LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 169

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ GỒM THÂU, phần 4

Hỏi: Từng có thành tựu vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là ái nơi cõi dục chưa hết, người kia đối với pháp thiện hiện có của bốn tĩnh lự đều chưa được nên không có tịnh, vô lậu, tức do đấy nên thành tựu vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự.

Hỏi: Từng có thành tựu tịnh nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi dục, xứ Phạm thế, ái cõi sắc hết. Do là phàm phu nên không có vô lậu. Do ái cõi sắc hết nên không có vị tương ưng. Do sinh nơi cõi dục, xứ Phạm thế, ái cõi sắc hết, nên thành tựu tịnh nơi bốn tĩnh lự.

Hỏi: Từng có thành tựu vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc. Vì là Thánh giả sinh nơi cõi ấy, nên thành tựu vô lậu nơi bốn tĩnh lự. Tức do sinh nơi ấy nên không có vị tương ưng và tịnh.

Hỏi: Nếu ái cõi sắc hết, dựa nơi định vị chí, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, nhập chánh tánh ly sinh, hoặc luyện căn tạo kiến chí, người kia được quả rồi không khởi đạo thắng quả, mạng chung sinh nơi cõi vô sắc, đều không thành tựu vô lậu nơi ba tĩnh lự trên, vì sao nói bốn?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là dựa theo thứ lớp đắc quả để nói, không dựa nơi thứ khác.

Có thuyết cho: Khi nhập chánh tánh ly sinh, được quả Bất hoàn rồi, tất khởi đạo thắng quả, tu vô lậu nơi bốn tĩnh lự, sau đấy sinh lên địa trên. Nếu không như vậy tức nên có bậc Thánh sinh nơi xứ Quảng quả trở lên, không thành tựu lạc căn. Nếu như thế thì trái với mười môn đã nói. Về tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, có thuyết nói: Vị ấy được quả rồi cũng tất khởi đạo thắng quả như trước đã nói, tu vô lậu nơi bốn tĩnh lự, sau đó mạng chung sinh nơi cõi vô sắc.

Có thuyết nêu: Khi luyện căn tức cũng tu vô lậu nơi tĩnh lự trên cho nên không lỗi.

Hỏi: Từng có thành tựu tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là bậc Thánh sinh nơi cõi dục, xứ Phạm thế, ái sắc hết.

Hỏi: Nếu ái cõi sắc hết, dựa nơi định vị chí, nhập chánh tánh ly sinh, nơi mười lăm khoảnh tâm không thành tựu vô lậu nơi tĩnh lự, đến đạo loại trí chỉ thành tựu một, tức người kia cho đến dựa vào tĩnh lự thứ ba, nhập chánh tánh ly sinh, nơi mười sáu khoảnh tâm chỉ thành tựu ba, vì sao nói là bốn?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là dựa theo thứ lớp lìa nhiễm đắc quả để nói.

Có thuyết cho: Người kia đắc quả rồi không lâu tất khởi đạo thắng quả hiện tiền, tu vô lậu nơi địa trên, cho nên đối với mười sáu tâm khi ấy tuy chưa thành tựu tất sẽ được, nên cũng nói là thành tựu.

Hỏi: Từng có thành tựu hai hoặc ba thứ còn lại chăng?

Đáp: Không có. Nghĩa là thành tựu vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự tất không thành tựu bốn tịnh, bốn vô lậu.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là bậc Thánh sinh nơi cõi dục, xứ Phạm thế ái cõi sắc hết. Ở đây như đã giải thích nơi trường hợp thứ sáu trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu tịnh nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có không thành tựu vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Không có. Đây đều đã giải thích như không có trường hợp thứ tư, thứ năm trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng, tịnh nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là bậc Thánh sinh nơi cõi vô sắc. Ở đây như đã giải thích nơi trường hợp thứ ba trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng, vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi dục, xứ Phạm thế, ái cõi sắc hết. Ở đây như đã giải thích nơi trường hợp thứ hai trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là ái cõi dục chưa hết. Ở đây như đã giải thích nơi trường hợp thứ nhất trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng, tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi vô sắc. Là phàm phu nên không có vô lậu nơi bốn tĩnh lự. Do sinh nơi cõi vô sắc nên không có vị tương ưng, tịnh nơi bốn tĩnh lự.

