LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 67

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ HỮU TÌNH, phần 5

Hỏi: Các người Bất hoàn đã thành tựu pháp vô lậu, pháp này thuộc về quả Bất hoàn chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về, vì nghĩa không nhất định.

Thế nào là thuộc về? Đáp: Là quả Bất hoàn hữu vi, vô vi đã được không mất.

Quả Bất hoàn hữu vi: Nghĩa là đạo loại trí v.v… hoặc đạo giải thoát thứ chín v.v… đã lìa nhiễm cõi dục và quyến thuộc của đạo đó.

Quả Bất hoàn vô vi: Nghĩa là pháp đoạn nơi ba cõi do kiến đạo đoạn và pháp đoạn nơi cõi dục do tu đạo đoạn.

Đã được: Nghĩa là tín thắng giải đã được quả Bất hoàn của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh. Kiến chí đã được quả Bất hoàn của kiến chí gồm thâu các căn, chủng tánh và đã được pháp đoạn nơi ba cõi do kiến đạo đoạn cùng pháp đoạn nơi cõi dục do tu đạo đoạn.

Không mất: Nghĩa là tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí nên không mất quả Bất hoàn của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh, hoặc không thoái mất, tức quả Bất hoàn này và pháp đoạn nơi cõi dục do tu đạo đoạn.

Thế nào là không thuộc về? Đáp: Là pháp hữu vi như căn vô lậu v.v… nơi đạo thắng tấn do các người Bất hoàn đã được và các người Bất hoàn đã chứng đắc các kiết dứt hết cùng đã thành tựu phi trạch diệt.

Các người Bất hoàn đã được pháp hữu vi như căn vô lậu v.v… nơi đạo thắng tấn: Nghĩa là lìa nhiễm nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nơi các đạo gia hạnh, đạo vô gián và đạo giải thoát, đạo thắng tấn hữu học, các pháp vô lậu như thế, người Bất hoàn tuy đã thành tựu nhưng không thuộc về quả Bất hoàn, do đạo quả thù thắng không thuộc về quả.

Và các người Bất hoàn đã chứng đắc các kiết dứt hết: Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất cho đến Vô sở hữu xứ, đều có pháp đoạn của chín phẩm do tu đạo đoạn và pháp đoạn tám phẩm trước của Phi tưởng phi phi tưởng xứ do tu đạo đoạn, là đoạn do đạo quả thù thắng đã chứng, như đạo quả thù thắng không phải thuộc về quả này.

Cùng người Bất hoàn đã thành tựu phi trạch diệt: Nghĩa là người Bất hoàn đối với ba cõi và pháp vô lậu đạt được phi trạch diệt. Họ tuy đã thành tựu phi trạch diệt, nhưng phi trạch diệt ấy không phải thuộc về quả Bất hoàn. Vì sao? Vì phi trạch diệt là vô ký, còn quả Bất hoàn là thiện.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Bất hoàn, pháp ấy là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy. Nghĩa là quả Bất hoàn hữu vi, vô vi đều cùng là vô lậu.

Hỏi: Các A-la-hán đã thành tựu pháp vô lậu, pháp này thuộc về quả A-la-hán chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về, vì nghĩa không nhất định.

Thế nào là thuộc về? Đáp: Là quả A-la-hán hữu vi, vô vi đã được, không mất.

Quả A-la-hán hữu vi: Nghĩa là tận trí, vô sinh trí, chánh kiến vô học và quyến thuộc của các trí kiến kia.

Quả A-la-hán vô vi: Nghĩa là pháp đoạn nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Đã được: Nghĩa là Thời giải thoát đã được quả A-la-hán của thời giải thoát gồm thâu các căn, chủng tánh. Bất thời giải thoát đã được quả A-la-hán của bất thời giải thoát gồm thâu các căn chủng tánh. Và đã được pháp đoạn nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Không mất: Nghĩa là Thời giải thoát không chuyển căn tạo Bất thời giải thoát, nên không mất quả A-la-hán của thời giải thoát gồm thâu các căn, chủng tánh, hoặc không thoái mất, tức quả A-la-hán này và pháp đoạn nơi ba cõi do tu đạo đoạn.

Thế nào là không thuộc về? Đáp: Là A-la-hán đã thành tựu phi trạch diệt. Nghĩa là A-la-hán đối với ba cõi và pháp vô lậu đã được phi trạch diệt. A-la-hán kia tuy đã thành tựu phi trạch diệt, nhưng phi trạch diệt ấy không phải thuộc về quả A-la-hán. Vì sao? Vì phi trạch diệt là vô ký, còn quả A-la-hán là thiện.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp ấy là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy. Nghĩa là quả A-la-hán hữu vi, vô vi đều cùng là vô lậu.

*

Hỏi: Các pháp do người Dự lưu đã thành tựu, pháp này gồm thâu quả Dự lưu chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp. Quả thành tựu này gồm thâu cùng có rộng, hẹp:

1. Có pháp do người Dự lưu đã thành tựu không phải gồm thâu quả Dự lưu: Nghĩa là người Dự lưu đã đạt được pháp hữu vi như căn vô lậu v.v… nơi đạo thắng tấn, và người Dự lưu kia đã chứng đắc các kiết dứt hết, cùng người Dự lưu đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

Trong đây có bốn pháp: Ba pháp trước như trước đã nói.

Người Dự lưu đã thành tựu pháp hữu lậu gồm có ba thứ: thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký. Thiện lại có hai, nghĩa là thiện gia hạnh và thiện sinh đắc. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do tu đạo đoạn. Vô phú vô ký, nghĩa là đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh.

