thể tùy theo nhân duyên ít để giải thích về thứ lớp kia, nhưng vì nghĩa lý của A-tỳ-đạtma rất sâu rộng, nếu phải giải thích nữa e sẽ trở nên phiền phức, tán loạn, khó có thể thọ trì, nên không giải thích nữa.

Có thuyết biện: Trong Luận này vì muốn chỉ rõ pháp gia tăng dần. Nghĩa là trước nói có ba kiết, thứ đến bốn, rồi năm, cho đến sau cùng nói có chín mươi tám. Lại nữa, vì nhằm làm rõ cây phiền não tăng trưởng dần, nên trước hết nói ba kiết, cho đến sau nói chín mươi tám tùy miên.

Có Sư khác cho: Vì muốn chỉ rõ là lần lượt đoạn trừ phiền não, chứng đắc quả Sa-môn. Nghĩa là ba kiết đoạn, chứng đắc quả thứ nhất, nên trước nói ba căn bất thiện. Vì dục lậu được đoạn tăng gấp bội, nên chứng đắc quả thứ hai. Đoạn hết lậu, đạt được quả thứ ba, nên nói tiếp theo. Đoạn hết hai lậu còn lại, chứng được quả thứ tư, thế nên nói sau cùng. Bộc lưu, ách, thủ, trói buộc thân, cái v.v… chúng không có sự đoạn chứng riêng lẻ, đều chỉ rõ lần nữa về ba lậu, nên nói. Vì vậy trong Luận này, trước nói ba kiết, cho đến sau nói chín mươi tám tùy miên.

***

* Có ba kiết: 1. Kiết hữu thân kiến. 2. Kiết giới cấm thủ. 3. Kiết nghi.

Hỏi: Ba kiết này lấy gì làm tự tánh?

Đáp: Lấy hai mươi mốt sự làm tự tánh. Nghĩa là kiết hữu thân kiến nơi ba cõi do kiến khổ đoạn có ba sự. Kiết giới cấm thủ nơi ba cõi do kiến khổ, đạo đoạn có sáu sự. Kiết nghi nơi ba cõi do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn có mười hai sự. Hai mươi mốt sự này là tự tánh của ba kiết, là bản tánh, tự Thể nơi tướng phần của ngã, vật.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là kiết? Kiết là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết. Nghĩa kết hợp với khổ là nghĩa của kiết. Nghĩa lẫn lộn chất độc là nghĩa của kiết.

Trong đây, nghĩa trói buộc là nghĩa của kiết: Nghĩa là kiết tức là trói buộc. Làm thế nào biết được như vậy? Như Khế kinh nói: Tôn giả Chấp Đại Tạng đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-tử hỏi: Thưa Đại đức! Mắt trói buộc sắc hay sắc trói buộc mắt? Cho đến ý, pháp cũng hỏi như vậy. Tôn giả Xá-lợi-tử nói: Mắt không trói buộc sắc, sắc không trói buộc mắt. Trong đó dục tham được gọi là chủ thể trói thuộc, cho đến ý, pháp cũng lại như thế. Như bò đen, trắng đều đồng bị buộc bằng một sợi dây da. Nếu có ai hỏi: Bò đen trói buộc bò trắng hay bò trắng trói buộc bò đen? Nên đáp ngay: Bò đen không trói buộc bò trắng, hoặc bò trắng không trói buộc bò đen. Ở đây, sợi dây da là chủ thể trói buộc. Do đó, nên biết kiết tức là trói buộc.

Nghĩa kết hợp với khổ là nghĩa của kiết: Nghĩa là kiết của cõi dục khiến hữu tình nơi cõi dục kết hợp với khổ của cõi dục, không phải là vui. Kiết của cõi sắc khiến hữu tình nơi cõi sắc kết hợp với khổ của cõi sắc, không phải là vui. Kiết của cõi vô sắc khiến hữu tình nơi cõi vô sắc kết hợp với khổ của cõi vô sắc, không phải là vui.

Nghĩa lẫn lộn chất độc là nghĩa của kiết: Nghĩa là sự sống thắng diệu và định hữu lậu, như vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v…, do lẫn loan với phiền não, nên Thánh giả chán lìa, xem như thức ăn có lẫn chất độc, tuy có ngon ngọt nhưng người trí vẫn tránh xa. Như Đức Thế Tôn nói: Ba kiết vĩnh viễn đoạn trừ, chứng quả Dự lưu, được pháp không đọa, chắc chắn hướng đến Bồ-đề, tối đa là bảy lần trở lại cõi sinh tử, bảy lần sinh lên nẻo trời, bảy lần sinh trong nẻo người, lưu chuyển qua lại, tạo được biên vực tận cùng của khổ.

Hỏi: Như A-tỳ-đạt-ma nói: Tám mươi tám tùy miên vĩnh viễn đoạn, chứng quả Dự lưu.

Kinh Trì Dụ nói: Đoạn vô lượng khổ, chứng quả Dự lưu.

Vì sao trong Luận này lại nói vĩnh viễn đoạn ba kiết là chứng quả Dự lưu?

Đáp: Nên nói như vầy: Đây là Đức Thế Tôn vì các chúng sinh được giáo hóa chưa trọn vẹn mà nêu giản lược.

