2016

TÔNG KÍNH LỤC
Thời Bắc Tống, Thiền sư Trí Giác – Diên Thọ viện chủ chùa Tuệ Nhật, Vĩnh Minh tại Ngô Việt soạn tập.
Kinh số: 2016

 

QUYỂN 53

Thức năng biến thứ ba là, trong luận duy thức có kệ tụng nói:

“Thứ năng biến thứ ba,

Sai biệt có sáu thứ,

Liễu cảnh làm tánh tướng,

Thiện chẳng thiện đều quấy”.

Năng biến thứ ba đây là thức liễu biệt cảnh. Tự chứng phần là tánh liễu biệt, kiến phần là tướng liễu biệt, thức hữu phú hữu ký, lấy liễu cảnh làm tự tánh, tức lại dùng kia làm hành tướng vậy. Thì, liễu cảnh làm tự tánh thức cũng là hành tướng. Hành tướng là dụng, nên trong luận Duy thức nói: “Tùy sáu căn cảnh chủng loại khác nhau, nên hoặc gọi là sắc thức cho đến pháp thức, tùy cảnh mà lập danh làn thuận thức vậy” nghĩa là đối với sáu cảnh, liễu biệt gọi là thức, sắc v.v… năm thức chỉ liễu sắc v.v… pháp thức thông năng liễu tất cả pháp, hoặc năng liễu biệt pháp, riêng được tên là pháp thức, nên tên của sáu thức không lỗi xem lạm nhau.

Hỏi: Nếu ngoài tâm không thật sắc thì nhãn v.v… năm thức không có chỗ duyên ư?

Đáp: Trong luận Duy thức nói: “Tuy chẳng phải không sắc mà là thức biến, nghĩa là lúc thức sinh, do luật nhân duyên bên trong biến tợ nhãn v.v… sắc v.v… tướng hiện. Lấy tướng đây làm chỗ duyên nương tựa nhưng nhãn v.v… các căn chẳng phải hiện lượng được, vì năng phát thức tỷ biết là có, đây chỉ là công năng, chẳng phải chỗ tạo tác bên ngoài, ngoài có đối sắc, lý đã chẳng thành, nên phải chỉ là thức bên trong biến hiện. Giải thích: Nhãn v.v… tuy có sắc là chỗ nương tựa chỗ duyên, mà là chỗ thức biến hiện, chẳng phải là ngoài tâm riêng có cực vi để thành căn bản. Chỉ lúc tám thức sinh, do lực chủng tử nhân duyên bên trong v.v… mà thức thứ tám biến tợ năm căn năm trần, nhãn v.v… năm thức nương căn sở biến kia, duyên bản chất trần cảnh kia, tuy thân gần mà chẳng được mang gá kia sinh, thật ở trên sắc trần bản thức, biến làm bản thức năm trần hiện tức lấy năm căn kia làm chỗ nương tựa, lấy hai thức năm trần của kia và đây làm sở duyên duyên. Năm thức nếu chẳng gá chỗ biến của thức thứ tám, bèn không sở duyên duyên, trong sở duyên duyên có thân (gần) và sơ (xa) vậy. Nhưng nhãn v.v… các căn chẳng phải hiện lượng được là, sắc v.v… năm trần thế gian cùng thấy, chỗ hiện luợng được nhãn v.v… năm căn chẳng phải hiện lượng được, trừ duyên của thức thứ tám và duyên của Như Lai v.v… là hiện tượng được thế gian chẳng cùng tin, trừ trong tán tâm không hiện lượng được, đây chỉ năng có dụng của phát thức tỷ biết là có, đây chỉ có công năng, chẳng phải ngoài tâm riêng có sắc của đại chủng tạo nên. Công năng đây nói tức là tác dụng phát sinh năm thức, quán dụng biết thể, như quán sinh mầm tức biết chủng thể mà có. Do đó, trong kinh Mật Nghiêm có kệ tụng nói:

“Nhãn sắc thảy làm duyên,

Mà được sinh ở thức,

Như lửa nhân củi cháy,

Thức khởi cũng như vậy,

Cảnh chuyển tùy vọng tâm,

Như sắt theo nam châm,

Như thành Càn dương diệm,

Chỗ thủ của ngu khát,

Trong không vật năng tạo,

Chỉ tùy tâm biến khác.