Hỏi: Từng có thành tựu vị tương ưng nơi bốn vô sắc chẳng phải là tịnh, không phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là ái cõi sắc chưa hết, người kia đối với pháp thiện hiện có của bốn vô sắc đều chưa được nên không có tịnh, vô lậu, tức do đấy nên thành tựu vị tương ưng nơi bốn vô sắc.

Hỏi: Từng có thành tựu tịnh, vô lậu nơi bốn vô sắc chẳng phải là vị tương ưng?

Đáp: Có. Nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi dục, cõi sắc, Không vô biên xứ. Là A-la-hán nên không có vị tương ưng. Do sinh nơi địa đó nên thành tựu đủ bốn tịnh, ba vô lậu.

Hỏi: Từng có thành tựu các phần khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp thứ hai, vì chỉ thành tựu bốn tịnh, do tất có vô lậu, vị, tùy một hoặc cùng cả hai.

Không có trường hợp thứ ba, vì chỉ thành tựu ba vô lậu do tất có tịnh.

Không có trường hợp thứ tư, vì thành tựu bốn vị, tịnh, chẳng phải là vô lậu.

Không có trường hợp thứ năm, vì thành tựu bốn vị, ba vô lậu, chẳng phải là tịnh, là do khi thành tựu bốn vị tất không thành tựu bốn tịnh hoặc ba vô lậu. Tức do nghĩa này, nên không có trường hợp thứ bảy.

Hỏi: Từng có không thành tựu vị tương ưng nơi bốn vô sắc chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi dục, cõi sắc, Không vô biên xứ. Ở đây như đã giải thích nơi trường hợp thứ sáu trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu tịnh, vô lậu nơi bốn vô sắc chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là ái cõi sắc dứt hết. Ở đây như đã giải thích nơi trường hợp thứ nhất trong phần thành tựu ở trước.

Hỏi: Từng có không thành tựu các phần khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không là chỉ không thành tựu bốn tịnh: Do người kia tất cũng không thành tựu vô lậu.

Không là chỉ không thành tựu ba vô lậu: Như đã giải thích không có trường hợp thứ tư trong phần thành tựu ở trước.

Không là chẳng thành tựu bốn vị tịnh, chẳng phải là vô lậu: Như đã giải thích không có trường hợp thứ ba trong phần thành tựu ở trước.

Không là chẳng thành tựu bốn vị, ba vô lậu, chẳng phải là tịnh: Như đã giải thích không có trường hợp thứ hai trong phần thành tựu ở trước.

Không là tất cả đều không thành tựu: Do trong ba thứ tùy vào một hoặc hai tất thành tựu.

Ở trong tĩnh lự, vô sắc này, thành tựu, không thành tựu, thì thành tựu đủ gọi là thành tựu. Không thành tựu đủ gọi là chẳng phải thành tựu. Không thành tựu đủ gọi là không thành tựu. Thành tựu đủ là chẳng phải không thành tựu, nên biết.

Hỏi: Từng có được vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là ái cõi sắc hết, khởi triền nơi cõi dục khi thoái chuyển. Nếu khi ở cõi vô sắc mất, sinh nơi cõi dục.

Trong đây, thoái chuyển: Là chung cho phàm phu và bậc Thánh, hoặc hữu học hoặc vô học, khi khởi triền kia thì được đủ bốn vị, chẳng phải là tịnh, vô lậu.

Sinh: Tức chỉ là phàm phu vào lúc kiết sinh thì được đủ bốn vị, chẳng phải là tịnh, vô lậu.

Hỏi: Từng có được vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là dựa nơi tĩnh lự thứ tư, nhập chánh tánh ly sinh, nếu khi đắc quả A-la-hán.

