LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 165

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN, phần 4

* Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến nói rộng.

Ban đầu có bốn thứ: 1. Ban đầu nhập chánh tánh quyết định. 2. Ban đầu đắc quả. 3. Ban đầu lìa nhiễm. 4. Ban đầu chuyển căn.

Trong đây là dựa vào hai thứ ban đầu để tạo luận là đắc quả và chuyển căn.

Ban đầu đắc quả: Là đắc quả A-la-hán khi đạt tận trí thứ nhất.

Ban đầu chuyển căn: Là A-la-hán thời giải thoát luyện căn tạo bất động khi được đạo giải thoát sau cùng.

Hỏi: Vì sao trong bốn thứ ban đầu chỉ dựa vào hai thứ để tạo luận?

Đáp: Do nếu bấy giờ tu công đức của tất cả địa thì ở đây dựa vào đó để tạo luận. Nhưng chỉ có hai phần vị ban đầu đó là có thể tu như thế, nên mới dựa vào đấy để tạo luận.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là có tầm có tứ chăng?

Đáp: Chúng hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ, hoặc không tầm không tứ.

Có tầm có tứ: Là những nơi chốn đã tu định vị chí và tĩnh lự thứ nhất.

Không tầm chỉ có tứ: Là những nơi chốn đã tu tĩnh lự trung gian.

Không tầm không tứ: Là những nơi chốn đã tu ba tĩnh lự trên, ba vô sắc dưới.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là tương ưng với hỷ căn chăng?

Đáp: Chúng hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn.

Tương ưng với lạc căn: Là những gì đã tu nơi tĩnh lự thứ ba.

Tương ưng với hỷ căn: Là những gì đã tu nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai.

Tương ưng với xả căn: Là những gì đã tu nơi định vị chí, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ tư, ba vô sắc dưới.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi tĩnh lự thứ ba, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là tương ưng với lạc căn chăng?

Đáp: Chúng hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn. Nghĩa như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là tương ưng với xả căn chăng?

Đáp: Chúng hoặc tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với xả căn. Nghĩa như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi Không vô biên xứ, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là thuộc về Không vô biên xứ chăng?

Đáp: Chúng hoặc thuộc về Không vô biên xứ, hoặc thuộc về Thức vô biên xứ, hoặc thuộc về Vô sở hữu xứ.

Thuộc về Không vô biên xứ: Là những gì đã tu nơi Không vô biên xứ.

Thuộc về Thức vô biên xứ: Là những gì đã tu nơi Thức vô biên xứ.

Thuộc về Vô sở hữu xứ: Là những gì đã tu nơi Vô sở hữu xứ.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi Thức vô biên xứ, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là thuộc về Thức vô biên xứ chăng?

Đáp: Chúng hoặc thuộc về Không vô biên xứ, hoặc thuộc về Thức vô biên xứ, hoặc thuộc về Vô sở hữu xứ. Nghĩa như trước đã giải thích.

Hỏi: Nếu ban đầu nhập vô lậu nơi Vô sở hữu xứ, khi ấy các tâm tâm sở pháp vô lậu khác có được ở vị lai, tất cả chúng nên nói là thuộc về Vô sở hữu xứ chăng?

Đáp: Chúng hoặc thuộc về Không vô biên xứ, hoặc thuộc về Thức vô biên xứ, hoặc thuộc về Vô sở hữu xứ. Nghĩa như trước đã giải thích.

Hỏi: Vì sao trong đây đối với tĩnh lự thì hỏi về tương ưng, đối với vô sắc thì hỏi về gồm thâu?

Đáp: Do ý của người tạo luận muốn như vậy, tùy ở Luận chủ, chỉ không trái với pháp tướng là được, chớ nên nêu vấn nạn.

Có thuyết nói: Đối với tĩnh lự, vô sắc đều nên cùng hỏi như thế, nhưng không hỏi nên biết là nghĩa ấy nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Vì hiện bày nhiều thứ văn, nhiều cách nói, do đấy nên nghĩa dễ hiểu.

Có thuyết nêu: Là do hiện bày về hai môn, hai tóm lược, hai bậc, hai bó đuốc, hai ánh sáng, hai thứ sáng rõ, hai thứ văn ảnh, như đối với tĩnh lự nói về tương ưng thì đối với vô sắc cũng như vậy. Như đối với vô sắc nói về gồm thâu thì đối với tĩnh lự cũng như vậy.

Có thuyết nói: Tĩnh lự hiển bày thô trọng, dễ thấy, dễ biết, nên hỏi về tương ưng. Vô sắc thì vi tế, khó hiểu, khó rõ, nên chỉ hỏi về gồm thâu.

Có thuyết nêu: Tĩnh lự có nhiều thứ tướng cùng không tương tợ, nên hỏi về tương ưng. Vô sắc thì không như vậy, nên chỉ hỏi về gồm thâu.

Có thuyết cho: Tĩnh lự có nhiều thứ thọ, nhiều thứ căn, nên hỏi về tương ưng. Vô sắc thì không như vậy.

