LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 144

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ CĂN, phần 3

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là học, là vô học, là phi học phi vô học?

Đáp: Có hai căn là học, một căn là vô học, mười căn là phi học phi vô học, chín căn cần phân biệt.

Hai căn là học, tức vị tri đương tri căn và dĩ tri căn.

Một căn là vô học, tức cụ tri căn.

Mười căn là phi học phi vô học, tức bảy căn sắc và mạng, khổ, ưu.

Chín căn cần phân biệt, tức là ý, lạc, hỷ, xả, và năm căn như tín v.v… Các thứ này đều nên nêu ra ba phần để đáp nên gọi là cần phân biệt: Một là phần học. Hai là phần vô học. Ba là phần phi học phi vô học.

Phái Luận Phân Biệt nói: Ở đây cần tạo sự ghi nhớ phân biệt, nên gọi là cần phân biệt.

Nghĩa là ý căn hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học.

Thế nào là học? Nghĩa là tác ý học tương ưng với ý căn. Đây lại là thế nào? Tức là từ khổ pháp trí nhẫn cho đến định kim cang dụ tương ưng với ý căn.

Thế nào là vô học? Nghĩa là tác ý vô học tương ưng với ý căn. Đây lại là thế nào? Tức là tận trí, vô sinh trí, chánh kiến vô học tương ưng với ý căn.

Thế nào là phi học phi vô học? Nghĩa là tác ý hữu lậu tương ưng với ý căn. Đây lại là thế nào? Tức là có ba thứ là thiện, nhiễm ô và vô phú vô ký.

Về thiện lại có ba thứ, tức do gia hạnh được, do lìa nhiễm được, do sinh được.

Do gia hạnh được lại có ba thứ, tức do nghe tạo thành, do suy nghĩ tạo thành, do tu tạo thành.

Về nghe và suy nghĩ tạo thành, tức tương ưng với quán bất tịnh, trì tức niệm, niệm trụ v.v… Về tu tạo thành, tức noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất, trí thế tục hiện quán biên tương ưng với tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v…

Lìa nhiễm được, tức do khi lìa nhiễm đạt được tương ưng với tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v…

Do sinh được, nghĩa là khi sinh ra đạt được hai thứ thiện và nhiễm ô, đó là do kiến đạo đoạn, do tu đạo đoạn.

Vô phú vô ký có bốn thứ, tức đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và biến hóa v.v… chung cả quả và tâm.

Như ý căn, các thứ lạc căn, hỷ căn, xả căn, năm căn như tín v.v… cũng thế. Nhưng có sai khác: Nghĩa là năm căn như tín v.v… trừ nhiễm và vô ký, các thứ còn lại tùy chỗ thích ứng.

Hỏi: Vì sao ở đây nêu rõ về ý căn v.v… chỉ nói tác ý tương ưng không phải là thứ khác?

Đáp: Đây là do ý muốn của người tạo luận, cho đến nói rộng.

Hiếp Tôn giả nói: Ở đây không nên hỏi, tất cả nếu có nghi thì khi nói các thứ tương ưng khác cũng sinh nghi, chỉ cần không trái lý, theo đấy để nói thì không có lỗi.

Có thuyết nêu: Thuận sinh tâm thì tác ý là hơn hết. Nghĩa là trong pháp tương ưng, tâm thuận sinh thì chỉ tác ý là hơn hết. Cũng như trong không tương ưng thì pháp thuận sinh chỉ có tướng sinh, thế nên nói riêng.

Có thuyết cho: Tác ý là tướng cảnh giác, là tướng lôi kéo dẫn dắt khiến ý căn v.v… giữ lấy các đối tượng duyên hơn hết, thế nên nói riêng.

Có thuyết nói: Tác ý có khả năng sinh các pháp hơn hẳn pháp khác, thế nên nói riêng.

Đã phân biệt về tự tánh của các căn học v.v…, nay sẽ nói về tướng xen lẫn và không xen lẫn.

Hỏi: Các căn học thì chúng là căn của bậc hữu học chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp là căn học nhưng không phải là căn của bậc hữu học. Nghĩa là căn học, bậc hữu học không thành tựu. Đây lại là thế nào? Nghĩa là tùy tín hành không thành tựu các căn của tùy pháp hành. Tùy pháp hành không thành tựu các căn của tùy tín hành. Tín thắng giải không thành tựu các căn của kiến chí. Kiến chí không thành tựu các căn của tín thắng giải.

Còn thoái pháp tánh hữu học không thành tựu các căn của năm tánh hữu học, cho đến tánh pháp bất động hữu học không thành tựu các căn của bậc năm tánh hữu học. Tánh Phật thừa hữu học không thành tựu các căn của tánh hai thừa hữu học kia, cho đến tánh của thừa Thanh văn hữu học không thành tựu các căn của tánh hai thừa hữu học kia.

Trụ nơi phần vị khổ pháp trí nhẫn không thành tựu các căn của phần vị hữu học ở trên, cho đến trụ nơi phần vị đạo loại trí nhẫn không thành tựu các căn của phần vị hữu học ở trên. Trụ nơi ba quả hữu học chưa tiến lên bậc trên không thành tựu các căn của phần vị hữu học trên dưới. Trụ nơi phần vị tiến lên bậc trên, như chỗ ứng hợp nên nói rộng.

2. Có trường hợp là căn của bậc hữu học nhưng không phải là căn học. Nghĩa là căn phi học phi vô học, bậc hữu học đã thành tựu. Đây lại là thế nào? Nghĩa là các bậc hữu học sinh ở cõi dục, đã được nhãn căn không mất cùng sinh ở cõi sắc, đã thành tựu nhãn căn. Đã được: Tức là phần vị Bát-la-xa-khư v.v… Không mất: Tức là không hư mất. Như nhãn căn, các thứ nhĩ, tỷ, thiệt căn cũng vậy.