Lại nữa, Đức Thế Tôn quán sát về tùy miên, ý lạc của hữu tình được giáo hóa, vì họ giảng nói pháp yếu. Ý lạc là căn thiện. Tùy miên là phiền não. Đức Thế Tôn quán sát về tùy miên, ý lạc như thế mà lược nói pháp yếu, nhằm đoạn trừ phiền não kia. Pháp Phật nói số lượng luôn cân xứng, không ít, không nhiều. Vì nếu nói ít sẽ không thể đoạn trừ phiền não, nếu nói nhiều sẽ hóa ra vô ích đối với họ. Ví như lương y quán sát người bệnh, chứng bệnh và nguyên nhân gây bệnh, trao cho bệnh nhân phương thuốc tức thuốc được trao đó liều lượng luôn cân xứng, không ít, không nhiều. Nếu ít tất sẽ không thể chữa dứt bệnh khổ, nếu nhiều thì đối với họ cũng là vô ích.

Lại nữa, pháp yếu do Đức Thế Tôn giảng nói có tóm lược, có mở rộng. Tóm lược: Nghĩa là nói ba kiết vĩnh viễn đoạn, chứng quả Dự lưu. Nói rộng: Nghĩa là nói tám mươi tám tùy miên vĩnh viễn đoạn, cùng nói vô lượng khổ đã đoạn, chứng quả Dự lưu. Như nói tóm lược, nói mở rộng, thì nói các thứ không phân biệt, nói phân biệt, nói chung, nói riêng, nói không khác, nói có khác, nói không khắp, nói có khắp, nói tức khắc, nói lần lượt, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, vì người lợi căn thì nói ba kiết vĩnh viễn đoạn trừ, chứng quả Dự lưu. Vì kẻ độn căn thì nói tám mươi tám tùy miên vĩnh viễn đoạn trừ, nói vô lượng khổ đã đoạn trừ, chứng quả Dự lưu. Như vì kẻ căn trí lợi, độn mà nói, thì các thứ như sức nhân, sức duyên, sức trong, sức ngoài, sức tự tư duy, sức do người khác nói pháp, vì mở mang trí mà nói, vì người trí mà nói, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, vì khuyến dụ các hữu tình được giáo hóa còn khiếp nhược, chỉ rõ công việc dễ làm, như nắm lấy tay họ. Nghĩa là kẻ yếu đuối sợ nẻo hành trì nhiều, nên khuyến dụ họ bước tới, đó là đối với nhiều mà nói ít.

Ở đây, nên nói dụ về Phật Lật Thị Tử, đối với nhiều nghe ít, nên vâng làm dễ dàng. Nghĩa là có Bí-sô tên là Phật Lật Thị Tử, lúc Như Lai còn ở đời, xuất gia theo pháp Phật. Bấy giờ, Đức Phật đã chế hơn hai trăm năm mươi Học xứ, cứ mỗi nửa tháng, lúc nói giới kinh Biệt giải thoát, nghe nói: Các thiện nam! Tự yêu thích ưa học giới, nên học như thế, liền sinh tưởng khiếp sợ: Ai có khả năng vâng làm đầy đủ đối với nhiều Học xứ này? Lập tức đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi hai chân Phật, bạch Thế Tôn: Hôm nay con không thể vâng giữ số Học xứ nhiều như thế. Con xin thoái lui trở về tu ở nhà theo nghiệp cũ.

Đức Thế Tôn rất thương xót, dùng lời dịu dàng quở nhẹ rồi đuổi đi. Đoạn, Đức Thế Tôn lại khuyên nhủ: Lành thay! Lành thay! Phật Lật Thị Tử! Ông có thể tu học ba Học xứ được không? Đó là giới học tăng thượng, tâm học tăng thượng và tuệ học tăng thượng.

Bí-sô kia nghe nói số ít, vô cùng hoan hỷ, vội bạch Phật: Con có khả năng tu học ba Học xứ đó.

Lúc học ba thứ Học xứ như thế là đã học tất cả Học xứ. Như vậy, nếu Đức Thế Tôn nói phải vĩnh viễn đoạn tám mươi tám tùy miên, hoặc nói đoạn vô lượng khổ, chứng quả Dự lưu, thì các hữu tình được giáo hóa sẽ sinh tâm khiếp sợ: Ai có khả năng nhổ hết tám mươi tám thứ cây phiền não to lớn này? Ai có khả năng vượt qua tám mươi tám sông đại phiền não ấy? Ai có khả năng tát cạn tám mươi tám biển phiền não rộng lớn đó? Ai là người có khả năng nghiền nát tám mươi tám thứ núi đại phiền não ấy? Và ai có khả năng tu tám mươi tám pháp đối trị phiền não này?

Chính do Đức Thế Tôn nói ba kiết vĩnh viễn đoạn trừ, chứng được quả Dự lưu, các hữu tình kia nghe nói với số lượng ít, nên hoan hỷ, phấn chấn nên siêng năng tu học pháp đối trị ba kiết. Lúc đoạn ba kiết, các thứ do kiến đạo đoạn đều được đoạn trừ vĩnh viễn, vì đồng được đối trị.

Lại nữa, vì Đức Thế Tôn ở đây đã nói về sự việc thù thắng. Nghĩa là trong các phiền não do kiến đạo đoạn trừ, ba kiết này là hơn hết.