Lại như người thành Càn,

Qua lại cầu chẳng thật,

Thân chúng sinh cũng vậy,

Đến dừng đều chẳng chân,

Cũng như thấy trong mộng,

Sau tỉnh thức chẳng có,

Vọng thấy pháp uẩn thảy,

Giác rồi vốn vắng lặng,

Bốn đại bi trần nhóm,

Lìa tâm không chỗ được”

Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Đồng tử Tự tại Chủ nói với Thiện Tài: “Này thiện nam! Tôi lại khéo biết mười tám tinh xảo, các thứ kỹ thuật, sáu mươi hai quyến thuộc minh luận và nội minh v.v… tất cả phương pháp trị phiền não bên trong. Những gì gọi là thân phiền não bên trong? Có bốn nhân duyên: Một, nghĩa là nhãn căn nhiếp thọ sắc cảnh; hai do vô thủy chấp thủ tập khí; ba, do tự tánh bản tánh thức kia; bốn, ở nơi sắc cảnh tác ý hy vọng. Do lực bốn thứ nhân duyên đây nên, tạng thức chuyển rồi gợn sóng thức sinh, thí như dòng thác tương tục chẳng đoạn. Này thiện nam! Như nhãn thức khởi, tất cả căn thức vi trần lỗ chân lông đồng thời sinh ra, cũng lại như vậy, thí như gương sáng chúng hiện các ảnh tượng, các thứ cũng vậy, hoặc lúc chúng hiện, này thiện nam! Thí gió mạnh thổi nước biển lớn, sóng cả chẳng ngưng, do gió cảnh giới thổi biển tâm tỉnh khởi sóng cả thức tương tục chẳng đoạn. Nhân duyên cùng làm, chẳng bỏ lìa nhau, chẳng một chẳng khác như nước và sóng. Do tướng nghiệp sinh sâu khởi trói buộc, chẳng thể rõ biết tự tánh của sắc v.v… năm thức thân chuyển A-lại-da kia trọn chẳng tự nói: Ta sinh bảy thức, bảy thức chẳng nói từ A-lại-da sinh chỉ do tự tâm chấp thủ cảnh tướng phân biệt mà sinh, sâu mầu như vậy, thức Alại-da hành tướng vi tế, tận cùng biên tế, chỉ các Đức Như Lai, Bồ-tát trú địa mới thông thấu đạt. Ngu pháp Thanh văn và Bích-chi Phật phàm phu ngoại đạo đều chẳng rõ biết”.

Hỏi: Nhãn thức v.v… là nương căn phát thức hay là nương cảnh phát thức?

Đáp: Quyết định chỉ nương căn phát, trong luận Bách Pháp nói: “Nhãn thức nương căn phát thức, cho đến ý thức cũng vậy. Nếu nhãn căn biến khác. Nhãn thức hẳn theo biến khác, như mắt bệnh chỗ thấy là sắc xanh mà thành sắc vàng. Đây chẳng phải ngoại cảnh chỉ là căn tổn khiến thức chấp thủ cảnh biến làm sắc vàng” nên biết tùy căn mà được tên.

Hỏi: Nhãn thức duyên sắc xanh làm vàng há chẳng phải là phi lượng ư?

