LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 161

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẮC, phần 5

* Vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất, nhập nên nói là vị chăng, xuất nên nói là vị chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là nơi Luận Phẩm Loại Túc nói: Tĩnh lự thứ nhất là gì? Tĩnh lự thứ nhất gồm thâu sắc thọ tưởng hành thức thiện. Cho đến tĩnh lự thứ tư là gì? Tĩnh lự thứ tư gồm thâu sắc thọ tưởng hành thức thiện. Chớ khiến sinh nghi cho tĩnh lự chỉ là thiện. Tạo ra phần Luận này nhằm làm sáng tỏ tĩnh lự không phải chỉ là thiện, do nó chung cho cả thiện nhiễm, vô phú vô ký.

Hỏi: Vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất, nhập nên nói là vị chăng, xuất nên nói là vị chăng?

Đáp: Đối với chủ thể vị nên nói là nhập. Đối với đối tượng vị nên nói là xuất.

Hỏi: Cho đến vị tương ưng nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập nên nói là vị chăng, xuất nên nói là vị chăng?

Đáp: Đối với chủ thể vị nên nói là nhập. Đối với đối tượng vị nên nói là xuất.

Trong đây, ái gọi là vị, Tam-ma-địa gọi là tĩnh lự thứ nhất v.v…

tức tương ưng với ái. Các Tam-ma-địa gọi là vị tương ưng nơi tĩnh lự, vô sắc.

Hỏi: Vì sao chỉ nói cùng với ái tương ưng không phải là phiền não khác?

Đáp: Là ý của người tạo luận muốn như vậy. Cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Cũng nên nói về phiền não khác. Nghĩa là nên nói: Hữu thân kiến tương ưng với tĩnh lự thứ nhất. Nhập nên nói là giữ lấy ngã ngã sở chăng, xuất nên nói là giữ lấy ngã ngã sở chăng? Đáp: Đối với chủ thể giữ lấy nên nói là nhập. Đối với đối tượng giữ lấy nên nói là xuất.

Nói rộng cho đến vô minh tương ưng với tĩnh lự thứ nhất, nhập nên nói là ngu tối chăng, xuất nên nói là ngu tối chăng? Đáp: Đối với chủ thể ngu tối nên nói là nhập. Đối với đối tượng ngu tối nên nói là xuất. Cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ nói cũng như vậy. Nhưng không nói như thế, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Trong đây đã nêu ái làm môn khiến nhận biết phiền não khác cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Ở đây nói về chỗ tương tợ. Nghĩa là ái cùng với định tương tợ, không phải là phiền não khác. Vì sao? Vì định đối với đối tượng duyên nối tiếp nhau trôi chảy, ái cũng như vậy. Lại nữa, định đối với đối tượng duyên suy xét kỹ chắc để giữ lấy, ái cũng như vậy. Lại nữa, định đối với đối tượng duyên buộc giữ tâm không lìa, ái cũng như vậy. Lại nữa, định đối với đối tượng duyên thâu nhận mà chuyển, ái cũng như vậy. Lại nữa, định có thể nuôi lớn tăng ích đại chủng của các căn, ái cũng như vậy. Các phiền não khác không có tướng ấy, cho nên không nói tương ưng.

Hỏi: Vị là ái, không phải là tĩnh lự v.v… không nên nói là nhập, do đối với định đã có nói nhập. Tĩnh lự v.v… là định, không phải là ái, không nên nói là vị, do đối với ái đã có nói vị. Vì sao hai pháp lại cùng được mang tên?

Đáp: Do hai pháp ấy lần lượt tương ưng, lại cùng thọ nhận tên gọi, điều ấy đâu có lỗi gì? Nghĩa là định ái tương ưng nên cũng có thể gọi là vị. Ái định tương ưng nên cũng có thể gọi là nhập. Trong đây, nói nhập xuất thì nhập xuất có năm thứ: 1. Địa. 2. Hành tướng. 3. Đối tượng duyên. 4. Tâm dị loại. 5. Sát-na.

Địa nhập xuất: Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất cùng không gián đoạn khi tĩnh lự thứ hai hiện tiền, gọi là nhập tĩnh lự thứ hai, xuất tĩnh lự thứ nhất. Cho đến Vô sở hữu xứ cùng không gián đoạn khi Phi tưởng phi phi tưởng xứ hiện tiền, gọi là nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, xuất Vô sở hữu xứ. Như thuận thứ lớp nhập xuất, như vậy nghịch thứ lớp nhập xuất cùng thuận nghịch vượt nhập xuất cũng như vậy.

