LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 141

Chương 5: ĐẠI CHỦNG UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ CHẤP THỌ, phần 5

* Bốn niệm trụ: Thân niệm trụ, Thọ niệm trụ, Tâm niệm trụ, Pháp niệm trụ.

Nhưng các niệm trụ này nói chung chỉ là một thứ, tức là một tự tánh của tuệ trong tâm sở, một tuệ căn trong căn, một tuệ lực trong lực, một trạch pháp giác chi trong giác chi, một chánh kiến trong chánh đạo.

Hoặc phân làm hai, tức là hữu lậu và vô lậu. Hoặc phân làm ba là thượng, trung, hạ.

Hoặc phân làm bốn là ba cõi và không thuộc cõi nào. Hoặc phân làm năm là thuộc ba cõi và hữu học, vô học. Cho đến nếu lấy các sát-na khác nhau của sự nối tiếp để phân biệt thì có vô lượng.

Hỏi: Vì sao ở trong nghĩa ấy, Đức Thế Tôn mở ra ít, hợp lại nhiều, chỉ để nói về bốn thứ niệm trụ này?

Đáp: Đức Phật căn cứ vào các hành tướng đối tượng duyên của chánh tuệ có thô tế không đồng để kiến lập bốn thứ ấy.

Hỏi: Nếu thế vì sao trong Khế kinh nói quán trong ngoài đều có mười hai thứ khác nhau?

Đáp: Vì không vượt quá bốn nên chỉ nói có bốn thứ. Như bảy lá nơi cây, bảy đời Dự lưu, thứ này cũng như thế.

Hỏi: Thể của các thứ này là tuệ, vì sao Đức Thế Tôn nói là niệm trụ?

Đáp: Vì tuệ do sức của niệm được trụ nơi đối tượng duyên, nên gọi là niệm trụ. Hoặc do sức của tuệ này khiến niệm trụ nơi cảnh, nên gọi là niệm trụ. Hai thứ ấy đối với cảnh lần lượt cùng hỗ trợ nhau, hơn hẳn các pháp khác, nên gọi là niệm trụ. Phân biệt rộng về niệm trụ như các nơi khác đã nói.

* Bốn chánh đoạn:

1. Đối với pháp ác bất thiện đã sinh, vì khiến đoạn dứt nên phát khởi mong muốn ân cần thâu giữ tâm.

2. Đối với pháp ác bất thiện chưa sinh vì khiến không sinh. Phần còn lại như trước đã nói.

3. Đối với pháp thiện chưa sinh vì khiến sinh. Phần còn lại như trước đã nói.

4. Đối với các pháp thiện đã sinh vì khiến an trụ không quên nên tu tập tăng rộng gấp bội. Phần còn lại như trước đã nói.

Nhưng các chánh đoạn này hoặc gồm chung là một, tức là một thể tinh tấn ở trong tâm sở, là căn tinh tấn trong căn, là lực tinh tấn trong lực, là giác chi tinh tấn trong giác chi, là chánh tinh tấn trong đạo chi.

Hoặc phân làm hai, tức là hữu lậu và vô lậu. Hoặc phân làm ba, tức là thượng, trung, hạ.

Hoặc phân làm bốn, tức là thuộc ba cõi và không thuộc cõi nào. Hoặc phân làm năm, tức là thuộc ba cõi và học, vô học. Cho đến nếu lấy các sát-na sai khác của sự nối tiếp để phân biệt thì có vô lượng.

Hỏi: Vì sao ở trong nghĩa ấy, Đức Thế Tôn mở ra ít, hợp lại nhiều, chỉ để nói về bốn thứ chánh đoạn này?

Hỏi: Vì thể của một tinh tấn ở trong các sát-na có tác dụng không đồng, nên kiến lập làm bốn thứ. Nghĩa là đối với pháp ác đã sinh, chưa sinh là đoạn dứt và khiến không sinh. Lại đối với pháp thiện chưa sinh, đã sinh là khiến sinh cùng tăng rộng. Như ngọn đèn nơi một niệm có bốn tác dụng khác nhau. Nghĩa là đốt cháy, tim đèn hết, dầu làm nóng, bình đựng dầu, phá tan bóng tối. Các thứ kia cũng như thế.

Hỏi: Các luận như Pháp uẩn v.v… nói: Đoạn trừ pháp ác bất thiện đã sinh tức gồm đủ bốn thứ. Nghĩa là đối với pháp ác bất thiện đã sinh vì khiến đoạn dứt nên phát khởi mong muốn ân cần thâu giữ tâm, người ấy ở phần vị đoạn trừ pháp ác bất thiện đã sinh, đồng thời cũng có thể khiến pháp ác bất thiện ấy chưa sinh thì không sinh. Lại khiến pháp thiện chưa sinh được sinh, đã sinh thì trụ v.v… Cho đến nói tu pháp thiện đã sinh khiến an trụ v.v… cũng có đủ bốn thứ. Nghĩa là đối với pháp thiện đã sinh vì khiến an trụ không quên, tức tu tập tăng rộng bội phần, nên sinh mong muốn phát khởi ân cần thâu giữ tâm. Người ấy ở phần vị tu các pháp thiện đã sinh, đồng thời cũng có thể khiến các pháp ác bất thiện đã sinh kia đoạn dứt, và pháp ác chưa sinh thì không sinh. Lại khiến pháp thiện chưa sinh thì sinh. Như thế tức thành mười sáu chánh đoạn, vì sao ở đây chỉ nói có bốn?

Đáp: Đây là căn cứ vào ý vui thích cho đến phần vị gia hạnh của người tu hành có khác nên nói như thế. Nghĩa là người ấy lúc trước khởi một ý vui thích đến phần vị gia hạnh thì đủ bốn thứ. Như thế là căn cứ vào bốn thứ ý vui thích kia đến phần vị gia hạnh nên nói như vậy. Nhưng khi tạo gia hạnh đều chỉ có bốn, không quá bốn nên chỉ nói có bốn thứ. Như do ý vui thích, gia hạnh nên nói, thì do hướng nhập, gia hạnh nên nói, do chỗ nương dựa, gia hạnh nên nói, do thắng giải, gia hạnh nên nói, nên biết cũng như thế.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Bốn thứ này vì sao gọi là chánh đoạn?

