LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 152

Chương 6: CĂN UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ ĐẲNG TÂM, phần 2

Hỏi: Tự tánh của Định vô tưởng là gì?

Đáp: Tánh của nó là hành uẩn không tương ưng, tức định ấy đã gồm thâu. Về cõi: Là ở cõi sắc. Về địa: Là ở nơi địa của tĩnh lự thứ tư thuộc tĩnh lự căn bản.

Hỏi: Vì sao nơi địa dưới không có định vô tưởng?

Đáp: Do địa dưới không phải là nơi chốn thích hợp, cho đến nói rộng.

Lại, định vô tưởng là diệt tâm tâm sở mà được, còn địa dưới thì không thuận với việc diệt tâm tâm sở.

Hỏi: Vì sao nơi tĩnh lự thứ tư lại thuận với việc diệt tâm tâm sở, còn địa dưới thì không thuận?

Đáp: Các hữu tình muốn nhập định vô tưởng, trước là khởi tâm thiện của cõi dục, kế là nhập tĩnh lự thứ nhất, tiếp là nhập tĩnh lự thứ hai, thứ ba, sau là nhập tĩnh lự thứ tư. Ở tĩnh lự thứ tư, tâm gồm thượng, trung, hạ. Từ thượng nhập trung, từ trung nhập hạ, tâm phẩm hạ đoạn rồi là nhập định vô tưởng. Ví như người nữ dệt tơ sợi, phần thô bỏ đi, phần tinh tế thì dệt, gần xong thì cắt tỉa bỏ rìa. Nhập định vô tưởng nên biết cũng như vậy. Từ thô nhập tế, cho đến hoàn toàn diệt. Sự diệt hoàn toàn này chỉ có nơi tĩnh lự thứ tư. Lại, các địa dưới có thọ nhận vui buồn theo hành tướng thô động nên khó có thể trừ diệt. Tĩnh lự thứ tư chỉ có thọ nhận không vui không buồn theo hành tướng vi tế nên dễ có thể trừ diệt. Do vậy, trong địa dưới không có định vô tưởng.

Hỏi: Vì sao cõi vô sắc không có định này?

Đáp: Chỉ có hàng phàm phu tính xét hành tập định ấy, cho là có thể chứng đắc Niết-bàn vô tưởng. Trong cõi vô sắc không có dị thục vô tưởng để có thể tính xét, nên định vô tưởng ở cõi ấy cũng không có. Lại, các phàm phu luôn sợ hãi đoạn diệt. Ở cõi kia không có sắc, nếu lại diệt tâm liền là đoạn diệt. Vì họ lo sợ điều ấy, nên trong cõi vô sắc không có định vô tưởng.

Hỏi: Định vô tưởng này nơi xứ nào có thể khởi?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ khởi ở cõi dục, do tâm nơi cõi dục mãnh liệt.

Có thuyết cho: Nhờ vào sức mạnh.

Có Sư khác nói: Chung cho cõi dục và ba tĩnh lự khởi, do tâm từng tu gia hạnh theo thế mạnh cũng có thể khởi.

Lại có thuyết nêu: Tĩnh lự thứ tư cũng có thể hiện khởi, trừ trời Vô tường. Quả thứ nhất cùng với nhân là hết sức bức bách, nên khi chết nhất định sinh vào cõi dục.

Hỏi: Những ai đã khởi định vô tưởng này?

Đáp: Chỉ hàng phàm phu khởi do tạo tưởng xuất ly. Bậc Thánh ở nơi có pháp nhưng không có tưởng xuất ly.

Hỏi: Khởi định này về sau có thể nhập kiến đạo không?

Đáp: Có thuyết nói: Không thể, do định này là định của phàm phu. Nếu khởi định này, về sau có thể nhập kiến đạo, liền có bậc Thánh thành tựu định này, tức không nên gọi là định của phàm phu.

Có thuyết nêu: Khởi định này về sau cũng có thể nhập kiến đạo.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao gọi là định của phàm phu?

Đáp: Bậc Thánh tuy là thành tựu nhưng không hiện hành. Định kia là dựa vào hiện hành nên gọi là định của phàm phu.

Thế nên, Tôn giả Diệu Âm nói: Bổ-đặc-già-la được định ấy có thể nhập chánh tánh ly sinh, nên nói là thoái mất định này. Ở họ, do rất chán nên không hiện hành, khi mạng chung sinh vào tĩnh lự thứ tư, ở xứ đó bao gồm các thọ hiện có.

Lời bình: Nên biết thuyết nêu trước là đúng.

Hỏi: Định vô tưởng này do gia hạnh đạt được hay do lìa nhiễm đạt được?

Đáp: Do gia hạnh đạt được, không phải là do lìa nhiễm đạt được. Ở tĩnh lự thứ ba, khi lìa nhiễm là không được. Nếu do lìa nhiễm đạt được, thì bậc Thánh ở tĩnh lự thứ ba, khi lìa nhiễm cũng nên được. Thế tức không nên gọi là định của phàm phu.

Hỏi: Định vô tưởng này cũng được quá khứ, tu vị lai chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Không đúng. Chỉ có tâm định mới có thể tạo được sự việc như vậy. Còn không tâm thì không có nghĩa tu. Nếu nói là có tu thì sát-na ban đầu của định chỉ thành tựu ở hiện tại. Sátna khác của định thành tựu ở quá khứ, hiện tại. Xuất định này rồi chỉ thành tựu ở quá khứ.

