LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 187

Chương 8: KIẾN UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ NIỆM TRỤ, phần 1

* Có bốn niệm trụ: Đó là niệm trụ Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Những chương như thế cùng việc giải nghĩa của chương đã lãnh hội rồi nên phân biệt rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn giải thích nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Có bốn niệm trụ, nghĩa là Thân niệm trụ cho đến Pháp niệm trụ. Khế kinh tuy nói như vậy nhưng không phân biệt: Nếu tu Thân niệm trụ là tu Thọ niệm trụ chăng? Cho đến nói rộng. Kinh kia là chỗ dựa căn bản của Luận nay, những gì nơi Kinh ấy không phân biệt nay đều nên nêu bày, vì thế tạo ra phần Luận này.

Nhưng Đức Phật nói có ba niệm trụ: 1. Niệm trụ tự tánh. 2. Niệm trụ tương tạp. 3. Niệm trụ của đối tượng duyên.

Nơi xứ nào nói về Niệm trụ tự tánh?

Đáp: Như Khế kinh nói: Có một nẻo đạo có thể khiến cho hữu tình đạt được thanh tịnh, vượt dứt ưu khổ. Đó là bốn niệm trụ. Những gì là bốn? Là niệm trụ ở nơi thân tuần tự quán thân, cho đến niệm trụ ở nơi pháp tuần tự quán pháp.

Lại, ở nơi xứ nào nói về Niệm trụ tương tạp ?

Đáp: Như Khế kinh nói: Nếu có thuyết nói tụ pháp thiện tức bốn niệm trụ, đó là nói chân chánh. Vì sao? Vì chỉ có bốn niệm trụ là thuần đủ viên mãn tụ pháp thiện. Những gì là bốn? Là niệm trụ ở nơi thân tuần tự quán thân, cho đến nói rộng.

Lại, ở nơi xứ nào nói về Niệm trụ của đối tượng duyên?

Đáp: Như Khế kinh nói: Nếu có thuyết nói tất cả pháp tức bốn niệm trụ, đó là nói chân chánh. Vì sao? Vì chỉ có bốn niệm trụ là thâu nhận đầy đủ tất cả các pháp. Những gì là bốn? Là niệm trụ ở nơi thân tuần tự quán thân, cho đến nói rộng.

Trong đây, câu nêu dẫn của ba Kinh như thứ lớp đã nói riêng về niệm trụ tự tánh, tương tạp, đối tượng duyên. Câu giải thích đều nói về niệm trụ tự tánh. Do nói tuần tự quán là cùng chú trọng đến tuệ.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn ở trong câu nêu dẫn hoặc nói Niệm trụ tự tánh, hoặc nói Niệm trụ tương tạp, hoặc nói Niệm trụ của đối tượng duyên, nhưng ở trong câu giải thích chỉ nói Niệm trụ tự tánh?

Đáp: Là muốn khiến thắng nghĩa nơi niệm trụ không hoại mất. Niệm trụ có hai thứ: 1. Thắng nghĩa. 2. Thế tục. Niệm trụ tự tánh là thắng nghĩa, còn lại là thế tục. Thắng nghĩa nơi niệm trụ ở tất cả thời đều không thể hoại mất, thế nên trong câu giải thích Đức Phật đều nói về tự tánh.

Có thuyết nói: Do lực của Niệm trụ tự tánh nên tương tạp, đối tượng duyên được gọi là Niệm trụ.

Có thuyết cho: Nhằm hiển bày ba niệm trụ cùng dùng tuệ làm tự tánh. Nghĩa là tánh của một tuệ do pháp cùng có tương tạp hỗ trợ, nên có thể có đối tượng tạo tác tức gọi là Niệm trụ tương tạp. Do sức của đối tượng duyên, nên có thể tùy thuận quán khắp tức gọi là Niệm trụ của đối tượng duyên. Do Phật ở trong Khế kinh đã nói ba niệm trụ ấy, nên A-tỳ-đạt-ma ở nhiều nơi cũng dựa vào ba niệm trụ để tạo luận. Làm sao nhận biết?

Như nói: Thế nào là Thân niệm trụ? Nghĩa là tuệ duyên nơi thân. Cho đến: Thế nào là Pháp niệm trụ? Nghĩa là tuệ duyên nơi pháp. Đó gọi là nói về nơi chốn của Niệm trụ tự tánh. Đây tức như nơi Khế kinh đã nói: Có một nẻo đạo v.v…, cho đến nói rộng.

Như nói: Thế nào là Thân niệm trụ? Nghĩa là đạo tăng thượng của thân đã sinh thiện hữu lậu, vô lậu. Cho đến: Thế nào là Pháp niệm trụ? Nghĩa là đạo tăng thượng của pháp đã sinh thiện hữu lậu, vô lậu. Đó gọi là nói về nơi chốn của Niệm trụ tương tạp. Đây tức như nơi Khế kinh đã nói: Tự pháp thiện tức là bốn niệm trụ, cho đến nói rộng.

Như nói: Thế nào là Thân niệm trụ? Nghĩa là mười sắc xứ và sắc thuộc về pháp xứ. Thế nào là Thọ niệm trụ? Nghĩa là sáu thọ thân. Thế nào là Tâm niệm trụ? Nghĩa là sáu thức thân. Thế nào là Pháp niệm trụ? Nghĩa là không phải sắc pháp xứ, thọ uẩn không gồm thâu. Đó gọi là nói về nơi chốn của Niệm trụ của đối tượng duyên. Đây tức như nơi Khế kinh đã nói: Tất cả các pháp tức là bốn niệm trụ.