Các pháp như thế, người Dự lưu đã thành tựu nhưng không phải gồm thâu quả Dự lưu, vì quả chỉ là vô lậu, còn pháp này là hữu lậu.

2. Có pháp gồm thâu quả Dự lưu không phải do người Dự lưu đã thành tựu: Nghĩa là quả Dự lưu chưa được đã mất.

Chưa được: Tức là tín thắng giải chưa được quả Dự lưu của kiến chí gồm thâu các căn, chủng tánh, và kiến chí không được quả Dư lưu của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh.

Đã mất: Tức là tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí nên mất quả Dự lưu của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh, hoặc có thoái mất.

3. Có pháp do người Dự lưu đã thành tựu cũng gồm thâu quả Dự lưu: Nghĩa là quả Dự lưu đã được không mất. Nên biết trong trường hợp này về nghĩa như trước đã nói.

4. Có pháp không phải do người Dự lưu đã thành tựu cũng không phải gồm thâu quả Dự lưu: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Ở đây, tiếng tướng tức tên gọi được biểu hiện: Nghĩa là nếu pháp đã nêu, đã nói, gọi là được biểu hiện, tức tạo ra ba trường hợp trước, ở đây là loại trừ. Nếu pháp chưa nêu, chưa nói, gọi là được biểu hiện, là tạo ra trường hợp thứ tư.

Sự việc này lại là thế nào? Nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

Thiện có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là người Dự lưu đã không thành tựu thiện gia hạnh, lìa nhiễm sinh đắc. Thiện vô lậu, nghĩa là người Dự lưu đã không thành tựu tất cả Thánh đạo của phần vị trên, phần vị dưới, cùng chưa được trạch diệt của phần vị trên.

Nhiễm ô: Nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến đạo đoạn cùng người Dự lưu đã dứt trừ pháp nhiễm của cõi dục do tu đạo đoạn.

Vô phú vô ký: Nghĩa là người Dự lưu đã không thành tựu đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và tất cả tâm biến hóa v.v… Các pháp như thế là trường hợp thứ tư.

Hỏi: Các pháp do người Nhất lai đã thành tựu, pháp này gồm thâu quả Nhất lai chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp. Quả thành tựu này gồm thâu cùng có rộng, hẹp:

5. Có pháp do người Nhất lai đã thành tựu không phải gồm thâu quả Nhất lai: Nghĩa là người Nhất lai đã đạt được pháp hữu vi như căn vô lậu v.v… nơi đạo thắng tấn, và người Nhất lai kia đã chứng đắc các kiết dứt hết, cùng đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

Trong đây có bốn pháp: Ba pháp trước như trước đã nói.

Người Nhất lai đã thành tựu pháp hữu lậu gồm có ba thứ: thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký. Thiện lại có hai, nghĩa là thiện gia hạnh và thiện sinh đắc. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm nơi ba phẩm sau của cõi dục do tu đạo đoạn, cùng pháp nhiễm nơi cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn. Vô phú vô ký, nghĩa là đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh.

Các pháp như thế, người Nhất lai đã thành tựu nhưng không phải gồm thâu quả Nhất lai, vì quả chỉ là vô lậu, còn pháp này là hữu lậu.

6. Có pháp gồm thâu quả Nhất lai không phải do người Nhất lai đã thành tựu: Nghĩa là quả Nhất lai chưa được đã mất.

Chưa được: Tức là tín thắng giải chưa được quả Nhất lai của kiến chí gồm thâu các căn, chủng tánh, và kiến chí không được quả Nhất lai của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh.

Đã mất: Tức là tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí nên mất quả Nhất lai của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh, hoặc có thoái mất.

7. Có pháp do người Nhất lai đã thành tựu cũng gồm thâu quả Nhất lai: Nghĩa là quả Nhất lai đã được không mất. Nên biết trong trường hợp này về nghĩa như trước đã nói.

8. Có pháp không phải do người Nhất lai đã thành tựu cũng không phải gồm thâu quả Nhất lai: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Trong đây, tiếng tướng tức tên gọi được biểu hiện: Nghĩa là nếu pháp đã nêu, đã nói, gọi là được biểu hiện, tức tạo ra ba trường hợp trước, ở đây là loại trừ. Nếu pháp chưa nêu, chưa nói, gọi là được biểu hiện, là tạo ra trường hợp thứ tư.

Sự việc này lại là thế nào? Nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

Thiện có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, tức là người Nhất lai đã không thành tựu thiện gia hạnh, lìa nhiễm sinh đắc. Thiện vô lậu, tức là người Nhất lai đã không thành tựu tất cả Thánh đạo của phần vị trên, phần vị dưới, cùng chưa được trạch diệt của phần vị trên.

Nhiễm ô: Nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến đạo đoạn và người Nhất lai đã đoạn pháp nhiễm của cõi dục do tu đạo đoạn.

Vô phú vô ký: Nghĩa là người Nhất lai đã không thành tựu đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và tất cả tâm biến hóa v.v…

Các pháp như thế là trường hợp thứ tư.

Hỏi: Các pháp do người Bất hoàn đã thành tựu, pháp này gồm thâu quả Bất hoàn chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp. Quả thành tựu này gồm thâu cùng có rộng hẹp:

9. Có pháp do người Bất hoàn đã thành tựu không phải gồm thâu quả Bất hoàn: Nghĩa là người Bất hoàn đã được pháp hữu vi như căn vô lậu nơi đạo thắng tấn, và người Bất hoàn kia đã chứng đắc các kiết dứt hết, cùng đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

Trong đây có bốn pháp: Ba pháp trước như trước đã nói.