Đáp: Do bốn thứ này có thể đoạn trừ đúng đắn.

Hỏi: Đối với hai pháp trước thì có thể như thế, còn đối với hai pháp sau thì sao?

Đáp: Vì do lấy phần trước làm tên gọi nên không có lỗi. Hoặc bốn thứ này đều có nghĩa đoạn trừ. Nghĩa là hai thứ trước là đoạn trừ phiền não chướng, hai thứ sau là đoạn trừ sở tri chướng. Khi tu pháp thiện thì đoạn trừ không nhận biết. Đoạn trừ tạm thời hay đoạn trừ vĩnh viễn đều gọi là đoạn. Có chỗ nói thứ này gọi là chánh thắng, do thúc đẩy thuận hợp phát khởi thành sự việc thù thắng.

Hỏi: Ác và bất thiện có gì khác nhau?

Đáp: Ác là hữu phú vô ký. Còn bất thiện là các thứ không thiện.

Có thuyết nói: Ác tức là pháp nhiễm ở cõi sắc, cõi vô sắc và phần ít ở cõi dục. Còn bất thiện tức là pháp nhiễm phần nhiều ở cõi dục.

Có thuyết nêu: Ác tức hai phẩm kiến thân kiến và biên kiến ở cõi dục. Còn bất thiện là các phiền não khác ở cõi dục.

Hỏi: Vì sao pháp ác, bất thiện đã sinh thì nói khiến đoạn dứt, chưa sinh thì khiến không sinh?

Đáp: Thứ đã sinh đối với sự tự nối tiếp đã có tác dụng nên nói khiến đoạn dứt. Thứ chưa sinh đối với sự tự nối tiếp chưa có tác dụng nên nói khiến không sinh.

Có thuyết nói: Thứ đã sinh đối với sự nối tiếp của mình đã chướng ngại Thánh đạo nên nói khiến đoạn dứt. Thứ chưa sinh đối với sự nối tiếp của mình chưa chướng ngại Thánh đạo nên nói khiến không sinh.

Có thuyết nêu: Thứ đã sinh đối với sự nối tiếp của mình đã nhận quả, cho quả, nên nói khiến đoạn dứt. Thứ chưa sinh đối với sự nối tiếp của mình chưa nhận quả, cho quả, nên nói khiến không sinh.

Có thuyết cho: Thứ đã sinh đối với sự nối tiếp của mình đã nhận lấy quả đẳng lưu và quả dị thục nên nói khiến đoạn dứt. Thứ chưa sinh đối với sự nối tiếp của mình chưa nhận lấy quả đẳng lưu, quả dị thục nên nói khiến không sinh.

Có thuyết biện: Thứ đã sinh đối với sự nối tiếp của mình đã tạo nên các nhân đồng loại và biến hành nên nói khiến đoạn dứt. Thứ chưa sinh đối với sự nối tiếp của mình chưa tạo nên các nhân đồng loại và biến hành nên nói khiến không sinh.

Có thuyết nêu: Các thứ đã sinh đối với sự nối tiếp của mình đã thiêu đốt gây khổ não nên nói khiến đoạn dứt. Các thứ chưa sinh đối với sự nối tiếp của mình chưa thiêu đốt, chưa gây khổ não nên nói khiến không sinh.

Có thuyết cho: Các thứ đã sinh đối với sự nối tiếp của mình đã chê trách, đã tạo cấu nhiễm, đã tạo bùn nhơ, đã rơi vào ý ác, nên nói khiến đoạn dứt. Các thứ chưa sinh đối với sự nối tiếp của mình chưa chê trách, chưa tạo cấu nhiễm, chưa tạo bùn nhơ, chưa rơi vào ý ác, nên nói khiến không sinh.

Hỏi: Các pháp thiện được tu hành theo như thế sinh, tức như thế diệt, không có sinh rồi, quá một sát-na có nghĩa dừng trụ. Như thế vì sao nói đối với pháp thiện đã sinh vì khiến an trụ không quên nên tu tập tăng rộng gấp bội?

Đáp: Nên biết trong đây nói pháp thiện có hai phần, tức là phần thuận trụ và phần thuận thắng tấn. Nói khiến an trụ không quên là nói về phần thuận trụ. Còn nói khiến tu tập tăng rộng bội phần là nói về phần thuận thắng tấn. Cùng nương vào nối tiếp lần lượt thắng tấn nên nói an trụ v.v… cũng không có lỗi.

Có thuyết nói: Trong đây là nói ba phẩm pháp thiện, tức thượng, trung, hạ. Khiến an trụ không quên: Là nói nương vào căn thiện phẩm hạ chuyển dần đến phẩm trung. Khiến tu tập tăng rộng gấp bội: Là nói nương vào căn thiện phẩm trung chuyển dần đến phẩm thượng. Tuy nơi một sát-na sinh rồi liền diệt, nhưng dựa vào nối tiếp nên nói như thế.

Các chánh đoạn này ở cõi dục có bốn, ở cõi sắc và cõi vô sắc cũng như thế.

Hỏi: Ở cõi dục có pháp ác bất thiện nên có thể nói là có bốn. Vì sao ở cõi trên cũng nói là bốn?

Đáp: Các cõi ấy tuy lỗi lầm tai họa không nhiều nhưng có đủ các công đức của chúng.

Có thuyết nói: Các cõi ấy tuy không bị đối trị nhưng đều có khả năng đối trị.

Hỏi: Địa vị chí thì có thể như thế nhưng các địa trên thì như thế nào?

Đáp: Có nhiều thứ đối trị, đó là đối trị xả, đối trị đoạn trừ, đối trị giữ lấy, đối trị phần xa, đối trị chán hoại. Ở địa trên tuy không có đối trị xả và đối trị đoạn trừ nhưng có các thứ đối trị còn lại.

Hỏi: Ở tĩnh lự thì có thể như thế còn vô sắc thì thế nào?

Đáp: Ở vô sắc tuy không có đối trị chán hoại nhưng có đối trị giữ lấy và đối trị phần xa.