Hành tướng nhập xuất: Nghĩa là hành tướng vô thường cùng không gián đoạn, khi hành tướng khổ hiện tiền, gọi là nhập hành tướng khổ, xuất hành tướng vô thường. Các hành tướng khác cũng như vậy.

Đối tượng duyên nhập xuất: Nghĩa là duyên với định sắc cùng không gián đoạn, khi duyên với định thọ hiện tiền, gọi là nhập duyên nơi định thọ, xuất duyên nơi định sắc. Duyên nơi định khác cũng như vậy.

Tâm dị loại nhập xuất: Nghĩa là tâm cõi dục cùng không gián đoạn, khi tâm cõi sắc hoặc tâm không hệ thuộc hiện tiền, gọi là nhập tâm cõi sắc hoặc tâm không hệ thuộc, xuất tâm cõi dục. Tâm cõi sắc v.v… nói cũng như vậy. Như tâm cõi dục v.v…, thì tâm học v.v… cũng như vậy. Những tâm như thiện v.v… khác, tùy chỗ ứng hợp cũng như thế.

Sát-na nhập xuất: Nghĩa là sát-na đầu cùng không gián đoạn, khi sát-na thứ hai hiện tiền, gọi là nhập sát-na thứ hai, xuất sát-na thứ nhất. Các sát-na khác cũng như vậy.

Đối với năm nhập xuất, trong đây dựa nơi sát-na nhập xuất để tạo luận.

Đối với chủ thể vị nên nói là nhập, đối với đối tượng vị nên nói là xuất: Có thuyết nói như vầy: Trong đây nói vị tương ưng với định trôi chảy nối tiếp khi hiện tiền, đều do sát-na trước là đối tượng vị, là đối tượng duyên, sát-na sau là chủ thể vị, là chủ thể duyên.

Đối với chủ thể vị nên nói là nhập: Nghĩa là sát-na lùi về sau, vị tương ưng nơi tĩnh lự, vô sắc, khi hiện tiền gọi là đối với chủ thể vị đã nhập. Ở nơi phần vị đã khởi mới thành chủ thể vị.

Đối với đối tượng vị nên nói là xuất: Nghĩa là sát-na lùi về trước, vị tương ưng nơi tĩnh lự, vô sắc, khi đã tàn diệt gọi là đối với đối tượng vị đã xuất. Ở nơi phần vị đã diệt mới thành đối tượng vị.

Hỏi: Ái tương ưng với định có thể duyên nơi ba đời, vì sao chỉ nói duyên với quá khứ?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là dựa phần nhiều để nói. Nghĩa là loài hữu tình pháp là như thế. Phần nhiều là duyên nơi chỗ đã từng thọ nhận tùy thuận vào cảnh sinh ái vị.

Có thuyết cho: Định quá khứ ở trong sự nối tiếp nhau đã tạo nhiều lợi ích. Định hiện tại khởi lên từ đó, lưu luyến về cái cũ nên sinh ái.

Có thuyết nêu: Trong đây dựa vào nhập xuất định để tạo hỏi đáp. Định vị lai chưa gọi là nhập xuất. Định hiện tại gọi là nhập chưa gọi là xuất. Định quá khứ gọi là nhập rồi xuất. Nay muốn hiển bày là đối với phần vị đã xuất sinh vị, nên chỉ nói duyên với quá khứ.

Có Sư khác nói: Trong đây nói định tịnh vô gián khởi vị tương ưng với định. Định tịnh là đối tượng vị, là đối tượng duyên. Vị tương ưng định là chủ thể vị, là chủ thể duyên. Phần còn lại như đã nói ở trước.

Lời bình: Nên biết thuyết nói trước là đúng. Ở đây, nhập xuất đều dựa vị định để tạo luận.

***

* Các vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất đều là hữu phú vô ký chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Văn trước chỉ nói ái tương ưng với định. Nay muốn làm sáng tỏ định cũng tương ưng với phiền não khác, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Các vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất đều là hữu phú vô ký chăng? Nếu như là hữu phú vô ký thì tĩnh lự thứ nhất đều là vị tương ưng chăng?

Đáp: Các vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất đều là hữu phú vô ký. Có trường hợp là hữu phú vô ký nhưng tĩnh lự thứ nhất không phải là vị tương ưng. Nghĩa là trừ ái còn lại là phiền não khác hiện tiền.