Sinh ở cõi dục và cõi sắc, người ấy thành tựu thân căn, nữ thành tựu nữ căn, nam thành tựu nam căn. Sinh ở cõi Biến tịnh và các cõi dưới thành tựu lạc căn. Sinh ở cõi dục thành tựu khổ căn. Sinh ở cõi Cực quang tịnh và cõi dưới thành tựu hỷ căn. Chưa lìa nhiễm dục thì thành tựu ưu căn, ý căn, mạng căn, xả căn tất cả đều thành tựu

Sinh ở cõi dục, chưa có được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục, cõi sắc. Nếu đã được tâm thiện ở cõi vô sắc thì thành tựu năm căn như tín v.v… ở ba cõi. Sinh ở cõi sắc, chưa được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi sắc. Nếu đã được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi sắc và vô sắc. Sinh ở cõi vô sắc, người ấy thành tựu được năm căn như tín v.v… ở cõi vô sắc.

3. Có trường hợp là căn học cũng là căn của bậc hữu học. Nghĩa là bậc hữu học thành tựu căn học. Đây lại là thế nào? Nghĩa là bậc Tùy tín hành thành tựu các căn của tùy tín hành. Bậc Tùy pháp hành thành tựu các căn của tùy pháp hành. Bậc Tín thắng giải thành tựu các căn của tín thắng giải. Bậc Kiến chí thành tựu các căn của kiến chí.

Bậc tánh thoái pháp hữu học thành tựu các căn của tánh thoái pháp hữu học, cho đến bậc tánh pháp bất động hữu học thành tựu các căn của tánh pháp bất động hữu học. Tánh Phật thừa hữu học thành tựu các căn của tánh Phật thừa hữu học, cho đến bậc tánh Thanh văn thừa hữu học thành tựu các căn của tánh Thanh văn thừa hữu học.

Bậc trụ nơi phần vị khổ pháp trí nhẫn thành tựu các căn của phần vị khổ pháp trí nhẫn, cho đến bậc trụ nơi phần vị đạo loại trí nhẫn thành tựu tất cả các căn của kiến đạo. Bậc trụ nơi ba quả hữu học chưa tiến lên bậc trên đều thành tựu các căn thuộc quả đã trụ. Bậc trụ nơi phần vị tiến lên bậc trên đều thành tựu quả đã đạt được cùng các căn thuộc về đạo quả thù thắng.

4. Có trường hợp không phải là căn học cũng không phải là căn của bậc hữu học. Nghĩa là căn vô học và căn phi học phi vô học, bậc hữu học không thành tựu. Đây lại là thế nào? Nghĩa là bậc hữu học nhất định không thành tựu các căn vô học cùng các căn phi học phi vô học.

Bậc hữu học không thành tựu: Tức các bậc hữu học sinh ở cõi dục, không có được nhãn căn, nếu như được mà mất, và sinh ở cõi vô sắc, không thành tựu nhãn căn. Không được: Tức là chưa đạt đến phần vị Bát-la-xa-khư v.v… Nếu như được mà mất: Tức đã bị hư mất. Như nhãn căn, các thứ nhĩ, tỷ, thiệt căn cũng thế.

Sinh ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu thân căn, người nữ không thành tựu nam căn, người nam không thành tựu nữ căn, có thứ đều không thành tựu. Nghĩa là sinh ở cõi sắc, cõi vô sắc và sinh ở cõi dục, hoặc từ xưa không được, hoặc đã được dần dần mạng chung thì bỏ mất. Hoặc sinh ở cõi Biến tịnh trở lên, không thành tựu lạc căn. Hoặc sinh ở cõi sắc và vô sắc không thành tựu khổ căn. Hoặc sinh ở cõi Cực quang tịnh trở lên không thành tựu hỷ căn. Hoặc người đã lìa nhiễm dục không thành tựu ưu căn.

Hoặc sinh ở cõi dục, chưa được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi vô sắc. Hoặc sinh ở cõi sắc, chưa được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục và cõi vô sắc. Hoặc sinh ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục, cõi sắc.

Hỏi: Các căn vô học thì chúng là căn của bậc vô học chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Có trường hợp là căn vô học nhưng không phải là căn của bậc vô học. Nghĩa là căn vô học, bậc vô học không thành tựu. Đây lại là thế nào? Nghĩa là bậc Thời giải thoát không thành tựu các căn của bất thời giải thoát. Bậc Bất thời giải thoát không thành tựu các căn của thời giải thoát. Bậc thoái pháp không thành tựu các căn của năm thứ. Cho đến bậc pháp bất động không thành tựu các căn của năm thứ. Phật không thành tựu các căn của Độc giác và Thanh văn. Độc giác không thành tựu các căn của Phật và Thanh văn. Thanh văn không thành tựu các căn của Phật và Độc giác.

2. Có trường hợp là căn của bậc vô học nhưng không phải là căn vô học. Nghĩa là căn phi học phi vô học do bậc vô học đã thành tựu. Đây lại là thế nào? Nghĩa là bậc vô học sinh ở cõi dục đã được nhãn căn không mất, và sinh ở cõi sắc, đã thành tựu nhãn căn. Như nhãn căn, các thứ nhĩ, tỷ, thiệt căn cũng như vậy.

Hoặc sinh ở cõi dục, cõi dục, người ấy thành tựu được thân căn, nữ thành tựu nữ căn, nam thành tựu nam căn. Hoặc sinh ở cõi Biến tịnh và các cõi dưới thành tựu lạc căn. Hoặc sinh ở cõi dục thành tựu khổ căn. Hoặc sinh ở cõi Cực quang tịnh và các cõi dưới thành tựu hỷ căn và ý, mạng, xả căn tất cả đều thành tựu. Hoặc sinh ở cõi dục, người ấy thành tựu năm căn như tín v.v… ở ba cõi. Hoặc sinh ở cõi sắc, người ấy thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi sắc và cõi vô sắc. Hoặc sinh ở cõi vô sắc, người ấy thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi vô sắc.