Trong đây, khi nhập chánh tánh ly sinh: Là khi khổ pháp nhẫn khởi. Bấy giờ, vô lậu nơi bốn tĩnh lự trước không mà được, chẳng phải là vị, chẳng phải là tịnh.

Khi đắc quả A-la-hán: Là khi tận trí khởi. Bấy giờ, vô lậu nơi bốn tĩnh lự đều bỏ mà được, chẳng phải là vị, chẳng phải là tịnh. Tuy là tịnh nơi bốn tĩnh lự, khi đó cũng có được. Nhưng là chủng loại ấy trước có không bỏ, nay chỉ lại được phần ít, đối với tịnh nơi bốn tĩnh lự không một thứ gọi là được huống nữa là bốn? Thế nên nói chẳng phải là vị, chẳng phải là tịnh.

Có thuyết nói: Đây là dựa vào sinh nơi cõi vô sắc, đắc quả A-lahán để nói.

Hàng hữu học khi luyện căn thì cũng có đối với vô lậu nơi

bốn tĩnh lự đều bỏ mà được vì sao không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Trong đây là lược nêu phần trước sau để hiển bày phần giữa, nên không nói đủ.

Có thuyết cho: Những điều đã bỏ, đã được kia đều là loại học, không phải hoàn toàn là loại riêng, vì vậy không nói. Do đó cũng không nói hàng vô học luyện căn.

Hỏi: Từng có được các phần khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp hai: Do chỉ được bốn tịnh.

Không có trường hợp thứ sáu: Do được bốn tịnh, vô lậu, chẳng phải là vị, do không có cùng thời được bốn tịnh.

Hỏi: Khi dựa vào tĩnh lự thứ tư kiến đạo được ba loại trí và khi đắc quả A-la-hán há không phải là được đủ bốn tịnh và vô lậu, vì sao không nói?

Đáp: Người kia bấy giờ đối với tịnh nơi bốn tĩnh lự đều trước được không bỏ, nay tuy lại được phần ít cũng đối với tịnh nơi bốn tĩnh lự không một thứ gọi là được huống là bốn thứ, thế nên không nói.

Không có trường hợp thứ tư: Do được bốn vị, tịnh, chẳng phải là vô lậu.

Không có trường hợp thứ năm: Do được bốn vị, vô lậu, chẳng phải là tịnh, vì khi được bốn vị, tất không được bốn tịnh hoặc bốn vô lậu. Tức do nghĩa này nên không có trường hợp thứ bảy.

Hỏi: Từng có bỏ vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Không. Do không có cùng lúc lìa nhiễm của bốn địa.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu, ái nơi xứ Biến tịnh hết, khởi triền nơi cõi dục khi thoái chuyển. Nếu khi ở cõi dục, xứ Phạm thế mất, sinh nơi cõi vô sắc. Trong đây, sinh nơi cõi vô sắc: Là chung cả phàm phu, bậc Thánh.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là bậc Thánh, ái nơi xứ Biến tịnh hết, khởi triền nơi cõi dục khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có bỏ các thứ khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp thứ ba: Do chỉ bỏ bốn vô lậu, vì khi thoái bỏ hoặc không phải bỏ hoàn toàn, hoặc lúc đó trở lại được, hoặc gồm cả bỏ tịnh, khi được quả bỏ trở lại tức được.

Không có trường hợp thứ tư, thứ năm, thứ bảy: Do không có cùng lúc đoạn bốn vị.

Hỏi: Từng có được vị tương ưng nơi bốn vô sắc chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Đó là A-la-hán khởi triền nơi cõi dục, cõi sắc khi thoái chuyển, bấy giờ được đủ bốn vị chẳng phải là tịnh, vô lậu.

Hỏi: Từng có được vô lậu nơi ba vô sắc chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Đó là khi đắc quả A-la-hán. Như trước đã giải thích trong phần tĩnh lự.