Có thuyết biện: Tĩnh lự có nhiều công đức, có nhiều thắng lợi, nên hỏi về tương ưng. Vô sắc thì không như vậy.

Có thuyết nêu: Tĩnh lự có trí duyên khắp, nên hỏi về tương ưng. Vô sắc chỉ có trí duyên nơi tự địa trở lên, nên hỏi về gồm thâu.

Hỏi: Vì sao trong đây đối với tĩnh lự cũng gồm thâu vô sắc, nhưng đối với vô sắc không gồm thâu tĩnh lự?

Đáp: Là do ý của người tạo luận muốn như vậy. Cho đến nói rộng.

Có thuyết nêu: Đối với tĩnh lự, vô sắc đều nên cùng gồm thâu nhưng không nói gồm thâu nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Vì hiện bày nhiều thứ văn, nhiều lối nói, do đấy nên nghĩa dễ hiểu.

Có thuyết nói: Do hiện rõ về hai môn, hai tóm lược, hai hình ảnh, hai ánh sáng, cho đến nói rộng.

Có thuyết biện: Vô sắc nương dựa thuộc nơi tĩnh lự do được tĩnh lự, sau mới được vô sắc, nên đối với tĩnh lự cũng gồm thâu vô sắc. Tĩnh lự không nương dựa nơi vô sắc, nên đối với vô sắc không gồm thâu tĩnh lự.

Có thuyết cho: Đối với tĩnh lự cũng không gồm thâu vô sắc, do không tầm không tứ, nên nói là có ý riêng. Nghĩa là không tầm không tứ chỉ nói nơi ba tĩnh lự sau. Tương ưng với xả căn là chỉ nói nơi vị chí, tĩnh lự trung gian và tĩnh lự thứ tư, vì tĩnh lự và vô sắc về tướng đều khác, tuy hỗ tương tu nhưng không gồm thâu nhau.

Có thuyết nói: Đối với vô sắc cũng nên gồm thâu tĩnh lự. Nên nói như vầy: Hoặc thuộc định vị chí, cho đến hoặc thuộc Vô sở hữu xứ. Nhưng không nói là muốn làm sáng tỏ vô sắc không phải là gia hạnh của nhập tĩnh lự, vì tĩnh lự hiện tiền đâu phải nhân nơi vô sắc.

Có thuyết nêu: Sinh nơi địa tĩnh lự thì có thể khởi vô sắc. Sinh nơi địa vô sắc thì không thể khởi tĩnh lự.

Có thuyết cho: Bậc Thánh sinh nơi tĩnh lự, về sau cũng chấp nhận sinh nơi vô sắc. Còn sinh nơi vô sắc thì về sau không chấp nhận sinh nơi tĩnh lự.

Thế nên đối với tĩnh lự gồm thâu vô sắc, còn vô sắc không gồm thâu tĩnh lự.

***

* Vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm ngăn chận ý tưởng của phái Thí Dụ, do họ đối với tánh của duyên không thấy rõ, cho là duyên không thật có. Nay muốn hiển bày về tự tánh của duyên, khiến nhận biết các duyên đều là thật có, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất cùng với vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Cùng với vị tương ưng của tự địa làm bốn duyên: Là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Nhân: Nghĩa là ba nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Đẳng vô gián: Nghĩa là vị tương ưng nơi tĩnh lự làm đẳng vô gián, nên vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền.

Sở duyên: Nghĩa là vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất cùng với vị tương ưng nơi tĩnh lự làm đối tượng duyên.

Tăng thượng: Nghĩa là sinh không trở ngại và hoàn toàn không chướng ngại.

Trong đây, nhân duyên như pháp hạt giống. Đẳng vô gián duyên như pháp mở mang. Sở duyên duyên như pháp trụ giữ. Tăng thượng duyên như pháp trao dục.

Cùng với tịnh của tự địa làm ba duyên: Là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Đẳng vô gián: Nghĩa là vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián, nên tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền. Như ái, kiến, mạn, nghi nơi tĩnh lự trên là phiền não đẳng vô gián, nên tịnh nơi định hiện tiền. Đây tức nói tổng quát. Nếu nói riêng thì tịnh có bốn thứ: 1. Thuận phần thoái. 2. Thuận phần trụ. 3. Thuận phần thắng tấn. 4. Thuận phần quyết trạch. Trong đây, có thuyết nói: Vị tương ưng làm đẳng vô gián chỉ thuận phần thoái là hiện tiền. Có thuyết nói: Cũng khởi thuận phần trụ.

Sở duyên: Nghĩa là vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất cùng với tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm đối tượng duyên.

Tăng thượng: Nghĩa là sinh khởi không trở ngại và hoàn toàn không chướng ngại.

Không có nhân duyên: Nghĩa là do pháp nhiễm ô và pháp thiện không phải như pháp hạt giống. Vì nghĩa này nên vị tương ưng cùng với tịnh của tự địa nếu nói tổng quát thì làm ba duyên, nếu nói riêng thì hoặc ba, hoặc hai, tức là cùng với hai phần trước làm ba duyên, cùng với hai phần sau làm hai duyên.