3. Có trường hợp là căn vô học cũng là căn của bậc vô học. Nghĩa là bậc vô học thành tựu căn vô học. Đây lại là thế nào? Nghĩa là bậc Thời giải thoát thành tựu các căn của thời giải thoát. Bậc Bất thời giải thoát thành tựu các căn của bất thời giải thoát. Bậc thoái pháp thành tựu các căn của thoái pháp. Cho đến bậc pháp bất động thành tựu các căn của pháp bất động. Phật thành tựu các căn của Phật. Độc giác thành tựu các căn của Độc giác. Thanh văn thành tựu các căn của Thanh văn.

4. Có trường hợp không phải là căn vô học cũng không phải là căn của bậc vô học. Nghĩa là căn học và căn phi học phi vô học, bậc vô học không thành tựu. Đây lại là thế nào? Nghĩa là bậc vô học nhất định không thành tựu các căn hữu học và các căn phi học phi vô học. Bậc vô học không thành tựu: Nghĩa là bậc vô học sinh ở cõi dục không được nhãn căn, nếu như được mà mất và sinh ở cõi vô sắc, không thành tựu nhãn căn. Như nhãn căn, các thứ nhĩ, tỷ, thiệt căn cũng thế.

Hoặc sinh ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu thân căn, nữ không thành tựu nam căn, nam không thành tựu nữ căn, có thứ đều không thành tựu. Nghĩa là sinh ở cõi sắc, vô sắc và sinh nơi cõi dục, từ xưa không được, hoặc đã được mà mất. Hoặc sinh ở cõi Biến tịnh trở lên không thành tựu lạc căn. Hoặc sinh ở cõi sắc, vô sắc không thành tựu khổ căn. Hoặc sinh ở cõi Cực quang tịnh trở lên không thành tựu hỷ căn và nhất định không thành tựu ưu căn. Hoặc sinh ở cõi sắc không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục. Hoặc sinh ở cõi vô sắc không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục và cõi sắc.

Hỏi: Các căn phi học phi vô học thì chúng là căn của bậc phi học phi vô học chăng?

Đáp: Các căn của bậc phi học phi vô học căn ấy là căn phi học phi vô học. Vì sao? Vì thành tựu pháp học tức gọi là bậc hữu học.

Thành tựu pháp vô học tức gọi là bậc vô học. Nếu không thành tựu pháp học và vô học tức gọi là bậc phi học phi vô học. Tức là hạng phàm phu, các căn đã thành tựu chỉ là phi học phi vô học.

Có căn là phi học phi vô học nhưng không phải là căn của bậc phi học phi vô học. Nghĩa là bậc phi học phi vô học không thành tựu căn phi học phi vô học. Đây lại là thế nào? Nghĩa là các phàm phu sinh ở cõi dục chưa được nhãn căn, nếu như được mà mất, và sinh ở cõi vô sắc không thành tựu nhãn căn. Như nhãn căn, các thứ nhĩ, tỷ, thiệt căn cũng thế.

Hoặc sinh ở cõi vô sắc không thành tựu thân căn, nữ không thành tựu nam căn, nam không thành tựu nữ căn, có thứ đều không thành tựu. Nghĩa là sinh ở cõi sắc, cõi vô sắc và sinh nơi cõi dục, từ xưa không được hoặc đã được mà mất. Hoặc sinh ở cõi Biến tịnh trở lên không thành tựu lạc căn. Hoặc sinh ở cõi sắc và cõi vô sắc không thành tựu khổ căn. Hoặc sinh ở cõi Cực quang tịnh trở lên không thành tựu hỷ căn. Khi lìa nhiễm cõi dục không thành tựu ưu căn. Người đoạn dứt căn thiện không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cả ba cõi.

Người sinh ở cõi dục, không đoạn dứt căn thiện, nếu chưa được tâm thiện ở cõi sắc thì không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi sắc và cõi vô sắc. Nếu đã có được tâm thiện ở cõi sắc, chưa có được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi vô sắc. Nếu sinh vào cõi sắc, chưa có được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục và cõi vô sắc. Nếu có được tâm thiện ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục. Nếu sinh ở cõi vô sắc, người ấy không thành tựu năm căn như tín v.v… ở cõi dục và cõi sắc.

Đã phân biệt về các căn học, vô học, phi học phi vô học. Nay sẽ nói về các nghĩa.

Hỏi: Thế nào gọi là học, vô học, phi học phi vô học?