Người Bất hoàn đã thành tựu pháp hữu lậu gồm có ba thứ: thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký. Thiện lại có ba, nghĩa là thiện gia hạnh, lìa nhiễm, sinh đắc. Nhiễm ô, nghĩa là pháp nhiễm của cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn. Vô phú vô ký, nghĩa là đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và tâm biến hóa v.v…

Các pháp như thế, người Bất hoàn đã thành tựu nhưng không phải gồm thâu quả Bất hoàn, vì quả chỉ là vô lậu, còn pháp này là hữu lậu.

10. Có pháp gồm thâu quả Bất hoàn không phải do người Bất hoàn đã thành tựu: Nghĩa là quả Bất hoàn chưa được đã mất.

Chưa được: Nghĩa là tín thắng giải chưa được quả Bất hoàn của kiến chí gồm thâu các căn, chủng tánh, và kiến chí không được quả Bất hoàn của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh.

Đã mất: Nghĩa là tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí nên mất quả Bất hoàn của tín thắng giải gồm thâu các căn, chủng tánh, hoặc có thoái mất.

11. Có pháp do người Bất hoàn đã thành tựu cũng gồm thâu quả Bất hoàn: Nghĩa là quả Bất hoàn đã được không mất. Nên biết trong trường hợp này về nghĩa như trước đã nói.

12. Có pháp không phải do người Bất hoàn đã thành tựu cũng không phải gồm thâu quả Bất hoàn: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Trong đây, tiếng tướng tức tên gọi được biểu hiện: Nghĩa là nếu pháp đã nêu, đã nói, gọi là được biểu hiện, tức tạo ra ba trường hợp trước, ở đây là loại trừ. Nếu pháp chưa nêu, chưa nói, gọi là được biểu hiện, là tạo ra trường hợp thứ tư.

Sự việc này lại là thế nào? Nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

Thiện có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là người Bất hoàn đã không thành tựu thiện gia hạnh, lìa nhiễm, sinh đắc. Thiện vô lậu, nghĩa là người Bất hoàn đã không thành tựu tất cả Thánh đạo của phần vị trên, phần vị dưới, cùng chưa được trạch diệt của phần vị trên.

Nhiễm ô: Nghĩa là pháp nhiễm của ba cõi do kiến đạo đoạn cùng pháp nhiễm của cõi dục do tu đạo đoạn.

Vô phú vô ký: Nghĩa là người Bất hoàn đã không thành tựu đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và tất cả tâm biến hóa v.v… Các pháp như thế là trường hợp thứ tư.

Hỏi: Các pháp do bậc A-la-hán đã thành tựu, pháp này gồm thâu quả A-la-hán chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp. Quả thành tựu này gồm thâu cùng có rộng, hẹp:

13. Có pháp do bậc A-la-hán đã thành tựu không phải gồm thâu quả A-la-hán: Nghĩa là A-la-hán đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

A-la-hán đã thành tựu phi trạch diệt: Như trước đã nói rộng. Pháp hữu lậu do A-la-hán đã thành tựu gồm có hai thứ: thiện và vô phú vô ký. Thiện có ba thứ, nghĩa là thiện gia hạnh, lìa nhiễm và sinh đắc. Vô phú vô ký, nghĩa là đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và tâm biến hóa v.v…

Các pháp như thế, A-la-hán đã thành tựu nhưng không phải gồm thâu quả A-la-hán, vì quả chỉ là vô lậu, còn pháp này là hữu lậu.

14. Có pháp gồm thâu quả A-la-hán không phải do bậc A-la-hán đã thành tựu: Nghĩa là quả A-la-hán chưa được, đã mất.

Chưa được: Nghĩa là Thời giải thoát chưa được quả A-la-hán của bất thời giải thoát gồm thâu các căn, chủng tánh, và Bất thời giải thoát chưa được quả A-la-hán của thời giải thoát gồm thâu các căn, chủng tánh.

Đã mất: Nghĩa là Thời giải thoát chuyển căn tạo ra bất thời giải thoát nên mất quả A-la-hán của thời giải thoát gồm thâu các căn, chủng tánh, hoặc có thoái mất.

15. Có pháp do bậc A-la-hán đã thành tựu cũng gồm thâu quả A-la-hán: Nghĩa là quả A-la-hán đã được không mất. Nên biết trong trường hợp này về nghĩa như trước đã nói.

16. Có pháp không phải do bậc A-la-hán đã thành tựu cũng không phải gồm thâu quả A-la-hán: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Trong đây, tiếng tướng tức tên gọi được biểu hiện. Nghĩa là nếu pháp đã nêu, đã nói, gọi là được biểu hiện, tức tạo ra ba trường hợp trước, ở đây là loại trừ. Nếu pháp chưa nêu, chưa nói, gọi là được biểu hiện, là tạo ra trường hợp thứ tư.

Sự việc này lại là thế nào? Nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô phú vô ký.

Thiện có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu, nghĩa là

A-la-hán đã không thành tựu thiện gia hạnh, lìa nhiễm, sinh đắc. Thiện vô lậu, nghĩa là các pháp học.

Nhiễm ô: Nghĩa là pháp nhiễm nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn.

Vô phú vô ký: Nghĩa là A-la-hán đã không thành tựu đường oai nghi, xứ công xảo, dị thục sinh và tâm biến hóa v.v… Các pháp như thế là trường hợp thứ tư.