Cùng với vô lậu của tự địa làm hai duyên: Là sở duyên duyên và tăng thượng duyên.

Sở duyên: Nghĩa là cùng với khổ tập loại nhẫn, loại trí phẩm làm đối tượng duyên.

Tăng thượng: Nghĩa như trước đã nói.

Không có nhân duyên: Nghĩa là pháp hữu lậu và pháp vô lậu không phải như pháp hạt giống.

Không có đẳng vô gián duyên: Nghĩa là phiền não đẳng vô gián không khởi Thánh đạo hiện tiền. Do nghĩa ấy nên vị tương ưng cùng với vô lậu của tự địa nếu nói tổng quát thì làm hai duyên, nếu nói riêng thì hoặc hai, hoặc một, tức là cùng với khổ tập loại nhẫn trí phẩm làm hai duyên, cùng với diệt đạo loại nhẫn, loại trí phẩm và tất cả phẩm pháp nhẫn, pháp trí làm một duyên.

Cùng với tịnh, vô lậu nơi ba tĩnh lự trên làm hai duyên: Là sở duyên duyên và tăng thượng.

Sở duyên: Nghĩa là nó duyên nơi vị tương ưng của địa dưới.

Tăng thượng: Nghĩa là sinh khởi không trở ngại và hoàn toàn không chướng ngại.

Không có nhân duyên: Nghĩa là nhiễm đối với không nhiễm không phải như pháp hạt giống.

Không có đẳng vô gián duyên: Nghĩa là đã lìa nhiễm ở địa dưới mới có thể khởi vô lậu, tịnh nơi địa căn bản ở trên.

Cùng với pháp khác làm một tăng thượng duyên: Pháp khác là vị tương ưng nơi ba tĩnh lự trên và tất cả vô sắc.

Tăng thượng: Nghĩa như trước đã nói.

Không có nhân duyên: Nghĩa là pháp khác cõi, địa nên nhân quả đoạn và pháp khác loại nên không phải là chủng tử.

Không có đẳng vô gián duyên: Nghĩa là đã lìa nhiễm ở địa dưới, nhiễm của địa trên mới hiện tiền và trái nhau.

Không có sở duyên duyên: Nghĩa là phiền não của địa trên cùng vô sắc căn bản không duyên với pháp hữu lậu của địa dưới.

Hỏi: Tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất cùng với tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Cùng với tịnh của tự địa làm bốn duyên: Là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Nhân: Nghĩa là ba nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Đẳng vô gián: Nghĩa là tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián nên tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền.

Sở duyên: Nghĩa là cùng với tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm đối tượng duyên.

Tăng thượng: Nghĩa như trước đã nói. Đây là nói tổng quát. Nếu nói riêng thì tịnh có bốn phần:

Thuận phần thoái cùng với thuận phần thoái làm bốn duyên. Cùng với thuận phần trụ cũng như vậy. Cùng với hai phần còn lại làm ba duyên, trừ đẳng vô gián duyên.

Thuận phần trụ cùng với thuận phần trụ làm bốn duyên. Cùng với thuận phần thắng tấn cũng như vậy. Cùng với thuận phần quyết trạch làm ba duyên, trừ đẳng vô gián duyên. Cùng với thuận phần thoái làm ba duyên, trừ nhân duyên, vì thắng không phải là nhân của kém.

Thuận phần thắng tấn cùng với thuận phần thắng tấn làm bốn duyên. Cùng với thuận phần quyết trạch cũng như vậy. Cùng với thuận phần thoái, có thuyết nói: Chỉ làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên, vì thuận phần thắng tấn vô gián thì thuận phần thoái không hiện tiền. Nên nói như vầy: Là cũng hiện tiền, cho nên cùng với thuận phần thoái làm ba duyên, trừ nhân duyên, do sức kia kém. Cùng với thuận phần trụ cũng như vậy.

Thuận phần quyết trạch cùng với thuận phần quyết trạch làm bốn duyên. Cùng với thuận phần thoái làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cùng với thuận phần trụ, có thuyết nói: Chỉ làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên, vì thuận phần quyết trạch vô gián thì thuận phần trụ không hiện tiền. Nên nói như vầy: Là cũng hiện tiền, cho nên cùng với thuận phần trụ làm ba duyên, trừ nhân duyên. Cùng với thuận phần thắng tấn cũng như vậy.

Cùng với vô lậu của tự địa làm ba duyên: Là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Đẳng vô gián: Nghĩa là tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián thì vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất hiện tiền. Đây chỉ theo thuận phần quyết trạch. Có thuyết nói: Cũng theo thuận phần thắng tấn.

Sở duyên: Nghĩa là cùng với vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất làm đối tượng duyên.

Tăng thượng: Nghĩa như trước đã nói.

Không có nhân duyên: Nghĩa là pháp hữu lậu không phải là nhân của vô lậu.