Như vậy, nơi A-tỳ-đạt-ma đã nói là tương ưng với Khế kinh. Thế nên, trong đây cũng dựa vào ba niệm trụ để tạo luận.

Hỏi: Đức Thế Tôn vì những hữu tình nào giảng nói về Niệm trụ tự tánh, cho đến vì những hữu tình nào giảng nói về Niệm trụ của đối tượng duyên?

Đáp: Do các hữu tình thiếu hiểu biết về ba thứ kia nên giảng nói về ba niệm trụ. Nghĩa là thiếu hiểu biết về Niệm trụ tự tánh, nên vì họ giảng nói về Niệm trụ tự tánh. Cho đến thiếu hiểu biết về Niệm trụ của đối tượng duyên, nên vì họ giảng nói về Niệm trụ của đối tượng duyên.

Lại nữa, việc hành trì của hữu tình có khác nhau. Nghĩa là vì những người mới tu tập nên giảng nói về Niệm trụ của đối tượng duyên. Vì những người đã hành tập nên giảng nói về Niệm trụ tương tạp. Vì những người đã tác ý vượt hơn nên giảng nói về Niệm trụ tự tánh.

Lại nữa, sự ưa thích của hữu tình có khác nhau là rộng, lược, vừa. Người ưa thích lược thì vì họ giảng nói về Niệm trụ tự tánh. Kẻ ưa thích vừa thì vì họ giảng nói về Niệm trụ tương tạp. Người ưa thích rộng thì vì họ giảng nói về Niệm trụ của đối tượng duyên.

Lại nữa, căn tánh của hữu tình có khác nhau, là lợi, vừa, độn. Vì những người lợi căn nên giảng nói về Niệm trụ tự tánh. Vì những kẻ căn tánh vừa nên giảng nói về Niệm trụ tương tạp. Vì những kẻ độn căn nên giảng nói về Niệm trụ của đối tượng duyên.

Lại nữa, hữu tình về trí có khác nhau. Nghĩa là trí do khai phát sinh, trí do phân biệt sinh, trí do dẫn dắt sinh. Vì những người có trí do khai phát sinh nên giảng nói về Niệm trụ tự tánh. Vì những người có trí do phân biệt sinh nên giảng nói về Niệm trụ tương tạp. Vì những kẻ có trí do dẫn dắt sinh nên giảng nói về Niệm trụ của đối tượng duyên.

Do những hữu tình được hóa độ như thế, nên Đức Phật thuyết giảng về ba niệm trụ ấy.

Hỏi: Ba niệm trụ này thứ nào đoạn trừ phiền não?

Đáp: Chỉ niệm trụ tương tạp là có thể đoạn trừ phiền não, không phải thứ khác.

Hỏi: Vì sao niệm trụ tự tánh không thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Vì nếu lìa sự việc trợ giúp, chỉ mỗi tuệ thì không thể đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Vì sao niệm trụ của đối tượng duyên không thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Vì tác ý của niệm trụ này phân tán khắp, chỉ có tác ý tóm lược chung về đối tượng duyên mới có thể đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Vì sao niệm trụ tương tạp có thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Do niệm trụ này gồm đủ hai duyên: Là thâu nhận, trợ giúp cùng tác ý tóm lược chung về đối tượng duyên.

Hỏi: Nếu như vậy tu các niệm trụ khác nên thành vô dụng chăng?

Đáp: Những niệm trụ ấy có thể dẫn phát niệm trụ tương tạp, không phải là vô dụng.

Có thuyết nói: Đoạn trừ có hai thứ: 1. Đoạn trừ tạm thời. 2. Đoạn trừ rốt ráo. Tu các niệm trụ khác có thể đoạn trừ tạm thời, nên không phải là vô dụng.

Niệm trụ tương tạp lại có ba thứ: Nghĩa là do văn, tư, tu tạo thành có khác nhau.

Hỏi: Ba thứ này thứ nào có thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Thứ do tu tạo thành có thể đoạn trừ phiền não, không phải thứ khác.

Hỏi: Vì sao thứ do văn tạo thành không thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Loại này tất dựa vào danh thì ở nơi nghĩa mới chuyển. Chỉ có đạo không đợi danh, ở nơi nghĩa chuyển mới có thể đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Vì sao thứ do tư tạo thành không thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Do tác ý của niệm trụ này thuộc về địa bất định. Chỉ là đạo thuộc về địa định mới có thể đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Vì sao thứ do tu tạo thành có thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Do có đủ hai duyên. Nghĩa là không đợi danh, ở nơi nghĩa chuyển và thuộc về định địa.

Hỏi: Nếu như vậy thì tu hai thứ kia nên thành vô dụng chăng?

Đáp: Chúng có thể dẫn phát niệm trụ do tu tạo thành. Nghĩa là niệm trụ do văn tạo thành có thể dẫn phát niệm trụ do tư tạo thành. Niệm trụ do tư tạo thành có thể dẫn phát niệm trụ do tu tạo thành. Niệm trụ do tu tạo thành có thể đoạn trừ phiền não, nên không phải vô dụng.

Có thuyết nói: Đoạn có hai thứ, như trước đã nói rộng.

Niệm trụ do tu tạo thành lại có bốn thứ: Nghĩa là thân, thọ, tâm, pháp.

Hỏi: Bốn thứ này thứ nào có thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Pháp niệm trụ có thể đoạn trừ phiền não, không phải thứ khác.