Từng có được các thứ khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp thứ hai: Do chỉ được bốn tịnh, là không có cùng lúc được bốn tịnh.

Không có trường hợp thứ tư, thứ năm, thứ bảy: Do khi được bốn vị tất không được bốn tịnh, ba vô lậu, nên không có trường hợp thứ sáu. Được bốn tịnh, ba vô lậu, chẳng phải là vị tương ưng: Là do khi được ba vô lậu, tuy cũng được phần ít tịnh, nhưng không gọi là được, như trên đã giải thích đủ.

Hỏi: Từng có bỏ vị tương ưng nơi bốn vô sắc chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Không. Do không cùng lúc lìa nhiễm nơi bốn địa.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh nơi bốn vô sắc chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Đó là phàm phu, ái nơi Vô sở hữu xứ hết, khởi triền nơi cõi dục, cõi sắc khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh, vô lậu nơi bốn vô sắc chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Đó là bậc Thánh, ái nơi Vô sở hữu xứ hết, khởi triền nơi cõi dục, cõi sắc khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có bỏ các thứ khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp thứ ba: Do chỉ bỏ ba vô lậu. Là như đã nói trong phần tĩnh lự.

Không có trường hợp thứ tư, thứ năm, thứ bảy: Do không cùng lúc đoạn bốn vị.

Nơi phần được và bỏ đối với tĩnh lự, vô sắc này, được hoàn toàn gọi là được. Hoàn toàn không được gọi là chẳng phải được. Bỏ hoàn toàn gọi là bỏ. Hoàn toàn không bỏ gọi là chẳng phải bỏ, nên biết.

Hỏi: Từng có thoái chuyển vị tương ưng nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Không. Do đối với pháp công đức thì có thoái chuyển, không phải đối với pháp lỗi lầm, cũng không cùng lúc bỏ bốn vị.

Hỏi: Từng có thoái chuyển tịnh nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Đó là phàm phu, ái nơi xứ Biến tịnh hết, khởi triền nơi cõi dục khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Đó là bậc Thánh, ái nơi xứ Biến tịnh hết, khởi triền nơi cõi dục khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển các thứ khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp thứ ba: Do chỉ thoái chuyển vô lậu nơi bốn tĩnh lự, tức hoặc cùng với tịnh đều thoái chuyển, hoặc thoái chuyển không hoàn toàn, hoặc khi thoái chuyển trở lại được địa kia.

Không có trường hợp thứ tư, thứ năm, thứ bảy: Nghĩa là đối với vị không thoái, không vì chỉ thoái bốn vô lậu.

Hỏi: Từng có thoái chuyển vị tương ưng nơi bốn vô sắc chẳng phải là tịnh, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Không. Như trước đã nói.

Từng có thoái chuyển tịnh nơi bốn vô sắc chẳng phải là vị

tương ưng, chẳng phải là vô lậu chăng?

Đáp: Có. Đó là phàm phu, ái nơi Vô sở hữu xứ hết, khởi triền nơi cõi dục, cõi sắc khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển tịnh, vô lậu nơi bốn vô sắc chẳng phải là vị tương ưng chăng?

Đáp: Có. Đó là bậc Thánh, ái nơi Vô sở hữu xứ hết, khởi triền nơi cõi dục, cõi sắc khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có thoái chuyển các thứ khác chăng?

Đáp: Không.

Trong đây, không có trường hợp thứ ba: Do chỉ thoái chuyển vô lậu nơi ba vô sắc, nghĩa là hoặc cùng với tịnh cùng thoái, hoặc không phải thoái chuyển hoàn toàn.

Không có trường hợp thứ tư, thứ năm, thứ bảy: Như đã nói trong phần tĩnh lự.

Hỏi: Từng có thoái chuyển vô lậu nơi tĩnh lự chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Đó là hàng hữu học khởi triền nơi vô sắc khi thoái chuyển. Bấy giờ người kia thoái chuyển đối trị là vô lậu nơi tĩnh lự, chẳng phải là tịnh.