Hỏi: Cho đến các vị tương ưng nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là hữu phú vô ký chăng? Nếu như là hữu phú vô ký thì Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là vị tương ưng chăng?

Đáp: Các vị tương ưng nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là hữu phú vô ký. Có trường hợp là hữu phú vô ký nhưng Phi tưởng phi phi tưởng xứ không phải là vị tương ưng: Nghĩa là trừ ái còn lại là phiền não khác hiện tiền.

Trong đây, vị tương ưng nơi tĩnh lự, vô sắc đều là hữu phú vô ký: Nghĩa là có thể làm chướng ngại Thánh đạo và gia hạnh của Thánh đạo, nên gọi là hữu phú. Không chiêu cảm quả dị thục, nên gọi là vô ký.

Các phiền não khác: Nghĩa là kiến, nghi, mạn, vô minh. Những phiền não này cùng với tĩnh lự, vô sắc không nhiễm ô lần lượt nối tiếp nhau hiện tiền, khiến Sư Du-già gọi là ái nơi tĩnh lự trên, kiến nơi tĩnh lự trên, nghi nơi tĩnh lự trên, mạn nơi tĩnh lự trên. Cũng có những triền, tùy phiền não, cấu khác cùng có nghĩa tương ưng nhưng phiền não vượt hơn, nên chỉ nói phiền não.

***

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ nhất mà nhập tĩnh lự thứ hai chăng?

Đáp: Có nhập.

Hỏi: Cho đến từng có không nhập Vô sở hữu xứ mà nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?

Đáp: Có nhập.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho người nghi có được quyết định. Nghĩa là như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói: Ban đầu nghĩa là tùy thuận thứ lớp trong sự nối tiếp liên hợp số là thứ nhất. Lại nữa, tùy thuận thứ lớp nối tiếp liên hợp khi nhập các định thì đấy là đầu tiên. Trong các Khế kinh cũng nói về chín định thứ đệ. Hoặc có kẻ sinh nghi như vầy: Nếu không nhập tĩnh lự thứ nhất tức nên không thể nhập tĩnh lự thứ hai. Nay muốn khiến cho kẻ nghi kia có sự hiểu biết quyết định, nghĩa là không nhập tĩnh lự thứ nhất cũng có thể nhập tĩnh lự thứ hai, thế nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ nhất mà nhập tĩnh lự thứ hai chăng?

Đáp: Có nhập.

Hỏi: Nhập như thế nào?

Đáp: Nghĩa là từ định vị chí hoặc tĩnh lự trung gian, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ hai, hoặc tĩnh lự thứ hai, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ ba, hoặc tĩnh lự thứ ba, hoặc tĩnh lự thứ tư, cùng không gián đoạn khi tĩnh lự thứ hai hiện tiền.

Có thuyết nói: Tâm thiện của cõi dục cùng không gián đoạn chỉ có thể nhập định vị chí.

Có thuyết cho: Cũng có thể nhập tĩnh lự thứ nhất.

Có thuyết nêu: Cũng có thể nhập tĩnh lự trung gian

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Cũng có thể nhập tĩnh lự thứ hai. Như vượt qua định: Nghĩa là từ tĩnh lự thứ nhất cùng không gián đoạn, vượt qua tĩnh lự thứ hai nhập tĩnh lự thứ ba.

Như vậy, cũng nên từ tâm thiện của cõi dục cùng không gián đoạn, vượt qua tĩnh lự thứ nhất nhập tĩnh lự thứ hai. Nhưng điều này không đúng lý, vì tâm thiện của cõi dục không phải là tâm định, nên không thể nói được là cùng với các tâm định đồng về uy lực, thế mạnh.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ hai mà nhập tĩnh lự thứ ba chăng?

Đáp: Có nhập.

Hỏi: Nhập như thế nào?

Đáp: Nghĩa là từ tĩnh lự thứ nhất, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ ba, hoặc tĩnh lự thứ ba, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ tư, hoặc tĩnh lự thứ tư, hoặc Không vô biên xứ.

Có thuyết nói: Cũng từ cận phần của tĩnh lự thứ hai cùng không gián đoạn khi tĩnh lự thứ ba hiện tiền.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ ba mà nhập tĩnh lự thứ tư chăng?

Đáp: Có nhập.

Hỏi: Nhập như thế nào?

Đáp: Nghĩa là từ tĩnh lự thứ hai, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ tư, hoặc tĩnh lự thứ tư, hoặc cận phần của Không vô biên xứ, hoặc Không vô biên xứ, hoặc Thức vô biên xứ.