Đáp: Chỉ là đồng thời loạn ý thức, vì nhãn căn có tổn, khiến đồng thời ý thức duyên loạn vậy, bèn biến xanh làm vàng, kỳ thật nhãn thức chẳng làm duyên xanh vàng vậy, ý căn tổn, ý thức cũng tổn, như ở sơ địa, ngã chấp pháp chấp tức thời thành vô lậu. Lúc đây ý căn hoại, không hai chấp đó, thức của năng duyên cũng năng hoại tức hai chấp vậy, nên biết chỗ nương căn phát được gọi là nhãn thức, chỉ tùy căn lập vậy Bồ-tát Hộ Pháp nói: “Sáu thức thể tánh mỗi riêng biệt, chỉ nương căn cảnh mà lập tên đó. Nếu chấp có một thức năng duyên sáu cảnh là, nếu sáu cảnh một lúc đến, làm sao một ý thức có thể một lúc duyên được ư? Nếu khởi trước sau tức chẳng pháp cùng vậy. Do đó, tùy sáu căn cảnh chủng loại khác nhau, nên nương căn mà được tên”.

Hỏi: Nhãn thức v.v… sáu thứ đã nương căn phát thức, vậy lấy gì làm căn?

Đáp: Bồ-tát Hộ Pháp thông dùng hiện chủng làm căn. Căn đã vậy cảnh cũng vậy, trong luận Du-già cũng nói: “Đều lấy hai pháp hiện hành và chủng tử làm nhãn v.v… các căn. Do lúc bản huân, tâm biến tợ sắc, từ lúc huân làm danh, lấy sắc thanh tịnh do bốn đại chủng tạo ra, đối với quả thức của chỗ sinh. Giả nói hiện hành là công năng thật chỉ là hiện sắc, nghĩa của công năng sinh thức, đại tiểu cộng thành.

Hỏi: Căn lấy gì làm nghĩa?

Đáp: Căn, tức là năm căn, có nghĩa tăng thượng sinh ra vậy, gọi đó là căn. Ở trong đó có năm sắc căn thanh tịnh, có năm sắc căn phù trần. Nếu năm sắc căn thanh tịnh tức là chẳng thể thấy có đối tịnh sắc, vì là thể tánh năng phát sinh năm thức, có dụng chiếu cảnh vậy. Nếu năm sắc căn phù trần tức giúp căn thanh tịnh năng chiếu cảnh đó. Tự thể tức chẳng thể chiếu cảnh vì căn phù trần là sắc thô hiển vậy, chẳng phòng ngại cùng căn thanh tịnh làm chỗ nương tựa. Trong luận Ngũ Uẩn nói: “Căn là nghĩa tối thắng, nghĩa tự tại, nghĩa chủ, nghĩa tăng thượng, đó là nghĩa căn. Thế nào là nhãn căn? Nghĩa là lấy sắc làm cảnh, tịnh sắc làm tánh, nghĩa là ở trong nhãn có một phần tịnh sắc, như đề hồ thanh tịnh, tánh đây có nên nhãn thức được sinh, nếu không tức chẳng sinh, cho đến thân căn lấy xúc làm cảnh và tịnh sắc làm tánh, nếu không tức chẳng sinh.

Hỏi: Chưa đạt trong quả vị chuyển y, năm chuyển thức trước ở trong ba lượng quyết định là lượng nào?