Vì thế Tôn giả Diệu Âm nói: Trong các phiền não do kiến đạo đoạn trừ, ba kiết ấy là hơn hết. Các kiết khác đều thuộc ba kiết này, như nhân nơi kiến sinh khởi tham, giận, mạn v.v…

Lại nữa, vì Đức Thế Tôn ở đây đã nói về chỗ đứng đầu. Nghĩa là ba kiết này là đứng đầu trong các thứ phiền não do kiến đạo đoạn. Như viên tướng dũng mãnh, thường xuyên đi trước đoàn quân. Vì thế mạnh này nên các phiền não do kiến đạo đoạn khi sinh trưởng khó có thể điều phục.

Lại nữa, Đức Thế Tôn ở đây đã nói về công đức thù thắng và giặc thù nổi bật. Công đức thù thắng là quả Dự lưu, giặc thù nổi bật là ba kiết này.

Lại nữa, Đức Phật ở đây đã nói về ba pháp chướng ngại gần của ba Tam-ma-địa. Nghĩa là hữu thân kiến là chướng ngại gần của Tamma-địa không, giới cấm thủ là chướng ngại gần của Tam-ma-địa vô nguyện, nghi là chướng ngại gần của Tam-ma-địa vô tướng.

Lại nữa, ba kiết như thế là gần với kiến đạo, nên thường hiện hành. Như nơi phần Tạp Uẩn nói: Do nhẫn tác ý giữ lấy kiến, nghi không hiện hành. Nếu như hiện hành thì không nhận biết, vì phiền não vi tế, tuệ giác còn yếu kém. Kiến, nghĩa là hữu thân kiến và giới cấm thủ. Nghi, tức là nghi.

Lại nữa, do ba kiết này là khó đoạn, khó phá trừ, không dễ gì vượt qua, thế nên nói riêng.

Lại nữa, do ba kiết này gây tạo lỗi lầm tai họa tăng mạnh, vững chắc, càng nhiều, nên nói riêng. Nghĩa là kiết hữu thân kiến là căn bản của sáu mươi hai xứ kiến, các xứ kiến là căn bản của các phiền não khác, các phiền não khác là căn bản của nghiệp, các nghiệp là căn bản của quả dị thục, dựa vào quả dị thục hết thảy pháp thiện, bất thiện, vô ký đều được sinh trưởng. Kiết giới cấm thủ có thể dấy khởi vô số những lối tu khổ hạnh vô nghĩa. Kiết nghi có thể khiến hữu tình nghi về biên vực trước, nghi về biên vực sau, hoặc nghi về cả hai biên vực trước, sau. Bên trong thì do dự: Đây là vật gì? Vật này là thế nào? Cái gì là hiện có? Cái gì là sẽ có? Hữu tình như thế sinh từ đâu đến? Chết rồi sẽ đi về nơi nào?

Lại nữa, ba kiết như thế đã đoạn, đã nhận biết khắp, cho đến A-la-hán vẫn còn chuyển biến tương tợ. Tức là kiết hữu thân kiến lúc khổ loại trí nhẫn đã đoạn, đã nhận biết khắp, các A-la-hán vẫn còn chuyển biến tương tợ, nghĩa là còn nói: Bát của ta, y của ta, đồng trú của ta, đệ tử của ta, phòng nhà của ta, dụng cụ, của cải này là của ta, tức ở trong vô ngã mà nói có ngã. Kiết giới cấm thủ lúc đạo loại trí nhẫn đã đoạn, đã nhận biết khắp, các A-la-hán vẫn còn chuyển biến tương tợ, như rửa tay chân, trụ nơi A-luyện-nhã, chỉ giữ ba y, thường xuyên đi khất thực, cho đến thọ trì đầy đủ mười hai công đức Đỗ đa (Mười hai hạnh đầu đà) cho là được thanh tịnh. Từng nghe Tôn giả Lộ-ma-thượng-kỳ-ca tuy là A-la-hán nhưng hằng ngày luôn tắm gội, cho là được thanh tịnh. Hạng người như thế rất nhiều. Kiết nghi lúc đạo loại trí nhẫn đã đoạn, đã nhận biết khắp, các A-la-hán vẫn còn chuyển biến tương tợ, nghĩa là A-la-hán thấy từ xa một vật đang đứng sững, bèn sinh do dự: Đó là thân cây trụi lá hay là con người?

Là nam hay nữ? Nếu thấy hai con đường cũng còn hoài nghi: Đây là đường chánh hay không phải là đường chánh? Thấy hai y bát cũng do dư: Là của ta có hay của người khác? Tất cả đều như thế.

Lại nữa, các sư Du-già lấy việc đoạn ba kiết này đặt lên hàng đầu trong công phu tu tập của mình, vì biết tổng quát các kiết do kiến đạo đoạn để đạt được trạch diệt.

Lại nữa, ba kiết như thế là thuận với phần dưới và chung cho ba cõi. Tham dục, giận dữ tuy là thuận theo phần dưới, nhưng không chung cho ba cõi. Biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, mạn, vô minh v.v… tuy chung cho ba cõi, nhưng không phải thuận với phần dưới, nên không nói việc đoạn trừ.

Lại nữa, trong bảy tùy miên, các quả Dự lưu đã vĩnh viễn đoạn trừ thì nơi Luận này nói đến. Nghĩa là quả Dự lưu đã vĩnh viễn đoạn hai trong bảy tùy miên, là kiến và nghi. Kiến có hai thứ: Nghĩa là duyên nơi địa mình và địa khác có dị biệt, trong đó đều nói một thứ đứng đầu.