Hỏi: Từng có không khởi triền nơi vô sắc nhưng thoái chuyển vô lậu nơi tĩnh lự chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Đó là hàng vô học luyện căn chưa đến vị của đạo giải thoát thứ chín, không khởi phiền não nhưng thoái chuyển những gì đã được khi có đạo vô gián giải thoát.

Hỏi: Từng có không khởi triền nhưng thoái chuyển vô lậu nơi tĩnh lự chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Tức như đã nói ở trước, và hàng hữu học luyện căn chưa đến vị kiến chí, không khởi phiền não nhưng thoái chuyển những gì đã được khi có đạo vô gián giải thoát.

Hỏi: Từng có thoái chuyển công đức vô lậu thuộc về bảy địa nhưng chẳng phải là tịnh chăng?

Đáp: Có. Đó là lìa nhiễm phần ít nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, trở lại khởi phẩm triền của địa ấy đã đoạn khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có chỉ bỏ vô lậu nơi tĩnh lự nhưng được tịnh, vô lậu chăng?

Đáp: Có. Đó là khi đắc quả A-la-hán.

Hỏi: Từng có bỏ tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự chỉ được vô lậu chăng? Đáp: Có. Đó là A-la-hán khởi triền nơi vô sắc khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có vô lậu nơi tĩnh lự cùng với tịnh đồng thời được nhưng bỏ riêng chăng?

Đáp: Có. Đó là đắc quả A-la-hán và dựa vào tĩnh lự được quả Bất hoàn, cùng hàng hữu học khi luyện căn.

Hỏi: Từng có tịnh nơi tĩnh lự cùng với vô lậu cùng lúc được nhưng bỏ riêng chăng?

Đáp: Có. Đó là bậc Thánh lìa nhiễm của tự địa và khi sinh nơi địa trên.

Hỏi: Từng có tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự khi riêng được nhưng cùng lúc bỏ chăng?

Đáp: Có. Đó là bậc Thánh lìa nhiễm của tự địa, khởi triền nơi địa dưới khi thoái chuyển.

Hỏi: Từng có tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự cùng lúc được, cùng lúc bỏ chăng?

Đáp: Có. Đó là bậc Thánh đã lìa nhiễm nơi địa dưới, khởi triền nơi địa dưới khi thoái chuyển.

Như hỏi về tĩnh lự, thì vô sắc cũng nên căn cứ theo đó để hỏi.

Lại nữa, như trước đã nói, đẳng chí lược có hai mươi ba thứ. Nghĩa là tĩnh lự có mười hai, tức bốn vị tương ưng, bốn tịnh, bốn vô lậu. Vô sắc có mười một, tức bốn vị tương ưng, bốn tịnh, ba vô lậu. Hai mươi ba thứ này nếu kiến lập rộng thành sáu mươi lăm đẳng chí. Nghĩa là hai mươi ba thứ trước thêm bốn vô lượng, bốn vô ngại giải, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, sáu thông, nơi nương dựa của nguyện trí vô tránh.

Hỏi: Sáu mươi lăm thứ này có bao nhiêu thứ chỉ duyên với tự địa? Bao nhiêu thứ chỉ duyên với địa dưới? Bao nhiêu thứ duyên với tự địa và địa dưới? Bao nhiêu thứ duyên với tự địa và địa trên? Bao nhiêu thứ duyên với tất cả địa?

Đáp: Mười đẳng chí chỉ duyên với tự địa, đó là tám vị tương ưng cùng hai biến xứ Không, Thức vô biên xứ.

Hai mươi bốn đẳng chí chỉ duyên với địa dưới, đó là bốn vô lượng, ba giải thoát đầu, tám thắng xứ, tám biến xứ trước và vô tránh. Hoặc có người muốn khiến vô tránh duyên với cõi dục, cõi sắc, thì trừ vô tránh.

Bảy đẳng chí duyên với tự địa và địa dưới, đó là hai vô ngại giải pháp từ, chỗ dựa của năm thông.