Đáp: Các bậc cổ đức nói: Chỉ nhãn thức duyên tướng phần sắc cảnh, tức mỗi mỗi tự duyên tự chứng phần. Ba lượng phân biệt là hiện lượng. Hiện lượng có đủ ba nghĩa: Một là, hiện tại, chẳng phải là quá khứ hay tương lai; hai là, hiển hiện, chẳng phải chủng tử; ba là, hiện có, chon pháp không có thể, duyên cảnh hiện lượng gọi là hiện lượng, là chẳng đạt lượng vậy, tức nhân tu chứng cảnh chẳng kẹt danh ngôn, là nghĩa mặc tình, tức năm thức duyên cảnh được pháp tự tướng, chỉ trung gian không cách ngại nên gọi là thân (gần) duyên tướng phần có, sắc đỏ tức được tướng phần của sắc đỏ, chỉ chẳng phân biệt vậy, nhận vận chẳng kẹt danh ngôn vậy, gọi là đựợc tự tướng vậy. Bồ-tát Hộ Pháp nói “Năm thức chỉ duyên năm cảnh trần thật, tức chẳng duyên giả, chỉ mặc tình mà duyên, chẳng làm hạnh giải, chẳng kẹt danh ngôn là hiện lượng vậy, vả lại, Như Lai nhân thức duyên xanh vàng đỏ trắng bốn loại sắc thật, ngắn dài vuông tròn sắc giả, tuy chẳng lìa trên sắc thật mà có, nhãn thức chỉ duyên thật, chẳng duyên ngắn dài sắc giả vậy, nhãn thức quyết định chẳng duyên sắc ngắn dài, chỉ ý thức làm tâm ngắn dài mà duyên vậy. như năm thức ở niệm đầu, cùng lúc ý thức minh liễu duyên năm trần cảnh, tức hành giải trong tâm làm sắc ngắn dài mà duyên là tỷ lượng tâm duyên vậy” tức năm thức chỉ là hiện lượng, duyên thật chẳng duyên giả. Nên trong luận nói: “không có nhân v.v… các thức chẳng duyên cảnh thật sinh, tức năm thức chỉ duyên thật là cảnh tự tướng, như lúc nhãn thức duyên tự tướng cảnh xanh, được tự tướng của sắc xanh. Nếu niệm sau phân biệt lúc ý thức khởi tức chẳng phải sắc xanh giải, bèn là cộng tướng tỷ lượng vậy. Lúc mới làm giải tâm, chẳng thật tâm thể sắc xanh là kẹt danh ngôn, là tại giả tướng vậy. Nên trong luận Duy thức nói: “Nghĩa là giả trí thuyên, chẳng được tự tướng, chỉ ở các pháp cộng tướng mà chuyển vậy” nói giả trí, tức làm tâm hạnh giải, gọi là giả trí vậy. Nói phân tích tức là hiểu danh cú văn trên tâm, và danh văn cú trên âm thanh, lá năng phân tích đều chẳng được tự tướng sở phân tích vậy. Lại giải thích: Hiển bày giả chẳng nương chân, chỉ nương cộng tướng chuyển, tức