Hỏi: Vì sao ba niệm trụ trước không thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Do chúng thuộc về tác ý tự tướng. Chỉ có đạo thuộc về tác ý cộng tướng mới có thể đoạn trừ phiền não.

Có thuyết nói: Do mỗi mỗi uẩn kia đều duyên riêng. Chính là đạo duyên chung nơi bốn uẩn, năm uẩn, tạp uẩn mới có thể đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Nếu như vậy tu ba thứ trước nên thành vô dụng chăng?

Đáp: Chúng có thể dẫn phát pháp niệm trụ. Nghĩa là thân niệm trụ có thể dẫn phát thọ niệm trụ. Thọ niệm trụ có thể dẫn phát tâm niệm trụ. Tâm niệm trụ có thể dẫn phát pháp niệm trụ. Pháp niệm trụ có thể đoạn trừ phiền não, nên không phải vô dụng.

Có thuyết cho: Chính là trước đã phân biệt các uẩn, sau mới có thể duyên chung mà đoạn trừ phiền não, nên không phải vô dụng.

Có thuyết nói: Đoạn có hai thứ, như trước đã nói rộng.

Pháp niệm trụ lại có hai thứ: Duyên tạp, duyên không tạp. Nếu duyên nơi tưởng, hành uẩn và vô vi thì gọi là duyên không tạp. Nếu đối với năm uẩn, hoặc hai duyên hai, ba duyên ba, bốn duyên bốn, hoặc năm duyên chung và vô vi thì gọi là duyên tạp.

Hỏi: Ở đây những pháp niệm trụ nào có thể đoạn trừ phiền não?

Đáp: Cả hai thứ cùng có thể đoạn trừ phiền não. Nghĩa là nếu duyên nơi khổ, tập, đạo đế đoạn trừ các phiền não thì đó là pháp niệm trụ duyên tạp. Nếu duyên nơi diệt đế đoạn trừ các phiền não thì đó là pháp niệm trụ duyên không tạp.

Trong đây: Hoặc nói chung về một niệm trụ: Nghĩa là tuệ của pháp đại địa, tuệ căn, tuệ lực, chánh kiến, trạch pháp giác chi.

Hoặc nói hai: Là hữu lậu, vô lậu, buộc, mở, hệ thuộc, không hệ thuộc.

Hoặc nói ba: Là phẩm hạ, trung, thượng, hoặc do văn, tư, tu tạo thành.

Hoặc nói bốn: Là thân, thọ, tâm, pháp.

Hoặc nói năm: Là thuộc ba cõi cùng học, vô học.

Hoặc nói sáu: Là hữu lậu, vô lậu, mỗi thứ đều có phẩm hạ, trung, thượng.

Hoặc nói tám: Là thân, thọ, tâm, pháp, mỗi thứ đều có hữu lậu, vô lậu.

Hoặc nói chín: Là hạ hạ cho đến thượng thượng.

Hoặc nói mười hai: Là thân, thọ, tâm, pháp, mỗi thứ đều có phẩm hạ, trung, thượng. Lại có nói riêng về mười hai, như Khế kinh nói: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân. Như đối với thân có ba, cho đến đối với pháp cũng như vậy.

Hoặc nói mười tám: Là hữu lậu, vô lậu, mỗi thứ đều có phẩm hạ hạ cho đến thượng thượng.

Hoặc nói hai mươi bốn: Là thân thọ tâm pháp với ba phẩm hạ trung thượng đều có hữu lậu, vô lậu.

Hoặc nói ba mươi sáu: Là thân thọ tâm pháp, mỗi thứ đều có phẩm hạ hạ cho đến thượng thượng. Lại có thuyết riêng về ba mươi sáu, như Khế kinh nói: Ở nơi nội thân trụ nơi tưởng chán nghịch. Ở nơi nội thân trụ nơi tưởng không chán nghịch. Ở nơi nội thân trụ nơi cùng lìa bỏ, chánh niệm, chánh tri. Như ở nơi nội thân, ở nơi ngoại thân, ở nơi nội ngoại thân cũng như thế. Như đối với thân có chín, cho đến đối với pháp cũng như vậy.

Hoặc nói bảy mươi hai: Là thân niệm trụ hữu lậu vô lậu, mỗi thứ đều có phẩm hạ hạ cho đến thượng thượng. Như thân niệm trụ có mười tám, cho đến pháp niệm trụ cũng như vậy. Nếu căn cứ nơi sát-na nối tiếp để phân biệt tức có vô lượng niệm trụ.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao Đức Thế Tôn ở nơi một loại nói rộng bốn niệm trụ? Ở nơi vô lượng lược nói bốn niệm trụ?

Đáp: Vì nhằm đối trị bốn thứ điên đảo. Nghĩa là đối trị điên đảo đối với bất tịnh khởi tưởng tịnh nên nói thân niệm trụ. Đối trị điên đảo đối với khổ khởi tưởng vui nên nói thọ niệm trụ. Đối trị điên đảo đối với vô thường khởi tưởng thường nên nói tâm niệm trụ. Đối trị điên đảo đối với vô ngã khởi tưởng ngã nên nói pháp niệm trụ.