Đáp: Dùng đạo không tham để đoạn trừ các tham, rồi học pháp thuộc đạo này, gọi là học. Dùng đạo không tham để đoạn trừ các tham, nhưng không học điều đã học vì đã vượt qua pháp thuộc lĩnh vực đó, gọi là vô học. Cùng trái với hai thứ trên gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, dùng đạo không sân đoạn trừ các thứ sân, rồi học pháp thuộc đạo này, gọi là học. Dùng đạo không sân đoạn trừ các thứ sân, nhưng không học điều đã học vì đã vượt qua pháp thuộc lĩnh vực đó, gọi là vô học. Cùng trái với hai thứ trên gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, dùng đạo không si đoạn trừ các thứ si, rồi học pháp thuộc đạo này, gọi là học. Dùng đạo không si đoạn trừ các thứ si, nhưng không học điều đã học vì đã vượt qua pháp thuộc lĩnh vực đó, gọi là vô học. Cùng trái với hai thứ trên gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, dùng đạo không ái đoạn trừ các thứ ái, rồi học pháp không ái thuộc đạo ấy gọi là học. Dùng đạo không ái đoạn trừ các thứ ái rồi học. Đây tức ngăn chận đạo vô học. Nhưng không phải là sự việc ái. Đây tức là ngăn chận đạo thế tục. Dùng đạo không ái để đoạn trừ các thứ ái, nhưng không học điều đã học, tức không phải sự việc ái, thì pháp thuộc đạo này gọi là vô học. Dùng đạo không ái đoạn trừ các thứ ái nhưng không học điều đã học, đây là ngăn chận đạo hữu học, nhưng không phải sự việc ái. Đây tức là ngăn chận đạo thế tục. Cùng trái với hai thứ trên gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, nếu đạo vì đoạn dứt hai mong cầu để làm đầy đủ một mong cầu mà học pháp thuộc đạo này, gọi là học. Vì đoạn dứt hai thứ mong cầu là cầu dục và cầu hữu, làm đầy đủ một mong cầu là cầu phạm hạnh. Nếu với đạo đoạn dứt hai mong cầu, làm đầy đủ một mong cầu nhưng không học điều đã học pháp thuộc đạo này gọi là vô học. Cùng trái với hai tướng ấy gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, nếu đạo để đoạn trừ phiền não, tu hiện quán đế, nhưng học pháp thuộc đạo này, gọi là học. Nếu đạo nhằm đoạn trừ phiền não, tu hiện quán đế, nhưng không học điều đã học pháp thuộc đạo này, gọi là vô học. Cùng trái với hai thứ trên gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, nếu trong chỗ dựa có phiền não được tùy chuyển, lại có được vô lậu thuận theo, đó là học. Nếu trong chỗ dựa không có phiền não được tùy chuyển, nhưng có được vô lậu thuận theo, đó là vô học. Cùng trái với hai thứ trên gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, nếu trong chỗ nương dựa có ái tùy chuyển trói buộc, nhưng lại có được vô lậu, đó là học. Nếu trong chỗ nương dựa không có ái tùy chuyển trói buộc, nhưng lại có được vô lậu, đó là vô học. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, nếu pháp thuộc về kiến đạo, tu đạo là học. Nếu pháp thuộc về đạo vô học là vô học. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là phi học phi vô học.

Về kiến địa, tu địa, vô học địa nói cũng như thế.

Lại nữa, nếu pháp thuộc về vị tri đương tri căn và dĩ tri căn là học. Nếu pháp thuộc về cụ tri căn là vô học. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, các pháp vô lậu trong sự nối tiếp của năm thứ Bổ-đặcgià-la gọi là học. Năm thứ Bổ-đặc-già-la: Một là Tùy tín hành. Hai là Tùy pháp hành. Ba là Tín thắng giải. Bốn là Kiến chí. Năm là Thân chứng. Các pháp vô lậu trong sự nối tiếp của hai thứ Bổ-đặc-già-la gọi là vô học. Hai thứ Bổ-đặc-già-la là Tuệ giải thoát và Câu giải thoát. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, các pháp vô lậu trong sự nối tiếp của bảy thứ Bổ-đặcgià-la gọi là học. Bảy thứ Bổ-đặc-già-la là bốn hướng và ba quả trước. Các pháp vô lậu trong sự nối tiếp của một thứ Bổ-đặc-già-la gọi là vô học. Một thứ Bổ-đặc-già-la là quả A-la-hán. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là phi học phi vô học.

Lại nữa, các pháp vô lậu trong sự nối tiếp của mười tám thứ Bổ-đặc-già-la gọi là học. Các pháp vô lậu trong sự nối tiếp của chín thứ Bổ-đặc-già-la gọi là vô học. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là phi học phi vô học.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ là thiện, là bất thiện, là vô ký?

Đáp: Có tám căn thiện, tám căn vô ký và sáu căn cần phân biệt.

Tám căn thiện, tức là năm căn như tín v.v… và ba căn vô lậu.

Tám căn vô ký, tức là bảy sắc căn và mạng căn.

Sáu thứ cần phân biệt, tức ý căn và năm thọ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là ý căn hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thế nào là thiện? Nghĩa là tác ý thiện tương ưng với ý căn. Loại này lại có hai thứ, tức là hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu lại có ba thứ là do gia hạnh được, do lìa nhiễm được và do sinh được. Vô lậu có hai thứ, tức học và vô học.

Thế nào là bất thiện? Nghĩa là tác ý bất thiện tương ưng với ý căn. Loại này lại có hai thứ, tức do kiến đạo đoạn và tu đạo đoạn. Nghĩa là ở cõi dục có ba mươi bốn thứ tùy miên cùng sinh với tác ý tương ưng với ý căn

Thế nào là vô ký? Nghĩa là tác ý vô ký tương ưng với ý căn. Loại này lại có hai thứ, tức hữu phú vô ký và vô phú vô ký. Hữu phú vô ký tức là ở cõi dục có hữu thân kiến và biên chấp kiến, cùng ở cõi sắc và vô sắc có tất cả phiền não cùng sinh với tác ý tương ưng với ý căn. Vô phú vô ký tức là đường oai nghi, xứ công xảo và dị thục sinh, chung quả cùng sinh với tác ý tương ưng với ý căn.

Như ý căn, các thứ xả căn, hỷ căn, lạc căn tùy chỗ thích ứng nên biết cũng thế.

Khổ căn hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thế nào là thiện? Nghĩa là tác ý thiện tương ưng với khổ căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là thiện sinh được.

Thế nào là bất thiện? Nghĩa là tác ý bất thiện tương ưng với khổ căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn.

Thế nào là vô ký? Nghĩa là tác ý vô ký tương ưng với khổ căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là dị thục sinh.

Ưu căn hoặc thiện, hoặc bất thiện.