Các chánh đoạn học, vô học này nơi mỗi phần vị đều có đủ bốn thứ.

Hỏi: Ở phần vị hữu học thì có thể như thế, vì có pháp ác bất thiện, còn phần vị vô học thì thế nào?

Đáp: Bậc ấy tuy không có lỗi lầm nhưng có các công đức.

Có thuyết nói: Bậc ấy tuy không có đối tượng được đối trị nhưng có chủ thể đối trị. Nghĩa là có nhiều thứ đối trị như trước đã nói. Ở đó, tuy không có xả và đoạn trừ nhưng có các thứ còn lại.

Hỏi: Tinh tấn duyên với Niết-bàn thì do chánh đoạn nào gồm thâu?

Đáp: Có thuyết nói: Do chánh đoạn thứ nhất gồm thâu, vì đoạn dứt tức là Niết-bàn.

Có thuyết nêu: Do chánh đoạn thứ hai gồm thâu, vì Niết-bàn tức là không sinh.

Có thuyết cho: Do chánh đoạn thứ ba gồm thâu, vì lúc duyên với Niết-bàn thì pháp thiện sinh.

Có thuyết nói: Do chánh đoạn thứ tư gồm thâu, vì khi duyên với Niết-bàn thì các pháp thiện tăng thêm.

Như thế nên nói: Là do cả bốn chánh đoạn gồm thâu, vì khi duyên với Niết-bàn thì thực hiện bốn việc ấy. Nghĩa là khi duyên với các pháp có tánh trạch diệt tức khiến tất cả các pháp ác bất thiện đã sinh liền đoạn dứt, các thứ chưa sinh thì không sinh. Cùng khiến tất cả pháp thiện thế gian, xuất thế gian, chưa sinh thì sinh, đã sinh thì tăng rộng.

* Bốn thần túc:

  1. Thần túc Dục Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu.
  2. Thần túc Cần Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu.
  3. Thần túc Tâm Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu.
  4. Thần túc Quán Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu.

Hỏi: Vì sao gọi là thần, vì sao gọi là túc?

Đáp: Có thuyết nói: Tam-ma-địa gọi là thần, bốn thứ như Dục v.v… gọi là túc. Do bốn pháp này thâu nhận khiến Tam-mađịa chuyển.

Hỏi: Đẳng trì cùng có nhiều pháp tương ưng, vì sao bốn thứ này riêng gọi là thần túc?

Đáp: Các thứ này đối với đẳng trì tùy thuận vượt hơn. Nghĩa là ở trong pháp tương ưng, cùng có giúp ích cho đẳng trì thì bốn pháp này là hơn hết.

Lại có thuyết nói: Tam-ma-địa là thần, cũng là túc, còn bốn thứ như dục v.v… chỉ là túc, không phải là thần. Như trạch pháp là giác cũng là chi, còn sáu thứ kia là chi không phải là giác. Chánh kiến là đạo cũng là chi, còn bảy thứ kia chỉ là chi không phải là đạo. Lìa bỏ ăn phi thời là trai cũng là chi, còn bảy thứ kia chỉ là chi không phải là trai. Ở đây cũng như thế.

Hỏi: Nếu Tam-ma-địa là thần cũng là túc, vậy nên lập làm một hoặc lập làm năm, vì sao nói chỉ có bốn?

Đáp: Vì chỉ Tam-ma-địa được lập làm thần túc, từ bốn nhân ấy sinh ra nên nói là bốn. Nghĩa là ở phần vị gia hạnh, hoặc do sức của Dục dẫn phát đẳng trí khiến nó hiện khởi, nói rộng cho đến hoặc do sức của Quán dẫn phát khiến nó hiện khởi. Do ở phần vị gia hạnh, bốn pháp tùy tăng, khiến đẳng trì khởi, nên được phần vị định, tức ở nơi một đẳng trì kiến lập bốn thứ.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao bốn thứ này gọi là thần túc?

Đáp: Vì nếu có những mong cầu ước nguyện tất cả đều như ý nên gọi là thần. Dẫn phát đối với thần nên gọi là thần túc. Nhưng dụng của thần này tóm tắt có hai thứ: Một là thế tục vui thích. Hai là bậc Thánh ưa thích. Nếu như phân một làm nhiều, hợp nhiều thành một, những thứ đó gọi là thế tục vui thích. Nếu đối với các sự việc vừa ý của thế gian không trụ nơi tưởng thuận. Đối với các sự việc không vừa ý của thế gian không trụ nơi tưởng nghịch. Đối với các sự việc vừa ý, không vừa ý đều an trụ nơi xả, chánh niệm chánh tri. Những thứ ấy gọi là Hiền Thánh ưa thích.

Lại có ba thứ thần dụng: Một là vận thân. Hai là thắng giải. Ba là ý thế.

1. Thần dụng vận thân: Tức là cất mình bay lên khoảng không như loài chim. Cũng như tranh vẽ các vị tiên bay lượn, treo trên vách.

2. Thần dụng thắng giải: Tức là do sức này nên nhận biết các sự việc xảy ra ở xa. Hoặc đứng nơi châu này đưa tay sờ chạm mặt trời, mặt trăng. Hoặc chỉ trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay có thể đi đến cõi trời Sắc Cứu Cánh.

3. Thần dụng ý thế: Tức là mắt thấy các vật trên đỉnh đầu, hoặc thấy suốt đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, hoặc thấy vô số thế giới ở quanh mình.

Hỏi: Ba thứ thần dụng này những ai thành tựu được bao nhiêu thứ?

Đáp: Có thuyết nói: Hàng Thanh văn thành tựu được một thứ tức là vận thân. Hàng Độc giác thành tựu được hai thứ, tức trừ ý thế. Chỉ có Đức Phật, Thế Tôn là thành tựu đủ cả ba thứ.

Có thuyết nêu: Hàng phàm phu thành tựu được một thứ, tức là vận thân. Bậc Nhị thừa thành tựu được hai thứ, tức trừ ý thế. Nhưng hàng Thanh văn thì vận thân hiện rõ, hàng Độc giác thì thắng giải hiện rõ, còn Đức Phật thì đủ cả ba thứ, nhưng ý thế hiện rõ.