*

Hỏi: Tín thắng giải có phải là chuyển căn tạo kiến chí không? Giả nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều cùng có lỗi. Vì sao? Vì nếu tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí, thì trong chương Căn Uẩn ở sau vì sao không nói? Như nơi chương kia nói: Nếu bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, thì căn vô lậu kia đều từ quả đến quả chăng? Đáp: Nếu từ quả đến quả thì tín thắng giải kia đều bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu. Có khi bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, không phải từ quả đến quả. Nghĩa là hiện quán biên, khi đạo loại trí hiện tiền và khi A-lahán thời giải thoát luyện căn, tạo ra bất động, ở đây Luận sư của Bản luận đâu có mệt nhọc gì mà không nói là tín thắng giải khi luyện căn tạo kiến chí?

Nếu tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí thì trong đây đã nói làm sao thông? Như nói: Có pháp gồm thâu quả Dự lưu không phải là người Dự lưu đã thành tựu, nghĩa là quả Dự lưu chưa được đã mất.

Nếu tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí, thì vì sao quả Dự lưu có được rồi mà mất? Nơi phần Trí Uẩn ở sau nói làm sao thông? Như nói: Người Dự lưu đối với ba Tam-ma-địa vị lai đều thành tựu quá khứ. Nếu đã diệt không mất tức thành tựu hiện tại, nếu hiện ở trước tức là thành tựu.

Nếu tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí, thì vì sao người Dự lưu lại có Tam-ma địa đã diệt mà mất? Vì để phân biệt sự việc đó, nên nói có “Đã diệt mà không mất” chăng? Vậy như thuyết của Luận Thức Thân làm sao thông? Như Luận kia nói: Có tâm vô học quá khứ là đã hiểu rõ, không phải nay hiểu rõ, không phải sẽ hiểu rõ. Nghĩa là A-la-hán thời giải thoát thoái chuyển quả A-la-hán tạo ra tín thắng giải. A-la-hán thời giải thoát kia luyện căn tạo kiến chí xong, trở lại được quả A-la-hán. Tâm vô học thuộc về đạo của A-la-hán thời giải thoát kia là đã thành tựu, không phải hiện nay đang thành tựu, không phải sẽ thành tựu. Đối với sự thành tựu của A-lahán thời giải thoát kia, thiết lập tiếng liễu là đã liễu nghĩa, là đã thành tựu, không phải hiện nay liễu, không phải hiện nay đang thành tựu, không phải sẽ liễu, không phải sẽ thành tựu.

Nếu tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí, làm sao thuyết kia nói A-la-hán thời giải thoát thoái chuyển quả A-la-hán tạo ra tín thắng giải? Luyện căn tạo kiến chí xong, trở lại được quả A-la-hán?

Đáp: Nên nói như thế này: Có tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí.

Hỏi: Nếu vậy thì khéo thông suốt về vấn nạn sau, nhưng trong phần Căn Uẩn ở sau vì sao không nói?

Đáp: Trong phần Căn Uẩn sau nên nói như vầy: Có khi bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, không phải từ quả đến quả. Nghĩa là khi hiện quán biên, đạo loại trí hiện tiền, tín thắng giải lúc luyện căn tạo kiến chí, khi pháp thoái chuyển cùng luyện căn tạo ra pháp như tư v.v… và khi thời giải thoát luyện căn tạo ra bất động, nhưng không nói như thế là có ý nghĩa riêng. Tức nơi phần Luận kia nêu dẫn về chỗ bắt đầu và chỗ sau cùng, vì trong ảnh hiển nên nói khi hiện quán biên, đạo loại trí hiện tiền, tức là nêu dẫn về chỗ bắt đầu. Khi nói thời giải thoát luyện căn tạo bất động là nêu dẫn về chỗ sau cùng. Do nêu dẫn về chỗ bắt đầu và sau cùng, nên ảnh hiển lúc ở khoảng giữa có tín thắng giải, luyện căn, tạo kiến chí. Nếu trong phần vị học không có nghĩa luyện căn, thì đến quả vị vô học cũng nên như thế. Như trong phần vị học, không có sự cứu hộ, không có uy lực, thì trong quả vị vô học cũng nên như thế. Do đó cũng bày rõ có chuyển căn như pháp thoái chuyển v.v… tạo ra pháp như tư v.v… Như nêu dẫn về chỗ bắt đầu, sau cùng, như thế nêu dẫn nhập ban đầu xong, vượt qua gia hạnh cứu cánh, nên biết cũng như vậy.

Tôn giả Tăng Già Phiệt Tô nói: Tín thắng giải luyện căn, tạo nên kiến chí, tức gồm thâu ở trong phần Căn Uẩn đã nói, tức là gồm thâu từ quả đến quả. Nghĩa là người Dự lưu tu tập luyện căn nơi đạo gia hạnh xong, hướng tới quả Nhất lai. Nếu được quả Nhất lai, tức gọi là chuyển căn, là khi đắc quả cùng với chuyển căn không có sai biệt. Nếu người Nhất lai tu tập luyện căn nơi đạo gia hạnh xong, hướng tới quả Bất hoàn. Nếu được quả Bất hoàn tức gọi là chuyển căn, là lúc được quả cùng với chuyển căn không có sai biệt. Hỏi: Vì sao không có nói được quả Dự lưu, quả A-la-hán, gọi là luyện căn? Người kia đưa ra câu giải đáp: Vượt qua cõi dục, là từ vô thủy đến nay, thường thường là theo pháp cũ xưa, không có một hữu tình đối với nhiễm của cõi dục mà chưa từng lìa. Do đấy, có được người mong cầu chuyển căn, vì lìa nhiễm gấp bội lìa nhiễm hoàn toàn nơi cõi dục, nên khi được hai quả cũng tức là chuyển căn. Vượt khỏi xứ Hữu đảnh, từ vô thỉ đến nay không phải là luôn luôn theo pháp xưa cũ, vì không có một hữu tình nào đối với nhiễm nơi xứ Hữu đảnh từng đã lìa. Vì thế, không có người mong cầu chuyển căn, nên lìa một phần nhiễm, toàn phần nhiễm nơi xứ Hữu đảnh, khi được hai quả cũng tức là chuyển căn.