Thế nào là thiện? Nghĩa là tác ý thiện tương ưng với ưu căn. Như nói: Biết đến lúc nào ta được trụ đầy nơi xứ ấy? Nếu đối với xứ của bậc Thánh đã trụ đầy đủ, đối với việc mong cầu giải thoát cao hơn tâm luôn nhớ nghĩ lo lắng.

Thế nào là bất thiện? Nghĩa là tác ý bất thiện tương ưng với ưu căn. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn và do tu đạo đoạn.

Hỏi: Vì sao không có ưu căn vô ký?

Đáp: Vô ký có hai thứ là hữu phú vô ký và vô phú vô ký. Ưu căn lại không phải là hữu phú vô ký, do không tương ưng với hữu thân kiến và biên chấp kiến ở cõi dục. Vì sao? Vì hành tướng khác nhau. Hai thứ kiến đó chuyển biến với hành tướng vui, còn ưu căn chuyển biến với hành tướng lo buồn. Vì các pháp cùng trái nhau không tương ưng với nhau. Ưu căn cũng không phải là vô phú vô ký, vì nó không phải thuộc về các thứ đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh.

Hỏi: Vì sao ưu căn không thuộc về đường oai nghi?

Đáp: Ưu căn chuyển biến có phân biệt, còn đường oai nghi chuyển biến không có phân biệt. Nếu đường oai nghi có ưu căn: Giả như có phân biệt: Ta nay nên tạo ra oai nghi như thế, như Đức Phật Thế Tôn, hoặc như Tôn giả Mã Thắng, tức khi phân biệt liền trụ vào oai nghi như vậy. Nhưng đường oai nghi không có phân biệt ấy, nên đường oai nghi không có ưu căn.

Hỏi: Vì sao ưu căn không phải là xứ công xảo?

Đáp: Vì ưu căn chuyển biến có phân biệt, còn xứ công xảo chuyển biến không có phân biệt. Nếu xứ công xảo có ưu căn: Giả như có phân biệt: Ta nay nên tạo việc công xảo như thế, như Đức Phật Thế Tôn, hoặc như thiên tử Diệu nghiệp, tức khi phân biệt là đã hoàn thành việc làm khéo léo như thế. Nhưng xứ công xảo không có phân biệt ấy, nên xứ công xảo không có ưu căn.

Hỏi: Vì sao ưu căn không phải là dị thục sinh?

Đáp: Vì ưu căn chuyển biến có phân biệt, còn dị thục sinh chuyển biến không có phân biệt. Nếu dị thục sinh có ưu căn: Giả như có phân biệt: Ta nay nên thọ dị thục như thế, như Đức Phật Thế Tôn, hoặc như Chuyển luân Thánh vương, tức khi phân biệt liền nên hiện thọ dị thục như thế. Nhưng dị thục sinh không có phân biệt ấy, nên dị thục sinh không có ưu căn.

Có thuyết nói: Ưu căn do gia hạnh hiện tại chuyển biến, còn dị thục sinh do các nghiệp trước dẫn dắt, thế nên ưu căn không phải là dị thục sinh.

Có thuyết nêu: Ưu căn tùy theo ý muốn mà chuyển biến, do ở trong tất cả sự việc mất mát, có lúc khởi ưu căn, có lúc không khởi. Còn dị thục sinh không tùy theo ý muốn thọ nhận, nhưng do nghiệp chuyển, thế nên ưu căn không phải là dị thục sinh.

Có thuyết cho: Nếu ưu căn là dị thục tức nên nghiệp nặng chỉ nhận quả báo ít. Nghĩa là có người nhân tạo nghiệp vô gián rồi liền sinh lo lắng buồn khổ, gọi là đã thọ nhận dị thục kia, há không phải là quả ít?

Có thuyết biện: Ưu căn khi lìa dục liền bỏ, còn pháp dị thục sinh dù lìa nhiễm cả ba cõi cũng còn tùy chuyển, thế nên ưu căn không phải là dị thục sinh. Do đó ưu căn chỉ là thiện và bất thiện.

Đã phân biệt các căn thiện, bất thiện v.v… Nay sẽ nói về các nghĩa ấy.

Hỏi: Thế nào là thiện, bất thiện và vô ký?

Đáp: Nếu pháp thuộc về thiện xảo, có thể chiêu cảm quả đáng yêu thích, tự tánh an ổn, gọi là thiện. Thuộc về thiện xảo: Là hiển bày về đạo đế. Có thể chiêu cảm quả đáng yêu thích: Là chỉ rõ về phần ít của khổ đế, tập đế. Tự tánh an ổn: Là hiển bày về diệt đế. Nếu pháp không thuộc về thiện xảo, có thể chiêu cảm quả không đáng yêu thích, tự tánh không an ổn, gọi là bất thiện. Đây là chỉ rõ về phần ít của khổ đế, tập đế. Cùng trái với hai thứ trên gọi là vô ký.

Có thuyết nêu: Nếu pháp có thể đạt được quả đáng yêu thích và quả lạc thọ, gọi là thiện. Nếu pháp không đạt được quả đáng yêu thích và quả khổ thọ, gọi là bất thiện. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là vô ký.

Có thuyết cho: Nếu pháp có thể sinh ra mầm mống đáng yêu thích và mầm mống giải thoát, gọi là thiện. Nếu pháp có thể sinh ra mầm mống không đáng yêu thích gọi là bất thiện. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là vô ký.

Có thuyết nói: Nếu pháp có thể chiêu cảm được nẻo đáng yêu thích, gọi là thiện. Nếu pháp có thể chiêu cảm được nẻo không đáng yêu thích, gọi là bất thiện. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là vô ký.