Hoặc có năm thứ thần dụng: Một là nghiệp. Hai là dị thục. Ba là biến hiện. Bốn là đủ đức. Năm là phát tâm.

Thần dụng nghiệp: Tức là trung hữu.

Thần dụng dị thục: Tức là các loài chim chóc biết bay v.v…

Thần dụng biến hiện: Tức là nương vào tĩnh lự phân một làm nhiều, hợp nhiều làm một v.v…

Thần dụng đủ đức: Tức là bốn thứ thần túc.

Thần dụng phát tâm: Tức các hàng trời, rồng v.v… Trời ở đây là các trời thuộc cõi dục.

Đối với năm thứ thần dụng đã nói, ở đây nói về thần dụng đủ đức. Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Dục Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu, tu nơi thần túc, nương dựa vào lìa, nương tựa vào không nhiễm, nương tựa vào diệt, hồi hướng nơi xả.

Về Cần Tam-ma-địa, Tâm Tam-ma-địa, Quán Tam-ma-địa nêu bày cũng như thế.

Ở đây nói thế nào gọi là lìa?

Có thuyết nói: Đó là nói về Tam-ma-địa. Nếu duyên với Tam-ma-địa làm cảnh, tu các thần túc, thì do hai duyên nên gọi là nương dựa vào lìa, đó là ý vui thích và đối tượng duyên. Nếu duyên với các pháp khác làm cảnh, tu các thần túc, thì chỉ do một duyên nên gọi là nương dựa vào lìa, đó là ý vui thích không phải là đối tượng duyên.

Có Sư khác cho: Đó là Niết-bàn tịch diệt. Nếu duyên với Niếtbàn tịch diệt làm cảnh, tu các thần túc thì do hai duyên nên gọi là nương dựa vào lìa, đó là ý vui thích và đối tượng duyên. Nếu duyên với các pháp khác làm cảnh, tu các thần túc, thì chỉ do một duyên nên gọi là nương dựa vào lìa, đó là ý vui thích không phải là đối tượng duyên.

Lại có thuyết nêu: Đó là Tam-ma-địa và Niết-bàn tịch diệt. Nếu duyên với hai thứ này làm cảnh, tu các thần túc, thì do hai duyên nên gọi là nương dựa vào lìa, đó là ý vui thích và đối tượng duyên. Nếu duyên với các pháp khác làm cảnh, tu các thần túc, thì chỉ do một duyên nên gọi là nương tựa vào lìa, đó là ý vui thích không phải là đối tượng duyên.

Nên biết trong đây nói nương dựa vào lìa đó là tĩnh lự thứ nhất, nương dựa vào không nhiễm đó là tĩnh lự thứ hai, nương dựa vào diệt đó là tĩnh lự thứ ba, và hồi hướng nơi xả đó là tĩnh lự thứ tư.

Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Những gì gọi là thọ mạng? Đó là bốn thần túc. Lại hỏi: Vì sao thần túc được gọi là thọ mạng? Đáp: Do thứ này làm chỗ nương dựa nên thọ mạng không dứt. Nghĩa là ở tại phần vị của định thọ mạng tất không dứt.

Có thuyết nói: Nương vào đây nên lìa khỏi tai ương của thọ mạng. Nghĩa là ở phần vị của định thì xa lìa được tai ương của thọ mạng.

Có thuyết nêu: Nương vào thứ này thì thọ mạng được tự tại.

Như Khế kinh nói: Nếu có Bí-sô, Bí-sô ni, đối với bốn thần túc này hoặc tu hoặc tập hoặc tu tập nhiều, người ấy nếu mong cầu sống lâu một kiếp hoặc hơn một kiếp, đều tùy ý tự tại. Do đó nên nói thần túc là thọ mạng.

Như Khế kinh nói: Có một Phạm chí đến chỗ Tôn giả A-nan-đà, dùng những lời nói dịu dàng, hòa nhã, vui vẻ thăm hỏi xong, rồi lui ra ngồi qua một bên và hỏi: Vì sao Tôn giả ở nơi Sa-môn Kiều Đáp Ma siêng tu phạm hạnh?

Hỏi: Vì sao vị Phạm chí hỏi như thế?

Đáp: Vì vị này ngày xưa là bạn thân của Tôn giả A-nan, từng biết Tôn giả A-nan là người ái hành, đối với năm dục trước thường tham đắm, nên đến đây để thử nghiệm xem Tôn giả vì cầu đoạn dứt ái mà tu phạm hạnh hay vì cầu thắng dục mà tu phạm hạnh, thế nên nêu câu hỏi ấy.

Tôn giả A-nan-đà đáp: Ta vì nhằm đoạn dứt ái nên ở chỗ Đức Phật siêng tu phạm hạnh.

Hỏi: Siêng tu phạm hạnh đoạn dứt bảy thứ tùy miên, vì sao chỉ nói ta vì nhằm đoạn dứt ái?

Đáp: Tôn giả Khánh Hỷ (A-nan) cũng biết Phạm chí kia là người ái hành, tham đắm các dục, nên muốn dẫn dắt, ý nói: Nếu ông bị các ái trói buộc, nay muốn lìa bỏ thì nên xuất gia đến chỗ của Đức Thế Tôn, theo ta siêng tu phạm hạnh thanh tịnh, vì vậy đã theo phương tiện để đáp ta vì nhằm đoạn dứt ái.

Vị Bà-la-môn ấy hỏi: Sa-môn Kiều Đáp Ma thật sự là có đạo tích, có thể đoạn dứt ái chăng?

Tôn giả A-nan-đà đáp: Ngài thật có, chớ nên nghi. Nếu ông đến tu thì nhất định có thể đoạn dứt ái.

Vị Phạm chí thỉnh cầu: Xin vui lòng nêu bày để tâm tôi được mở mang tất sẽ tuân hành.

Tôn giả nói: Chỉ có Đức Thế Tôn của tôi thấy biết và giảng nói như thật về bốn thần túc, nếu nương vào đó tu tập thì mau chóng xa lìa sự ràng buộc của ái.