Hỏi: Như ông đã nói: Luyện căn của phần vị học, tiến tới được hai quả, tức là gồm thâu từ quả đến quả, nên không nói riêng. Còn trong quả vị vô học có sáu thứ tánh, chuyển pháp thoái tạo pháp tư, cho đến khi chuyển an trụ tạo gắng đạt. Vì sao trong phần Căn Uẩn ở sau không nói, chỉ nói thời giải thoát luyện căn tạo bất động?

Người kia đưa ra lời đáp này: Vấn đề này cũng gồm thâu trong phần Căn Uẩn đã nói. Vì sao? Vì khi chuyển pháp thoái tạo ra pháp tư, không bỏ căn của pháp thoái mà được căn của pháp tư, cho đến khi chuyển an trụ thành gắng sức thấu đạt, không bỏ bốn căn trước mà được căn gắng đạt. Nếu khi chuyển gắng đạt tạo bất động, là bỏ ngay tức khắc năm căn trước được căn bất động, nên phần Luận kia chỉ nói đến khi thời giải thoát luyện căn tạo ra căn bất động, là bỏ căn vô lậu được căn vô lậu, không phải từ quả đến quả, không nói là chuyển pháp thoái v.v… tạo nên pháp tư v.v…

Lời bình: Người kia không nên tạo ra thuyết ấy. Vì sao? Vì hãy còn không có một lần thành tựu hai căn, huống chi là có thành tựu căn của năm phẩm. Lại, người Bất hoàn tu tập luyện căn nơi đạo gia hạnh xong, tuy không thể được quả A-la-hán, vì sao không thể chuyển tạo kiến chí? Các chúng phàm phu tuy không được quả, nhưng có chuyển căn. Do duyên nào Thánh giả khi lìa quả đã được, không có nghĩa chuyển căn, vì gia hạnh, lìa nhiễm, chuyển căn đều riêng, làm sao khi lìa nhiễm được hai quả, cũng tức là chuyển căn. Nên phần Căn Uẩn ở sau chỉ nêu dẫn chỗ bắt đầu, sau cùng trong ảnh hiển không nói tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí, cũng không nói là luyện căn nơi pháp thoái v.v… tạo ra pháp như tư v.v…

Có Sư khác nói: Không có tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí.

Hỏi: Nếu như vậy là khéo thông suốt nơi phần Căn Uẩn đã nói, còn như ở đây đã nói làm sao thông? Như nói: Có quả Dự lưu chưa được đã mất. Nếu tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí, làm sao quả Dự lưu có được rồi mà mất?

Ở đây, người kia tạo ra thuyết này: Không thành tựu đắc của quá khứ, vị lai.

Có thuyết cho: Có thành tựu đắc của quá khứ, vị lai.

Nên tạo ra thuyết này: Không thành tựu đắc của quá khứ, vị lai. Phần kia nói đắc của quả Dự lưu, ở vị lai gọi là chưa được, ở quá khứ gọi là đã mất, ở hiện tại gọi là thành tựu.

Hoặc tạo ra thuyết này: Có thành tựu đắc của quá khứ, vị lai, tức thuyết kia nói quả Dự lưu có ba thứ: hạ, trung, thượng.

Nếu khi đầu tiên trụ nơi quả Dự lưu phẩm hạ, đối với quả Dự lưu trung, thượng, gọi là chưa được, đối với quả Dự lưu phẩm hạ gọi là thành tựu, không nên nói là đã mất, vì không có cái đã mất.

Nếu khi đầu tiên trụ nơi quả Dự lưu phẩm trung, đối với quả Dự lưu phẩm thượng gọi là chưa được, còn đối với quả Dự lưu phẩm hạ gọi là đã mất, đối với quả Dự lưu phẩm trung gọi là thành tựu.

Nếu khi đầu tiên trụ nơi quả Dự lưu phẩm thượng, đối với quả Dự lưu trung, hạ gọi là đã mất, đối với quả Dự lưu phẩm thượng gọi là thành tựu, không nên nói là chưa được, vì không có cái chưa được.

Hỏi: Nếu đầu tiên trụ nơi quả Dự lưu phẩm trung, đối với phẩm hạ là chưa được. Nếu đầu tiên trụ nơi quả Dự lưu phẩm thượng, đối với phẩm trung, hạ, đều cùng là chưa được, sao lại nói là đã mất?

Người kia nêu ra lời đáp này: Vì vượt quá quả vị kia nên nói là đã mất. Nghĩa là người ấy lúc trước đã có nghĩa có thể được. Nay đến quả vị vượt hơn, đã vượt qua quả vị kia, lại không thể được, nên gọi là đã mất.

Do nghĩa lý ấy, nên tuy tín thắng giải không có chuyển căn tạo kiến chí, nhưng được nói là quả Dự lưu có nghĩa chưa được đã mất.