Có thuyết cho: Định này có tu ở vị lai, vì pháp do gia hạnh được là có tu ở vị lai. Định này tất do sức tác ý tột cùng nơi gia hạnh nên được, vì sao không có tu vị lai? Nếu nói như vậy thì sát-na đầu tiên của định thành tựu ở hiện tại, vị lai. Sát-na khác của định thành tựu cả ba đời. Xuất định này rồi là thành tựu ở quá khứ, vị lai.

Hỏi: Nếu như có tâm thì có tu đắc. Bậc Thánh lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba khi ở đạo vô gián thứ chín. Còn như được tĩnh lự thứ tư cùng quyến thuộc thì cũng nên được định này. Thế tức không nên gọi là định của phàm phu?

Đáp: Trước nói định này chỉ do gia hạnh đạt được, do đó phàm phu, Thánh giả khi lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba thảy đều không được. Chỉ có các phàm phu lìa hết nhiễm của địa ấy rồi, dùng sức mạnh gia hạnh mới đạt được, nên không có lỗi.

Nên nói như vầy: Nên như thuyết nêu đầu tiên: Do có tâm định nên có thể tu ở vị lai. Định này không có tâm, nên không có nghĩa tu ở vị lai. Do đó, quá khứ cũng không đúng lý, như luật nghi biệt giải thoát, ở đây cũng như vậy.

Hỏi: Định vô tưởng này có thoái chuyển không?

Đáp: Định này không thoái chuyển.

Hỏi: Vì sao nhận biết được? Từng nghe có Bí-sô được định vô tưởng, khi ra khỏi định này rồi các căn tĩnh lặng, oai nghi tới lui, nói năng, mặc y, thọ thực mỗi mỗi đều chững chạc, xét nét tinh tế. Có A-la-hán trước đạt được nguyện trí, thấy vậy liền suy niệm: Thiện nam này tất đạt được pháp thù thắng, ta nên quán xét biên vực đã chứng đắc của ông ta. Nghĩ xong, liền nhập định, dùng sức của nguyện trí, thấy Bí-sô kia được định vô tưởng. Vị A-la-hán liền xuất định, nói: Nơi ông chứng đắc thật không phải là thiện, làm sao gặp được kho báu công đức của Phật để từ bỏ sai lầm, do ông đã nhận lấy pháp học suy hoại của ngoại đạo. Nay ông nên mau mau bỏ đi. Nghe vậy, Bí-sô tác ý bỏ, nhưng định ấy theo mãi không dứt được, cho đến thôi đạo trở về nhà, nhưng cũng không thể bỏ. Về sau, khi mạng chung sinh nơi trời Vô tưởng. Do vậy, nên biết định này không thoái chuyển.

Phái Thí dụ nói: Có thoái chuyển, vì hết thảy nghiệp đều có thể chuyển. Cho đến nghiệp vô gián, nếu gặp duyên thù thắng thì cũng có nghĩa chuyển. Nếu nghiệp vô gián không thể chuyển, tức nên không có khả năng vượt khỏi hữu thứ nhất.

Lời bình: Như vậy nên biết thuyết nêu trước là đúng.

Hỏi: Định vô tưởng này đối với chúng đồng phần là có khả năng dắt dẫn hay chỉ làm viên mãn?

Đáp: Nó chỉ có khả năng làm viên mãn, không có khả năng dắt dẫn. Vì chúng đồng phần chỉ do nghiệp dẫn dắt, còn định này không phải là nghiệp.

Hỏi: Định vô tưởng này là thuận hiện pháp thọ, thuận thứ sinh thọ, thuận hậu thứ thọ, hay thuận bất định thọ?

Đáp: Nó chỉ là thuận thứ sinh thọ, không phải thuận hiện pháp thọ v.v…

Không phải thuận hiện pháp thọ: Nghĩa là do ở nơi xứ khác tu định vô tưởng này xong, sinh nơi trời Vô tưởng mới cho quả.

Không phải thuận hậu thứ thọ: Nghĩa là định này mạnh mẽ, nhạy bén, mau chóng cho quả.

Không phải thuận bất định thọ: Nghĩa là không thể thoái chuyển.

Hỏi: Định này ở nơi xứ nào thọ nhận quả dị thục nào?

Đáp: Ở nơi trời Vô tưởng, nhận quả dị thục là năm uẩn.

***

* Nhập định diệt tận có bao nhiêu căn diệt? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là để ngăn chận Tông chỉ của người khác, làm sáng tỏ nghĩa của mình. Nghĩa là như Luận sư Phân biệt của phái Thí Dụ chấp: Tâm vi tế của định diệt tận là không diệt. Họ nói: Không có hữu tình không sắc, cũng không có định không có tâm. Nếu định không có tâm thì mạng căn nên đoạn dứt, đó gọi là chết, không phải là ở trong định. Vì nhằm ngăn chận ý tưởng ấy, làm sáng tỏ: Định diệt tận đều không có tâm.

Có thuyết chấp: Định này tuy không có tâm, nhưng chỉ lìa nhiễm sắc tức có thể hiện khởi, vì đồng cõi. Để ngăn dứt lối chấp đó và chỉ rõ: Định diệt tận chủ yếu là lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ mới được hiện tiền, tâm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm đẳng vô gián duyên. Do đó, Tôn giả Thế Hữu nói: Thế nào là định diệt tận? Đó là đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, trước hết là ngưng dứt tưởng tác ý, diệt tâm tâm sở pháp. Đó gọi là định diệt tận.

Do các nhân duyên như thế, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Nhập định diệt tận có bao nhiêu căn diệt?