Lại nữa, trong chín kiết, các quả Dự lưu đã vĩnh viễn đoạn trừ thì trong Luận này nói đến. Nghĩa là quả Dự lưu đã đoạn trừ ba kiết trong chín kiết, là kiến, thủ, nghi. Thế nên Tôn giả Diệu Âm nói: Kinh này nên nói vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết là kiến, thủ, nghi, chứng quả Dự lưu.

Lại nữa, trong mười tùy miên, các quả Dự lưu đã vĩnh viễn đoạn trừ thì nơi Luận này nói đến. Mười tùy miên nghĩa là năm kiến và nghi, tham, giận, mạn, si. Quả Dự lưu đối với mười tùy miên này đã vĩnh viễn đoạn trừ sáu, tức là năm kiến và nghi. Trong đây chỉ nói vĩnh viễn đoạn ba kiết, không nói sáu, vì chỉ nói về sự chuyển biến. Nghĩa là trong sáu thứ ấy: Hữu thân kiến là chuyển, biên chấp kiến là tùy chuyển. Giới cấm thủ là chuyển, kiến thủ là tùy chuyển. Nghi là chuyển, tà kiến là tùy chuyển. Đã nói chuyển, nên biết cũng là nói tùy chuyển. Do vậy, chỉ nói vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết.

Lại nữa, kinh này tóm lược chỉ rõ về cửa ngõ, thềm bậc. Nghĩa là trong các phiền não do kiến đạo đoạn có thứ chỉ có một bộ, có thứ chung cho cả hai bộ, có thứ chung cho bốn bộ. Nếu nói về hữu thân kiến, nên biết là nói chung chỉ có một bộ. Nếu nói về giới cấm thủ, nên biết là nói tổng quát chung cho cả hai bộ. Tức tuy lại không có chung riêng nơi hai bộ tùy miên, nhưng giới cấm thủ gọi là chung cho hai bộ. Hoặc lại nói: Chúng tương ưng cùng có. Nếu nói về nghi, nên biết là nói tổng quát chung cho cả bốn bộ.

Lại nữa, kiết do kiến đạo đoạn có thứ là biến hành của cõi mình, có thứ là biến hành của cõi khác. Nếu nói về hữu thân kiến, nên biết là nói chung về biến hành của cõi mình. Nếu nói về giới cấm thủ, nghi, nên biết là nói chung về biến hành của cõi khác.

Hỏi: Vì sao biến hành của cõi mình chỉ nói một kiết, còn biến hành của cõi khác thì nói hai kiết?

Đáp: Vì biến hành của cõi khác chung cho cả duyên nơi hữu lậu và vô lậu. Nếu nói về giới cấm thủ, nên biết là nói chung về kiết duyên nơi hữu lậu. Nếu nói về nghi, nên biết là nói chung về kiết duyên nơi vô lậu. Như biến hành của cõi mình, biến hành của cõi khác, các biến hành của địa mình, biến hành của địa khác, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, kiết do kiến đạo đoạn có thứ là duyên nơi hữu lậu, có thứ là duyên nơi vô lậu. Vì thế nếu nói về hữu thân kiến và giới cấm thủ, nên biết là nói chung về kiết duyên nơi hữu lậu. Nếu nói về nghi, nên biết là nói chung về kiết duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Vì sao nói hai kiết duyên nơi hữu lậu, còn duyên nơi vô lậu chỉ là một?

Đáp: Kiết duyên nơi hữu lậu có thứ duyên nơi địa mình, cõi mình, có thứ duyên nơi địa khác, cõi khác. Nếu nói về hữu thân kiến, nên biết là nói chung về duyên nơi địa mình và cõi mình. Nếu nói về giới cấm thủ, nên biết là nói chung về duyên nơi địa khác và cõi khác.

Như duyên nơi hữu lậu, duyên nơi vô lậu, thì các thứ duyên nơi hữu tránh, duyên nơi vô tránh, duyên nơi thế gian, duyên nơi xuất thế gian, duyên nơi vị của ái, duyên nơi vị của không ái, duyên nơi chỗ dựa của đắm chấp, duyên nơi chỗ dựa của xuất ly, duyên nơi cảnh giới đọa lạc, duyên nơi cảnh giới không đọa lạc, duyên nơi thuận kiết, duyên nơi không thuận kiết, duyên nơi thuận thủ, duyên nơi không thuận thủ, duyên nơi thuận triền, duyên nơi không thuận triền, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, kiết do kiến đạo đoạn có thứ duyên nơi hữu vi, có thứ duyên nơi vô vi. Nếu nói về hữu thân kiến và giới cấm thủ, nên biết là nói chung về kiết duyên nơi hữu vi. Nếu nói về nghi, nên biết là nói chung về kiết duyên nơi vô vi. Kiết duyên nơi hữu vi nói có hai, về lý do như trước đã nói, nên biết. Như duyên nơi hữu vi, vô vi, thì các thứ duyên nơi thường, vô thường, duyên nơi hằng, không phải hằng, duyên nơi có biến đổi, không biến đổi, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, kiết do kiến đạo đoạn có thứ tánh là kiến, có thứ tánh không phải là kiến. Nếu nói về hữu thân kiến và giới cấm thủ, nên biết là nói chung về kiết tánh là kiến. Nếu nói về nghi, nên biết là nói chung về kiết tánh không phải là kiến. Nói kiết tánh là kiến ấy có hai, về lý do như trước đã nói, nên biết. Như tánh là kiến và tánh không phải là kiến, các thứ tánh là xem, tánh không phải là xem, tánh suy cầu, tánh không phải là suy cầu, tánh ưa tìm kiếm, tánh không phải là ưa tìm kiếm, tánh thích xoay chuyển, tánh không thích xoay chuyển, tánh chấp chặt, tánh không chấp chặt, tánh thường giữ lấy cảnh, tánh không thường giữ lấy cảnh, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, kiết do kiến đạo đoạn có thứ là bất thiện, có thứ là vô ký. Nếu nói về giới cấm thủ và nghi, nên biết là nói chung về các kiết bất thiện. Nếu nói về hữu thân kiến, nên biết là nói chung về các kiết vô ký. Các kiết bất thiện được nêu có hai, về lý do như trước đã nói, nên biết. Như bất thiện, vô ký, các thứ có dị thục, không dị thục, chiêu cảm hai quả, chiêu cảm một quả, tương ưng với không hổ, không thẹn, không tương ưng với không hổ không thẹn, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, kiết do kiến đạo đoạn có thứ là hành tướng chuyển biến vui, có thứ là hành tướng chuyển biến buồn. Nếu nói về hữu thân kiến và giới cấm thủ, nên biết là nói chung về hành tướng chuyển biến vui. Nếu nói về nghi, nên biết là nói chung về hành tướng chuyển biến buồn. Hành tướng chuyển biến vui nêu có hai, về lý do như trước đã nói, nên biết.