Có thuyết nói: Cũng từ cận phần của tĩnh lự thứ ba cùng không gián đoạn khi tĩnh lự thứ tư hiện tiền.

Hỏi: Cho đến từng có không nhập Vô sở hữu xứ mà nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?

Đáp: Có nhập.

Hỏi: Nhập như thế nào?

Đáp: Nghĩa là từ Thức vô biên xứ, hoặc cận phần của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Có thuyết cho: Cũng từ cận phần của Vô sở hữu xứ cùng không gián đoạn, khi Phi tưởng phi phi tưởng xứ hiện tiền.

Trong đây, là ngăn chận sát-na, không ngăn chận sự nối tiếp, không ngăn chận phần vị, không ngăn chận chúng đồng phần, không ngăn chận từ thời vô thỉ đến nay. Nghĩa là nhập định này thì sát-na trước tức không nhập định kia. Không phải sát-na còn lại cũng không từng nhập. Sự nối tiếp v.v… ở đây không ngăn chận. Do nghĩa lý sâu xa đó, nên biết cũng có khi ngăn chận hai, ba, cho đến ngăn chận bảy.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ nhất, thứ hai mà nhập tĩnh lự thứ ba chăng?

Đáp: Có nhập. Nghĩa là dựa vào định vị chí, lìa nhiễm từ cõi dục cho đến nhiễm của tĩnh lự thứ hai, khi mạng chung sinh nơi tĩnh lự thứ ba. Hoặc từ địa trên mất, sinh nơi tĩnh lự thứ ba, tức ở nơi tĩnh lự thứ ba kia hiện tiền.

Hỏi: Cho đến từng có không nhập bốn tĩnh lự, ba vô sắc dưới mà nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?

Đáp: Có nhập. Nghĩa là dựa vào định vị chí, lìa nhiễm từ cõi dục cho đến nhiễm của Vô sở hữu xứ, khi mạng chung sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tức ở nơi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ kia hiện tiền. Đây là dựa vào sự ngăn chận sát-na, cho đến ngăn chận chúng đồng phần, không ngăn chận từ thời vô thỉ đến nay.

Có thuyết nói: Trong đó cũng có không ngăn chận chúng đồng phần, hoặc cũng không ngăn chận phần vị. Nghĩa cũng không trái nhau, nên căn cứ như trước đã nói.

***

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ nhất mà sinh nơi trời Phạm thế chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Cho đến từng có không nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?

Đáp: Có sinh

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Như Khế kinh nói: Trước nhập định này, sau sinh trong cõi kia, cho đến nói rộng. Hoặc có sinh nghi: Chủ yếu là nhập định kia mới được sinh nơi cõi kia. Nay nhằm khiến cho nghi ấy có được quyết định và làm sáng tỏ tuy không nhập định kia cùng được sinh nơi cõi kia, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nếu như vậy thì kinh nói nên làm sao thông?

Đáp: Có các hữu tình trước nhập định kia sau sinh vào cõi kia. Có các hữu tình không nhập định kia nhưng cũng sinh vào cõi kia. Khế kinh nói: “Nhập định, sinh vào cõi kia”. A-tỳ-đạt-ma nói: “Không nhập định, sinh vào cõi kia”. Như thế tức hai thuyết là khéo thông suốt.

Hỏi: Nếu không nhập định kia cũng được sinh nơi cõi kia, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói: Nhập định sinh nơi xứ kia?

Đáp: Có các ngoại đạo cho: Phạm thiên v.v… không phải là do tu định đạt được, nên Đức Thế Tôn mới nói: Trước nhập định này, sau mới sinh vào cõi kia, khiến quyết định tin quả do nhân đạt được.

Lại nữa, có thuyết nói: Hữu tình tham đắm vào phần ít dục lạc của hiện tại, không vui thích quả lìa dục thù thắng của vị lai. Đức Thế Tôn đã vì họ chê trách dục lạc, khen ngợi quả lìa dục. Hữu tình kia nghe rồi hân hoan, xin Ngài giảng nói về nhân. Thế nên, Đức Phật mới nói với họ: Trước nhập định kia sau mới sinh vào xứ kia.

Lại nữa, có những hữu tình nghe nói ở cõi trên có quả lìa dục thù thắng thì không sinh tin hiểu, nên ý của Đức Phật muốn hiển bày: Nếu có thể nhập định căn bản kia, thì ngay đấy nhận được an vui thù thắng, khiến nhận biết quả kia lại là thắng diệu, nên Đức Phật đã vì họ nói: Trước nhập định này, sau sinh vào nơi kia.