Chín đẳng chí duyên với tự địa và địa trên, đó là vô lậu, tịnh nơi ba vô sắc và ba vô sắc giải thoát dưới. Đây là dựa vào chỗ duyên với hữu lậu để nói.

Mười hai đẳng chí duyên với tất cả địa, đó là tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự, hai vô ngại giải nghĩa biện, vô lậu tận thông chỗ dựa của nguyện trí. Đây cũng chỉ dựa theo chỗ duyên với hữu lậu để nói. Nếu dựa chung vào duyên vô lậu để nói thì có hai mươi ba đẳng chí duyên với tất cả địa, là mười hai thứ trước thêm mười một vô sắc, đó là tịnh, vô lậu nơi vô sắc và bốn vô sắc giải thoát.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đẳng vô gián chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự nào làm đẳng vô gián tức cũng lấy vị đó làm nhân chăng?

Đáp: Các đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đẳng vô gián.

Có đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân. Ở đây: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có mười sáu: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất, bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất, thứ hai, bốn thắng xứ trước, chỗ dựa của năm thông.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ hai làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có mười bảy: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ hai, bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất, thứ hai, bốn thắng xứ trước, chỗ dựa của năm thông và tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ ba làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có mười: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ ba, ba vô lượng, chỗ dựa của năm thông và tịnh nơi tĩnh lự thứ hai.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ tư làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có hai mươi ba: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ tư, ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, chỗ dựa của năm thông và tịnh nơi tĩnh lự thứ ba.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đẳng vô gián chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc nào làm đẳng vô gián tức cũng lấy vị đó làm nhân chăng?

Đáp: Các đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đẳng vô gián.

Có đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân. Trong đây: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Không vô biên xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có bốn: Đó là tịnh nơi Không vô biên xứ, tức giải thoát kia, biến xứ kia và tịnh nơi tĩnh lự thứ tư.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Thức vô biên xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có năm: Đó là tịnh nơi Thức vô biên xứ, tức giải thoát kia, tức biến xứ kia và tịnh nơi Không vô biên xứ cùng tức giải thoát kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Vô sở hữu xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có bốn: Đó là tịnh nơi Vô sở hữu xứ, tức giải thoát kia và tịnh nơi Thức vô biên xứ cùng tức giải thoát kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có bốn: Đó là tịnh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tức giải thoát kia và tịnh Vô sở hữu xứ tịnh, tức giải thoát kia.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy tịnh đó làm đẳng vô gián chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự nào làm đẳng vô gián tức cũng lấy tịnh đó làm nhân chăng?

Đáp: Các đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy tịnh đó làm đẳng vô gián.

Có đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân. Trong đây: Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có sáu: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba.

Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự thứ hai làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có tám: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ ba, thứ tư.

Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự thứ ba làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có mười một: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ tư, Không vô biên xứ, tức giải thoát kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi tĩnh lự thứ tư làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có mười hai: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, tức hai giải thoát kia.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy tịnh đó làm đẳng vô gián chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy tịnh nơi vô sắc nào làm đẳng vô gián tức cũng lấy tịnh đó làm nhân chăng?

Đáp: Các đẳng chí tùy lấy tịnh nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy tịnh đó làm đẳng vô gián.

Có đẳng chí tùy lấy tịnh nơi vô sắc làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân. Trong đây: Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi Không vô biên xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có mười hai: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba, thứ tư, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, tức hai xứ giải thoát kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi Thức vô biên xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có mười hai: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư, Không vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, tức hai xứ giải thoát kia, tịnh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tức giải thoát kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi Vô sở hữu xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có mười: Đó là vị tương ưng, vô lậu của tự địa và tịnh, vô lậu nơi Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, tức hai giải thoát kia, tịnh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tức giải thoát kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy tịnh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm đẳng vô gián nhưng không lấy tịnh đó làm nhân, đây có bảy: Đó là vị tương ưng của tự địa và tịnh, vô lậu nơi Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, tức hai xứ giải thoát kia.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự nào làm đẳng vô gián tức cũng lấy vô lậu đó làm nhân chăng?

