42 THỦ NHÃN ẤN PHÁP
Kệ tụng: Hòa-thượng Tuyên Hóa
Dịch Kinh văn: Hòa-thượng Thích Thiền Tâm
Dịch kệ tụng: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
NGHI THỨC
ĐẠI-BI THỦ-NHÃN ẤN PHÁP
(PHÁT NGUYỆN TU THEO BỒ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM)
Nguyện đem lòng Thành Kính
Gởi theo đám mây Hương
Lan tỏa khắp mười phương
Cúng Dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo Tự Tính làm lành
Cùng Pháp Giới Chúng Sinh
Cầu Phật Từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa biển Khổ nguồn Mê
Chóng quay về bờ Giác
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha (3 Lần)
Cúi lạy Quán Âm Đại Bi Chủ
Nguyện Lực rộng sâu, thân tướng đẹp
Ngàn tay trang nghiêm hộ trì khắp
Ngàn mắt sáng tỏ, quán khắp nơi
Trong lời chân thật hiển Mật Ngữ
Trong Tâm Vô Vi khởi Tâm Bi
Mau khiến viên mãn mọi mong cầu
Khiến diệt trừ hết các nghiệp tội
Rồng, Trời, Chúng Thánh đồng Từ Hộ
Trăm ngàn Tam Muội chóng huân tu
Thân thọ trì là phướng Quang Minh
Tâm thọ trì là Tạng Thần Thông
Rửa sạch trần lao, nguyện qua biển
Vượt chứng Bồ Đề, môn Phương Tiện
Nay con xưng tụng, thệ quy y
Nguyện ước theo Tâm đều viên mãn.
– Nam mô quá khứ Thiên Quang Tịnh Trụ Vương Như Lai
– Nam mô Chánh Pháp Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Như Lai
– Nam mô Quán Âm Bổn Sư A Di Đà Như Lai
– Nam mô Quán Âm Bổn Thể Chánh pháp Minh Như Lai
Nếu có vị Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:
1) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết tất cả pháp.
2) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.
3) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ các chúng sanh.
4) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
5) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.
6) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được qua biển khổ.
7) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau được giới định đạo.
8) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
9) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau về nhà vô vi.
10) Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
Ðịa ngục liền mau tự tiêu diệt.
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ,
Ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (10 lần)
(Niệm “ NAM MÔ ĐẠI-BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” ít nhứt 10 lần trở lên, để y theo hạnh đại-bi của ngài mà tu hành theo.)
Nam-mô A-Di-Đà Phật (10 lần)
Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1
Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bát ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6, án7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.
Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17, đát điệt tha. Án18, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24, ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu- lô cu-lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.
Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắt ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.
Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà dủ nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67. Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.
Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.
Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.
Án tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta bà ha84.
(Tụng mỗi ngày ít nhất là 5 LẦN CHÚ ĐẠI-BI trở lên)
Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Bốn Mươi Hai
Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]
Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.
(Tụng mỗi ngày ít nhất là 5 LẦN THỦ NHÃN trở lên
như trì “Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp” chẳng hạn.)
Nhựt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni
Nam mô Bột-đà cù na mê. Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê. Nam mô Tăng-già đa dạ nê.
Để chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ. (3 lần)
(Tụng 1 LẦN lạy 1 LẠY)
Nguyệt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni
Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ. (5 lần)
Kính lạy Đức Phật Đà
Đấng vẹn toàn Phước Trí
Như Mặt Trời chiếu sáng
Phá tăm tối ngu mê
Ngài là Bậc Y Vương
Chữa lành muôn bệnh khổ
Dìu dắt mọi chúng sinh
Đưa đến bờ An Lạc
Nay con xin thành kính
Nương theo dấu vết Ngài
Nguyện xa lìa lầm lỗi
Viên mãn mọi Phước Trí
Mau thành Lưỡng Túc Tôn. (1 Lạy)
Kính lạy Pháp Giải Thoát
Con đường của Thánh Nhân
Tịnh hóa Tham, Sân Si
Chuyển thành Giới, Định, Tuệ
Dứt trừ Phiền Não Khổ
Vượt thoát biển Luân Hồi
Nay con xin thành kính
Tuân theo Giáo Pháp này
Nguyện mau lìa sinh tử
Chứng Niết Bàn thanh tịnh. (1 Lạy)
Kính lạy Chúng Tăng Già
Đấng Đạo Sư chân chính
Bậc điều phục Thân Tâm
Vượt Tham Dục Phiền Não
Chặt gốc rễ ngu mê
Giương cao cờ Giải Thoát
Nay con xin thành kính
Nương theo gương sáng này
Nguyện mau lìa Ngã Chấp
Đạt thanh tịnh vô ưu
Nguyện cho con thường gặp các Bậc Đạo Sư chân chính, các vị đã điều phục thân tâm vượt thoát tham dục phiền não và giúp cho con mau chóng vượt thoát các tâm ý: Ảo tưởng kiêu mạn, ganh tị tranh đấu, hoài nghi tự kiêu, trì độn mù quáng, tham dục thèm khát, giận dữ oán hận để Tịnh Hoá được các KHỔ, CHƯỚNG, HOẶC trong sáu nẻo. Đồng thời nguyện con luôn luôn đạt được cuộc sống: Hiền thiện, ngay thẳng, mực thước, chân chính, vị tha ngay trong đời hiện tại này (1 Lạy)
Thọ Trì Ngũ Giới:
1. Con xin vâng giữ Pháp Học là lánh xa sự sát sinh. Nguyện cho con và tất cả chúng sinh được trường thọ
2. Con xin vâng giữ Pháp Học là lánh xa sự trộm cắp . Nguyện cho con và tất cả chúng sinh đạt được những sự mong cầu.
3. Con xin vâng giữ Pháp Học là lánh xa sự tà dâm. Nguyện cho con và tất cả chúng sinh dứt trừ được sự tham muốn thấp hèn.