Đáp: Bảy căn. Đó là ý, xả và năm căn như tín v.v…

Hỏi: Tâm tâm sở diệt thuộc vào cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi vô sắc. Đây là dựa vào tướng chung của loại cõi để nói, nhưng chỉ thuộc vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Xuất định diệt tận có bao nhiêu căn hiện tiền?

Đáp: Hoặc bảy, hoặc tám. Tâm hữu lậu có bảy, tâm vô lậu có tám. Nghĩa là nếu tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất thì bảy căn hiện tiền như vừa nói. Nếu tâm Vô sở hữu xứ xuất thì tám căn hiện tiền, gồm bảy căn trước, thêm dĩ tri căn hoặc cụ tri căn, tùy vào một.

Hỏi: Tâm tâm sở hiện tiền thuộc vào cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Nghĩa là nếu tâm Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất thì thuộc cõi vô sắc, nếu tâm Vô sở hữu xứ xuất thì không hệ thuộc.

Do những điều đã nêu ấy, chứng tỏ định diệt tận quyết định là không tâm. Vì khi nhập định chỉ nói các căn, tâm tâm sở pháp diệt, không nói khởi. Khi xuất định chỉ nói các căn, tâm tâm sở pháp khởi, không nói diệt.

Hỏi: Tự tánh của định diệt tận là gì?

Đáp: Tự tánh của nó là hành uẩn không tương ưng, tức định ấy đã gồm thâu. Về cõi: Là cõi vô sắc. Về địa: Là địa căn bản Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Vì sao nơi địa dưới không có định diệt tận?

Đáp: Do địa dưới không phải là nơi chốn thích hợp, cho đến nói rộng. Lại, định diệt tận là diệt tâm tâm sở hết sức vi tế mà đạt được. Còn địa dưới thì không thuận với việc tâm tâm sở vi tế diệt.

Hỏi: Vì sao nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thuận với việc tâm tâm sở rất vi tế diệt, không phải là địa dưới?

Đáp: Các hữu tình muốn nhập định này, trước là khởi tâm thiện của cõi dục, kế là nhập tĩnh lự thứ nhất, tiếp là nhập tĩnh lự thứ hai. Như vậy cho đến nhập Vô sở hữu xứ, kế đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tâm gồm thượng, trung, hạ. Từ thượng nhập trung, từ trung nhập hạ, tâm phẩm hạ đoạn rồi là nhập định diệt tận vv… Về thí dụ, như trước đã nói, nên biết. Vậy định này chỉ ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Lại, ở các địa dưới đều gọi là có tưởng, hành tướng thô động khó có thể ngưng dứt. Địa này gọi là Phi tưởng phi phi tưởng, hành tưởng vi tế dễ có thể ngưng dứt. Thế nên trong địa dưới không có định diệt tận.

Có thuyết nói: Hai định đều không tâm, nên đều ở nơi biên của một cõi để lập. Nghĩa là định vô tưởng ở nơi biên của cõi có sắc để lập. Còn định diệt tận thì ở nơi biên của cõi vô sắc để lập.

Có thuyết nêu: Hai định đều là không tâm, nên đều ở nơi biên của một địa để lập. Nghĩa là định vô tưởng dựa nơi biên của địa có sắc để lập. Còn định diệt tận thì dựa nơi biên của địa vô sắc để lập.

Có thuyết cho: Hai định đều là không tâm, nên đều ở nơi biên của một tụ để lập. Nghĩa là định vô tưởng ở nơi biên của tụ sắc do đại chủng tạo để lập. Còn định diệt tận thì ở nơi biên của tụ tâm tâm sở pháp để lập.

Có thuyết nói: Tất cả địa đều có hai thứ vượt qua: 1. Vượt qua tham dục. 2. Vượt qua trụ xứ.

Địa tĩnh lự thứ nhất vượt qua tham dục: Nghĩa là Thánh đạo của tự địa. Vượt qua trụ xứ: Nghĩa là tĩnh lự thứ hai.

Cho đến Vô sở hữu xứ vượt qua tham dục: Nghĩa là Thánh đạo của tự địa. Địa dưới vượt qua trụ xứ: Nghĩa là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ vượt qua tham dục: Nghĩa là Thánh đạo của địa dưới. Vượt qua trụ xứ: Nghĩa là đẳng chí diệt tận.

Nếu địa dưới có định diệt tận, tức các địa dưới nên có ba thứ vượt qua hoặc là hai thứ vượt qua ngang nhau. Phi tưởng phi phi tưởng xứ chỉ có một thứ vượt qua. Chớ có những vượt qua không bình đẳng như thế, nên định diệt tận không phải ở địa dưới có.

Có thuyết nêu: Định này do hai nhân duyên nên lập làm giải thoát: 1. Dứt bỏ tất cả đối tượng duyên. 2. Đoạn biên vực tâm. Nếu địa dưới có định diệt tận, tức không phải dứt bỏ tất cả đối tượng duyên, vì nơi đối tượng duyên bên trên chưa từ bỏ, nên cũng không thể nói là biên vực tâm đã đoạn. Do đoạn tâm trung gian chưa phải là biên vực.

Có thuyết nói: Định này là hậu biên trong các định thứ đệ, tất từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ không gián đoạn mà nhập.

Do những nhân duyên như thế, nên các địa dưới không có định diệt tận, chỉ có nơi xứ Hữu đảnh.

Như Đức Thế Tôn nói: Những gì gọi là đẳng chí diệt tận? Nghĩa là vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ.

Hỏi: Đẳng chí diệt tận tức thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vì sao Đức Phật nói là vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ?