Có thuyết nói: Là để đối trị với bốn thứ ăn. Nghĩa là đối trị với đoạn thực nên nói thân niệm trụ. Đối trị với xúc thực nên nói thọ niệm trụ. Đối trị với thức thực nên nói tâm niệm trụ. Đối trị với ý tư thực nên nói pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Là để đối trị với bốn thức trụ. Nghĩa là đối trị với thức trụ sắc cận hành nên nói thân niệm trụ. Đối trị với thức trụ thọ cận hành nên nói thọ niệm trụ. Đối trị với trụ nơi thức kia nên nói tâm niệm trụ. Đối trị với thức trụ tưởng cận hành, hành cận hành nên nói pháp niệm trụ.

Có thuyết nêu: Là để đối trị với năm uẩn. Nghĩa là đối trị với sắc uẩn nên nói thân niệm trụ. Đối trị với thọ uẩn nên nói thọ niệm trụ. Đối trị với thức uẩn nên nói tâm niệm trụ. Đối trị với tưởng uẩn, hành uẩn nên nói pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Là để đối trị bốn thứ không tu. Nghĩa là đối trị với không tu thân nên nói thân niệm trụ. Đối trị với không tu giới nên nói thọ niệm trụ. Đối trị với không tu tâm nên nói tâm niệm trụ. Đối trị với không tu tuệ nên nói pháp niệm trụ.

Có thuyết nói: Cùng bốn thứ tu đồng pháp nên nói bốn niệm trụ. Nghĩa là cùng với tu thân đồng pháp nên nói thân niệm trụ. Cùng với tu giới đồng pháp nên nói thọ niệm trụ. Cùng với tu tâm đồng pháp nên nói tâm niệm trụ. Cùng với tu tuệ đồng pháp nên nói pháp niệm trụ.

Hỏi: Niệm trụ dùng gì làm tự tánh? Là dùng niệm hay là dùng tuệ? Nếu dùng niệm thì như ở đây nói làm sao thông? Như nói: Ở nơi thân tuần tự quán thân, cho đến nói rộng. Nếu dùng tuệ thì vì sao gọi là niệm trụ? Lại như nơi Khế kinh nói làm sao thông? Như nói: Ở nơi xứ nào nên quán về niệm căn? Nghĩa là ở nơi bốn niệm trụ.

Đáp: Nên nói tuệ là tự tánh.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao gọi là niệm trụ?

Đáp: Niệm ở đây trụ, cùng trụ, đều trụ, nên gọi là niệm trụ. Như voi ngựa cùng ở nơi trụ xứ của chúng gọi là voi ngựa cùng trụ. Đây cũng như vậy.

Có thuyết nói: Đây là do sức của niệm nên có thể ở nơi đối tượng duyên khởi tác dụng sai biệt rộng lớn nhưng không hoại mất, nên gọi là niệm trụ.

Có thuyết cho: Do sức của niệm nên các Sư Du-già này ghi nhớ kỹ đối tượng duyên. Ở nơi cảnh của đối tượng duyên quên rồi trở lại nhớ, nên gọi là niệm trụ.

Có thuyết nêu: Người tu hành này ở trong đối tượng duyên, trước dùng niệm an trụ, sau đấy mới quán xét. Lại ở nơi đối tượng duyên, trước thông đạt rồi, sau dùng niệm để an trụ nhằm giữ gìn như người giữ cửa, nên gọi là niệm trụ.

Có thuyết nói: Người tu hành này ở nơi cảnh của đối tượng duyên, trước dùng niệm thâu giữ, sau dùng trụ quán xét, đoạn trừ phiền não. Ví như người làm ruộng, trước dùng tay trái tóm chặt lấy cỏ, sau dùng tay phải cầm liềm cắt gọn. Đây cũng như thế, nên gọi là niệm trụ.

Có thuyết nêu: Sư Du-già này mặc áo giáp niệm, ở trên sự nối tiếp của tâm cầm đao gậy tuệ, tại trong trận chiến sinh tử, không bị phiền não oán địch hàng phục, nhưng có thể hàng phục chúng, nên gọi là niệm trụ.

Có thuyết cho: Để ngăn chận lỗi lầm chấp giữ tự tánh nên gọi là niệm trụ. Nếu gọi là tuệ trụ tức có lỗi chấp giữ tự tánh.

Có thuyết nói: Là để hiển bày không phải chỉ mỗi tự tánh là có thể hành tác, nên gọi là niệm trụ.

Do những duyên như thế, nên chỉ nói là niệm trụ, không gọi là tuệ trụ.

Hỏi: Những điều nơi Khế kinh đã nói làm sao thông? Như nói: Ở nơi xứ nào nên quán về niệm căn? Đó là ở nơi bốn niệm trụ.

Đáp: Do niệm căn đối với phần vị niệm trụ có tác dụng tăng thượng nên nói như vậy. Như tín căn đối với phần vị của bốn chứng tịnh có tác dụng tăng thượng nên Phật lại nói: Ở nơi xứ nào nên quán về tín căn? Đó là ở nơi bốn chứng tịnh. Như vậy, tinh tấn căn đối với bốn chánh đoạn, định căn đối với bốn tịnh tĩnh lự, tuệ căn đối với bốn Thánh đế cũng như vậy, nên Đức Thế Tôn cho đến lại nói: Ở nơi xứ nào nên quán về tuệ căn? Đó là ở nơi bốn Thánh đế. Đây cũng như vậy.

Đó gọi là tự tánh của niệm trụ.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là niệm trụ? Niệm trụ là nghĩa gì?

Đáp: Niệm ở đây trụ, cùng trụ, đều trụ, nói rộng như trước.

Đã nói chung về lý do của niệm trụ. Về lý do của mỗi mỗi thứ nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là thân niệm trụ?