Nơi phần Trí Uẩn ở sau nói làm sao thông? Như nói: Người Dự lưu đối với ba tam ma vị lai đều thành tựu quá khứ. Nếu đã diệt không mất, tức thành tựu hiện tại, vì nếu hiện tiền tức là thành tựu.

Nếu tín thắng giải không chuyển căn tạo kiến chí thì vì sao người Dự Lưu lại có ba Tam-ma-địa đã diệt mà mất? Vì phân biệt với nghĩa kia, nên nói: “Có đã diệt mà không mất” chăng?

Người kia đáp thế này: Trong phần Trí Uẩn ở sau nên nói như vầy: Người Dự lưu đối với ba Tam-ma địa vị lai đều sẽ thành tựu, quá khứ đã diệt tức là thành tựu, không nên nói không mất. Nhưng nói không mất thì đây là chỗ nhầm lẫn của người làm tụng.

Còn như nơi Luận Thức Thân nói làm sao thông? Như Luận kia nói: A-la-hán thời giải thoát thoái chuyển quả A-la-hán tạo tín thắng giải luyện căn tạo kiến chí xong trở lại được quả A-la-hán?

Người kia đáp: Tôi không thể thông suốt vì văn của Luận Thức Thân là hết sức sáng rõ.

Lời bình: Đã không thể thông suốt nơi thuyết của Luận Thức Thân, lại đối với văn của Luận nơi phần Trí Uẩn ở trước đã tổn giảm, tuy thông suốt văn ấy, nhưng cũng không hợp lý, nên phải tin nhận là có tín thắng giải có thể chuyển căn tạo kiến chí. Nếu là phần vị hữu học thì không thể chuyển căn. Trong quả vị vô học cũng nên không chuyển như nơi phần vị hữu học, không có sự biện hộ giúp, cũng không có uy lực, tức trong quả vị vô học cũng nên như thế. Do đó, Tôn giả Phật Hộ tạo ra thuyết: Tín thắng giải chuyển căn tạo kiến chí có sáu sự không chung: 1. Ở cõi dục, không ở cõi sắc, cõi vô sắc. 2. Dựa vào tĩnh lự, không dựa vào định vô sắc. 3. Dùng đạo vô lậu, không dùng đạo thế tục. 4. Dùng pháp trí, không dùng loại trí. 5. Là đã thoái chuyển, không phải chưa thoái chuyển. 6. Trụ ở quả, không phải trụ nơi đạo quả thù thắng.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia cho là ở cõi dục, không ở cõi sắc, cõi vô sắc?

Vị ấy đáp: Do diệu lực của sự việc thuyết pháp mới có thể chuyển căn, tức chỉ trong cõi dục mới có thuyết giảng.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia cho là dựa nơi tĩnh lự, không dựa vào định vô sắc?

Vị ấy đáp: Do quả vị học luyện căn chủ yếu là dựa vào địa để đắc quả, không dựa vào định vô sắc để được quả học. Thế nên học chuyển căn không dựa nơi vô sắc.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia cho là dùng đạo vô lậu, không dùng đạo thế tục?

Vị ấy đáp: Chủ yếu là do đạo mạnh mẽ, nhạy bén mới có thể chuyển căn, vì đạo thế tục là chậm kém nên không dùng.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia chỉ dùng pháp trí, không dùng loại trí?

Vị ấy đáp: Vì chủ yếu là sinh nơi cõi dục mới có thể chuyển căn, vì chỉ ở cõi dục pháp trí được tự tại, nên không dùng loại trí để chuyển căn.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia nói là đã thoái chuyển, không phải là chưa thoái chuyển?

Vị ấy đáp: Người thoái chuyển vì nhàm chán tai họa mới mong cầu luyện căn. Chủ yếu là ở người đã từng thoái chuyển rồi mới có sự nhàm chán tai họa, nên người chưa thoái chuyển không có nghĩa chuyển căn.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia nói trụ ở quả, không phải trụ nơi đạo quả thù thắng?

Vị ấy đáp: Nếu trụ ở đạo quả thù thắng mà luyện căn, tức khi luyện căn phải bỏ nhiều đạo, được ít đạo và người kia nên gọi là thoái chuyển, không gọi là tiến lên, tức chỉ trụ nơi quả mới có nghĩa chuyển căn, do khi luyện căn chỉ được quả.

Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Khi quả vị học chuyển căn, đối với sáu sự kia, ba sự hợp lý, ba sự thì không thể. Nghĩa là Tôn giả kia đã nói: Vị học chuyển căn ở cõi dục, không phải ở cõi sắc, vô sắc. Sự việc này hợp lý, vì chỉ ở cõi dục mới có nghĩa chuyển căn.

Lại, Tôn giả kia nói: Dựa vào tĩnh lự, không dựa vào định vô sắc. Sự việc này cũng hợp lý, vì chỉ căn cứ vào tĩnh lự mới được quả học.

Lại, Tôn giả Phật Hộ cho là dùng đạo vô lậu, không dùng đạo thế tục. Sự việc này cũng hợp lý, vì quả vị học luyện căn như kiến đạo. Nhưng Tôn giả ấy cho là dùng pháp trí, không dùng loại trí, sự việc này thì không thể. Vì sao? Vì nghĩa không nhất định. Tức là sinh nơi cõi dục, hoặc có người đối với Pháp trí được tự tại, không phải là Loại trí. Hoặc có người đối với Loại trí được tự tại, không phải là Pháp trí.