Có thuyết nêu: Nếu pháp gắn liền với phẩm hoàn diệt, phẩm thanh tịnh, là tánh thanh nhẹ, gọi là thiện. Nếu pháp gắn liền với phẩm lưu chuyển, phẩm tạp nhiễm, là tánh nặng chìm, gọi là bất thiện. Cùng trái với hai thứ ấy gọi là vô ký.

Hiếp Tôn giả nói: Do bốn duyên nên nói là thiện: Một là tự tánh. Hai là tương ưng. Ba là đẳng khởi. Bốn là thắng nghĩa.

Tự tánh thiện: Có thuyết nói là biết xấu hổ. Có thuyết nói là ba căn thiện.

Tương ưng thiện: Tức tương ưng với tâm tâm sở thiện.

Đẳng khởi thiện: Tức khởi nghiệp thân ngữ, tâm bất tương ưng hành.

Thắng nghĩa thiện: Tức là Niết-bàn an ổn, nên gọi là thiện.

Phái Luận Phân Biệt nói: Tự tánh thiện: Tức là trí. Tương ưng thiện: Tức là tương ưng với thức. Đẳng khởi thiện: Tức khởi các nghiệp thân ngữ. Thắng nghĩa thiện: Tức là Niết-bàn.

Do bốn duyên nên gọi là bất thiện: Một là tự tánh. Hai là tương ưng. Ba là đẳng khởi. Bốn là thắng nghĩa.

Tự tánh bất thiện: Có thuyết nói là không xấu hổ, do hoàn toàn bất thiện hiện hữu khắp tâm bất thiện. Có thuyết nói là ba căn bất thiện do có đủ cả năm nghĩa.

Tương ưng bất thiện: Nghĩa là tương ưng với tâm và tâm sở.

Đẳng khởi bất thiện: Nghĩa là khởi các nghiệp thân ngữ, tâm bất tương ưng hành.

Thắng nghĩa bất thiện: Nghĩa là sinh tử không an ổn, nên gọi là bất thiện.

Phái Luận Phân Biệt cho: Tự tánh bất thiện: Tức là si. Tương ưng bất thiện: Tức tương ưng với thức. Đẳng khởi bất thiện: Tức khởi các nghiệp thân ngữ. Thắng nghĩa bất thiện: Tức là sinh tử.

Hiếp Tôn giả nói: Nếu pháp là tự tánh của tác ý như lý, tương ưng với tác ý như lý, là đẳng khởi của tác ý như lý, là quả đẳng lưu của tác ý như lý, là quả ly hệ, gọi là thiện. Nếu pháp là tự tánh của tác ý không như lý, tương ưng với tác ý không như lý, là đẳng khởi của tác ý không như lý, là quả đẳng lưu của tác ý không như lý, gọi là bất thiện. Cùng trái với hai thứ trên gọi là vô ký.

Như tác ý như lý và tác ý không như lý, thì hổ thẹn và không hổ không thẹn, ba căn thiện và ba căn bất thiện, năm căn như tín v.v… và năm cái cũng như thế.

Luận Tập Dị Môn nói: Thế nào gọi là thiện? Tức có quả đáng yêu quý, quả đáng vui thích, quả thích ý, quả hợp ý, quả đáng ham chuộng, gọi là thiện. Đây là nói về quả đẳng lưu.

Lại nữa, có dị thục đáng yêu mến, dị thục đáng vui thích, dị thục thích ý, dị thục vừa ý, dị thục đáng ham chuộng, gọi là thiện. Đây là nói về quả dị thục. Cùng trái với thứ ấy gọi là bất thiện. Cùng trái với cả hai thứ trên gọi là vô ký. Các nghĩa khác như ở chương Kiết Uẩn, phẩm thứ nhất đã nói rộng.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ có dị thục? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Hỏi: Vì muốn ngăn chận tông chỉ của người khác và làm sáng tỏ nghĩa lý của mình. Nghĩa là như Phái Thí Dụ nói: “Nếu lìa tư thì không có nhân dị thục, nếu lìa thọ thì không có quả dị thục”. Nay để ngăn chận thuyết ấy, hiển bày nhân dị thục và quả dị thục cùng chung cho cả năm uẩn. Ẩm Quang Bộ thì nói: “Các nhân dị thục khi dị thục chưa sinh thì nhân đấy có Thể, khi dị thục sinh thì nhân đấy liền mất. Như khi mầm chưa mọc thì hạt còn có Thể, nhưng khi mầm đã mọc thì Thể của hạt ấy không còn”. Nay nhằm ngăn chận ý tưởng đó và làm sáng tỏ là nhân luôn còn. Lại có ngoại đạo cho: “Nghiệp thiện ác không có quả dị thục”. Nay cũng nhằm ngăn chận kiến chấp ấy và làm sáng tỏ các nghiệp thiện ác đều có quả dị thục, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này, bao nhiêu thứ có dị thục, bao nhiêu thứ không có dị thục?

Đáp: Một căn có dị thục, mười một căn không có dị thục, mười căn cần phân biệt.

Một căn có dị thục, tức ưu căn.

Mười một căn không có dị thục, tức bảy sắc căn, mạng căn và ba căn vô lậu.

Mười căn cần phân biệt, tức ý căn, bốn thọ và năm căn như tín

v.v… Đây lại là thế nào?

Ý căn hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Thế nào là có dị thục? Nghĩa là ý căn hữu lậu thiện và bất thiện.

Thế nào là không có dị thục? Nghĩa là ý căn vô lậu, vô ký.

Như ý căn, thì lạc căn, hỷ căn, xả căn cũng thế.

Khổ căn hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Thế nào là có dị thục? Tức khổ căn thiện và bất thiện.

Thế nào là không có dị thục? Tức khổ căn vô ký.

Năm căn như tín v.v… hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Thế nào là có dị thục? Nghĩa là năm căn như tín v.v… hữu lậu.