chân sự đây, chẳng nói thật thể tâm thức gọi là chân, chỉ tâm sở thủ tự thể tướng pháp, nói năng chẳng kịp, giả trí phân tích chẳng bày, gọi đó là chân. Đây chỉ trí hiện lượng biết, tánh lìa nói năng và trí phân biệt, chân thể từ đây ra chẳng phải trí phân tích, và như sắc pháp v.v… mà làm tự tánh. Nước ướt là tánh, chỉ có thể chứng biết, nói năng chẳng kịp, ý thức thứ sáu tùy năm thức mà khỏi sau, duyên trí đây nên phát ngôn ngữ v.v… chỉ là cộng tướng của chỗ duyên chỗ nói pháp, chẳng phải là tự tướng kia. Lại, ngăn được tự tướng gọi là được cộng tướng, nếu trong chỗ biến có pháp cộng tướng là có thể được, tức được tự thể, nên tất cả pháp có thể nói có thể duyên vậy. Pháp cộng tướng cũng nói duyên chẳng kịp, nhưng chẳng phải là chấp, chẳng chắp chặc vậy. Như trong năm uẩn lấy sự năm uẩn làm tự tướng, lý không vô ngã v.v… làm cộng tướng. Lại dùng lý suy thể không tự tướng, vả lại nói pháp thể chẳng thể nói là tự tướng, có thể nói là cộng tướng. Lấy lý mà luận, cộng tức chẳng phải cộng, tự chẳng phải tự, vì qua lại ngăn cản vậy, chỉ mỗi mỗi riêng nói. Nói không vô ngã v.v… là cộng tướng là từ giả trí nói. Đây chỉ có năng duyên hạnh giải, đều không sở duyên không thật cộng thể, lúc vào chân quán thì mỗi mỗi pháp đều riêng rõ biết, chẳng phải làm cộng giải, nói năng nếu dính kẹt tự tướng là, như lúc nói lửa, thì lửa lẽ ra thiêu đốt miệng, vì lửa lấy thiêu đốt vật làm tự tướng vậy. Duyên cũng như vậy, như lúc duyên lửa, lửa nên thiêu đốt tâm. Nay không thiêu đốt tâm và chẳng thiêu đốt miệng, rõ ràng duyên và nói năng đều chẳng được cộng tướng. Nếu vậy, kêu lửa sao chẳng được nước mà được tự tướng của lửa vậy? Như kêu ở nước, lý đây chẳng vậy, vì thói quen từ vô thủy nên cộng gọi vậy, nay duyên ở xanh làm xanh giải (biết làm xanh) là, trí tỷ lượng đây chẳng xứng với pháp trước, như nhãn thức duyên sắc là xứng với tự tướng vậy, chẳng làm sắc giải, sau khởi ý thức duyên sắc cộng tướng, chẳng dính kẹt sắc nên bèn làm xanh giải, ngăn cản duyên vậy chẳng phải xanh, bèn làm xanh giải, chẳng phải cho rằng xanh giải tức xứng sự xanh, nên trong Duy thức có kệ tụng nói:

“Hiện giác như mộng thảy,

Lúc đã khởi hiện giác,

Thấy và cảnh đều không,

Sao cho có hiện lượng”.

Đây nghĩa là giả trí chỉ duyên cộng tướng mà được khỏi vậy. Tự tướng của pháp lìa phân biệt, nói năng cũng vậy, chẳng xứng bản pháp, cũng chỉ chỉ ở nơi cộng tướng chuyển, nay tông Đại thừa chỉ có thể tự tướng, đều không thể cộng tướng, giả trí và phân tích chỉ được cộng, chẳng được tự tướng, nếu nói cộng tướng chỉ có quán tâm, hiện lượng thông duyên tự tướng cộng tướng. Nếu pháp tự tướng chỉ hiện lượng được, cộng tướng cũng thông chỗ tỷ lượng được, cho đến nên nói chỉ ở nơi cộng tướng các pháp mà chuyển. làm tướng đây, chỗ chứng lượng biết, chẳng phải cảnh của nói năng v.v… vậy, lại trong sớ có hỏi: Cớ sao gọi là tự tướng cộng tướng? Đáp: Nếu pháp tự thể, chỉ chứng trí biết nói năng chẳng kịp, đó là tự tướng, nếu pháp thể tánh, chỗ nói năng kịp, chỗ giả trí duyên, đó là cộng tướng. Lại hỏi: Như tất cả pháp đều nói chẳng kịp, mà lại bảo là nói năng tới kịp, đó là cộng tướng, có gì trái nghịch? Đáp: Cộng tướng là nghĩa trên pháp tự thể, lại không thể riêng biệt. Lại, đây gọi là lúc phân tích các pháp lửa v.v… ngăn cản chẳng phải lửa v.v… nghĩa này tức thông trên tất cả lửa, nên nói cộng tướng tức nghĩa đó vậy, chẳng phải lý cộng tướng của khổ không v.v… nếu vậy tức tất cả pháp chẳng thể nói, chẳng thể nói cũng chẳng xứng lý, ngăn cản có thể nói, nên nói chẳng thể nói, chẳng phải chẳng thể nói tức xứng pháp thể, pháp thể cũng chẳng phải chẳng thể nói vậy, mà nay mới nói danh được tự tánh của cộng tướng vậy, nay nên giải đây, chẳng phải pháp thể nghĩa đó có thể vậy. Nói danh v.v… phân tích cộng tướng, chẳng phải nghĩa là tức được thể cộng tướng, chỉ ngăn cản được tự tướng nên nói danh phân tích cộng tướng. Lại nữa, tự tướng tức là tướng tự thể của các pháp, như lửa lấy ấm nóng làm tự tướng, lúc gọi ấm nóng chẳng được ấm nóng vậy, chẳng được tự tướng, tự tướng ấm nóng đây chỉ thân thức hiện lượng chứng vậy, chẳng phải chỗ danh được. Cộng tướng, nay dùng danh nghĩa của sở phân tích dưới gọi là cộng tướng, cộng tướng có hai: Một là, cộng tướng tự loại; hai là, cộng tướng khác loại, như lúc nói lửa, chẳng bao gồm ở nước v.v… chỉ khắp tất cả trên lửa, nên gọi là cộng tướng tự loại, nếu nói khổ, không, vô, thường v.v… thì chẳng chỉ tại trên một loại pháp, mà khắp tất cả trên pháp nước lửa v.v… nên gọi là cộng tướng khác loại. Lại, tự tướng là chỉ năm căn năm trần, tâm tâm sở được, nghĩa là năm căn là hiện chứng của thức thứ tám, năm trần là hiện lượng chứng của tâm tâm sở thức thứ tám và năm thức trước. Tự thể tánh, độc tán ý thức vậy v.v… còn chẳng thể được tự thể tánh, huống gì danh phân tích được thể tánh vậy, lúc năm thức duyên năm trần cảnh, có đủ bốn nghĩa nên gọi là được pháp tự tướng: Một là, mặc tình, hai là, hiện lượng; ba là, chẳng kẹt danh ngôn; bốn là, chỉ duyên cảnh hiện tại, được gọi là tự tướng, cảnh sở duyên của ý thức có hai, nếu là cảnh sở duyên của độc đầu ý thức tức ở pháp xứ thâu, nếu là cảnh sở duyên của minh liễu ý thức tức ở sắc xứ nhiếp, vả lại, như nhãn thức ở niệm đầu minh liễu ý thức tuân theo vậy lúc đồng duyên sắc, chỉ duyên tự tướng của sắc, niệm sau minh liễu ý thức phân biệt giả sắc trên sắc sở duyên là dài v.v… tức là cộng tướng. Tuy giả sắc là dài v.v… là cảnh sở duyên của minh liễu ý thức, cũng tại nơi sắc xứ thâu, vì là giả nên nhãn thức chẳng duyên vậy, cho đến âm thanh cũng vậy, thản như, nhĩ thức ở sátna đầu tuân theo vậy, lúc cùng minh liễu ý thức đồng duyên thanh cũng là được pháp tự tướng, niệm sau ý thức khởi duyên ba thứ danh cú văn, trên thanh có phân biệt hạnh giải v.v… là duyên giả vậy, nay năm thức đã không phân biệt hạnh giải, do đó chẳng duyên giả vậy.