Lại nữa, ba kiết như thế gây chướng ngại cho ba uẩn tịnh, nên nói riêng. Nghĩa là hữu thân kiến gây chướng ngại cho uẩn giới tịnh.

Có thuyết nói: Chướng ngại cho uẩn định tịnh.

Giới cấm thủ gây chướng ngại cho uẩn định tịnh.

Có thuyết cho: Gây chướng ngại cho uẩn giới tịnh.

Nghi gây chướng cho ngại uẩn tuệ tịnh.

Như chướng ngại nơi ba uẩn tịnh, các chướng ngại nơi ba học, ba tu, ba thanh tịnh, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, ba kiết như thế gây chướng ngại tám chi Thánh đạo, do vậy nên nói riêng. Nghĩa là hữu thân kiến gây chướng ngại cho chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Có thuyết nêu: Gây chướng ngại cho chánh niệm, chánh định.

Giới cấm thủ gây chướng ngại chánh niệm, chánh định.

Có thuyết cho: Gây chướng ngại cho chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Nghi gây chướng ngại cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn.

Lại nữa, vì muốn khiến cho người nghi có được quyết định, nên nói quả Dự lưu vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết. Nghĩa là thế gian nghi: Đã được quả Thánh vẫn còn chấp ngã, còn chấp có sự lành, dữ, còn ôm mối nghi hoặc. Do vậy, Đức Thế Tôn nói: Vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết này là chứng quả Dự lưu, là quả Thánh đầu tiên.

Hỏi: Vì mới đắc đạo nên gọi là Dự lưu, hay vì lần đầu đắc quả nên gọi là Dự lưu? Nêu ra như vậy thì có lỗi gì? Tức cả hai đều có lỗi. Nếu mới đắc đạo nên gọi là Dự lưu, thì Thánh thứ tám nên gọi là Dự lưu. Thánh thứ tám tức là Tùy tín hành và Tùy pháp hành. Theo số lượng hơn thì đấy hơn, vì là thứ tám, Thánh kia là đầu tiên được đạo vô lậu. Nếu vì lần đầu đắc quả nên gọi là Dự lưu, thì lìa nhiễm nơi cõi dục gấp bội và hoàn toàn lìa nhiễm nơi cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, đến quả vị đạo loại trí, nên gọi là Dự lưu? Vì lúc ấy là chứng được quả đầu tiên trong bốn Thánh quả.

Đáp: Có thuyết nói: Do mới đắc đạo nên gọi là Dự lưu.

Hỏi: Nếu thế thì Thánh giả thứ tám nên gọi là Dự lưu chăng?

Đáp: Nếu mới đắc đạo, duyên đủ nơi đạo trí, được gọi là Dự lưu. Thánh giả thứ tám tuy là mới đắc đạo, nhưng vì chưa thể duyên đủ nơi đạo trí, nên không gọi là Dự lưu.

Lại nữa, nếu người mới đắc đạo là đạo thuộc về đạo của quả, là đạo loại trí nơi tu đạo, mới gọi là Dự lưu. Thánh giả thứ tám thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người mới đắc đạo hội đủ ba duyên, mới được gọi là Dự lưu. Ba duyên là: 1. Xả bỏ rồi được đạo. 2. Được đạo chưa được. 3. Được kiết đoạn, được một vị. Xả bỏ rồi được đạo: Nghĩa là bỏ kiến đạo. Được đạo chưa được: Là được tu đạo. Được kiết đoạn, được một vị: Là được kiến đạo đoạn trừ kiết nơi ba cõi, được một vị đoạn. Thánh giả thứ tám thì không như vậy.