Cùng với vị tương ưng của tự địa làm ba duyên: Là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Đẳng vô gián: Nghĩa là như ái, kiến, mạn, nghi nơi tĩnh lự trên là tịnh nơi định đẳng vô gián nên phiền não hiện tiền. Nên biết đây là theo thuận phần thoái, hoặc thuận phần trụ. Khởi là do đã lìa, chưa lìa nhiễm của tự địa, nghĩa là khởi phiền não của tự địa có sai khác.

Sở duyên: Nghĩa là vị vướng mắc vào tự địa tịnh nơi tĩnh lự.

Phần còn lại như trước đã nói.

Cùng với tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba làm ba duyên: Là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Đẳng vô gián: Nghĩa là đối với tĩnh lự thứ hai thì thuận thứ lớp nhập, đối với tĩnh lự thứ ba thì thuận khởi nhập. Nên biết từ thuận phần thắng tấn nhập tịnh của địa trên không phải thứ khác.

Phần còn lại như trước đã nói.

Cùng với tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư làm hai duyên: Là sở duyên duyên và tăng thượng duyên.

Không có đẳng vô gián duyên: Nghĩa là do hết sức xa.

Phần còn lại như trước đã nói.

Cùng với pháp khác làm một tăng thượng duyên: Pháp khác là vị tương ưng nơi ba tĩnh lự cùng tất cả vô sắc.

Tăng thượng: Nghĩa như trước đã nói. Trong đó, có sai khác là cùng với tịnh, vô lậu nơi vô sắc không làm đẳng vô gián vì hết sức xa.

Những cái khác như trước đã nói.

Hỏi: Cũng có đẳng vô gián duyên. Nghĩa là tâm thiện của tĩnh lự thứ nhất khi mạng chung sinh nơi địa trên, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Nên nói cùng với pháp kia làm đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Trong chương Định Uẩn này chỉ nói định thiện và định phiền não. Mạng chung kiết sinh chỉ là sinh thiện và sinh phiền não, thế nên không nói.

Có thuyết cho: Trong chương Định Uẩn này chỉ nói thiện căn bản và phiền não. Mạng chung kiết sinh chỉ trụ ở cận phần, không trụ nơi căn bản, do vậy không nói.

Hỏi: Vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất cùng với vô lậu nơi tĩnh lự thứ nhất làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Cùng với vô lậu của tự địa làm bốn duyên: Là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Nhân: Nghĩa là ba nhân tương ưng, câu hữu, đồng loại.

Sở duyên: Nghĩa là cùng với phẩm đạo nhẫn đạo trí làm đối tượng duyên.

Phần còn lại như trước đã nói. Đây tức nói tổng quát. Nếu nói riêng thì phẩm pháp trí cùng với phẩm pháp trí làm bốn duyên. Cùng với phẩm loại trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên. Phẩm loại trí cùng với phẩm loại trí làm bốn duyên. Cùng với phẩm pháp trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên.

Phẩm khổ tập diệt trí cùng với phẩm khổ tập diệt trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên. Cùng với phẩm đạo trí làm bốn duyên. Phẩm đạo trí cùng với phẩm đạo trí làm bốn duyên. Cùng với phẩm khổ tập diệt trí làm ba duyên, trừ sở duyên duyên.

Phẩm vị tri đương tri căn cùng với phẩm vị tri đương tri căn làm bốn duyên. Cùng với phẩm dĩ tri căn cũng như vậy. Cùng với phẩm cụ tri căn làm ba duyên, trừ đẳng vô gián duyên.

Phẩm dĩ tri căn cùng với phẩm dĩ tri căn làm bốn duyên. Cùng với phẩm cụ tri căn cũng như vậy. Cùng với phẩm vị tri đương tri căn làm hai duyên, trừ nhân duyên, đẳng vô gián duyên. Trừ nhân duyên: Nghĩa là sinh sau đối với sinh trước không phải là nhân. Trừ đẳng vô gián duyên: Nghĩa là tu đạo đẳng vô gián thì kiến đạo không hiện tiền.

Phẩm cụ tri căn cùng với phẩm cụ tri căn làm bốn duyên. Cùng với phẩm vị tri đương tri căn và phẩm dĩ tri căn làm hai duyên, trừ nhân duyên, đẳng vô gián duyên.

Phẩm pháp trí vô học cùng với phẩm loại trí học làm một tăng thượng duyên. Phẩm loại trí vô học cùng với phẩm pháp trí học làm một tăng thượng duyên.

Do vậy là nói chung, tức cùng với vô lậu của tự địa làm bốn duyên. Nếu nói riêng, tức có hoặc bốn, ba, hai, một như thế.

Cùng với vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba làm bốn duyên: Là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Do pháp vô lậu không gắn liền với cõi nên làm nhân duyên của địa khác như trước đã nói.