Đáp: Dựa vào mỗi mỗi vô lậu nơi tĩnh lự đều nên nêu ra bốn trường hợp:

Dựa vào vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có bảy: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư, ba vô sắc và ba vô sắc giải thoát.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có mười chín: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, bốn vô lượng, giải thoát thứ nhất, thứ hai, bốn thắng xứ trước, hai vô ngại giải, chỗ dựa của bốn thông.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có bảy: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, hai vô ngại giải, chỗ dựa của tha tâm, lậu tân thông.

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có ba mươi hai: Đó là tám vị tương ưng và tịnh nơi tĩnh lự thứ tư, bốn vô sắc, ba giải thoát, bốn thắng xứ sau, mười biến xứ, chỗ dựa của nguyện trí, vô tránh.

Dựa vào vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có sáu: Đó là vô lậu nơi ba vô sắc và ba vô sắc giải thoát.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có mười chín: Đó là tịnh nơi bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, hai giải thoát đầu, bốn thắng xứ trước, pháp vô ngại giải, chỗ dựa của bốn thông.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có tám: Đó là vô lậu nơi bốn tĩnh lự, hai vô ngại giải, chỗ dựa của tha tâm, lậu tận thông.

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có ba mươi hai: Đó là tám vị tương ưng và tịnh nơi bốn vô sắc, ba giải thoát, bốn thắng xứ sau, mười biến xứ, từ vô ngại giải, chỗ dựa của nguyện trí, vô tránh.

Dựa vào vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có bốn: Đó là vô lậu nơi Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, tức hai xứ giải thoát kia.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có mười ba: Đó là tịnh nơi bốn tĩnh lự, Không vô biên xứ, ba vô lượng, pháp vô ngại giải, chỗ dựa của bốn thông.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có mười hai: Đó là vô lậu nơi bốn tĩnh lự, Không vô biên xứ, tức hai giải thoát kia, hai vô ngại giải, chỗ dựa của tha tâm, lậu tận thông.

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có ba mươi tám: Đó là tám vị tương ưng, tịnh nơi ba vô sắc trên, hỷ vô lượng, năm giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, từ vô ngại giải, chỗ dựa của nguyện trí, vô tránh.

Dựa vào vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có ba: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, Vô sở hữu xứ, và Vô sở hữu xứ giải thoát.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có hai mươi tám: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, ba vô lượng, tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước, pháp vô ngại giải, bốn thông, chỗ dựa của nguyện trí, vô tránh.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có mười hai: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, tức hai giải thoát kia, hai vô ngại giải, chỗ dựa của tha tâm, lậu tận thông.

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có hai mươi ba: Đó là tám vị tương ưng, tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hỷ vô lượng, bốn giải thoát, bốn thắng xứ trước, hai biến xứ, chỗ dựa của từ vô ngại giải.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi vô sắc nào làm đẳng vô gián tức cũng lấy vô lậu đó làm nhân chăng?

Đáp: Dựa vào mỗi mỗi vô lậu nơi vô sắc đều nên nêu ra bốn trường hợp.

Dựa vào vô lậu nơi Không vô biên xứ nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Không vô biên xứ làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có ba: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai và chỗ dựa của tha tâm thông.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Không vô biên xứ làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có sáu: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ ba, thứ tư, ba vô sắc dưới, Không vô biên xứ biến xứ.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Không vô biên xứ làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có mười một: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba, thứ tư, ba vô sắc, ba vô sắc giải thoát dưới, hai vô ngại giải, chỗ dựa của lậu tận thông.

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi Không vô biên xứ làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có bốn mươi lăm: Đó là tám vị tương ưng, tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, bốn vô lượng, năm giải thoát, tám thắng xứ, chín biến xứ, hai vô ngại giải, chỗ dựa của bốn thông, nguyện trí, vô tránh.