Lại nữa, nếu mới đắc đạo, hội đủ năm duyên, mới được gọi là Dự lưu: 1. Bỏ rồi được đạo. 2. Được đạo chưa được. 3. Được kiết đoạn, được một vị. 4. Được ngay tức khắc tám trí. 5. Trong một lúc tu mười sáu hành tướng. Thánh giả thứ tám thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người mới đắc đạo rồi, đoạn trừ tất cả kiết do kiến đạo đoạn, phiền não vô sự, tánh tà của kiến hoặc do nhẫn đoạn trừ, mới gọi là Dự lưu. Thánh giả thứ tám thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người mới đắc đạo, có tướng, có nêu bày, có thể cùng đàm luận, mới được gọi là Dự lưu. Thánh giả thứ tám thì không như vậy

Lại nữa, nếu người mới đắc đạo dung nạp sinh tử, mới được gọi là Dự lưu. Thánh giả thứ tám thì không như vậy.

Có Sư khác nói: Do lần đầu đắc quả, nên gọi là Dự lưu.

Hỏi: Nếu thế người lìa nhiễm dục gấp bội và hoàn toàn lìa nhiễm nơi cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, đến quả vị đạo loại trí, nên gọi là Dự lưu chăng?

Đáp: Nếu lần đầu đắc quả là lần lượt, không phải là siêu vượt, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy.

Lại nữa, nếu lần đầu đắc quả, chứng giải thoát thứ nhất, là đắc độ thứ nhất, an trụ nơi quả thứ nhất, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy,

Lại nữa, nếu người lần đầu đắc quả, trước chưa dùng đạo thế tục lìa nhiễm nơi cõi dục gấp bội cùng hoàn toàn lìa nhiễm nơi cõi dục mà đắc quả, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người lần đầu đắc quả, trước chưa từng dùng đạo thế tục để chứng đoạn sáu phẩm pháp của cõi dục, hoặc đoạn chín phẩm mà đắc quả, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người lần đầu đắc quả, là quả đầu tiên trong bốn quả, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người lần đầu đắc quả, là quả đầu tiên trong bốn hướng bốn quả, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người lần đầu đắc quả, là quả đầu tiên trong Bổđặc-già-la đạt bốn hướng bốn quả, mới gọi là Dự lưu. Ngoài ra thì không như vậy.

Lại nữa, nếu người lần đầu đắc quả, đạo và địa đều định, mới gọi là Dự lưu. Nghĩa là địa của quả Nhất lai tuy định nhưng đạo không định, vì đạo hữu lậu, vô lậu đều cùng có thể chứng đắc. Đạo, địa của quả Bất hoàn đều không định, vì dựa vào đạo hữu lậu, vô lậu của sáu địa đều có thể chứng đắc. Đạo của quả A-la-hán tuy định nhưng địa không định, vì dựa vào chín địa đều có thể chứng đắc. Đạo, địa của quả Dự lưu đều định, vì chỉ dựa vào đạo vô lậu của định vị chí mà được.

Có thuyết cho: Không do mới đắc đạo nên gọi là Dự lưu. Cũng không do lần đầu đắc quả nên gọi là Dự lưu, mà là do quả Dự lưu thành tựu, nên gọi là Dự lưu, vì tên gọi Bổ-đặc-già-la là căn cứ vào pháp mà lập, như dầu tô và bình nước thuốc v.v…

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là Dự lưu?

Đáp: Lưu nghĩa là Thánh đạo, Dự nghĩa là vào. Vì người kia vào Thánh đạo nên gọi là Dự lưu.

Hỏi: Quả vị Nhất lai, Bất hoàn và A-la-hán cũng đều vào Thánh đạo, nên gọi là Dự lưu chăng?

Đáp: Nếu căn cứ vào nghĩa này thì cũng không trái với điều nêu kia. Nhưng quả Dự lưu là đầu nên nhận tên ấy. Các quả kia dựa vào đức riêng, nên lại lập tên khác.

Hỏi: Quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng được pháp không đọa, vì sao chỉ nói quả Dự lưu được pháp không đọa?

Đáp: Cũng nên nói điều ấy nhưng không nói, nên biết là kinh này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, các quả đều có nghĩa thắng và nghĩa hiển. Tức quả Dự lưu thì pháp không đọa là thắng, pháp không đọa là hiển, nên gọi là không đọa, là không đọa vào nẻo ác. Quả Nhất lai thì pháp Nhất lai là thắng, pháp Nhất lai là hiển, nên gọi là Nhất lai, là chỉ một lần qua lại nơi cõi sinh tử. Quả Bất hoàn thì pháp Bất hoàn là thắng, pháp Bất hoàn là hiển, nên gọi là Bất hoàn, là không trở lại nơi cõi dục. Quả A-la-hán thì pháp vô sinh là thắng, pháp vô sinh là hiển, nên gọi là vô sinh, là không thọ nhận thân sau. Vì thế nên Dự lưu được nói riêng là không đọa.

Hỏi: Phàm phu cũng có được pháp không đọa, vì sao ở đây không nói phàm phu?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa vì phàm phu không định. Nghĩa là các phàm phu đối với pháp không đọa có được, không được, còn các người Dự lưu thì nhất định được pháp không đọa, nên nói riêng.

Định, nghĩa là an trụ nơi chánh tánh định tụ. Các người Dự lưu vì nhất định nhập Niết-bàn, nên nói là định, tức duyên đã biến đổi. Cũng như chén đựng nước uống ném từ lầu ba xuống đất, trong khoảng chén chưa rơi tới đất, tuy nói là chưa bể, tất nó sẽ bể, nên cũng gọi là chén bể.

Người đi tới Bồ-đề, đạt tận trí, vô sinh trí gọi là Bồ-đề. Người này đối với Bồ-đề nguyện ưa thích chấp nhận kính trọng, yêu mến, tùy thuận đi tới, sắp đến, gọi là đi tới.