Đáp: Niệm trụ này duyên nơi thân nên gọi là thân niệm trụ.

Hỏi: Những niệm trụ khác cũng duyên nơi thân. Nghĩa là thọ niệm trụ duyên nơi sáu thọ thân. Tâm niệm trụ duyên nơi sáu thức thân. Pháp niệm trụ duyên nơi sáu tưởng thân, sáu tư thân. Vì sao các thứ đó đều không gọi là thân niệm trụ?

Đáp: Trong đây đã nói duyên nơi thân nghĩa là duyên nơi sắc thân. Những niệm trụ khác duyên không phải nơi sắc thân, nên không gọi là thân niệm trụ.

Có thuyết nói: Nếu duyên nơi thân thô rõ, dễ thấy, hiện thấy thì gọi là thân niệm trụ. Những niệm trụ khác duyên nơi thân vi tế ẩn, khó thấy khó biết, không hiện thấy, nên không gọi là thân niệm trụ.

Có thuyết cho: Nếu thân của đối tượng duyên là khối cực vi tạo thành thì đó gọi là thân niệm trụ. Thân của đối tượng duyên khác không phải là khối cực vi tạo thành, nên chúng không gọi là thân niệm trụ.

Có thuyết nêu: Nếu duyên nơi thân cùng lúc phát sinh đủ cả chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết tức gọi là thân niệm trụ. Những thứ khác tuy duyên nơi thân nhưng chủ thể nhận biết, đối tượng được nhận biết không cùng sinh, nên không gọi là thân niệm trụ. Tuy trong pháp niệm trụ cũng có cùng sinh nhưng vì ít nên không nói.

Như duyên nơi thân gọi thân niệm trụ, như vậy duyên nơi thọ gọi là thọ niệm trụ, duyên nơi tâm gọi là tâm niệm trụ, duyên nơi pháp gọi là pháp niệm trụ.

Hỏi: Tất cả đều là pháp, tất cả đều chỉ có pháp. Vì sao chỉ một thứ gọi là pháp niệm trụ, không phải là thứ khác?

Đáp: Tuy tất cả đều là pháp, nhưng chỉ lập một thứ là pháp niệm trụ. Như mười tám giới đều là pháp, nhưng chỉ lập một thứ là pháp giới. Mười hai xứ đều là pháp, nhưng chỉ lập một thứ là pháp xứ.

Như pháp giới, pháp xứ, như vậy thì pháp trí, giác chi trạch pháp, pháp tùy niệm, pháp chứng tịnh, pháp vô ngại giải, pháp bảo, pháp quy cũng như thế.

Có thuyết nói: Pháp niệm trụ có một tên gọi, những niệm trụ khác có hai tên gọi.

Có thuyết cho: Pháp niệm trụ có tên gọi chung, những niệm trụ khác có tên gọi chung, không chung.

Có thuyết nêu: Tất cả pháp hữu vi do sinh nên khởi. Sinh là đối tượng duyên của niệm trụ kia, nên gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết nói: Tất cả pháp do tên gọi mà hiển bày. Tên gọi là đối tượng duyên của niệm trụ kia, nên gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết nêu: Các tướng hữu vi là cờ hiệu dẫn đầu của tất cả pháp hữu vi. Tức những tướng ấy gắn liền với đối tượng duyên của niệm trụ kia, nên gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Môn giải thoát Không nhận biết pháp tánh của các pháp. Không ấy gồm thâu trong đối tượng duyên của niệm trụ kia, nên gọi là pháp niệm trụ.

Hỏi: Nếu như vậy thì Tát-ca-da-kiến (Thân kiến) cũng nhận biết tánh Bổ-đặc-già-la (chúng sinh) của các pháp vì sao không dựa vào đó để lập tên gọi?

Đáp: Vì đấy không phải là nhận biết chân thật. Đây mới là nhận biết chân thật, thế nên không có lỗi.

Có thuyết nói: Tuệ có thể nhận biết tướng chung tướng riêng của các pháp, an lập tự tướng, cộng tướng của các pháp, loại trừ các thứ ngu tối về sự, về đối tượng duyên, ở trong các pháp không chuyển đổi tăng giảm. Tuệ ấy gắn liền nơi đối tượng duyên của niệm trụ kia, nên gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết nêu: Diệt đế, Niết-bàn là pháp thắng nghĩa, thường trụ, không biến đổi. Pháp ấy gồm thâu trong đối tượng duyên của người trụ, nên gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Niệm trụ này có thể duyên nơi nhiều pháp. Nghĩa là các thứ pháp sắc – phi sắc, tương ưng – bất tương ưng, có chỗ dựa – không chỗ dựa, có hành tướng – không hành tướng, có đối tượng duyên – không đối tượng duyên, có tỉnh giác – không tỉnh giác, thế nên gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết nói: Thân niệm trụ duyên nơi thân, không duyên với tuệ duyên nơi thân. Thọ niệm trụ duyên nơi thọ, không duyên với tuệ duyên nơi thọ. Tâm niệm trụ duyên nơi tâm, không duyên với tuệ duyên nơi tâm. Còn pháp niệm trụ duyên nơi thân, cũng duyên với tuệ duyên nơi thân, duyên nơi thọ tâm pháp cũng duyên với tuệ duyên nơi thọ tâm pháp, thế nên chỉ thứ ấy gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Thân niệm trụ duyên nơi thân, không duyên nơi thân sinh lão vô thường. Thọ niệm trụ duyên nơi thọ, không duyên nơi thọ sinh lão vô thường. Tâm niệm trụ duyên nơi tâm, không duyên nơi tâm sinh lão vô thường. Còn pháp niệm trụ duyên nơi thân, cũng duyên nơi thân sinh lão vô thường, duyên nơi thọ tâm pháp cũng duyên nơi thọ tâm pháp sinh lão vô thường, thế nên chỉ thứ ấy gọi là pháp niệm trụ.