Đáp: Tuy tức thuộc vào xứ ấy, nhưng về tịch tĩnh thì vượt hơn, nên Đức Phật nói là vượt qua. Ví như A-lan-nhã tuy ở bên thôn nọ, nhưng lại tịch tĩnh hơn hẳn, do đấy nên nói A-lan-nhã lìa vượt thôn kia.

Lại có hai thứ Phi tưởng phi phi tưởng xứ: 1. Có tâm. 2. Không tâm. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ là dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ có tâm để nói. Tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ là dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ không tâm để nói.

Như có tâm – không tâm, thì tương ưng – không tương ưng, có nơi nương dựa – không có nơi nương dựa, có hành tướng – không hành tướng, có tác ý – không tác ý, có đối tượng duyên – không có đối tượng duyên, nên biết cũng như vậy.

Lại có hai thứ Phi tưởng phi phi tưởng xứ: 1. Nhiễm ô. 2. Không nhiễm ô. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ là dựa vào nhiễm ô để nói. Tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ là dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ không nhiễm ô để nói.

Như nhiễm ô – không nhiễm ô, thì do kiến đạo đoạn – do tu đạo đoạn cũng như vậy.

Lại có hai thứ Phi tưởng phi phi tưởng xứ: 1. Từng được. 2. Chưa từng được. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ là dựa vào từng được để nói. Tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ là dựa vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ chưa từng được để nói.

Như từng được – chưa từng được, thì chung – không chung cũng như vậy.

Lại có hai thứ Phi tưởng phi phi tưởng xứ: 1. Lìa nhiễm đạt được. 2. Gia hạnh đạt được. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ là dựa vào lìa nhiễm đạt được để nói. Tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ là dựa vào gia hạnh đạt được để nói.

Lại dựa vào thứ lớp của địa để nói vượt qua. Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ, là dựa vào sự vượt qua tham dục của địa dưới để nói. Vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng thọ diệt, thân tác chứng trụ đầy đủ là dựa vào sự vượt qua xứ có tâm trụ của tự địa để nói.

Hỏi: Các vị vô học có thể nói là vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì các vị ấy ở nơi Hữu đảnh có đủ hai thứ vượt qua là tham dục và trụ xứ. Các vị hữu học ở đây chỉ có một thứ vượt qua, vì sao nói là vượt qua tất cả?

Đáp: Tất cả có hai thứ: 1. Tất cả của tất cả. 2. Tất cả của phần ít. Ở đây, hàng hữu học là dựa vào phần ít để nói, nên không có lỗi.

Có thuyết nói: Trong đây chỉ dựa vào sự vượt qua trụ xứ để nói. Nghĩa là các vị hữu học, tuy ở Hữu đảnh do tu đạo đoạn trừ tham dục, chưa thể vượt qua tất cả. Nhưng đối với Hữu đảnh, trụ xứ là có thể vượt qua tất cả.

Có thuyết nêu: Trong đây là dựa vào tạm thời vượt qua để nói. Nghĩa là các vị hữu học tạm thời vượt qua tất cả Hữu đảnh có tâm vị. Ra khỏi có tâm nhập vào không tâm.

Hỏi: Trong định diệt tận là diệt hết thảy tâm tâm sở pháp, vì sao chỉ nói tưởng thọ diệt, không nói tâm v.v…?

Đáp: Như phái Thí Dụ nói: Định này có tâm, chỉ diệt tưởng thọ.

Hỏi: Nay không hỏi về điều ấy. Chỉ hỏi về không tâm, vì sao không nói diệt tâm?

Đáp: Nói tưởng thọ diệt là hiển bày thứ khác cũng diệt, không phải pháp tương ưng khác, lìa tưởng thọ khởi.

Có thuyết nói: Trong đây là nói về chỗ tối thắng. Do nơi các phẩm tâm thì tưởng thọ là tối thắng. Phần tối thắng diệt thì các thứ khác cũng diệt theo.

Có thuyết cho: Trong đây là hiện bày về môn, về tóm lược, về hướng nhập. Nghĩa là trong nhóm tâm có thứ là căn tánh, có thứ không phải là căn tánh. Nếu nói thọ, nên biết là đã nói về thứ là căn tánh. Nếu nói tưởng, nên biết là đã nói về thứ không phải là căn tánh.

Như căn tánh – không phải là căn tánh, thì hữu minh – vô minh, có hiện thấy – không hiện thấy, nên quán sát – không nên quán sát, diệu – không phải diệu, tôn – không phải tôn, thắng – không phải thắng, nên biết cũng như vậy.

Có thuyết nêu: Thọ tưởng là những thứ các Sư Du-già vô cùng chán ghét. Do sức của thọ, nên khiến các hữu tình ở cõi sắc bị khổ nhọc quá sức. Do sức của tưởng, nên khiến các hữu tình ở cõi vô sắc bị khổ nhọc quá sức. Thế nên Đức Thế Tôn mới nói tưởng thọ diệt.

Có thuyết biện: Tưởng, thọ ở trong hai cõi là hơn hết. Thọ ở trong cõi sắc là hơn hết. Tưởng ở trong cõi vô sắc là hơn hết.

Có thuyết cho: Tham đắm vào thọ nên chấp nơi tưởng điên đảo, khiến các hữu tình luân hồi sinh tử chịu các khổ não.

Có thuyết nói: Tưởng, thọ đều lập riêng làm uẩn cùng lập làm thức trụ.

Có thuyết nêu: Tưởng, thọ có thể khởi hai thứ phiền não là ái và kiến. Do sức của thọ nên khởi ái. Do sức của tưởng nên khởi kiến. Hai thứ này là đứng đầu nơi tất cả phiền não.