Hỏi: Nếu có người có thể đối với ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần như bốn niệm trụ v.v… tùy theo một thứ tu tập thì đều có thể đoạn dứt ái, vì sao chỉ nói là tu bốn thần túc?

Đáp: Đây là pháp đối trị gần với kiết ái. Nghĩa là người có ái lúc nào cũng chạy theo các duyên, nên đẳng trì có thể làm pháp đối trị gần với người ấy.

Phạm chí lại hỏi: Như Tôn giả vừa nói, thần túc là vô biên, làm sao tu hết được?

Hỏi: Vì sao Phạm chí lại hỏi như thế?

Đáp: Ý của vị Phạm chí muốn nói: Bốn thần túc, thể của chúng có mặt khắp ở phần vị hữu học và vô học, chúng là vô biên, tu thế nào cho hết, nếu tu không hết làm sao đoạn dứt ái.

Tôn giả A-nan nói: Thứ này không phải là vô biên.

Phạm chí lại nói: Xin giải thích cho tôi được rõ.

Tôn giả A-nan nói: Tôi nay hỏi ông, nên theo ý mình mà trả lời. Ý ông nghĩ sao, ông từng sinh ý muốn vào vườn hoa dạo chơi chăng?

Phạm chí đáp: Có.

Lại hỏi: Vào vườn hoa dạo chơi xong lại sinh ý muốn ra về chăng?

Phạm chí đáp: Đúng thế.

Lại hỏi: Cả hai lúc đã sinh ý muốn há không có khác?

Phạm chí đáp: Đúng thế.

Tôn giả nói: Như ý muốn của ông ở hai lúc có khác, lúc thì muốn vào, lúc thì muốn ra về. Như thế, thần túc ở phần vị học và vô học cũng đều không đồng. Tu nơi phần vị học là nhằm đoạn dứt ái, còn tu nơi phần vị vô học là đạt hiện pháp lạc, tùy theo sự việc tu có khác, nên không gọi là vô biên. Vậy ông làm sao cho là tu không hết?

Vị này nghe xong thì hoan hỷ, phát tâm thuần tịnh, quy y Phật, xuất gia tu phạm hạnh.

* Năm căn: Là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. Năm lực cũng như vậy. Năm thứ này theo tên gọi tức ở trong tâm sở đều là một tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao năm thứ này gọi là căn, lực?

Đáp: Có thuyết nói: Vì có thể sinh pháp thiện nên gọi là căn, vì có thể phá trừ pháp ác nên gọi là lực.

Có thuyết nêu: Vì không thể làm nghiêng động nên gọi là căn, vì có thể phá trừ, hàng phục các thứ khác nên gọi là lực.

Có thuyết cho: Có nghĩa thế dụng tăng thượng là căn, có nghĩa không thể khất phục là lực. Nếu do phần vị khác nhau thì vị dưới gọi là căn, vị trên gọi là lực. Nếu do thật nghĩa thì trong mỗi mỗi phần vị đều có đủ hai thứ căn và lực. Hai thứ này được biện giải rộng như các chỗ khác đã nói.

* Bảy giác chi: Là giác chi niệm, giác chi trạch pháp, giác chi tinh tấn, giác chi hỷ, giác chi khinh an, giác chi định, giác chi xả.

Trạch pháp tức là tuệ, hỷ tức là hỷ căn, xả nghĩa là hành xả. Bốn thứ còn lại như tên gọi tức trong tâm sở đều là một tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao bảy thứ này gọi là giác chi?

Đáp: Giác nghĩa là hiểu biết rốt ráo, tức là tận trí, vô sinh trí, hoặc hiểu biết đúng như thật, đó là tuệ vô lậu. Bảy là các phần của chúng nên gọi là chi. Trạch pháp là giác cũng là chi. Sáu thứ còn lại là chi, không phải là giác. Bảy thứ này được biện giải rộng như các chỗ khác đã nói.

* Tám đạo chi: Là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Chánh kiến tức là tuệ, chánh tư duy tức là tầm, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng tức là ba căn tùy tâm chuyển phát khởi nghiệp thân ngữ vô biểu. Ba thứ còn lại như tên gọi, tức tánh của tâm sở.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao tám thứ ấy gọi là đạo chi?

Đáp: Nơi hành tác thông đạt nên gọi là đạo, tám là phần của chúng nên gọi là chi. Chánh kiến gọi là đạo, cũng gọi là chi. Bảy thứ còn lại là chi không phải là đạo. Tám thứ này như các chỗ khác đã nói rộng.

* Bốn tĩnh lự: Tức là tĩnh lự thứ nhất cho đến tĩnh lự thứ tư.

Có thuyết nói: Tầm hỷ, lạc, xả, tương ưng với tĩnh lự, như thứ lớp là bốn. Đây có hai thứ: Một là do tu được. Hai là do sinh được.

Do tu được: Tức địa này thâu giữ tâm một tánh cảnh. Nếu cùng trợ giúp tức tánh là năm uẩn.

Do sinh được: Tức tùy chỗ hệ thuộc của địa, lấy năm uẩn khác làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao bốn thứ này gọi là tĩnh lự?

Đáp: Tĩnh nghĩa là tịch tĩnh, lự nghĩa là suy nghĩ trù tính. Vì định và tuệ trong bốn địa này đều bình đẳng nên gọi là tĩnh lự. Các thứ khác theo đấy có thiếu sót nên không được tên ấy. Bốn tĩnh lự này như các chỗ khác đã phân biệt rộng.

* Bốn vô lượng: Tức từ, bi, hỷ, xả.

Từ, nghĩa là tác ý tương ưng ban cho an vui, lấy căn thiện không sân làm tánh.

Bi, nghĩa là tác ý tương ưng trừ diệt khổ, lấy căn thiện không sân làm tánh. Có thuyết nói lấy không hại làm tánh.

Hỷ, nghĩa là tác ý tương ưng vui mừng, an ủi, lấy hỷ căn làm tánh. Có thuyết nói lấy sự vui mừng trong tâm sở thiện làm tự tánh.

Xả, nghĩa là tác ý tương ưng bình đẳng, lấy căn thiện không tham làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao bốn thứ ấy gọi là vô lượng?