Có thuyết nêu: Ngang tới mức các Sư Du-già này, tưởng về ngã là tưởng hợp nhất đều được dừng bỏ. Tưởng về pháp là tưởng sai biệt đã tu tập viên mãn, nên gọi là pháp niệm trụ. Nghĩa là các Sư Du-già phân tích thân rồi liền cho thọ là ngã. Phân tích thọ rồi liền cho tâm là ngã. Phân tích tâm rồi liền cho pháp là ngã. Phân tích pháp rồi liền nhận biết tất cả là vô ngã. Hữu tình chỉ là một khối không hành. Thế nên ngang tới tưởng pháp đó viên mãn gọi là pháp niệm trụ.

Đã nói về lý do của mỗi thứ niệm trụ. Về thứ lớp của chúng nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn trước nói thân niệm trụ, cho đến sau nói pháp niệm trụ?

Đáp: Là nhằm hiển bày chỉ rõ về sự tùy thuận. Nghĩa là nếu hiển bày theo thứ lớp như vậy, đối với văn tự ngôn thuyết là tùy thuận.

Có thuyết nói: Nói về sự thọ nhận tùy thuận. Nghĩa là nếu tạo thứ lớp như vậy thì đối với việc thầy nói, đệ tử thọ nhận đều được tùy thuận.

Có thuyết nêu: Đây là dựa vào thứ lớp sinh khởi. Có ba loại thứ lớp: 1. Thứ lớp sinh khởi. 2. Thứ lớp hiển bày. 3. Thứ lớp hiện quán. Thứ lớp sinh khởi: Là như niệm trụ này cùng tĩnh lự vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ. Thứ lớp hiển bày: Là như chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi. Thứ lớp hiện quán: Là như bốn Thánh đế.

Do sư Du-già trước khởi thân niệm trụ nên Đức Phật nói trước, cho đến sau khởi pháp niệm trụ nên Đức Phật nói sau.

Hỏi: Nhân luận sinh luận. Vì sao các Sư Du-già trước khởi thân niệm trụ, cho đến sau khởi pháp niệm trụ?

Đáp: Là dựa vào thứ lớp thô tế. Nghĩa là trong năm uẩn, sắc uẩn là thô nhất, nên trước quán xét khởi thân niệm trụ. Trong bốn uẩn không sắc, thọ uẩn là thô nhất, nên tiếp theo là quán xét khởi thọ niệm trụ.

Hỏi: Thọ v.v… là không nơi chốn, làm sao có thể thiết lập về thô tế?

Đáp: Tuy không nơi chốn thô tế nhưng có hành tướng thô tế, nên cũng có thể thiết lập. Ở đây, hành tướng của thọ là thô. Như nói: Tay chân của tôi đau nhức. Lại nói: Tôi thọ nhận khổ như vậy, như vậy. Các uẩn như thọ tuy không phải là sắc nhưng cũng như sắc thiết lập thô tế.

Trong bốn uẩn không sắc, thức uẩn là vi tế nhất. Nhưng trước đó đã quán xét tưởng, hành uẩn khởi tâm niệm trụ. Do tưởng, hành uẩn cùng với Niết-bàn là pháp rất vi tế, nên hợp lại để thiết lập. Sau cùng mới quán xét các pháp kia khởi pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Từ chỗ không nhận biết về bản tế cho đến nay, nam bị nữ sắc, nữ bị nam sắc, là xứ sinh nhiễm, nên trước quán sát sắc khởi thân niệm trụ. Nhiễm đắm sắc này là do tham lạc thọ, nên tiếp theo là quán thọ khởi thọ niệm trụ. Tham lạc là do nơi tâm không điều phục, nên kế đấy là quán tâm khởi tâm niệm trụ. Tâm không điều phục là do phiền não chưa đoạn, nên sau cùng là quán pháp khởi pháp niệm trụ.

Có thuyết nói: Do sắc có thể thiết lập có thêm bớt, có lấy bỏ, tương tợ nối tiếp, nên trước quán sắc khởi thân niệm trụ. Khi quán sắc khởi thân khinh an, tâm khinh an, do vậy trước là dẫn khởi lạc thọ, nên tiếp theo là quán thọ khởi thọ niệm trụ. Khi quán thọ thì dẫn khởi phân biệt nhận biết rõ về cảnh giới thắng nghĩa, nên tiếp đó là là quán thức khởi tâm niệm trụ. Hành giả tác ý suy niệm: Nếu xứ khởi tâm thì cũng khởi tâm sở, nên sau cùng là quán pháp khởi pháp niệm trụ.

Có thuyết cho: Thân ngu có thể giữ lấy thọ ngu, cho đến tâm ngu có thể giữ lấy pháp ngu. Không phải thân ngu không chuyển có thể chuyển thọ ngu, cho đến không phải tâm ngu không chuyển có thể chuyển pháp ngu. Thế nên bốn niệm trụ theo thứ lớp như thế mà khởi.