Dựa vào vô lậu nơi Thức vô biên xứ nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Thức vô biên xứ làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có bốn: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba và chỗ dựa của tha tâm thông.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Thức vô biên xứ làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có bảy: Đó là tịnh nơi tĩnh lự thứ tư, bốn vô sắc, Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát, Thức vô biên xứ biến xứ.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Thức vô biên xứ làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có mười: Đó là vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư, ba vô sắc, ba vô sắc giải thoát dưới, hai vô ngại giải, chỗ dựa của lậu tận thông

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi Thức vô biên xứ làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có bốn mươi bốn: Đó là tám vị tương ưng, tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba, bốn vô lượng, bốn giải thoát, tám thắng xứ, chín biến xứ, hai vô ngại giải, chỗ dựa của bốn thông, nguyện trí, vô tránh.

Dựa vào vô lậu nơi Vô sở hữu xứ nêu ra bốn trường hợp:

1. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Vô sở hữu xứ làm nhân không phải là đẳng vô gián, đây có năm: Đó là vô lậu nơi bốn tĩnh lự và chỗ dựa của tha tâm thông.

2. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Vô sở hữu xứ làm đẳng vô gián không phải là nhân, đây có năm: Đó là tịnh nơi bốn vô sắc, Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.

3. Có đẳng chí tùy lấy vô lậu nơi Vô sở hữu xứ làm nhân cũng lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có chín: Đó là vô lậu nơi ba vô sắc, ba vô sắc dưới giải thoát, hai vô ngại giải, chỗ dựa của lậu tận thông.

4. Có đẳng chí không tùy lấy vô lậu nơi Vô sở hữu xứ làm nhân cũng không lấy vô lậu đó làm đẳng vô gián, đây có bốn mươi sáu: Đó là tám vị tương ưng, tịnh nơi bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, hai vô ngại giải, chỗ dựa của bốn thông, nguyện trí, vô tránh.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đối tượng duyên chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự nào làm đối tượng duyên tức cũng lấy vị đó làm nhân chăng?

Đáp: Các đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đối tượng duyên.

Có đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân. Trong đây: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có mười ba: Đó là tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự, nghĩa vô ngại giải, chỗ dựa của ba thông, nguyện trí. Hoặc có người muốn khiến vô tránh cũng duyên với cõi sắc thì nói có mười bốn, tức thêm vô tránh. Nên nói như vầy: Thuyết trước là đúng.

Như vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất, vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư cũng như vậy.

Hỏi: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đối tượng duyên chăng? Nếu như đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc nào làm đối tượng duyên tức cũng lấy vị đó làm nhân chăng?

Đáp: Các đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc nào làm nhân tức cũng lấy vị đó làm đối tượng duyên.

Có đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi vô sắc làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân. Trong đây: Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Không vô biên xứ làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có mười lăm: Đó là tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự, nghĩa vô ngại giải, chỗ dựa của lậu tận thông, nguyện trí, tịnh, vô lậu nơi Không vô biên xứ, tức giải thoát, biến xứ kia.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Thức vô biên xứ làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có mười tám: Đó là tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự, nghĩa vô ngại giải, chỗ dựa của lậu tận thông, nguyện trí, tịnh, vô lậu nơi Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, tức hai giải thoát kia và Thức vô biên xứ biến xứ.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Vô sở hữu xứ làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có hai mươi: Đó là tịnh, vô lậu nơi bốn tĩnh lự, nghĩa vô ngại giải, chỗ dựa của lậu tận thông, nguyện trí, tịnh, vô lậu nơi ba vô sắc dưới, ba vô sắc giải thoát dưới.

Nếu đẳng chí tùy lấy vị tương ưng nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm đối tượng duyên nhưng không lấy vị đó làm nhân, đây có hai mươi hai: Đó là trước đã có hai mươi thêm tịnh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ và giải thoát của địa ấy.

HẾT – QUYỂN 169