4. Con xin vâng giữ Pháp Học là lánh xa sự nói dối. Nguyện cho con và tất cả chúng sinh đạt dược sự an tịnh của một tâm hồn chân thật.
5. Con xin vâng giữ Pháp Học là lánh xa sự uống rượu và các chất say. Nguyện cho con và tất cả chúng sinh đứt trừ được sự điên đảo ngu dốt.
ĐẠI-BI SÁM PHÁP
Đệ-tử (Pháp-danh) thay mặt cho CHA-MẸ QUÁ-KHỨ, HIỆN TẠI và VỊ-LAI…
Chí tâm sám-hối:
Đệ tử… cùng pháp-giới chúng-sanh, hiện-tiền một tâm, vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần, cùng với trí sáng, trên sánh chư Phật, dưới đồng muôn loài. Bởi niệm vô-minh, che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, trong pháp bình- đẳng, sanh trưởng ngã nhơn. Lại do ái-kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân-hồi, gây nên đủ tội: thập-ác, ngũ-nghịch, báng pháp, báng người, phá giới phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng-kỳ, bức người tịnh-hạnh, xâm tổn thường-trụ, đồ vật thức ăn, dù ngàn Phật ra đời, khó bề sám hối. Những tội như thế, không lường không ngằn, khi bỏ báo thân, phải đọa tam-đồ, chịu vô-lượng khổ.
Lại trong đời này, do túc, hiện nghiệp, hoặc bị các nghiệp: lửa phiền thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài lôi cuốn, tà ma quấy nhiễu, làm ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu.
May gặp thần-chú Viên-Mãn Đại-Bi (1 xá) có thể mau trừ, những tội như thế, cho nên nay con, hết lòng tụng-trì, con nguyện nương về, Quán-Âm Bồ Tát, cùng Phật 10 phương (1 xá), phát lòng Bồ-Đề, tu hạnh chân-ngôn, cùng với chúng-sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám-hối, nguyện đều tiêu trừ.
Nguyện đấng Đại-bi, Quán-âm Bồ-tát, ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho chúng con, duyên chướng trong ngoài, thảy đều dứt sạch, mình, người, hạnh nguyện, cùng được viên thành, mở tánh bản-tri, dẹp trừ ma-ngoại, ba nghiệp siêng cần, tu nhân Tịnh-độ.
Nguyện cho chúng con, khi bỏ thân này, không vào đường khác, quyết được sanh về, thế giới Cực-Lạc của Phật Di-Đà, rồi được thừa sự, Đại-bi Quán âm, đủ các tổng-trì, rộng độ quần phẩm, đồng thoát khổ-luân, đều thành Phật-đạo.
Đệ-tử sám-hối phát nguyện rồi, xin quy mạng đảnh lễ Tam-bảo
(lễ 1 lạy, rồi tiếp qua niệm Phật, hồi hướng)
Con nguyện lâm chung không chướng ngại.
A-Di-Đà đến rước từ xa.
Quán-Âm cam lồ rưới nơi đầu.
Thế-Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát-na lìa ngũ-trược.
Khoảng tay co duỗi đến liên-trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ-Tôn.
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền ngộ Vô-Sanh-Nhẫn.
Không rời An Dưỡng lại Ta-Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần-lao làm Phật-sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành-tựu.
Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới,
đại-từ, đại-bi tiếp dẫn đạo sư
A-DI-ĐÀ-PHẬT. (1 lần)
CON NAY khắp vì bốn ơn, ba cõi, cùng pháp giới chúng sanh CẦU nơi QUẢ VỊ NHỨT THỪA VÔ THƯỢNG BỒ ÐỀ của PHẬT. Một lòng trì niệm, hồng danh muôn đức A DI ÐÀ PHẬT, cầu sanh CỰC LẠC.
Duy nguyện Từ phụ, A DI ÐÀ PHẬT, từ bi gia hộ, xót thương tiếp độ.
Nam-mô A-DI-ĐÀ Phật
(Tùy ý, hoặc 1 ngàn câu trở lên)
* * *
* (Lại CHUYÊN NIỆM “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Nghĩa là ngoài thời khóa kể trên, trong một ngày đêm, khi nào có thể liền nhiếp THÂN TÂM vào danh hiệu “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, lâu ngày sẽ được NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, mới biết diệu dụng của câu niệm phật “BẤT KHẢ TƯ NGHỊ”, không thể dùng văn tự ngôn ngữ SUY NGHĨ mà bàn luận biết được. Cho nên, qúi vị phải hành trì cho thiết thật.
Tuy nhiên, nếu quí vị thích chuyên trì “CHÚ ĐẠI-BI”, chuyên trì “ 1 THỦ-NHÃN”, chuyên “ THAM-THIỀN”, chuyên “TỤNG KINH”… thì cũng phải hành như “CHUYÊN” NIỆM PHẬT vậy).