Lại nữa, có Sư Du-già có thể nhập định kia, tuy ưa thích sinh vào xứ ấy nhưng không hiện nhập, nên Đức Phật mới vì họ nói: Trước nhập định này, sau mới sinh vào xứ kia.

Lại nữa, có Sư Du-già tuy chán khổ của cõi dục, cầu an vui lìa dục, nhưng đối với pháp lìa dục thì biếng nhác, không tu, nên Đức Phật đã vì họ nói: Trước nhập định này, sau sinh vào xứ kia.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ nhất mà sinh nơi trời Phạm thế chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Sinh như thế nào?

Đáp: Nghĩa là dựa nơi định vị chí, lìa nhiễm cõi dục, được đạo giải thoát sau cùng, và thời gian sau không nhập tĩnh lự thứ nhất. Vị ấy nếu chưa lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất. mạng chung tất sẽ sinh nơi xứ Phạm thế. Hoặc từ nơi địa trên mất sinh vào trời đó.

Hỏi: Không khởi định kia làm sao sinh nơi xứ kia vì không có nhân dị thục?

Đáp: Thuận hậu thứ thọ nghiệp là nhân dị thục nên được sinh.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ hai mà sinh nơi trời Cực quang tịnh chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào? Nghĩa là dựa vào định vị chí, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, cận phần của tĩnh lự thứ hai tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, không nhập tĩnh lự thứ hai. Vị ấy nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, mạng chung tất sẽ sinh nơi trời Cực quang tịnh. Hoặc từ nơi địa trên mất sinh vào trời đó.

Hỏi: Từng có không nhập tĩnh lự thứ ba mà sinh nơi trời Biến tịnh chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào? Nghĩa là dựa vào định vị chí, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ hai, cận phần của tĩnh lự thứ ba tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, không nhập tĩnh lự thứ ba. Vị ấy nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, mạng chung tất sẽ sinh vào trời Biến tịnh. Hoặc từ nơi địa trên mất sinh vào trời đó.

Hỏi: Như vậy cho đến từng có không nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ chăng?

Đáp: Có sinh.

Sinh như thế nào? Nghĩa là dựa vào định vị chí, cho đến Vô sở hữu xứ tùy vào một, lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, chưa lìa nhiễm của địa trên, không nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà mạng chung tất sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Trong đây là ngăn chận sát-na, sự nối tiếp, phần vị, chúng đồng phần, không ngăn chận từ vô thỉ đến nay.

***

* Nếu đắc tĩnh lự thứ nhất không phải là tĩnh lự thứ hai, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn khiến cho kẻ nghi có được quyết định. Như Đức Thế Tôn nói: Các Bí-sô nên biết! Ta nói dựa vào tĩnh lự thứ nhất có thể dứt hết các lậu. Dựa vào tĩnh lự thứ hai cho đến Vô sở hữu xứ có thể dứt hết các lậu. Chớ có sinh nghi: Chỉ dựa vào định căn bản có thể dứt hết các lậu, không phải là vị chí. Vì khiến nghi kia có được quyết định, đồng thời làm sáng tỏ là dựa vào chín địa đều có thể dứt hết các lậu. Nghĩa là bảy căn bản, vị chí, trung gian. Địa cận phần khác, tuy không thể dứt hết những cũng có thể đoạn trừ các lậu, nên tạo ra phần Luận này.

Nhưng đắc có hai thứ: 1. Đắc hiện tiền. 2. Đắc thành tựu. Trong đây, dựa vào đắc hiện tiền để tạo luận.

Hỏi: Nếu đắc tĩnh lự thứ nhất không phải là tĩnh lự thứ hai, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc trời Phạm thế, hoặc trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, hoặc trời Quảng quả, hoặc nơi Không vô biên xứ, hoặc nơi Thức vô biên xứ, hoặc nơi Vô sở hữu xứ, hoặc nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc tĩnh lự thứ nhất không phải là tĩnh lự thứ hai. Quyết định đã lìa nhiễm của cõi dục nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Phạm thế. Nếu dựa vào định vị chí, hoặc tĩnh lự thứ nhất, hoặc tĩnh lự trung gian, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ hai, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, được đạo giải thoát sau cùng, và sau đó không nhập tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Cực quang tịnh. Tức vị kia nếu dựa vào vị chí, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Biến tịnh. Nếu dựa vào ba địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Quảng quả. Như vậy cho đến dựa vào ba địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh, do đã lìa nhiễm của ba cõi.