Thế nào là không có dị thục? Nghĩa là năm căn như tín v.v… vô lậu.

Đã phân biệt về các căn có dị thục v.v… Nay sẽ nói về nghĩa của chúng.

Hỏi: Thế nào gọi là có dị thục v.v…? Vì cùng chung với dị thục của mình nên gọi là có dị thục, hay vì cùng chung với dị thục của người khác nên gọi là có dị thục? Nếu cùng chung với dị thục của mình nên gọi là có dị thục, thì vì sao nhân, quả không cùng chung. Lại trái với lời kệ đã nói. Như nói: “Làm ác không chín liền v.v…”. Nếu cùng chung với dị thục của người khác nên gọi là có dị thục, thì do đạo vô lậu nên gọi là có dị thục, vì cùng chung với dị thục của người khác chăng?

Đáp: Nên nói vì cùng chung với dị thục của mình nên gọi là có dị thục.

Hỏi: Nếu thế vì sao nhân quả không cùng chung, và trái với lời tụng đã nói?

Đáp: Có hai thứ cùng chung: Một là cùng chung có. Hai là cùng chung đi đôi. Cùng chung có, như là có nhân có quả, có đối tượng duyên, có dị thục. Cùng chung đi đôi, như có tầm có tứ, có hỷ có tác ý v.v… Trong đây là dựa vào cùng chung có để tạo luận. Như cùng chung có và cùng chung đi đôi thì cùng chung có và cùng không lìa nhau cũng như thế.

Có thuyết nói: Cùng chung có ba thứ: Một là cùng xa. Hai là cùng gần. Ba là cùng xa gần. Hai thứ đầu như trước đã nói, còn cùng xa gần như có hữu lậu, có tùy miên, có duyên, có sự v.v… Ở đây là dựa vào cùng xa để tạo luận.

Hỏi: Vì sao gọi là dị thục?

Đáp: Vì khác loại mà chín (thục) nên gọi là dị thục. Chín (thục) có hai thứ: Một là đồng loại. Hai là khác loại. Đồng loại mà chín, tức là quả đẳng lưu. Khác loại mà chín, tức là quả dị thục. Phần còn lại như ở chương Kiết Uẩn đã nói rộng.

***

* Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn?

Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận các tông chỉ của người khác và nêu bày nghĩa lý của mình. Như Phái Thí Dụ nói: Không có việc đạo thế tục có thể đoạn trừ phiền não. Vị Đại đức ấy nói: Hàng phàm phu không có việc đoạn dứt các tùy miên, chỉ có thể chế ngự các triền, cũng như đạo thế tục không có nghĩa đoạn dứt vĩnh viễn chúng được. Do Khế kinh nói: Thánh tuệ thấy rồi mới có thể đoạn dứt. Vì muốn ngăn chận thuyết ấy cùng hiển bày: Đạo thế tục cũng có thể đoạn dứt vĩnh viễn và hàng phàm phu cũng đoạn dứt các tùy miên, nên Khế kinh nói: Ốt-đạt-lạc-ca-át-la-ma-tử đoạn dứt dục sắc, cho đến đoạn dứt vô sở hữu xứ, sinh lên phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lại nói: Có tiên ngoại đạo có thể lìa bỏ nhiễm dục. Những chỗ nói: Thánh tuệ thấy rồi mới có thể đoạn dứt, như thế là chỉ rõ việc đoạn dứt rốt ráo các nhiễm ở cõi Hữu đảnh.

Hoặc có thuyết nói: Các đạo thế tục tuy có thể đoạn dứt vĩnh viễn, nhưng đấy chỉ là hàng phàm phu, không phải là các bậc Thánh, không phải là bỏ đạo thù thắng dùng đạo thấp kém.

Nay vì muốn ngăn chận các ý tưởng này, nêu bày rõ: Các bậc Thánh cũng dùng đạo thế tục để lìa bỏ nhiễm nơi tám địa.

Có thuyết nêu: Đoạn dứt tức thì không phải là đoạn dứt dần dần. Khi định kim cang dụ hiện tiền, tất cả các phiền não cùng lúc đoạn dứt. Nay nhằm ngăn chận lối chấp này, chỉ rõ tất đoạn dứt dần dần, bốn quả Sa-môn phải lần lượt thứ lớp chứng đắc.

Có người chấp: Hiện quán chỉ là tức khắc không phải là dần dần. Nay để ngăn chận thuyết ấy và chỉ rõ: Hiện quán là dần dần không phải là tức khắc. Lại muốn hiển bày có hai bộ kiết và hai bộ đối trị, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hai mươi hai căn này có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn và bao nhiêu thứ không đoạn?

Đáp: Có chín căn do tu đạo đoạn, ba căn không đoạn và mười căn cần phân biệt.

Chín căn do tu đạo đoạn, tức bảy sắc căn, mạng căn và khổ căn.

Ba căn không đoạn, tức ba căn vô lậu.

Mười căn cần phân biệt, tức là ý căn, bốn thọ và năm căn như tín v.v… Nghĩa là:

Ý căn hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là ý căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành do nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên tương ưng với ý căn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là ý căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với ý căn và ý căn hữu lậu không nhiễm ô.

Thế nào là không đoạn? Tức là ý căn vô lậu.

Như ý căn, xả căn cũng thế.

Lạc căn hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành do nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ hai mươi tám thứ tùy miên tương ưng với lạc căn. Tức do kiến đạo đoạn của tĩnh lự thứ ba.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là lạc căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ năm thứ tùy miên tương ưng với lạc căn và lạc căn hữu lậu không nhiễm ô. Năm thứ tùy miên tức tham, vô minh ở cõi dục và tham, mạn, vô minh ở cõi sắc.

Thế nào là không đoạn? Tức là lạc căn vô lậu.