Lại, Tôn giả kia đã nói: Là người đã thoái chuyển, không phải người chưa thoái chuyển, sự việc này cũng không thể. Vì sao? Vì nghĩa không nhất định. Tức là hoặc đã thoái chuyển, hoặc lại chưa thoái chuyển, nhưng vì sợ hãi mà thoái chuyển, hoặc vì mong cầu căn vượt hơn mà luyện căn.

Lại, Tôn giả kia nói: Người ấy trụ nơi quả, không phải trụ nơi đạo quả thù thắng. Sự việc này cũng không thể. Vì sao? Vì nghĩa không nhất định. Tức là người học luyện căn, hoặc trụ nơi quả vị, hoặc trụ nơi đạo quả thù thắng để mong cầu được căn nhạy bén, hoặc vì sợ hãi nên thoái chuyển.

Hỏi: Nếu trụ nơi đạo quả thù thắng để chuyển căn, sẽ bỏ nhiều đạo, đạt được ít đạo, há không phải là thoái chuyển sao?

Đáp: Người kia vì mong cầu căn nhạy bén, không cầu nhiều đạo, nên không có lỗi. Như đem nhiều đồng, sắt để đổi lấy một ít vàng, bạc, đâu gọi là mất lợi?

Hỏi: Ở trong cõi dục, xứ nào chuyển căn? Vì chỉ trong loài người hay cũng ở trên trời?

Đáp: Vì chỉ ở trong loài người thọ nhận giáo pháp thù thắng, lại vì sợ thoái chuyển.

Hỏi: Người trong bốn châu, xứ nào chuyển căn?

Đáp: Tôn giả Lũ-sa-phiệt-ma nói: Chỉ nơi châu Thiệm bộ có nghĩa chuyển căn, vì người nơi châu Thiệm bộ có căn mạnh mẽ, nhạy bén.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Người trong ba châu đều được chuyển căn, trừ châu Bắc-câu-lô, vì không có đức vượt hơn.

Hỏi: Vì dựa vào thân nam có nghĩa chuyển căn hay là cũng dựa vào thân nữ?

Đáp: Có thuyết nói: Chỉ dựa vào thân nam là có nghĩa chuyển căn, vì công đức của thân nam hơn người nữ.

Lời bình: Nên nói như vầy: Các người chuyển căn cũng dựa vào thân nam, cũng dựa vào thân nữ, vì dựa vào thân nữ cũng có thể phát khởi công đức vượt hơn.

Hỏi: Nương dựa theo địa nào, trước được quả học, sau tức căn cứ ở quả học đó để chuyển căn?

Đáp: Có thuyết nói: Tức dựa vào người học kia chuyển căn, cũng có dựa vào địa khác, nhưng là hơn không phải là kém. Nghĩa là hai quả đầu, căn cứ vào định vị chí, được quả chuyển căn, không dựa vào địa khác. Nếu quả Bất hoàn thì dựa vào địa kia mà được, tức dựa vào địa ấy, sau thì chuyển căn. Hoặc dựa vào địa khác nhưng là thù thắng, không phải là yếu kém. Các người Bất hoàn rất ít thành tựu quả của ba địa, chỉ thành tựu nhiều quả của sáu địa. Tức về thứ lớp là lìa nhiễm nơi cõi dục, nơi đạo giải thoát thứ chín lúc hiện hữu, người Bất hoàn kia thành tựu quả Bất hoàn của ba địa, tức định vị chí, tĩnh lự thứ nhất và tĩnh lự trung gian.

Nếu người đã lìa nhiễm cõi dục, tức dựa vào ba địa này nhập chánh tánh ly sinh, đạo loại trí kia bấy giờ cũng tức thành tựu quả Bất hoàn của ba địa này. Nếu người dựa vào tĩnh lự thứ hai nhập chánh tánh ly sinh, lúc này đạo loại trí kia thành tựu quả Bất hoàn của bốn địa, nghĩa là ba địa trước và tĩnh lự thứ hai. Nếu người dựa vào tĩnh lự thứ ba nhập chánh tánh ly sinh, khi ấy đạo loại trí kia đã thành tựu quả Bất hoàn của năm địa, nghĩa là bốn địa trước và tĩnh lự thứ ba. Nếu người dựa vào tĩnh lự thứ tư nhập chánh tánh ly sinh, khi đó đạo loại trí kia đã thành tựu quả Bất hoàn của sáu địa, nghĩa là năm địa trước và tĩnh lự thứ tư.

Dựa vào ba địa đầu được quả Bất hoàn rồi, tức căn cứ ở ba địa này để chuyển căn. Nghĩa là người Bất hoàn bỏ quả Bất hoàn của ba địa, được quả Bất hoàn của ba địa. Tức người Bất hoàn nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của ba địa, được quả Bất hoàn của bốn địa. Tức người Bất hoàn nếu dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của ba địa, được quả Bất hoàn của năm địa. Tức người Bất hoàn nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của ba địa, được quả Bất hoàn của sáu địa.

Nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai được quả Bất hoàn rồi, tức là dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người Bất hoàn ấy bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, được quả Bất hoàn của bốn địa. Nếu người Bất hoàn kia dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, được quả Bất hoàn của năm địa. Nếu người Bất hoàn dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, được quả Bất hoàn của sáu địa.

Nếu dựa vào tĩnh lự thứ ba được quả Bất hoàn rồi, tức là dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ quả Bất hoàn của năm địa, được quả Bất hoàn của năm địa. Nếu người Bất hoàn kia dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của năm địa, được quả Bất hoàn của sáu địa.

Nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư được quả Bất hoàn rồi, tức là dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, được quả Bất hoàn của sáu địa, không dựa vào địa trên để được quả Bất hoàn. Về sau, dựa vào địa dưới để chuyển căn. Vì sao? Vì chớ bỏ nhiều đạo để được ít đạo, nên gọi là tổn giảm, không gọi là tăng ích.

Hoặc có thuyết cho: Có người trước dựa vào địa trên được quả Bất hoàn, sau dựa vào địa dưới để chuyển căn. Người kia nói thế này: Dựa vào tĩnh lự thứ tư được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, được quả Bất hoàn của năm địa. Người Bất hoàn kia nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, được quả Bất hoàn của bốn địa. Nếu người Bất hoàn kia dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn bỏ quả Bất hoàn của sáu địa, được quả Bất hoàn của ba địa.

Dựa vào tĩnh lự thứ ba được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ quả Bất hoàn của năm địa, được quả Bất hoàn của bốn địa. Người Bất hoàn kia nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người ấy bỏ quả Bất hoàn của năm địa, được quả Bất hoàn của ba địa.

Dựa vào tĩnh lự thứ hai được quả Bất hoàn rồi, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ quả Bất hoàn của bốn địa, được quả Bất hoàn của ba địa.

Trong đây chỉ nói khác với trước, nghĩa là dựa vào địa trên của mình để chuyển căn thì bỏ, được, nhiều ít như trước, nên biết.

Hỏi: Nếu trước dựa vào địa trên được quả Bất hoàn, sau dựa vào địa dưới để chuyển căn, nghĩa là đã bỏ nhiều đạo, được ít đạo, nên gọi là tổn giảm, há là tăng ích?

Đáp: Người Bất hoàn kia vì cầu căn nhạy bén, không cầu nhiều đạo, nên bỏ nhiều được ít cũng không có lỗi. Như dùng nhiều tiền bạc, của cải để đổi lấy một ít ngọc quý, phải gọi là tăng ích, không gọi là tổn giảm.

Đã dựa vào quả để nêu bày xong.

Nếu căn cứ nơi đạo để nói, các người Bất hoàn chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, nếu dựa nơi ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ ba địa Thánh đạo được ba địa Thánh đạo.

Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ bốn địa Thánh đạo, được ba địa Thánh đạo. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ năm địa Thánh đạo, được ba địa Thánh đạo.

Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ sáu địa Thánh đạo, được ba địa Thánh đạo. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, chưa lìa nhiễm của Không vô biên xứ, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ bảy địa Thánh đạo, được ba địa Thánh đạo.

Đã lìa nhiễm của Không vô biên xứ, chưa lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ tám địa Thánh đạo, được ba địa Thánh đạo.

Đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào ba địa như tĩnh lự thứ nhất v.v… để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ chín địa Thánh đạo, được ba địa Thánh đạo.

Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người Bất hoàn bỏ bốn địa Thánh đạo, được bốn địa Thánh đạo. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ hai, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ năm địa Thánh đạo, được bốn địa Thánh đạo. Cho đến đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ chín địa Thánh đạo, được bốn địa Thánh đạo.

Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, nếu dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ năm địa Thánh đạo, được năm địa Thánh đạo. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ ba, chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ sáu địa Thánh đạo, được năm địa Thánh đạo. Cho đến đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào tĩnh lự thứ ba để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ chín địa Thánh đạo, được năm địa Thánh đạo.

Chưa lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ sáu địa Thánh đạo, được sáu địa Thánh đạo. Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư, chưa lìa nhiễm của Không vô biên xứ, nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ bảy địa Thánh đạo, được sáu địa Thánh đạo. Cho đến đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, nếu dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn, người Bất hoàn kia bỏ chín địa Thánh đạo, được sáu địa Thánh đạo.

Đã lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất v.v…, nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai v.v… để chuyển căn, tức bỏ, được nhiều ít, như lý nên suy xét.

Không dựa vào vô sắc để chuyển căn: Vì quả học không dựa vào định vô sắc.

Nên tạo ra thuyết này: Nếu ở địa trên đã được tự tại mà dựa vào địa học dưới để chuyển căn v.v…, cũng được đạo quả vô lậu của địa trên. Nhưng khi chuyển căn, không được định kia của vô sắc, vì không có quả Bất hoàn.

Trong đây, nên tạo và đặt ra câu hỏi, đáp:

Hỏi: Từng có Thánh giả bỏ chín địa Thánh đạo, được sáu địa Thánh đạo, gọi là tiến, không gọi là thoái chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là đã lìa nhiễm của Thức vô biên xứ, khi tín thắng giải đã dựa vào tĩnh lự thứ tư để chuyển căn.

Hỏi: Từng có Thánh giả đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, mà chỉ thành tựu một địa Thánh đạo chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, dựa vào định vị chí nhập chánh tánh ly sinh, đạt mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo kia.

Hỏi: Từng có người Bất hoàn đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ chỉ thành tựu đạo quả vô lậu của ba địa?

Đáp: Có. Nghĩa là đã lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, tín thắng giải đối với địa trên không được tự tại, dựa vào định vị chí, hoặc tĩnh lự thứ nhất, hoặc tĩnh lự trung gian, khi chuyển căn tạo kiến chí.

Hỏi: Từng có người Thân chứng không thành tựu định vô sắc vô lậu?

Đáp: Có. Nghĩa là Thân chứng, tín thắng giải khi chuyển căn tạo kiến chí.

HẾT – QUYỂN 67