Hỏi: Nếu đắc tĩnh lự thứ hai không phải là tĩnh lự thứ ba, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, cho đến hoặc nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc tĩnh lự thứ hai không phải là tĩnh lự thứ ba. Quyết định đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Cực quang tịnh. Nếu dựa vào vị chí, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ hai, cận phần của tĩnh lự thứ ba tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, không nhập tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Biến tịnh. Nếu dựa vào vị chí, tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ hai tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Quảng quả. Nếu dựa vào bốn địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Không vô biên xứ. Như vậy cho đến nếu dựa vào bốn địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Hỏi: Nếu đắc tĩnh lự thứ ba không phải là tĩnh lự thứ tư, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc trời Biến tịnh, hoặc trời Quảng quả, cho đến hoặc nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc tĩnh lự thứ ba không phải là tĩnh lự thứ tư. Quyết định đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Biến tịnh. Nếu dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ ba, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Quảng quả. Nếu dựa vào năm địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Không vô biên xứ. Như vậy cho đến nếu dựa vào năm địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Hỏi: Nếu đắc tĩnh lự thứ tư không phải là Không vô biên xứ, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc trời Quảng quả, cho đến hoặc nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc tĩnh lự thứ tư không phải là Không vô biên xứ. Quyết định đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Quảng quả. Nếu dựa vào định vị chí cho đến tĩnh lự thứ tư, tùy vào một, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Không vô biên xứ. Nếu dựa vào sáu địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Thức vô biên xứ. Như vậy cho đến nếu dựa vào sáu địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Hỏi: Nếu đắc Không vô biên xứ không phải là Thức vô biên xứ, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc nơi Không vô biên xứ, cho đến hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc Không vô biên xứ không phải là Thức vô biên xứ. Quyết định đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của Không vô biên xứ, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Không vô biên xứ. Nếu dựa vào định vị chí cho đến Không vô biên xứ, tùy vào một, lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Thức vô biên xứ. Như vậy cho đến nếu dựa vào địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Hỏi: Nếu đắc Thức vô biên xứ không phải là Vô sở hữu xứ, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc nơi Thức vô biên xứ, cho đến hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc Thức vô biên xứ không phải là Vô sở hữu xứ. Quyết định đã lìa nhiễm của Không vô biên xứ nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Thức vô biên xứ. Nếu dựa vào định vị chí cho đến Thức vô biên xứ, tùy vào một, lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Vô sở hữu xứ. Như vậy cho đến nếu dựa vào tám địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Hỏi: Nếu đắc Vô sở hữu xứ không phải là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào?

Đáp: Hoặc nơi Vô sở hữu xứ, cho đến hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc Vô sở hữu xứ không phải là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Quyết định đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ nhưng nơi địa trên thì không định. Trong đây, nếu chưa lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Vô sở hữu xứ. Nếu dựa vào định vị chí cho đến Vô sở hữu xứ, tùy vào một, lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu dựa vào chín địa trước, tùy vào một, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Do lý sâu xa đó, nên biết cũng có đắc hai, đắc ba, cho đến đắc bảy. Về ngăn chận cũng như vậy. Lý trả lời không khác, nên không nói đủ.

Hỏi: Nếu đắc tâm thiện của cõi dục không phải là tĩnh lự thứ nhất, trong đây vì sao không hỏi: Người kia mạng chung sinh vào xứ nào?

Đáp: Có thuyết cho: Cũng nên nói: Nếu đắc tâm thiện của cõi dục không phải là tĩnh lự thứ nhất, người kia mạng chung thì sinh vào xứ nào? Trả lời: Hoặc cõi dục, hoặc trời Phạm thế, cho đến hoặc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc không xứ. Đó là hiện tiền đắc tâm thiện của cõi dục không phải là tĩnh lự thứ nhất. Nghĩa là người kia quyết định ở tại cõi dục, nhưng lìa nhiễm thì không định. Tức là nếu chưa lìa nhiễm nơi cõi dục, vị ấy mạng chung sẽ sinh trở lại cõi dục. Nếu dựa vào định vị chí, lìa nhiễm của cõi dục, được đạo giải thoát sau cùng, và về sau không nhập tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Phạm thế. Nếu dựa vào định vị chí, lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi trời Cực quang tịnh. Như vậy cho đến nếu dựa vào định vị chí, lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, chưa lìa nhiễm nơi địa trên, vị ấy mạng chung thì sinh nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu dựa vào định vị chí, lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy mạng chung thì không xứ sinh.