Hỷ căn hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành do nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ năm mươi hai thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn. Năm mươi hai thứ tùy miên: Là hai mươi bốn thứ ở cõi dục (trừ tám thứ như sân, nghi…) cùng hai mươi tám thứ ở cõi sắc.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là hỷ căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ sáu thứ tùy miên tương ưng với hỷ căn và hỷ căn hữu lậu không nhiễm ô. Sáu thứ tùy miên tức là tham, mạn, vô minh ở cõi dục và cõi sắc.

Thế nào là không đoạn? Tức là hỷ căn vô lậu.

Ưu căn hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đạo đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành do nhẫn hiện quán biên đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ mười sáu thứ tùy miên tương ưng với ưu căn. Mười sáu thứ tùy miên, tức tà kiến, sân, nghi, vô minh, ở cõi dục mỗi thứ có bốn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Nghĩa là ưu căn nơi bậc học kiến tích do tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Nghĩa là do tu đạo đoạn trừ hai thứ tùy miên tương ưng với ưu căn và ưu căn không nhiễm ô. Hai thứ tùy miên tức là sân và vô minh ở cõi dục.

Thế nào là không đoạn? Tức là ưu căn vô lậu.

Năm căn như tín v.v… hoặc do tu đạo đoạn và không đoạn.

Thế nào là do tu đạo đoạn? Tức năm căn như tín v.v… hữu lậu.

Thế nào là không đoạn? Tức năm căn như tín v.v… vô lậu.

Đã phân biệt về do kiến đạo đoạn v.v… của các căn. Nay sẽ nói về các nghĩa ấy.

Thế nào gọi là do kiến đạo đoạn và do tu đạo đoạn?

Như kiến không lìa tu, tu không thể lìa kiến. Trong kiến đạo, như thật tu tập tức có thể đạt được. Trong tu đạo, như thật kiến tức có thể đạt được. Tuệ gọi là kiến, không phóng dật gọi là tu. Ở đây nói về gì gọi là như thật? Ý nói là nghiêng về nhiều và mạnh nhanh gọi là như thật. Nghĩa là ở trong kiến đạo thì tuệ nhiều, không phóng dật ít, còn trong tu đạo thì không phóng dật nhiều, tuệ ít.

Hoặc lại ở đây ý nói: Bình đẳng gọi là như thật. Nghĩa là trong kiến đạo tùy có từng ấy tuệ tức có từng ấy không phóng dật. Trong tu đạo tùy có từng ấy không phóng dật tức có từng ấy tuệ.

Tôn giả Thế Hữu nói: Khi quán bốn Thánh đế đoạn trừ các phiền não, làm thế nào để phân biệt đây là do kiến đạo đoạn, đây là do tu đạo đoạn? Đáp: Do kiến mà đoạn, do kiến mà trừ bỏ, do kiến mà biến đổi, gọi là do kiến đạo đoạn.

Có thuyết nêu: Do kiến đạo đoạn cũng nên nói là do tu đạo đoạn. Vì trong kiến đạo nếu như thật tu tập tức có thể đạt được.

Như thế nên nói: Do kiến mà đoạn, do kiến mà trừ bỏ, do kiến mà biến đổi, gọi là do kiến đạo đoạn. Như đạo đã được, hoặc tu hoặc tập, hoặc tu tập nhiều để đoạn trừ tới phần đó, tới hạn lượng đó, dần khiến mỏng bớt và cuối cùng đoạn dứt rốt ráo, gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết cho: Tu đạo đoạn cũng nên nói là do kiến đạo đoạn, vì trong tu đạo nếu như thật kiến tức có thể đạt được.

Như thế nên nói: Đạo đã được rồi, hoặc tu hoặc tập, hoặc tu tập nhiều để đoạn trừ tới phần đó, tới hạn lượng đó, dần khiến mỏng bớt và cuối cùng đoạn dứt rốt ráo, gọi là do tu đạo đoạn.

Hỏi: Ở đây nói như thế có nghĩa gì?

Đáp: Đây nói kiến đạo là đạo mạnh mẽ, nhanh nhạy, khi vừa hiện ra thì chín phẩm phiền não cùng lúc được đoạn trừ. Tu đạo là đạo không mạnh mẽ, nhanh nhạy, phải hành tập khiến hiện tiền nhiều lần, chín phẩm phiền não phải cả chín lúc đoạn trừ. Như dùng dao bén và dao lụt cắt đứt một vật, nếu dao bén thì cắt một lần là đứt, còn dao lụt tức phải chặt nhiều lần mới đứt.

Có thuyết nêu: Nếu pháp do đạo của kiến tăng để đoạn trừ, gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp do đạo của tu tăng để đoạn trừ, gọi là do tu đạo đoạn.

Có thuyết cho: Nếu pháp dùng hai tướng nơi đạo để đoạn trừ, gọi là do kiến đạo đoạn. Hai tướng tức là tướng kiến và tướng tuệ. Nếu pháp dùng ba tướng nơi đạo để đoạn trừ, gọi là do tu đạo đoạn. Ba tướng tức tướng kiến, tướng trí và tướng tuệ.

Có thuyết nói: Nếu pháp dùng bốn tướng nơi đạo để đoạn trừ, gọi là do kiến đạo đoạn. Bốn tướng tức các tướng mắt, sáng, giác và tuệ. Nếu pháp dùng năm tướng nơi đạo để đoạn trừ, gọi là do tu đạo đoạn. Năm tướng tức các tướng mắt, trí, sáng, giác và tuệ.

Có thuyết nêu: Nếu pháp do nhẫn đoạn gọi là do kiến đạo đoạn. Nếu pháp do trí đoạn gọi là do tu đạo đoạn.

Các thứ còn lại như nơi chương Kiết Uẩn, phẩm thứ nhất đã nói rộng.

HẾT – QUYỂN 144