Đáp: Do bốn thứ này duyên với vô lượng hữu tình, sinh ra vô lượng pháp thiện, chiêu cảm vô lượng quả thù thắng. Nói rộng về bốn vô lượng này như ở các chỗ khác đã nói.

* Bốn vô sắc: Tức Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đây cũng có hai thứ: Một là do tu được. Hai là do sinh được.

Do tu được: Tức là địa này thâu giữ tâm vào một tánh cảnh. Nếu cùng có sự giúp đỡ tức tánh là bốn uẩn.

Do sinh được: Tức địa này hệ thuộc vào thứ khác bốn uẩn làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao bốn thứ ấy gọi là vô sắc?

Đáp: Vì ở bốn địa này đã vượt thoát khỏi tất cả các pháp có sắc, chúng trái ngược, làm hại tất cả pháp có sắc. Ở các xứ này, các pháp có sắc không thể sinh khởi được, nên gọi là vô sắc. Bốn vô sắc này cũng như các chỗ khác đã nói rộng.

* Tám giải thoát:

  1. Bên trong có sắc, quán các sắc giải thoát.
  2. Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài giải thoát.
  3. Tịnh giải thoát, thân tác chứng, trụ đầy đủ.
  4. Không vô biên xứ giải thoát, cho đến thứ bảy là:
  5. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
  6. Diệt thọ tưởng giải thoát, thân tác chứng, trụ đầy đủ.

Trong đây, ba thứ trước do căn thiện không tham làm tánh, nếu cùng có hỗ trợ thì tánh là năm uẩn. Bốn thứ kế tiếp tức do gia hạnh của địa căn bản kia nên lấy bốn uẩn thiện làm tánh.

Có thuyết nói: Cũng lấy địa cận phần kia nên lấy tám đạo giải thoát trước làm tánh. Giải thoát sau cùng (thứ tám) lấy đẳng chỉ diệt tận làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là giải thoát?

Đáp: Tức giải thoát hết mọi thứ có thể tạo chướng ngại. Các nghĩa còn lại như các nơi khác đã nói rộng.

* Tám thắng xứ:

  1. Bên trong có tưởng sắc, quán ít sắc ở bên ngoài, cho đến nói rộng.
  2. Bên trong có tưởng sắc, quán nhiều sắc bên ngoài, cho đến nói rộng.
  3. Bên trong không có tưởng sắc, quán ít sắc bên ngoài, cho đến nói rộng.
  4. Bên trong không có tưởng sắc, quán nhiều sắc bên ngoài, cho đến nói rộng.

Quán xanh, vàng, đỏ, trắng lại là bốn thứ.

Tám thứ này đều dùng căn thiện không tham làm tánh, cho đến cùng hỗ trợ tức năm uẩn làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là thắng xứ?

Đáp: Do hàng phục các đối tượng duyên, trừ diệt các tham ái nên gọi là thắng xứ. Phân biệt rộng về nghĩa như các nơi khác đã nói.

* Mười biến xứ: Tức là đều quán riêng các thứ xanh, vàng, đỏ, trắng, đất, nước, lửa, gió, đó là tám thứ trước. Chín là không vô biên xứ, mười là thức vô biên xứ.

Ở đây, tám thứ trước là do căn thiện không tham làm tánh. Nếu cùng có hỗ trợ thì năm uẩn làm tánh. Hai biến xứ sau tức do gia hạnh thiện hữu lậu của địa ấy cùng phẩm thắng giải về bốn uẩn làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là biến xứ?

Đáp: Vì đối tượng duyên rộng khắp, thắng giải vô biên nên gọi là biến xứ. Các nghĩa còn lại như các nơi khác đã nói rộng.

* Tám trí: Tức pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí.

Không có tận trí và vô sinh trí do phần vị có giới hạn. Tám trí này đều dùng tuệ trong tâm sở pháp làm tự tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là trí?

Đáp: Đối với các pháp của đối tượng duyên đều quán xét kỹ, đạt quyết định, nên gọi là trí. Các nghĩa còn lại như nơi khác đã nói.

* Ba đẳng trì: Tức là không, vô nguyện, vô tướng.

Ba thứ này đều dùng Tam-ma-địa trong tâm sở pháp làm tánh, chung cho cả hữu lậu và vô lậu. Trong đây chỉ nói về môn giải thoát vô lậu.

Nếu hai hành tướng: Không và vô ngã cùng kết hợp thì đẳng trì vô lậu này gọi là Tam-ma-địa không.

Nếu mười hành tướng: Vô thường, khổ, nhân, tập, sinh, duyên, đạo, như, hành, xuất cùng kết hợp thì đẳng trì vô lậu này gọi là Tamma-địa vô nguyện.

Nếu bốn hành tướng: Diệt, tĩnh, diệu, lìa cùng kết hợp thì đẳng trì vô lậu này gọi là Tam-ma-địa vô tướng.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là đẳng trì?

Đáp: Luôn bình đẳng giữ tâm, khiến chuyên chú vào một cảnh hoàn thành mọi công việc làm, nên gọi là đẳng trì. Nói rộng ba đẳng trì này như các chỗ khác đã biện giải.

* Bốn quả Sa-môn: 1. Quả Dự lưu. 2. Quả Nhất lai. 3. Quả Bất hoàn. 4. Quả A-la-hán.

Bốn quả này, mỗi quả đều lấy hai pháp làm tánh, đó là vô vi và hữu vi.

Về quả vô vi: Nghĩa là quả Dự lưu lấy trạch diệt do kiến đạo đoạn ở ba cõi làm tánh. Quả Nhất lai lấy trạch diệt do kiến đạo đoạn ở ba cõi và do tu đạo đoạn sáu phẩm trước ở cõi dục làm tánh. Quả Bất hoàn lấy trạch diệt do kiến đạo đoạn ở ba cõi và do tu đạo đoạn ở cõi dục làm tánh. Quả A-la-hán lấy trạch diệt do kiến đạo đoạn và tu đạo đoạn ở ba cõi làm tánh.

Về quả hữu vi: Tùy theo chỗ ứng hợp đều lấy năm uẩn vô lậu làm tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là quả Sa-môn?