Nên nói như vậy nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nêu: Thuyết kia không nên hỏi đáp về cõi dục, do đây là chương Định Uẩn. Đúng ra là nên hỏi đáp về định và quả của định. Cõi dục không phải là định, không phải là quả của định, nên không nói.

Hỏi: Nếu đắc tĩnh lự thứ nhất không phải là tĩnh lự thứ hai v.v…

người kia mạng chung cũng sinh nơi cõi dục v.v… trong đây vì sao không nói?

Đáp: Có thuyết nói: Cũng nên nói người ấy sinh nơi tất cả địa dưới, nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nêu: Đây là Định uẩn, chính là làm sáng tỏ sinh nơi địa định. Nếu nói sinh nơi địa dưới, tức có sinh nơi cõi dục, là có lỗi về địa bất định, cho nên không nói.

Có thuyết cho: Trong đây là nói đắc các định, tức về sinh tử đạt được các định. Những người sinh nơi địa dưới thoái bỏ các định, do vậy nên không nói.

Hỏi: Những người sinh nơi địa trên khi mạng chung cũng bỏ các định vì sao lại nói?

Đáp: Những người sinh nơi địa trên, tuy có chỗ xả bỏ nhưng cũng gọi là thắng tấn, huống chi là có đạt được. Những người sinh nơi địa dưới, tuy có chỗ đạt được hãy còn gọi là thoái, rớt, huống chi là có xả bỏ. Nay là Định uẩn chính là hiển bày về thắng tấn, do vậy nên không nói.

Hỏi: Khế kinh chỉ nói dựa vào tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ có thể dứt hết các lậu. Làm sao nhận biết có tĩnh lự trung gian và định vị chí, dựa vào đấy dứt hết các lậu?

Đáp: Đức Thế Tôn nói có ba Tam-ma-địa có thể dứt hết các lậu là có tầm có tứ, không tầm chỉ có tứ và không tầm không tứ. Các kinh khác lại nói: Tĩnh lự thứ nhất gọi là có tầm có tứ. Tĩnh lự thứ hai trở lên gọi là không tầm không tứ. Nếu không có tĩnh lự trung gian thì lại nói những gì để gọi là không tầm chỉ có tứ? Do đó biết là có tĩnh lự trung gian, dựa vào đấy dứt hết các lậu.

Lại Khế kinh nói: Phật nói với Bí-sô: Ta không chỉ nói dựa vào việc lìa dục pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sinh hỷ, lạc, trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ nhất là có thể dứt hết các lậu. Nhưng do tuệ kiến cũng có thể dứt hết các lậu. Kinh ấy tức làm rõ là có định vị chí, dựa vào đấy dứt hết các lậu.

Lại, bậc Thánh chưa lìa nhiễm dục, chưa đắc tĩnh lự, nhưng kiến Thánh đế, nếu không có định vị chí thì dựa vào đâu để khởi được Thánh đạo vĩnh viễn đoạn trừ các lậu? Do đó nên biết là có định vị chí, dựa vào đấy dứt hết các lậu.

Hỏi: Vì sao không nói ngay: Tĩnh lự thứ nhất v.v… có thể dứt hết các lậu mà phải nói dựa vào?

Đáp: Có thuyết nói: Tịnh lự có trước rồi mới từng được. Nếu Đức Thế Tôn nói tĩnh lự thứ nhất v.v… có thể dứt hết các lậu thì không người nhận biết cho là đắc tĩnh lự đều đã dứt hết các lậu. Thế nên, Đức Phật nói dựa vào tĩnh lự v.v… khởi đạo vô lậu mới có thể dứt hết các lậu.

Có thuyết cho: Các định chỉ là Xa-ma-tha, cần phải có Tỳ-bátxá-na mới có thể dứt hết các lậu. Thế nên nói dựa nơi định cần phải khởi tuệ.

Có thuyết nêu: Các định phần nhiều là từng được, chớ có đắm vướng, không muốn tiến tu. Thế nên nói là dựa vào đấy tiến cầu đạo thù thắng, không nên sinh chấp trước.

Hỏi: Như Khế kinh nói: Phi tưởng phi phi tưởng xứ cùng hành tu đẳng giác chi niệm. Kinh khác lại nói: Cho đến tưởng định có thể thông đạt đúng, có thể biện giải về Thánh chỉ. Kinh trước cũng nói: Dựa vào tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ có thể dứt hết các lậu. Như vậy hai thuyết há không là trái nhau?