Có thuyết cho: Tưởng, thọ là hai căn tranh nhau. Do thọ nên tham đắm các dục, khiến người tại gia khởi lên các thứ tranh chấp. Do tưởng nên tham đắm các kiến, khiến người xuất gia khởi lên nhiều thứ tranh chấp.

Như hai căn tranh nhau, hai biên, hai mũi tên, hai hý luận, hai ngã sở, hai tạp nhiễm, nên biết cũng như vậy.

Có thuyết nói: Người tu hành ghét thọ tưởng, nên nhập định diệt tận.

Do các nghĩa như thế, nên Đức Phật chỉ nói diệt đối với hai pháp ấy.

Như Luận Thi Thiết nói: Thế nào là gia hạnh khởi đẳng chí diệt? Nghĩa là người mới tu tập, nơi tất cả hành không tạo gia hạnh, không muốn tư duy về các ngã hiện có, chưa sinh tưởng thọ nên khiến không sinh, tưởng thọ đã sinh nên khiến mau diệt. Nếu vào bấy giờ, đối với tưởng thọ chưa sinh khiến không sinh, đã sinh thì diệt, đó gọi là diệt. Vì sao diệt này gọi là đẳng chí? Nghĩa là ở nơi pháp diệt không còn chướng ngại, tự tại hiện thấy, tự thân chứng đắc, nên gọi là đẳng chí. Do sự việc như vậy, nên Đức Thế Tôn nói: Diệt chỉ là một sát-na, còn đẳng chí thì nối tiếp.

Hỏi: Khiến tâm bình đẳng gọi là đẳng chí, nhưng trong đây không có tâm vì sao gọi là đẳng chí?

Đáp: Đẳng chí có hai loại: 1. Khiến tâm bình đẳng. 2. Khiến đại chủng bình đẳng. Định vô tưởng, diệt tận, tuy đoạn dứt tâm bình đẳng khiến không tương tục, nhưng lại dẫn dắt đại chủng bình đẳng khiến nó hiện tiền, nên gọi là đẳng chí.

Hỏi: Vì sao trong hai định không tâm chỉ định diệt tận lập làm giải thoát không phải là định vô tưởng?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Đức Phật đối với Thể, tướng, tác dụng của tất cả các pháp đều thấu đạt rốt ráo. Ngoài ra không ai có thể nhận biết. Nếu pháp có tướng giải thoát liền lập, nếu không thì không lập.

Lại nữa, định diệt tận chỉ nơi nội pháp có nên lập là giải thoát. Còn định vô tưởng chỉ nơi ngoại pháp có nên không lập là giải thoát. Như nội pháp – ngoại pháp, Thánh giả – phàm phu cũng như vậy.

Lại nữa, định diệt tận chỉ từ bỏ tạp nhiễm, hướng đến thanh tịnh, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên lập là giải thoát. Còn định vô tưởng chỉ từ bỏ thanh tịnh, hướng đến tạp nhiễm, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên không lập là giải thoát.

Như từ bỏ tạp nhiễm – hướng đến tạp nhiễm, thì từ bỏ sinh tử – hướng đến sinh tử, từ bỏ lưu chuyển – hướng đến lưu chuyển, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, định diệt tận chỉ từ bỏ ngã kiến, hướng đến vô ngã kiến, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên lập là giải thoát. Còn định vô tưởng chỉ từ bỏ vô ngã kiến, hướng đến ngã kiến, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên không lập là giải thoát.

Lại nữa, định diệt tận chỉ từ bỏ Tát-ca-da-kiến, hướng đến quán không, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên lập là giải thoát. Còn định vô tưởng chỉ từ bỏ quán không, hướng đến Tát-ca-da-kiến, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên không lập là giải thoát.

Lại nữa, như ở trước đã nói: Định diệt tận do hai nhân duyên nên lập làm giải thoát: 1. Là trừ bỏ tất cả đối tượng duyên. 2. Là đoạn tâm biên vực. Còn định vô tưởng, hai nhân duyên này đều không, nên không lập.

Lại nữa, định diệt tận chỉ ngăn cản các cõi, các nẻo, các loài, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên lập là giải thoát. Còn định vô tưởng không ngăn cản các cõi, các nẻo, các loài, trong sự nối tiếp có thể đạt được, nên không lập là giải thoát.

Lại nữa, dứt bỏ các hữu, gọi là giải thoát. Định diệt tận dứt bỏ các cõi, các nẻo, các loài, nhận biết sinh tử lưu chuyển. Còn định vô tưởng thì không như vậy.

Do những nhân duyên như thế, nên trong hai định không tâm, chỉ có định diệt tận được lập là giải thoát, không phải là định vô tưởng.

Hỏi: Định vô tưởng, định diệt tận khác nhau như thế nào?

Đáp: Tên gọi của chúng đã khác nhau: Là định vô tưởng, là định diệt tận.

Lại nữa, cõi cũng khác nhau: Định vô tưởng thuộc cõi sắc. Còn định diệt tận thuộc cõi vô sắc.

Lại nữa, địa cũng khác nhau: Định vô tưởng ở tĩnh lự thứ tư. Còn định diệt tận ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lại nữa, sự tương tục cũng khác: Định vô tưởng ở nơi tương tục của phàm phu. Còn định diệt tận ở nơi tương tục của Thánh giả.

Lại nữa, khi nhập định vô tưởng thì tạo tưởng xuất ly. Còn khi nhập định diệt tận thì tạo tưởng ngưng dứt.

Lại nữa, khi nhập định vô tưởng thì chỉ chán bỏ tưởng. Còn khi nhập định diệt tận thì chán bỏ chung cả tưởng, thọ.