Tối đa là bảy lần trở lại sinh tử, là chỉ thọ nhận bảy lần sinh tử (Hữu).

Hỏi: Nên nói mười bốn hữu, hoặc hai mươi tám hữu. Nếu ở đây chỉ căn cứ vào bản hữu mà nói nên nói có mười bốn hữu, tức trong nẻo người, trời đều có bảy hữu. Nếu căn cứ vào bản hữu, trung hữu mà nói thì có hai mươi tám hữu. Vì trời, người đều có mười bốn hữu, nghĩa là bảy bản hữu và bảy trung hữu. Vì sao chỉ nói tối đa là bảy hữu?

Đáp: Như cây có bảy lá. Vì không quá bảy, nên nói tối đa là bảy hữu. Nghĩa là nơi nẻo trời và người về bản hữu, trung hữu, mỗi thứ đều có bảy. Như kinh khác nói: Phật chuyển pháp luân, bốn đế, ba lần chuyển mười hai hành tướng. Không phải chỉ có ba lần chuyển, mười hai hành tướng, mà nên nói là mười hai lần chuyển bốn mươi tám hành tướng. Nghĩa là ở bốn đế, mỗi đế đều có ba lần chuyển mười hai hành tướng. Nhưng nơi mỗi mỗi đế đều có ba lần chuyển mười hai hành tướng, vì không quá ba lần chuyển mười hai hành tướng, nên nói như thế.

Kinh khác cũng nói: Có bảy xứ thiện và ba nghĩa quán, nhanh chóng ở trong Thánh pháp Tỳ-nại-da có thể dứt hết các lậu. Không nên chỉ nói có bảy xứ thiện, kinh kia nên nói có ba mươi lăm xứ thiện, hoặc vô lượng xứ thiện. Vì không quá bảy nên nói như thế. Nghĩa là hoặc nơi năm uẩn, hoặc nơi pháp khác, vì mỗi mỗi thứ đều có bảy xứ thiện. Đây cũng như thế.

Lại, kinh khác nói: Bí-sô! Nay Như lai sẽ nói hai pháp. Hai, nghĩa là nhãn, sắc, cho đến ý, pháp. Kinh kia không nên nói có hai, nên nói là có mười hai. Vì không quá hai, nên nói là hai pháp. Đây cũng như thế.

Hỏi: Dự lưu nào chỉ trải qua bảy Hữu, lưu chuyển qua lại, không thêm không bớt?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Nếu thêm, nếu bớt cũng đều sinh nghi, chỉ nhận bảy hữu, vì không trái với pháp tướng, do vậy không nên nêu vấn nạn.

Lại nữa, nhân dị thục kia chỉ có chiêu cảm từng ấy quả dị thục, theo uy lực hiện có.

Lại nữa, vì sức của nghiệp kia nên có thể thọ nhận bảy Hữu. Vì lực của Thánh đạo nên không đến Hữu thứ tám. Như đi được bảy bước khi bị rắn độc cắn. Vì sức của đại chủng nên có thể đi bảy bước. Vì sức mạnh của chất độc nên không đến bước thứ tám.

Lại nữa, nếu thọ nhận tám Hữu, thì hữu thứ tám kia khi sinh nên không có Thánh đạo. Vì Thánh đạo theo pháp tự nhiên không dựa vào thân thứ tám của cõi dục. Thân thứ tám kia khi sinh ra, nếu không có Thánh đạo, nên kiến đế rồi trở lại không kiến đế, được quả Thánh rồi trở lại không được quả, nhập hiện quán rồi trở lại không hiện quán, thành hàng Thánh rồi trở lại làm phàm phu. Chớ nên có lỗi như thế. Vì vậy chỉ có bảy Hữu.

Lại nữa, nếu thọ nhận tám Hữu thì vượt trên ba đời, tức hơn vô số vô lượng nên pháp Tỳ-nại-da của bậc Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với Như Lai sẽ không phải là quyến thuộc bên trong, như quá bảy họ thì không gọi là thân.

Lại nữa, lúc nhẫn tăng thượng là đã loại trừ bảy lần sinh nơi nẻo người, trời trong cõi dục, còn ở cõi sắc, cõi vô sắc thì riêng một lần sinh. Đối với các lần sinh khác đạt được phi trạch diệt, nếu pháp đã đạt được phi trạch diệt, tất không hiện tiền, nên chỉ có bảy Hữu.

Lại nữa, người kia đối với bảy xứ trên dưới của cõi dục có nghĩa thọ sinh. Bảy xứ, nghĩa là nẻo người và sáu trời thuộc cõi dục.

Trong đó người, trời cùng qua lại có gián cách nhau, nên nhận lấy bảy Hữu.

Lại nữa, vì sức mạnh của phiền não trong chín phẩm của cõi dục có khác nhau, nên người kia chỉ nhận bảy Hữu.

Lại nữa, người kia ở nơi bảy Hữu, tu bảy giác chi được viên mãn, nên chỉ nhận bảy Hữu.

Lại nữa, người kia ở nơi bảy Hữu, tu bảy định nương dựa, bảy thứ Thánh đạo được viên mãn nên chỉ thọ nhận bảy Hữu.

Lại nữa, người kia ở nơi bảy Hữu, tu đạo có khả năng đối trị bảy thứ tùy miên được viên mãn, nên chỉ nhận bảy Hữu, không thêm không bớt.