Cùng với tịnh nơi tự địa và tịnh nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba làm ba duyên: Là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Ở đây, đối với tịnh của tự địa, có thuyết nói: Trừ thuận phần thoái, cùng với ba phần còn lại làm đẳng vô gián duyên. Có thuyết nói: Chỉ cùng với hai phần sau làm đẳng vô gián. Đối với tịnh của địa trên cũng như thế. Nên nói như vầy: Khi lần lượt nhập cũng cùng với thuận phần thắng tấn làm đẳng vô gián duyên. Khi nhập siêu vượt chỉ cùng thuận phần quyết trạch làm đẳng vô gián.

Hỏi: Vì sao khi nhập siêu vượt thì chỉ thuận phần quyết trạch cùng với đạo vô lậu cùng làm đẳng vô gián duyên, còn những khi khác thì không như thế?

Đáp: Đối với khi siêu vượt, chỉ có căn thiện mạnh thịnh, kiên cố thì mới có thể cùng dẫn phát thuận phần quyết trạch được mạnh mẽ đầy đủ, vững chắc. Phần khác thì không như thế.

Cùng với tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và tịnh nơi vô sắc làm hai duyên: Là sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Do phẩm loại trí của tĩnh lự thứ nhất là pháp đối trị vô sắc. Cùng với tịnh nơi vô sắc cũng làm sở duyên duyên. Phần còn lại như trước đã nói.

Cùng với vô lậu nơi tĩnh lự thứ tư và vô lậu nơi vô sắc làm ba duyên: Là nhân duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Do phẩm đạo loại trí của vô sắc cũng duyên với phẩm loại trí của tĩnh lự thứ nhất. Ngoài ra như trước đã nói.

Cùng với pháp khác làm tăng thượng duyên: Pháp khác nghĩa là cùng với tất cả vị tương ưng. Nghĩa của tăng thượng như trước đã nói. Do vô lậu cùng với vị là rất trái nhau nên không có đẳng vô gián duyên. Vì tham không thể duyên với pháp vô lậu nên không có sở duyên duyên. Vì vô lậu cùng với nhiễm không phải là pháp hạt giống nên không có nhân duyên.

Hỏi: Nếu vô lậu cùng với vị là rất trái nhau thì sao làm tăng thượng?

Đáp: Đối với vô gián khởi tuy rất trái nhau nhưng khi đang sinh khởi thì tới lui không bị chướng ngại nên có thể lần lượt cùng làm tăng thượng.

Hỏi: Vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ hai cùng với vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ hai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Cùng với vị tương ưng của tự địa làm bốn duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cùng với tịnh nơi hai tĩnh lự đầu làm ba duyên là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên. Cùng với tất cả vô lậu nơi tĩnh lự và tịnh nơi tĩnh lự thứ ba, thứ tư làm sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cùng với pháp khác làm một tăng thượng duyên. Pháp khác là vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ ba và thứ tư, cùng tất cả vô sắc. Ở đây, cùng với tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất làm đẳng vô gián duyên: Nghĩa là Sư Du già đối với tịnh định của tĩnh lự thứ hai vô gián khởi các phiền não, khiến tâm nhiệt não như bị lửa đốt, tức bèn quay về phần tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất. Do đó Khế kinh nói: Thà khởi tác ý chán bỏ cùng với tĩnh lự thứ nhất, không khởi tác ý yếu kém cùng với tĩnh lự thứ hai.

Hỏi: Hành giả kia khởi những tịnh gì nơi tĩnh lự thứ nhất?

Đáp: Có thuyết nói: Khởi thuận phần trụ do dễ khởi.

Có thuyết cho: Khởi thuận phần thắng tấn để phòng hộ địa trên.

Lại, ở đây đã nói là cùng với vị tương ưng nơi tĩnh lự thứ nhất làm một tăng thượng duyên.

Hỏi: Tâm nhiễm ở tĩnh lự thứ hai khi mạng chung sinh nơi tĩnh lự thứ nhất tức có đẳng vô gián duyên, vì sao không nói?

Đáp: Nên nói cùng với pháp kia làm đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết nói: Trong chương Định Uẩn này chỉ nói định phiền não. Còn mạng chung kiết sinh là sinh phiền não, do vậy không nói.

Có thuyết cho: Trong chương Định Uẩn này chỉ nói về phiền não của địa căn bản. Còn mạng chung kiết sinh chỉ là trụ nơi phiền não của địa cận phần, cho nên không nói.

Những thứ khác tùy chỗ thích ứng, như trước đã nói.

Hỏi: Tịnh nơi tĩnh lự thứ hai cùng với tịnh nơi tĩnh lự thứ hai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Cùng với tịnh của tự địa làm bốn duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cùng với tất cả vô lậu nơi tĩnh lự và tĩnh lự thứ nhất, thứ ba, thứ tư cùng vị tương ưng nơi tự địa làm ba duyên là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cùng với pháp khác làm một tăng thượng duyên. Ở đây cũng như trước theo chỗ ứng hợp nên nói rộng.