Lại nữa, khi nhập định vô tưởng thì chỉ muốn diệt tưởng. Còn khi nhập định diệt tận thì muốn diệt cả thọ, tưởng.

Lại nữa, khi nhập định vô tưởng thì diệt tâm tâm sở pháp thuộc cõi sắc. Còn khi nhập định diệt tận thì diệt tâm tâm sở pháp thuộc cõi vô sắc.

Lại nữa, khi nhập định vô tưởng thì diệt tâm tâm sở pháp thuộc tĩnh lự thứ tư. Còn khi nhập định diệt tận thì diệt tâm tâm sở pháp thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lại nữa, định vô tưởng chiêu cảm dị thục của cõi sắc. Còn định diệt tận chiêu cảm dị thục của cõi vô sắc.

Lại nữa, định vô tưởng chiêu cảm dị thục của tĩnh lự thứ tư. Còn định diệt tận chiêu cảm dị thục của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lại nữa, định vô tưởng chỉ thọ dị thục nơi thuận sinh. Còn định diệt tận thì thọ dị thục nơi thuận sinh, hậu thứ, bất định.

Vì thế, chúng có khác nhau.

Tôn giả Thế Hữu hỏi: Định vô tưởng và định diệt tận khác nhau như thế nào?

Đáp: Một gọi là định vô tưởng, một gọi là định diệt tận, nên là khác. Lại, về cõi, địa, sự tương tục, tưởng, chán, dục lạc, chỗ diệt và dị thục, chúng đều có khác nhau, nói rộng như trên. Lại, hàng phàm phu nhập định vô tưởng thì chiêu cảm quả của xứ Vô tưởng, còn Thánh giả nhập định diệt tận thì chiêu cảm quả của xứ Hữu đảnh. Lại, định vô tưởng khiến các phàm phu nhận quả dị thục của cõi sắc. Còn định diệt tận khiến các vị hữu học nhận quả dị thục của cõi vô sắc, khiến các vị vô học nhận quả đẳng lưu của cõi vô sắc. Đó là chỗ khác nhau của định vô tưởng và định diệt tận.

Hỏi: Trong tám giải thoát, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói giải thoát thứ ba và thứ tám gọi là thân tác chứng, không phải là thứ khác? Như Khế kinh nói: Tịnh giải thoát thân tác chứng. Tưởng thọ diệt giải thoát thân tác chứng.

Đáp: Có nơi Khế kinh khác, đối với tám giải thoát Đức Thế Tôn đều nói thân tác chứng. Như trong Kinh Đại Nhân Duyên, đối với mỗi thứ giải thoát, Đức Phật đều nói thân tác chứng trụ đầy đủ.

Hỏi: Tuy trong một ít kinh, đối với tám giải thoát đều có nói thân tác chứng. Nhưng ở trong nhiều kinh khác chỉ nói hai thứ gọi là thân tác chứng. Vì sao như vậy?

Đáp: Hai giải thoát ấy trong tám giải thoát về danh nghĩa là tối thắng, nên nói riêng.

Có thuyết nói: Hai giải thoát này cùng dùng công sức gia hạnh để chứng đắc.

Có thuyết nêu: Hai giải thoát này, mỗi thứ đều ở biên một cõi. Nghĩa là tịnh giải thoát thì ở biên của cõi sắc, còn tưởng thọ diệt giải thoát thì ở biên của cõi vô sắc.

Có thuyết cho: Hai giải thoát này, mỗi thứ đều ở biên của một địa. Nghĩa là tịnh giải thoát ở biên của tĩnh lự thứ tư, còn tưởng thọ diệt giải thoát ở biên của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Có thuyết nói: Tịnh giải thoát được lập ở biên vực của tụ sắc do đại chủng tạo, còn tưởng thọ diệt giải thoát được lập ở biên vực của tụ tâm tâm sở pháp.

Có thuyết nêu: Tịnh giải thoát tuy nhận lấy tướng sắc tịnh, nhưng không khởi phiền não. Do thù thắng, nên Đức Thế Tôn an lập tên thân tác chứng. Còn tưởng thọ diệt giải thoát do không tâm, nên ở nơi thân, không phải tâm, do sức của thân khởi, không phải sức của tâm khởi, vì vậy Đức Thế Tôn nói là thân chứng.

Có thuyết cho: Trong Khế kinh nói tám giải thoát thân tác chứng đều do hai giải thoát này nên được gọi là thân chứng.

Do những nghĩa như thế, nên chỉ hai thứ được nói là thân tác chứng.

Trụ đầy đủ: Có nhiều nơi nói về từ trụ đầy đủ. Nghĩa là hoặc có nơi đối với phần ít của sắc uẩn nói là trụ đầy đủ. Hoặc có khi đối với năm uẩn thiện nói là trụ đầy đủ. Hoặc có khi đối với bốn uẩn nói là trụ đầy đủ. Hoặc có khi đối với phần ít của hành uẩn bất tương ưng nói là trụ đầy đủ. Hoặc có khi đối với Niết-bàn tịch diệt nói là trụ đầy đủ.

Đối với phần ít của sắc uẩn nói là trụ đầy đủ, như tụng nói:

Nơi Thánh giáo diệu tuệ

Trụ đầy đủ nơi giới

Hết thảy đều hiền thiện

Kho báu nhiều công đức.

Đối với năm uẩn thiện nói trụ đầy đủ: Như nói: Từ tĩnh lự thứ nhất cho đến tĩnh lự thứ tư trụ đầy đủ.