Đáp: Không mê lầm điên đảo, mạnh mẽ, siêng gắng dứt trừ các pháp nhiễm, nên gọi là Sa-môn. Các Sa-môn này đã dẫn phát, đã chứng đắc gọi là quả Sa-môn. Các quả này cũng như ở các nơi khác đã nói rộng.

* Năm thông: 1. Thần cảnh trí thông. 2. Thiên nhãn trí thông. 3. Thiên nhĩ trí thông. 4. Tha tâm trí thông. 5. Túc trụ tùy niệm trí thông.

Năm thông này đều dùng tuệ làm tự tánh.

Đã nói về tự tánh, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì sao gọi là thông?

Đáp: Đối với đối tượng duyên của mình thấu đạt không điên đảo, có diệu dụng vô ngại nên gọi là thông.

Về cõi: Bốn thứ chỉ thuộc cõi sắc, tha tâm trí thông thì thuộc cõi sắc và không hệ thuộc.

Về địa: Thuộc địa căn bản của bốn tĩnh lự, không phải cận phần, không phải vô sắc. Vì sao? Vì nếu địa có năm thông nương dựa vào Tam-ma-địa thù thắng thì địa đó có năm thông. Cận phần và vô sắc không có năm thông nương vào Tam-ma-địa thù thắng, thế nên ở đó không có năm thông này.

Có thuyết nói: Nếu địa Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na bình đẳng thâu nhận thì địa đó có năm thông. Cận phần và vô sắc theo đó còn thiếu một thứ nên không có năm thông này.

Về chỗ dựa: Đều dựa vào cõi dục và cõi sắc.

Về hành tướng: Bốn thứ chỉ là hành tướng không sáng rõ. Tha tâm trí thông, nếu là hữu lậu thì cũng có hành tướng không sáng rõ, nếu là vô lậu thì làm bốn hành tướng của đạo.

Về đối tượng duyên: Thần cảnh trí thông duyên với bốn xứ hoặc hai xứ ở cõi dục và cõi sắc. Thiên nhãn trí thông duyên với sắc xứ ở cõi dục và cõi sắc. Thiên nhĩ trí thông duyên với thanh xứ ở cõi dục và cõi sắc. Tha tâm trí thông duyên với tâm tâm sở ở cõi dục, cõi sắc và không thuộc cõi nào. Túc trụ trí thông duyên với năm uẩn ở cõi dục, cõi sắc.

Về niệm trụ: Ba thứ trước chỉ là thân niệm trụ. Tha tâm trí thông là ba niệm trụ trừ thân niệm trụ. Túc trụ trí thông chỉ là pháp niệm trụ.

Về trí: Bốn thứ chỉ là thế tục trí. Tha tâm trí thông nếu hữu lậu là tha tâm trí của thế tục trí, nếu vô lậu là tha tâm trí của loại trí, đạo trí.

Về kết hợp với Tam-ma-địa: Bốn thứ không kết hợp với Tamma-địa. Tha tâm trí thông nếu là hữu lậu thì cũng không kết hợp với Tam-ma-địa, nếu là vô lậu thì kết hợp với đạo Tam-ma-địa vô nguyện.

Về căn tương ưng: Dựa vào chủng loại mà nói có ba căn tương ưng, đó là lạc căn, hỷ căn và xả căn.

Về đời: Cả năm thứ này đều thuộc về ba đời. Bốn thứ trước thì quá khứ duyên với quá khứ, hiện tại duyên với hiện tại. Vị lai nếu có sinh thì duyên với vị lai, nếu không sinh thì duyên với ba đời. Túc trụ trí thông thì quá khứ, hiện tại duyên với quá khứ, vị lai duyên với ba đời.

Về thiện v.v…: Thiên nhãn, thiên nhĩ thông là vô ký, duyên với ba thứ. Thần cảnh trí thông là thiện, duyên với vô ký. Các thứ còn lại là thiện, duyên với ba thứ.

Về thuộc cõi dục v.v…: Bốn thứ thuộc cõi sắc, duyên với thuộc cõi dục và cõi sắc. Tha tâm trí thông thì thuộc cõi sắc và không hệ thuộc, duyên với thuộc cõi dục, cõi sắc và không hệ thuộc.

Về học v.v…: Bốn thứ là phi học phi vô học, duyên với phi học phi vô học. Tha tâm trí thông là học, vô học, phi học phi vô học, duyên với học, vô học, phi học phi vô học.

Về do kiến đạo đoạn v.v…: Ba thứ do tu đạo đoạn, duyên với tu đạo đoạn. Tha tâm trí thông do tu đạo đoạn và không đoạn, duyên với kiến đạo, tu đạo đoạn và không đoạn. Túc trụ trí thông do tu đạo đoạn, duyên với kiến đạo và tu đạo đoạn.

Về duyên danh và nghĩa: Túc trụ trí thông duyên chung với danh và nghĩa. Bốn thứ kia thì duyên với nghĩa.

Về duyên với sự nối tiếp của mình v.v…: Tha tâm trí thông chỉ duyên với sự nối tiếp của người khác. Bốn thứ thông kia duyên chung với sự nối tiếp của mình, của người khác và không nối tiếp.

Về gia hạnh được, lìa nhiễm được:

Hỏi: Năm thứ thông này là do gia hạnh được hay do lìa nhiễm được? Nếu do gia hạnh được thì như nơi chương Trí Uẩn đã nói làm sao thông? Như nói: Nếu thành tựu tha tâm trí ở hiện tại thì cũng thành tựu ở quá khứ và vị lai chăng? Đáp: Đúng thế. Nếu do lìa nhiễm được thì nơi uẩn này phần trước đã nói làm sao thông? Như nói: Do đạo vô gián khi chứng được thần cảnh trí thông thì niệm trụ ở hiện tại tu một, vị lai tu bốn v.v… không phải khởi trước được, vì có tu ở vị lai.

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ do gia hạnh được.

Hỏi: Nếu thế thì nơi chương Trí Uẩn đã nói làm sao thông?