Hỏi: Vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai cùng với vô lậu nơi tĩnh lự thứ hai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Cùng với tất cả vô lậu nơi tĩnh lự làm bốn duyên là nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cùng với tất cả tịnh nơi tĩnh lự làm ba duyên, trừ nhân duyên. Cùng với vô lậu nơi vô sắc làm ba duyên, trừ đẳng vô gián duyên. Cùng với pháp khác làm một tăng thượng duyên. Ở đây cũng tùy theo chỗ ứng hợp nói rộng như trước.

Từ tĩnh lự thứ ba cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ có năm, ba, một, hai lượt hỏi – đáp, nói rộng như nơi Bản luận, nên biết.

Hỏi: Như dùng đạo thế tục khi lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ tư và nhiễm nơi ba vô sắc dưới, thì hết thảy đạo vô gián đều duyên nơi địa dưới, vì sao không nói vị tương ưng, tịnh nơi tĩnh lự thứ tư và ba vô sắc dưới cùng với tịnh nơi địa trên làm sở duyên duyên?

Đáp: Đây cũng nên nói nhưng không nói nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Có thuyết cho: Trong chương Định Uẩn này chỉ nói về địa căn bản, còn chín đạo vô gián chỉ là địa cận phần, cho nên không nói.

Hỏi: Những căn vô lậu nào nơi tĩnh lự thứ ba, thứ tư cùng với tịnh, vô lậu nơi vô sắc làm đẳng vô gián?

Đáp: Chỉ là phẩm loại trí.

Hỏi: Vì sao không phải là phẩm pháp trí?

Đáp: Có thuyết nói: Phẩm pháp trí dựa nơi dưới, duyên nơi địa dưới. Nghĩa là phẩm pháp trí chỉ dựa nơi cõi dục, chỉ duyên với các hành của cõi dục cùng nhân, diệt, đạo đối trị nơi cõi dục. Còn tịnh, vô lậu nơi vô sắc thì không như vậy, nên phẩm pháp trí không phải là đẳng vô gián duyên cho pháp kia.

Có thuyết cho: Phẩm pháp trí chỉ duyên nơi cõi dục và diệt đạo của cõi ấy. Duyên nơi cõi dục và diệt đạo của cõi ấy vô gián, nếu không được tức duyên với cảnh của địa vô sắc. Vì hết sức xa, nên phẩm pháp trí không làm đẳng vô gián duyên cho vô sắc.

Có thuyết nêu: Địa vô sắc không phải là chỗ nương dựa, là đối tượng duyên và là địa của phẩm pháp trí. Nghĩa là bốn tĩnh lự tuy không phải là nơi nương dựa, là đối tượng duyên của phẩm pháp trí, nhưng là địa của phẩm pháp trí. Cõi dục tuy không phải là địa của phẩm pháp trí, nhưng là chỗ nương dựa, là đối tượng duyên của phẩm pháp trí. Các địa vô sắc không có những việc như vậy, nên không phải là vô gián khởi của phẩm pháp trí.

Hỏi: Vì sao tịnh, vô lậu nơi vô sắc chỉ duyên với đạo phẩm loại trí của địa dưới không phải là đạo phẩm pháp trí?

Đáp: Do đạo phẩm pháp trí không phải là pháp đối trị của địa kia. Hỏi: Há không phải đạo phẩm pháp trí cũng đối trị địa kia sao?

Đáp: Tuy đối trị địa kia nhưng không phải là căn bản, cũng không phải là hoàn toàn, cho nên không nói. Nghĩa là tuy địa kia là pháp đối trị do tu đạo đoạn, nhưng không phải là pháp đối trị do kiến đạo đoạn. Lại, tuy pháp trí của diệt đạo là sự đối trị địa kia, nhưng không phải là pháp trí của khổ tập.

Có thuyết nói: Phẩm loại trí là chũ đối trị của địa kia, phẩm pháp trí là khách đối trị của địa kia, cho nên không phải là đối tượng duyên.

Nhưng tịnh, vô lậu nơi tĩnh lự, vô sắc, hoặc dưới hoặc trên vô gián mà khởi. Từ dưới khởi gọi là thuận lớp thuận vượt. Từ trên khởi gọi là nghịch lớp nghịch vượt. Đồng loại khởi gọi là thuần. Khác loại khởi gọi là tạp. Địa vô gián gọi là địa kế tiếp. Hữu gián gọi là vượt. Hữu gián chỉ có thể vượt qua một địa. Đó gọi là chỗ tóm lược của Tỳ-ba-sa.

Hỏi: Đã nói về vượt định vậy gia hạnh như thế nào?

Đáp: Khi tu vượt định thì người tu định kia: Trước khởi tâm thiện của cõi dục, từ đấy không gián đoạn nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ hai hữu lậu. Tiếp theo cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ đấy trở lại nhập Vô sở hữu xứ hữu lậu. Thứ lớp cho đến trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu.

Nơi các địa này tuần hoàn tu tập khiến cho thiện được thuần thục như vương lộ, rồi lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ hai vô lậu. Thứ lớp cho đến nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Từ đấy trở lại nhập Thức vô biên xứ vô lậu. Thứ lớp cho đến trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu.