Có thuyết nói: Thân không ngu có thể dẫn khởi thọ không ngu, cho đến tâm không ngu có thể dẫn khởi pháp không ngu. Không phải thân không ngu không khởi có thể dẫn khởi thọ không ngu, cho đến không phải tâm không ngu không khởi có thể dẫn khởi pháp không ngu. Thế nên bốn niệm trụ theo thứ lớp như vậy mà khởi.

Có thuyết nêu: Quán thân có thể dẫn đến quán thọ, cho đến quán tâm có thể dẫn đến quán pháp. Không phải quán tâm không khởi có thể khởi quán thọ, nói rộng như trên.

Có thuyết cho: Quán thân cùng với quán thọ là nhân, là căn, là mắt, là dẫn đường, là dần dần, là chủ thể tạo tác, là duyên sinh, là khởi tập, là cùng khởi. Như quán thân cùng với quán thọ, quán thọ cùng với quán tâm, quán tâm cùng với quán pháp cũng như vậy. Ngoài ra, như đã nói ở trước.

Có thuyết nói: Quán thân và quán thọ là gia hạnh, là cửa, là chỗ dựa, cho đến quán tâm và quán pháp cũng như vậy. Ngoài ra, như đã nói ở trước.

Có thuyết cho: Quán thân và quán thọ là nơi chốn nương dựa, là xứ dấu vết, cho đến quán tâm và quán pháp cũng như vậy. Ngoài ra, như đã nói ở trước.

Hỏi: Nếu như vậy thì quán thân lại dùng gì làm nơi chốn nương dựa tạo dấu vết?

Đáp: Dùng tướng Xa-ma-tha trước đã có được làm nơi nương dựa, làm xứ tạo dấu vết. Như nói: Vị kia trước đã được Xa-ma-tha bất động, nên thân khinh an, tướng từ chân đến đảnh đầu tích tụ cùng khắp. Do vậy, có thể khởi thân niệm trụ, cho đến pháp niệm trụ.

Có thuyết nói: Người kia ở trong sự nối tiếp, phân biệt về các xứ khởi bốn niệm trụ. Nghĩa là Sư Du-già trước muốn nhận biết các sắc xứ tức trước phân biệt mười sắc xứ và sắc thuộc về niệm xứ, nên trước khởi thân niệm trụ. Tiếp theo tức ở nơi pháp xứ phân biệt các thọ nối tiếp đó là khởi thọ niệm trụ. Kế đến là ở nơi pháp xứ phân biệt tưởng, hành uẩn cùng ba vô vi, nên kế đấy là khởi pháp niệm trụ. Vị kia lại nghĩ như vầy: Trừ đây ra còn có gì, tức nhận biết như thật còn có ý xứ. Do vậy liền phân biệt ý xứ, nên sau cùng khởi tâm niệm trụ. Các Sư Du-già nếu dựa vào tự tướng để quán thì trước khởi pháp niệm trụ, sau khởi tâm niệm trụ. Nếu dựa vào cộng tướng để quán thì trước khởi tâm niệm trụ, sau khởi pháp niệm trụ. Thế nên bốn niệm trụ đã khởi theo thứ lớp như thế.

Hỏi: Là trước khởi duyên nơi nội niệm trụ hay là trước khởi duyên nơi ngoại niệm trụ? Nếu nêu như vậy thì có lỗi gì? Nếu trước khởi duyên nơi nội niệm trụ thì như nơi kinh nói làm sao thông? Như nói: Bí-sô mới học, đầy đủ Thi la thanh tịnh, ý lạc viên mãn, muốn nhanh chóng đoạn trừ dục tham, sân giận thì nên đi qua quãng đường vắng lặng đến bãi thây ma khéo giữ lấy các tướng nơi ấy, hoặc tướng xanh bầm, hoặc tướng máu mủ rữa nát, cho đến nói rộng.

Nếu trước khởi duyên nơi ngoại niệm trụ thì nơi những kinh khác nói làm sao thông? Như nói: Trước trụ nơi nội thân tuần tự quán thân, tiếp theo ở nơi ngoại thân, cho đến nói rộng.

Đáp: Nên nói như vầy: Trước khởi duyên nơi nội niệm trụ. Vì sao? Vì do có ngã nên có ngã sở. Có ngã chấp nên có ngã sở chấp. Có ngã kiến nên có ngã sở kiến. Có năm ngã kiến nên có mười lăm ngã sở kiến. Có ngã ngu nên có ngã sở ngũ. Có ngã ái nên có đủ các thứ ái, là nuôi lớn nội ngã, cầu tìm các vật dụng bên ngoài.

Hỏi: Nếu như vậy kinh đã dẫn ở trước làm sao thông?

Đáp: Kinh kia nói là gia hạnh của niệm trụ, không phải là niệm trụ căn bản. Làm sao nhận biết điều ấy? Tức là kinh kia nói: Khéo giữ lấy hình tướng ấy rồi nhanh chóng trở về nơi ở, nhớ lại hình tướng trước đã thâu nhận. Nếu có thể nhớ được là tốt. Nếu không thể nhớ được thì trở lại bãi thây ma, lại khéo giữ lấy các hình tướng kia, nhanh chóng trở về nơi ở, rửa tay chân, vào phòng trải tọa cụ ngồi yên, dùng tác ý thắng giải khiến các hình tướng đã giữ lấy ấy hiện tiền rõ ràng. Đó gọi là gia hạnh của niệm trụ. Nếu khi đem các hình tướng đã giữ lấy từ bên ngoài đặt vào nơi nội thân để quán xét mới gọi là nhập niệm trụ căn bản.