Bảy lần sinh lên nẻo trời, bảy lần sinh trong nẻo người: Đây là căn cứ vào Dự lưu viên mãn mà nói.

Nơi nẻo người, trời có cùng thọ nhận bảy lần sinh. Nhưng có Dự lưu nơi nẻo người, trời sinh riêng khác. Nghĩa là hoặc trời bảy, người sáu, hoặc người bảy, trời sáu, hoặc trời sáu, người năm, hoặc người sáu, trời năm, hoặc trời năm, người bốn, hoặc người năm, trời bốn, hoặc trời bốn, người ba, hoặc người bốn, trời ba, hoặc trời ba, người hai, hoặc người ba, trời hai, hoặc trời hai, người một, hoặc người hai, trời một.

Trong đây, vì nói người sinh tối đa, nên nói Dự lưu nơi người, trời đều có bảy lần.

Hỏi: Dự lưu viên mãn là ở xứ nào viên mãn bảy? Ở trên nẻo trời hay ở trong nẻo người để nhận hữu thứ bảy, nhập Niết-bàn?

Đáp: Có thuyết nói: Nếu dựa vào đời này được quả Dự lưu, tức nói đời này nhập số hữu là bảy. Thuyết kia nói: Nếu đắc quả trong nẻo người thì trên nẻo trời viên mãn bảy rồi nhập Niết-bàn. Nếu trên nẻo trời đắc quả thì viên mãn bảy trong nẻo người rồi nhập Niết-bàn.

Có thuyết cho: Nếu căn cứ nơi đời này được quả Dự lưu, thì không nói đời này nhập số bảy hữu. Thuyết đó nói: Nếu đắc quả trong nẻo người, sẽ trở lại viên mãn bảy trong nẻo người, nhập Niếtbàn. Nếu đắc quả trên nẻo trời, trở lại viên mãn bảy trên nẻo trời rồi nhập Niết-bàn.

Nên biết trong đây, thuyết ban đầu là phi lý, vì được quả trong đời, có trường hợp hoàn toàn thuộc về phàm phu. Vậy thì Dự lưu chỉ nên nói thọ nhận hai mươi bảy Hữu. Nhưng Luận Thi Thiết nói: Người Dự lưu vì lưu chuyển qua lại trong hai mươi tám Hữu, tạo được biên vực nơi khổ tức không nên nói là đời của lần đầu đắc quả là nhập số bảy Hữu.

Hỏi: Người thọ nhận bảy Hữu, trong sáu đời trước có khởi Thánh đạo không?

Đáp: Có thuyết nói: Không khởi, vì nếu khởi người đó sẽ nhập Niết-bàn.

Có thuyết cho: Cũng khởi, vì sức của nghiệp được duy trì nên không vào Niết-bàn.

Hỏi: Nếu viên mãn bảy Hữu, trong trường hợp không có Phật ra đời, người kia ở tại gia có được A-la-hán chăng?

Đáp: Có thuyết nêu: Không được, vì người đó phải xuất gia, thọ nhận pháp phục khác, mới được A-la-hán.

Có thuyết biện: Người kia ở tại gia được A-la-hán rồi, về sau tất xuất gia, thọ nhận pháp phục khác.

Nên nói như thế này: Tức người kia theo pháp như vậy, trở thành tướng của đệ tử Phật nên được quả tột bậc. Như năm trăm Tiên nhân tu đạo trong núi Y Sư Ca, vốn là Thanh văn trong thời kỳ không có Phật ra đời. Có con khỉ vì hiện tướng đệ tử Phật, các tiên kia đều bắt chước làm theo, chứng được quả Độc giác vô học vì không nhận tướng của ngoại đạo.

Lưu chuyển qua lại: Là thọ mạng trên cõi trời hết, đến sinh trong nẻo người. Thọ mạng trong nẻo người hết, sinh lên cõi trời, như người giàu sang du ngoạn, ngắm xem từ khu vườn này đến khu rừng kia.

Lưu: Là trung hữu.

Chuyển: Là bản hữu.

Tạo được biên vực nơi khổ: Là nghĩa chứng đắc biên vực tận cùng của khổ.

Hỏi: Biên vực tận cùng của khổ này là ở trong khổ hay là ở ngoài khổ? Nếu ở trong khổ thì nên không phải là biên vực. Nếu ở ngoài khổ, thì dụ về sự hiện hữu của thế gian làm sao thông? Như thẻ vàng của thế gian, phần đầu, giữa và sau, không lúc nào không phải là vàng. Biên vực của khổ cũng nên đều là khổ.

Đáp: Có thuyết nói: Biên vực của khổ, nghĩa là ở ngay trong khổ. Tức Thể của các uẩn sau cùng nơi A-la-hán tuy là khổ nhưng không phải là nhân của khổ sau, nên không sinh khổ sau. Vì khổ sau không nối tiếp, nên gọi là biên vực tận cùng của khổ.

Có Sư khác cho: Biên vực của khổ, nghĩa là ở ngoài khổ, tức là Niết-bàn. Vì đã vĩnh viễn thoát khỏi khổ, nên gọi là biên vực tận cùng của khổ. Thí dụ về sự hiện hữu của thế gian không cần phải thông suốt, vì không phải thuộc về ba Tạng, nên không cần giải thích, vì pháp thế gian và pháp Thánh, lý đều khác biệt.

HẾT – QUYỂN 46