Nơi các địa này tuần hoàn tu tập khiến cho thiện được thuần thục như vương lộ, rồi lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ ba hữu lậu vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ hữu lậu. Từ Vô sở hữu xứ hữu lậu trở lại vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ ba hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu.

Nơi các địa này tuần hoàn tu tập khiến cho thiện được thuần thục như vương lộ, rồi lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập Không vô biên xứ vô lậu. Từ Không vô biên xứ vô lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Từ Vô sở hữu xứ vô lậu trở lại vượt nhập Không vô biên xứ vô lậu. Từ Không vô biên xứ vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu.

Nơi các địa này tuần hoàn tu tập khiến cho thiện được thuần thục như vương lộ. Ngang với đây là gia hạnh của vượt định đã thành mãn.

Từ đấy trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Từ Vô sở hữu xứ vô lậu trở lại vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Như vậy gọi là vượt định thành mãn.

Có sư khác nói: Khi tu vượt định, trước khởi tâm thiện của cõi dục, từ đấy không gián đoạn nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ hai hữu lậu. Thứ lớp cho đến nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ đấy trở lại nhập Vô sở hữu xứ hữu lậu. Thứ lớp cho đến trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu.

Nơi các địa này khéo thường xuyên hành tập xong lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ hai vô lậu. Thứ lớp cho đến nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Từ đấy trở lại nhập Thức vô biên xứ vô lậu. Thứ lớp cho đến trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu.

Nơi các địa này khéo luôn hành tập xong lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ hai vô lậu. Tiếp theo là nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Tiếp đến là nhập tĩnh lự thứ tư vô lậu. Kế tiếp là nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Kế tiếp là nhập Thức vô biên xứ vô lậu. Tiếp theo là nhập Vô sở hữu xứ hữu lậu. Từ đấy trở lại nhập Thức vô biên xứ vô lậu. Thứ lớp cho đến trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu.

Nơi các địa này khéo thường xuyên hành tập xong lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ hai hữu lậu. Tiếp đến là nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Kế đến là nhập tĩnh lự thứ tư hữu lậu. Tiếp theo là nhập Không vô biên xứ vô lậu. Kế là nhập Thức vô biên xứ hữu lậu. Tiếp theo là nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Kế đến là nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Từ đấy trở lại nhập Vô sở hữu xứ vô lậu.

Thứ lớp cho đến trở lại nhập tịnh nơi tĩnh lự thứ nhất vô lậu.

Nơi các dịa này khéo thường xuyên hành tập rồi lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ ba hữu lậu vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ hữu lậu. Từ Vô sở hữu xứ hữu lậu trở lại nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ ba hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu.

Nơi các địa này khéo hành tập thành quen rồi lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập Không vô biên xứ vô lậu. Từ Không vô biên xứ vô lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Từ Vô sở hữu xứ vô lậu trở lại nhập Không vô biên xứ vô lậu. Từ Không vô biên xứ vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu.

Nơi các địa này khéo hành tập thành quen, đó gọi là gia hạnh của vượt định thành mãn.

Từ đấy trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ vô lậu. Từ Vô sở hữu xứ vô lậu trở lại vượt nhập Không vô biên xứ hữu lậu. Từ Không vô biên xứ hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba vô lậu. Từ tĩnh lự thứ ba vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất hữu lậu trở lại nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Từ tĩnh lự thứ nhất vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ ba hữu lậu vượt nhập Không vô biên xứ vô lậu. Từ Không vô biên xứ vô lậu vượt nhập Vô sở hữu xứ hữu lậu. Từ Vô sở hữu xứ hữu lậu trở lại vượt nhập Không vô biên xứ vô lậu. Từ Không vô biên xứ vô lậu vượt nhập tĩnh lự thứ ba hữu lậu. Từ tĩnh lự thứ ba hữu lậu vượt nhập tĩnh lự thứ nhất vô lậu. Như vậy gọi là vượt định thành mãn.

Lại có thuyết nói: Những điều nói từ trước giờ đều là gia hạnh. Từ phần vị này về sau, tự tại, tuần hoàn vượt nhập các định, không còn trở ngại mới gọi là thành mãn. Nhưng tất không thể vượt nhập thứ tư.

Hỏi: Vì sao không thể vượt nhập thứ tư?

Đáp: Do hằng hà sa số chư Phật, Thế Tôn và đệ tử Thánh đã vượt nhập các định, pháp đều như thế, vì vậy không nên hỏi.

Có thuyết nói: Các thứ vượt định vốn nên khởi dần. Nếu từ đó vượt pháp thì chỉ vượt một, thế không thể quá. Như khi leo thang cũng nên dần leo lên. Như có người vượt cũng không thể quá hai nấc, thế không thể hơn được.