Đối với bốn uẩn thiện nói trụ đầy đủ: Như nói: Từ Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ đầy đủ.

Đối với phần ít của hành uẩn bất tương ưng nói trụ đầy đủ: Như trong tám giải thoát này, nói tưởng thọ diệt giải thoát thân tác chứng trụ đầy đủ.

Đối với Niết-bàn tịch diệt nói trụ đầy đủ: Như nói: Đối với Niết-bàn thân tác chứng, trụ đầy đủ.

Hỏi: Định diệt tận có bao nhiêu chủng loại?

Đáp: Có thuyết nói: Có bốn. Đó là: 1. Hạng còn bị trói buộc đủ dấy khởi. 2. Hạng lìa ba phẩm trên khởi. 3. Hạng lìa ba phẩm giữa khởi. 4. Hạng lìa ba phẩm dưới khởi. Tức chủng loại đều khác.

Lại có thuyết cho: Có bốn. Nghĩa là bốn hạng khởi: 1. Hạng lìa sáu phẩm nhiễm. 2. Hạng lìa bảy phẩm nhiễm. 3. Hạng lìa tám phẩm nhiễm. 4. Hạng lìa hết chín phẩm nhiễm. Thuyết này nói hạng còn bị trói buộc đủ cho đến hạng lìa năm phẩm nhiễm đều chưa có khởi định này.

Có thuyết nêu: Định này có chín thứ. Nghĩa là hạng lìa phẩm thượng thượng khởi, cho đến hạng lìa phẩm hạ hạ khởi, chỉ có hạng còn bị trói buộc đủ là không thể khởi.

Có thuyết nói: Định này có mười thứ. Nghĩa là hạng còn bị trói buộc đủ khởi, cho đến hạng lìa phẩm hạ hạ khởi.

Hỏi: Nếu hạng còn bị trói buộc đủ có thể khởi định này vì sao các loài phàm phu không thể khởi?

Đáp: Có hai thứ trói buộc: 1. Do kiến đạo đoạn. 2. Do tu đạo đoạn.

Ở trong xứ Hữu đảnh, nếu thiếu trói buộc do kiến đạo đoạn, đủ trói buộc do tu đạo đoạn, thì có thể khởi định này. Nếu gồm đủ hai thứ trói buộc tất không thể khởi.

Nên nói như vầy: Định diệt tận này có mười một thứ. Nghĩa là: Do hạng còn bị trói buộc đủ khởi, do hạng lìa phẩm thượng thượng khởi, cho đến do hạng lìa phẩm hạ hạ khởi, cùng bậc A-la-hán Thời giải thoát luyện căn đạt được Bất động khởi.

Hỏi: Mười một thứ này, Thể có khác chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Không khác.

Hỏi: Nếu vậy vì sao nói mười một thứ?

Đáp: Do phần vị khác không phải Thể có khác.

Có thuyết nói: Mười một thứ này, Thể đều khác. Tùy phần vị khởi lên chủng loại khác nhau.

Hỏi: Nếu như vậy thì từ hạng còn bị trói buộc đủ khởi, cho đến bậc A-la-hán Thời giải thoát luyện căn đạt được Bất động khởi, khác nhau như thế nào?

Đáp: Có khi hạng còn bị trói buộc đủ khởi định diệt tận, tức khi ấy vị này tiến tới đoạn một phẩm nhiễm, lại khởi định diệt tận. Vị ấy bấy giờ trước khi khởi được định không ở nơi thân, thành tựu không hiện tiền. Nay khởi tức được cũng ở nơi thân, thành tựu cũng hiện tiền, tức vị này đạt được. Cho đến từ Thời giải thoát luyện căn đạt được Bất động, vào lúc ấy, trong các phần vị trước khởi định diệt tận, thì được nhưng không ở nơi thân, thành tựu không hiện tiền. Nay ở phần vị Bất động khởi định diệt tận, được cũng ở nơi thân, thành tựu cũng hiện tiền. Do đó nên biết thể loại đều khác.

Hỏi: Định này có loại phẩm thượng trung hạ khác nhau chăng? Nếu có khác thì Luận Thi Thiết nói làm sao thông? Như Luận ấy nói: Diệt là không khác. Nếu không khác thì Phật, Độc giác, Thanh văn khởi định không có hơn kém chăng?

Đáp: Có thuyết nói: Định này không có thượng trung hạ.

Hỏi: Như vậy nơi Luận Thi Thiết nói Diệt là không khác, tuy đã khéo thông suốt, nhưng giữa Phật, Độc giác, Thanh văn khởi định không có hơn kém chăng?

Đáp: Thể không hơn kém, đều dùng tâm tâm sở diệt làm tánh chỉ do gia hạnh nên nói có sai biệt. Nghĩa là Đức Phật khởi định này không do gia hạnh. Độc giác thì dùng gia hạnh bậc hạ. Thanh văn thì dùng gia hạnh bậc trung hoặc bậc thượng.

Nên nói như vầy: Định diệt tận này có loại phẩm thượng trung hạ sai biệt.

Hỏi: Ba thừa khởi định có hơn có kém, tuy đã khéo thông suốt nhưng nơi Luận Thi Thiết nói diệt là không khác nhau thì làm sao thông?