Đáp: Kinh đầu nói có thể dẫn phát. Hai kinh sau nói là dựa vào kinh kia. Lại, kinh đầu nói về phương tiện. Hai kinh sau nói về thành mãn.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói cùng hành?

Đáp: Đối với nghĩa trước sau, tiếng cùng với (câu) cũng chuyển đổi. Như Đức Thế Tôn nói: Vua Mạn-đà-đa cùng khởi tưởng này, tức liền đọa lạc.

Lại, kinh lại nói: Cùng khởi tưởng này thì các hữu tình kia liền mạng chung.

Lại, kinh khác nói: Vua Tỳ-ma-chất-đa-la cùng khởi tâm này liền thấy tự thân bị năm thứ hệ thuộc trói buộc. Đây đều là trước sau nhưng nói tiếng cùng với (câu). Kinh nói tu giác chi nên biết cũng như vậy.

Hỏi: Nếu pháp là nhân của tĩnh lự thứ nhất thì pháp ấy là quả của tĩnh lự thứ nhất chăng? Nếu như pháp là quả của tĩnh lự thứ nhất thì pháp ấy là nhân của tĩnh lự thứ nhất chăng?

Đáp: Các pháp là nhân của tĩnh lự thứ nhất thì chúng là quả của tĩnh lự thứ nhất. Có pháp là quả của tĩnh lự thứ nhất nhưng pháp ấy không phải là nhân của tĩnh lự thứ nhất: Nghĩa là kiết của ba cõi đã đoạn và quả của tĩnh lự thứ nhất và phẩm tâm thông quả của cõi dục.

Cho đến tĩnh lự thứ tư cũng nên nêu hỏi đáp ấy.

Đối với định vô sắc chỉ nên nói kiết đoạn.

Hỏi: Các vị xả tâm nơi địa của tĩnh lự thứ nhất đắc tâm nơi địa của tĩnh lự thứ hai đều là diệt tâm nơi địa của tĩnh lự thứ nhất thì tâm nơi địa của tĩnh lự thứ hai khởi chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là dựa vào định vị chí, hoặc tĩnh lự trung gian, hoặc cận phần của tĩnh lự thứ hai, lìa nhiễm của xứ Phạm thế, không nhập địa căn bản. Bấy giờ xả tâm nhiễm ô nơi địa của tĩnh lự thứ nhất, được tâm không nhiễm ô nơi địa của tĩnh lự thứ hai, mà không phải là kia diệt đây khởi.

2. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là không phải lìa nhiễm khi thứ lớp nhập định.

3. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là khi ở tĩnh lự thứ nhất mất, sinh nơi tĩnh lự thứ hai.

4. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Hỏi: Các vị xả tâm nơi địa của tĩnh lự thứ hai, đắc tâm nơi địa của tĩnh lự thứ nhất đều là diệt tâm nơi địa của tĩnh lự thứ hai thì tâm nơi địa của tĩnh lự thứ nhất khởi chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là khởi triền nơi cõi dục, khi thoái chuyển tĩnh lự thứ hai.

2. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là ngược thứ lớp khi nhập định.

3. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là khi sinh.

4. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Hỏi: Các vị xả phiền não của tĩnh lự thứ nhất được pháp thiện nơi địa của tĩnh lự thứ hai chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là dựa vào định vị chí, hoặc tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự trung gian, nhập bốn khoảnh tâm của kiến đạo.

2. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là dựa vào tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, khi nhập kiến đạo, và các bậc Thánh khi lìa nhiễm của bảy địa trên.

3. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất.

4. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Hỏi: Các vị xả công đức nơi địa của tĩnh lự thứ hai thì có phiền não nơi địa của tĩnh lự thứ nhất chăng?

Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:

1. Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là đối trị với sự thoái chuyển địa trên và khi địa trên đã tu công đức nơi địa của tĩnh lự thứ hai.

2. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là khi ở địa trên chết sinh nơi cõi dục và trời Phạm thế.

3. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là khi ở trời Cực quang tịnh mất sinh nơi cõi dục và trời Phạm thế, cùng khởi phiền não của địa dưới, khi thoái chuyển tĩnh lự thứ hai.

4. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Đối với định khác, tùy chỗ thích ứng, cũng nêu tạo hỏi đáp để phân biệt.

HẾT – QUYỂN 161