Có thuyết cho: Sau khởi lối tắt pháp đều như trước, là chỉ vượt một bậc. Nghĩa là người hàng quán, đầu tiên khi vượt định là từ năm nhập năm, từ bốn nhập bốn, số chi như nhau dễ có thể vượt nhập. Về sau cũng như vậy, cho nên không vượt hai.

Có thuyết nêu: Như sở duyên duyên nên chỉ vượt một. Nghĩa là người hành quán tác ý không niệm thì đối với sở duyên duyên chỉ có thể vượt một.

Hỏi: Thế nào là người hành quán vượt nơi đối tượng duyên?

Đáp: Người ấy do tác ý không niệm, dùng tĩnh lự thứ nhất đối với cảnh của chín địa mỗi mỗi duyên riêng. Ở đấy chỉ có thể duyên vượt một địa. Nghĩa là duyên nơi cõi dục vô gián thì có thể duyên nơi tĩnh lự thứ nhất ở trên, hoặc tĩnh lự thứ hai, không phải nơi khác.

Duyên nơi tĩnh lự thứ nhất vô gián thì có thể duyên nơi cõi dục bên dưới, duyên nơi tĩnh lự thứ hai, thứ ba ở trên, không phải nơi khác.

Duyên nơi tĩnh lự thứ hai vô gián thì có thể duyên nơi cõi dục bên dưới, hoặc tĩnh lự thứ nhất, duyên nơi tĩnh lự thứ ba hoặc thứ tư ở trên, không phải nơi khác.

Duyên nơi tĩnh lự thứ ba vô gián thì có thể duyên nơi tĩnh lự thứ nhất ở dưới, hoặc tĩnh lự thứ hai, duyên nơi tĩnh lự thứ tư ở trên hoặc Không vô biên xứ, không phải nơi khác.

Như vậy, cho đến duyên nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ không gián đoạn thì có thể duyên nơi Thức vô biên xứ bên dưới, hoặc Vô sở hữu xứ, không phải nơi khác.

Như dựa nơi định thứ nhất như vậy thì sau dựa nơi định khác tùy chỗ thích ứng đối với sở duyên duyên đều nên nói rộng.

Như không thể vượt đối tượng duyên của hai địa, thì vượt định cũng như vậy, nên không nhập thứ tư.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói tịnh giải thoát, kế tiếp là khởi năm tâm, tâm tịnh giải thoát duyên nơi cõi dục, tùy miên biến hành của tĩnh lự thứ tư có thể duyên từ trên cho đến xứ Hữu đảnh, há không thể vượt đối tượng duyên của hai địa chăng?

Đáp: Nói tâm không nhiễm không thể vượt hai. Tâm kia là nhiễm nên không trái nhau.

Hỏi: Như khổ pháp trí duyên nơi cõi dục không gián đoạn, khởi khổ loại nhẫn, cho đến duyên nơi xứ Hữu đảnh, vì sao nói tâm không nhiễm ô không thể vượt hai?

Đáp: Đó chỉ là duyên duyên, không gọi là vượt, cũng cùng duyên nơi địa khác, vì thế không nên nêu vấn nạn.

Hỏi: Xứ nào có thể vượt định?

Đáp: Ở cõi dục, không phải là ở cõi sắc và cõi vô sắc. Tại nẻo người, không phải tại nẻo khác. Tại ba châu, không phải châu Bắccâu-lô. Kẻ nam, người nữ đều có thể vượt định.

Tôn giả Tăng-già-phiệt-tô nói: Chỉ nơi châu Thiệm-bộ, chỉ người nam mới có thể vượt định. Châu khác và nữ nhân, vì nơi nương dựa yếu kém, nên không thể.

Nên nói như vầy: Châu khác và nữ nhân cũng có thể vượt định. Vì những thứ kia đối với Tam-ma-địa cũng được tự tại ý.

Hỏi: Những Bổ-đặc-già-la nào có thể vượt định?

Đáp: Là bậc Thánh, không phải là phàm phu. Là hàng vô học, không phải là hữu học. Trong hàng vô học là hạng bất thời giải thoát, không phải là hạng thời giải thoát. Nơi hạng bất thời giải thoát chủ yếu là phải có được các công đức thù thắng như nguyện trí, định biên vực v.v… sau đấy mới có thể vượt.

Hỏi: Vì sao chỉ có hạng bất thời giải thoát vô học mới có thể vượt định?

Đáp: Chính là trong sự nối tiếp không có các phiền não. Tự tại đối với định mới có thể vượt định. Trong sự nối tiếp của hàng hữu học còn có phiền não. Bậc thời giải thoát thì không được tự tại đối với định, cho nên cả hai đều không thể vượt định.

Hỏi: Những căn thiện vô gián nào có thể vượt định?

Đáp: Các thứ căn thiện vô gián như vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, các thông v.v… đều không thể vượt định. Chỉ có căn thiện vô gián như hành tướng vô thường v.v… mới có thể vượt định. Vì sao? Vì chính là căn thiện phải mạnh nhanh tăng thượng mới có thể vượt định.

HẾT – QUYỂN 165