Đáp: Văn nơi ấy nên nói là: Nếu thành tựu tha tâm trí ở hiện tại, thì vị lai nhất định thành tựu. Ở quá khứ nếu đã diệt không mất thì thành tựu, nếu chưa diệt hoặc đã diệt mà mất thì không thành tựu. Nhưng không nói như thế là do cách nêu dẫn đã tóm tắt chung để đáp.

Có thuyết nêu: Chỉ do lìa nhiễm được.

Hỏi: Nếu như thế thì ở đây phần trước đã nói làm sao thông?

Đáp: Phải điều luyện nhiều lần pháp Bồ-đề phần, không phải mới tu mà được. Khi đó, chỉ khiến những thứ trước đã đạt được càng trở nên sáng rõ, hơn hẳn. Như thế nên nói: Đều do gia hạnh và lìa nhiễm được. Ở uẩn này chỉ nói do gia hạnh được, còn Trí Uẩn chỉ nói do lìa nhiễm được. Như vậy, cả hai nơi nói đều khéo thông suốt.

Có thuyết nói: Trong chỗ lìa nhiễm được, có đã từng hành tập và có chưa từng hành tập. Nơi chương Trí Uẩn là nói về đã từng hành tập, còn uẩn này là nói về chưa từng hành tập. Như vậy cả hai nơi nói đều khéo thông.

Về lìa nhiễm được: Tức do tĩnh lự thứ nhất dẫn phát khi lìa nhiễm nơi cõi dục được, cho đến do tĩnh lự thứ tư dẫn phát khi lìa nhiễm ở tĩnh lự thứ ba được. Nếu các bậc Thánh và phàm phu ở đời sau thì được chung cả đã từng hành tập và chưa từng hành tập. Các hàng khác thì được thứ đã từng hành tập. Lìa nhiễm được rồi phải có gia hạnh mới hiện tiền. Phật không cần gia hạnh. Độc giác gia hạnh bậc thấp, Thanh văn gia hạnh bậc trung hay bậc thượng. Lại, tùy theo khi lìa nhiễm ở đạo giải thoát, chỗ do tu đạt được đều phải lìa nhiễm mới được. Nếu ở những lúc khác do tu đạt được đều có gia hạnh mới được.

Về xứ nào khởi: Ở cõi dục, cõi sắc đều khởi được. Trong cõi dục chỉ có nơi loài người và trời, trong loài người chỉ có ở ba châu, chung cho cả nam, nữ, phàm, Thánh, học, vô học đều có thể hiện khởi.

Hỏi: Các thứ thông này do đạo vô gián hay đạo giải thoát gồm thâu?

Nếu do đạo vô gián gồm thâu thì nơi Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Phân một làm nhiều, hợp nhiều làm một, cho đến nói rộng. Không phải do đạo vô gián vì chỉ trong một sát-na có các sự việc như thế.

Nếu do đạo giải thoát gồm thâu thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông? Như nói: Thế nào là thông? Tức là đạo giải thoát của thiên nhãn, thiên nhĩ thông tuệ thiện. Vậy nếu là tuệ vô ký thì làm sao gọi là thông?

Đáp: Các thông là do đạo giải thoát gồm thâu. Như quả Sa-môn là do đạo giải thoát gồm thâu không phải là đạo vô gián. Đây cũng như vậy.

Hỏi: Như thế nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông?

Đáp: Thông theo Luận ấy nói khác với thông ở đây. Luận ấy nói tuệ thiện đều gọi là thông, do nói tất cả các pháp đều là chỗ thông đạt. Ở đây nói thắng tuệ gọi là thông, thì thông này hoặc là thiện hoặc là vô ký. Thông cùng với tuệ thiện được nêu làm bốn trường hợp.

Có thứ là thông không phải là tuệ thiện. Tức là thiên nhãn, thiên nhĩ thông.

Có thứ là tuệ thiện không phải là thông. Tức là trừ thông, còn lại là tuệ thiện.

Có thứ là thông cũng là tuệ thiện. Tức là bốn thứ thông còn lại.

Có thứ không phải là thông cũng không phải là tuệ thiện. Tức là trừ các trường hợp trên.

Hỏi: Năm thứ thông này sinh khởi như đã nêu bày hay không phải thế?

Đáp: Có thuyết nêu: Sinh khởi như đã nêu bày. Nghĩa là trước hết khởi Thần cảnh trí thông, nên Đức Phật nói trước, cho đến sau hết khởi Túc trụ trí thông, nên Đức Phật nói sau. Nghĩa là hành giả nghe nói có cõi trời nơi Sắc giới nhưng không thể đi đến, nên trước khởi Thần cảnh thông để đến. Nhưng không thể thấy sắc nơi cõi ấy, nên kế tiếp là khởi Thiên nhãn thông để thấy. Lại không thể nghe tiếng nói nơi cõi ấy, nên tiếp theo là khởi Thiên nhĩ thông để nghe. Lại không thể nhận biết tâm người ở cõi ấy, nên tiếp đến là khởi Tha tâm thông để nhận biết. Lại chưa rõ ở kiếp trước có từng gặp nhau hay không, nên sau hết là khởi Túc trụ thông. Đức Thế Tôn dựa vào các thứ lớp ấy để giảng nói. Như thế nên nói là thứ lớp không nhất định. Nghĩa là hoặc trước khởi Thần cảnh trí thông, cho đến hoặc trước khởi Túc trụ thông. Hoặc có người chỉ được Thần cảnh thông như Thiên Thọ (Đề-bà-đạt-đa) v.v… Hoặc có người chỉ được Thiên nhãn thông như Thiện Tinh v.v… Như vậy các thông không có thuận nhập hay nghịch nhập, cũng không vượt khỏi thứ lớp như các đẳng chí hoặc như vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ.

Hỏi: Khi tu khởi Thần cảnh hay Thiên nhãn thông cùng có ánh sáng, đây có sai khác gì chăng?

Đáp: Nếu tu Thần cảnh dẫn đến có ánh sáng, hoặc do biến hóa, hoặc do tự tánh mà có. Nếu tu Thiên nhãn dẫn đến có ánh sáng, chỉ do tự tánh mà có không phải do biến hóa.

HẾT – QUYỂN 141