Đáp: Dựa vào khả năng đoạn dứt tâm tâm sở pháp nghĩa không khác biệt, nên nói là không sai khác. Nhưng định diệt tận là hữu vi. Như những hữu vi khác, tức có thượng trung hạ, là do theo căn tánh phần bậc khác nhau. Nghĩa là Đức Phật đạt được là thượng, Độc giác đạt được là trung, Thanh văn đạt được là hạ. Trong thừa Thanh văn có nhiều sai biệt. Về phần vị hữu học, hạng còn bị trói buộc đủ khởi là hạ hạ, cho đến hạng đoạn tám phẩm khởi là thượng thượng. Trong quả vị vô học, chủng tánh thoái pháp khởi là hạ hạ, cho đến khởi đầu được chủng tánh bất động là thượng hạ. Những vị vốn đã được chủng tánh bất động khác khởi là thượng trung. Thanh văn Ba-la-mật-đa khởi là thượng thượng. Trong mỗi mỗi chủng tánh, căn phẩm sai biệt đã khởi nên đều có loại phẩm thượng trung hạ khác nhau, thế nên định diệt tận có nhiều phẩm loại.

Hỏi: Định diệt tận này có bao nhiêu vật làm Thể?

Đáp: Có thuyết nói: Định này có một vật làm Thể. Nếu diệt hiện tiền tức gọi là không tâm.

Hỏi: Thế nào một sát-na diệt hiện tiền tức gọi là không tâm?

Đáp: Như một sát-na thọ hiện tiền tức gọi là có thọ, một sát-na tưởng hiện tiền tức gọi là có tưởng, một sát-na thức hiện tiền tức gọi là có thức. Như vậy, một sát-na diệt hiện tiền gọi là không tâm, điều này không có lỗi.

Có thuyết nói: Định này có mười một vật làm Thể, tức do mười pháp đại địa và tâm diệt.

Có thuyết nêu: Định này có hai mươi mốt vật làm Thể, tức do mười pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa và tâm diệt.

Nên nói như vầy: Là tùy diệt bao nhiêu tâm tâm sở pháp tức có từng ấy vật hiện tiền làm Thể cho định này.

Hỏi: Định diệt tận này tự Thể đã như vậy, còn về tướng thì thế nào?

Đáp: Tự Thể tức là tướng. Tướng tức là tự Thể. Do tất cả pháp không thể lìa Thể để nói riêng về tướng. Tôn giả Thế Hữu nói như vầy: Định diệt tận này, giải thoát là tướng, nên nói như thế. Trụ nơi định ấy thì tâm tâm sở pháp giải thoát, giải thoát thù thắng, giải thoát thù thắng tột cùng. Lìa mọi trói buộc, lìa mọi trói buộc hơn hết, lìa mọi trói buộc hơn hết tột cùng.

Hỏi: Định này không thể đoạn dứt các phiền não, vì sao có thể nói trụ nơi định này, tâm tâm sở pháp giải thoát?

Đáp: Trụ nơi định này thì tâm tâm sở pháp tạm thời giải thoát, cho đến tạm thời lìa trói buộc hơn hết tột cùng, nên nói lời ấy, không phải cho là định này có thể đoạn trừ các phiền não.

Có thuyết nói: Nếu pháp tưởng vi tế làm nhân, vi vi là đẳng vô gián, không cùng với phiền não kia kết hợp thì đều thành tựu, đó gọi là giải thoát.

Hỏi: Đây là nói về pháp gì?

Đáp: Có thuyết cho: Đây là nói về định diệt tận. Nên nói như vầy: Đây là nói định diệt. Tức thuyết kia nói: Định này tưởng vi tế làm nhân, nghĩa là một nhân tức nhân đồng loại. Vi vi cũng cùng làm nhân, nghĩa là một nhân tức nhân đồng loại, cũng cùng làm đẳng vô gián duyên. Nên nói như vầy: Đây là nói định diệt tận. Tức thuyết kia nên nói: Nếu pháp tưởng vi tế làm nhân, vi vi làm đẳng vô gián. Không nên nói: Không cùng với phiền não kia kết hợp, do định diệt kia đang hiện tiền. Nên nói: Là đều thành tựu, do khi trụ nơi định thì người kia thành tựu định ấy.

Có thuyết nêu: Đây là nói tâm xuất định. Nên nói như vầy: Đây là nói tâm xuất định. Tức thuyết kia nói: Tâm xuất định này tưởng vi tế làm nhân, nghĩa là một nhân tức nhân đồng loại. Vi vi cũng cùng làm nhân, nghĩa là một nhân tức nhân đồng loại, cũng cùng làm đẳng vô gián duyên. Nên nói như vầy: Đây là tâm xuất định. Tức thuyết kia nên nói: Nếu pháp tưởng vi tế làm nhân, vi vi làm đẳng vô gián. Nên nói: Không cùng với phiền não kia kết hợp, do khi trụ nơi định, tâm xuất định kia không hiện tiền. Nên nói: Là đều thành tựu, do khi trụ nơi định, cũng thành tựu tâm xuất định kia. Do đấy nên chứng biết định kia trước được tâm xuất định.

Có thuyết cho: Đây là nói tâm nhập định. Nên nói như vầy: Đây là nói tâm nhập định. Tức thuyết kia nói: Tâm nhập định này tưởng làm nhân, nghĩa là một nhân tức nhân đồng loại. Vi tế cũng cùng làm nhân, nghĩa là một nhân tức nhân đồng loại, cũng cùng làm đẳng vô gián duyên. Nên nói như vầy: Đây là nói tâm nhập định. Tức thuyết kia nên nói: Nếu pháp tưởng làm nhân, vi tế làm đẳng vô gián. Nên nói: Không cùng với phiền não kia kết hợp, do khi trụ nơi định, tâm nhập định kia không hiện tiền. Nên nói: Là đều thành tựu, do khi trụ nơi định, người kia đã thành tựu tâm nhập định.

HẾT – QUYỂN 152