Có thuyết nói: Khế kinh kia nói là tác ý quả thắng, không phải là phần vị niệm trụ. Làm sao nhận biết? Tức kinh kia nói: Bí-sô mới học kia được học ý rồi, nếu muốn đi qua con đường vắng lặng tùy ý mà đi. Trong đây, Bí-sô mới học tức là Dự lưu và Nhất lai. Vì thế nên biết kinh kia nói là tác ý quả thắng, không phải là phần vị niệm trụ.

Như Khế kinh nói: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân. Cho đến nói rộng.

Hỏi: Trong đây thế nào gọi là nội thân? Thế nào gọi là ngoại thân?

Đáp: Sắc thuộc về sự nối tiếp của chính mình gọi là nội thân. Sắc thuộc về sự nối tiếp của kẻ khác, cùng sắc không phải thuộc số hữu tình gọi là ngoại thân. Nội pháp, ngoại pháp nói cũng như vậy. Thọ thuộc về sự nối tiếp của mình gọi là nội thọ. Thọ thuộc về sự nối tiếp của kẻ khác gọi là ngoại thọ. Nội tâm, ngoại tâm nói cũng như vậy.

Có Sư khác nói: Sắc của số hữu tình gọi là nội thân. Sắc của số phi hữu tình gọi là ngoại thân. Nội pháp, ngoại pháp nói cũng như vậy. Thọ, tâm như đã nói ở trước.

Hiếp Tôn giả nói: Hiện tại gọi là nội. Quá khứ, vị lai và vô vi gọi là ngoại.

Hỏi: Vì sao hiện tại gọi là nội? Quá khứ, vị lai và vô vi gọi là ngoại?

Đáp: Do pháp hiện tại phần nhiều khiến cho hữu tình thâu nhận tham chấp, không phải là quá khứ, vị lai và vô vi.

Trong đây: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân: Là trụ nơi nội thân quán tự tướng. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân: Là trụ nơi ngoại thân quán tự tướng. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân: Là trụ nơi nội ngoại thân quán cộng tướng. Cho đến pháp cũng như vậy.

Có thuyết nói: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân: Là trụ nơi nội thân quán rộng. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân: Là trụ nơi ngoại thân quán rộng. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân: Là trụ nơi nội ngoại thân quán lược. Cho đến pháp cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân: Là đối trị ngã chấp. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân: Là đối trị ngã sở chấp. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân: Là đối trị ngã, ngã sở chấp. Cho đến pháp cũng như vậy. Như ngã chấp – ngã sở chấp, ngã kiến – ngã sở kiến nói cũng như thế.

Có thuyết cho: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân: Là đối trị năm ngã kiến. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân: Là đối trị mười lăm ngã sở kiến. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân: Là đối trị hai mươi thứ Tát-ca-da-kiến. Cho đến pháp cũng như vậy. Như ngã kiến – ngã sở kiến, ngã ngu – ngã sở ngu nói cũng như vậy.

Có thuyết nói: Trụ nơi nội thân tuần tự quán thân: Là đối trị ngã ái. Trụ nơi ngoại thân tuần tự quán thân: Là đối trị đủ các thứ ái. Trụ nơi nội ngoại thân tuần tự quán thân: Là đối trị câu ái. Cho đến pháp nói cũng như vậy.

Hỏi: Ngang với mức nào nên nói là thân niệm trụ cho đến pháp niệm trụ viên mãn?

Đáp: Do hai duyên nên biết là viên mãn: 1. Phân biệt đối tượng duyên. 2. Căn thiện gia tăng. Phân biệt đối tượng duyên: Là nếu khi có thể dùng sát-na phân tích đối tượng duyên cực vi, hoặc chỉ dùng sát-na phân tích đối tượng duyên. Căn thiện gia tăng: Là dựa vào hạ sinh trung, dựa vào trung sinh thượng. Ngang với đây nên biết là niệm trụ viên mãn.

Có thuyết nói: Do gia hạnh chuyển nên biết là viên mãn. Nghĩa là các Sư Du-già trước phân biệt thân, phân biệt thân rồi chuyển thân nhận biết tuệ. Tiếp theo là phân biệt thọ, phân biệt thọ rồi chuyển thọ nhận biết tuệ. Tiếp theo là phân biệt tâm, phân biệt tâm rồi chuyển tâm nhận biết tuệ, phân biệt nơi pháp. Ví như nhà nông dẫn nước tưới ruộng. Đám thứ nhất đầy rồi dẫn đến đám thứ hai, thứ ba, thứ tư. Đây cũng như vậy.

Có thuyết cho: Ngang với mức tướng oán hại thành, nên biết là viên mãn. Tướng oán hại có hai thứ. 1. Khiến không vui thích. 2. Khiến sinh giận dữ.

Trong đây, chỉ nói khiến không vui thích gọi là tướng oán hại. Nghĩa là Sư Du-già phân biệt thân rồi, liền đối với thân không sinh vui thích mà vui thích nơi thọ v.v… Phân biệt thọ rồi, lại đối với thọ không sinh vui thích mà vui thích nơi tâm v.v… Phân biệt tâm rồi, lại đối với tâm không sinh vui thích mà vui thích nơi pháp. Phân biệt pháp rồi, liền đối với tất cả cảnh giới không sinh vui thích. Nên biết bấy giờ là niệm trụ viên mãn.

HẾT – QUYỂN 187