Hỏi: Như sắc có hai mươi lăm thứ, xanh, vàng v.v… bốn loại hiển sắc là thật, còn lại các loại là giả, thanh cũng có mười hai thứ, chỉ chấp thọ và chẳng chấp thọ thanh là thật, còn lại các loại là giả, xúc có hai mươi sáu thứ, chỉ bốn đại là thật, còn lại các loại là giả. Trong đây, thật là năm thức duyên ở trần xứ gồm. Nếu là giả, như luận chủ đã nói năm thứ chẳng duyên là có ý thứ duyên, cớ sao chẳng ở pháp xứ gồm?

Đáp: minh liễu ý thức thứ sáu duyên giả sắc dài v.v… có ba nghĩa, do đó chẳng ở pháp xứ gồm: Một là, tối sáng chẳng đồng; hai là, vì giả theo thật; ba là, vì ảnh theo chất, đầy đủ ba nghĩa đây nên ở sắc xứ nhiếp vậy. Nếu độc đấu ý thức thì không ba nghĩa đây, do đó ở pháp xứ gồm, vả lại, thứ nhất, tối sáng chẳng đồng là, nếu minh liễu ý thức cùng năm thức ở niệm đầu lúc tuân theo tâm, tức là hiện lượng, chẳng duyên giả đó, đến niệm sau minh liễu ý thức phân biệt tâm sinh tức duyên giả sắc. Lúc năm thức chánh duyên thật sắc, ý đây đối với nơi thật sắc sở duyên của năm thức mà sinh hạnh giải Duyên giả sắc đó là cũng năm thức chẳng đồng thời khởi phân biệt, ý thức đây tức là minh (sáng) vậy, giả sắc sở duyên v.v… tức ở sắc xứ gồm , chẳng ở pháp xứ thâu, nếu là ý độc đầu, chẳng gá năm thức mà sinh phân biệt, chỉ nói về riêng khởi, tức là tối, ý thức tức ở pháp xứ gồm, thứ hai, vì giả theo thật, vì giả sắc dài v.v… nương trên thật sắc khác mà lập. Tuy ý thức duyên nhiếp giả sắc đây, quy về thật sắc, tổng ở sắc xứ gồm, chẳng ở pháp xứ thâu. Thứ ba vì ảnh theo chất, giả sắc dài v.v… là thức thứ sáu gá thật sắc năm trần làm chất mà biến, khởi tướng phần giả dài v.v… duyên, đem sắc tướng phần giả dài v.v… đây đến thật sắc thật sắc xứ của năm trần thâu, tổng ở sắc xứ gồm vậy, nếu là độc đầu ý thức chẳng hẳn có bản chất vậy. Đây có ba nghĩa nên gá năm trần sắc tổng ở sắc thâu. Nếu độc đầu sinh tối, cảnh sở duyên của ý thức, tức pháp xứ thâu.

Hỏi: Năm căn ở trong giáo nào chứng là hiện lượng?

Đáp: Thật chứng chẳng phải một, trong kinh Viên Giác nói: “Thí như mắt sáng soi rõ cảnh trước, sáng đó tròn đầy, được không thương ghét, có thể chứng năm căn hiện lượng chẳng sinh phân biệt, nơi mắt sáng đó đến không có trước sau, trọn chẳng bỏ oán lấy thân, mến đẹp ghét xấu sánh nhĩ căn chẳng phân biệt âm thanh ngợi khen hay chê hủy, tỷ căn chẳng lánh mùi hơi thơm hay thối, thiệt căn chẳng chọn lựa mùi vị của ngọt hay đắng, thân căn chẳng cách xúc của trơn rít, vì lúc tuân theo tâm chẳng phân biệt vậy, khoảng sát-na chảy vào ý địa mới khởi tầm cầu, bèn rơi lạc vào tỷ lượng, thì tâm nhiễm tịnh sinh tình lấy bỏ khởi.

Hỏi: Lúc nhãn v.v… năm căn duyên cảnh phải đủ mấy nghĩa?

Đáp: Duyên là nghĩa của duyên mượn, cảnh có hai nghĩa: Một là, nghĩa chỗ mượn; hai là, nghĩa chỗ chiếu, nói chỗ mượn là nhưng duyên cảnh có thể mượn kia làm sở duyên duyên, nói chỗ chiếu là, tuy chẳng mượn kia làm chỗ duyên, nhưng xứ chỗ chiếu trông nhìn cũng nói là cảnh, như nhãn v.v… năm căn chiếu cảnh sắc v.v… tuy chẳng phải chỗ duyên, nhưng đối với căn đây, được gọi là cảnh, là chỗ chiếu vậy. Lại, nhãn căn chiếu sắc, nhãn thức duyên sắc, cho đến thân căn biết xúc, thân thức rõ xúc v.v… Lại, các bậc cổ đức có hỏi: Năm thức đã chỉ duyên thật sắc, chỉ như ngắn dài v.v… lúc nương cảnh sắc hiện tiền, nhãn căn chẳng hoại, lúc đó, nhãn thức là duyên hay chẳng duyên? Nếu nói là duyên bèn phạm lỗi năm thức duyên giả, nếu chẳng duyên, cớ sao nhắm mắt chẳng thấy, mở mắt mới thấy ư? Đáp: Lúc đó nhãn thức chỉ được thật sắc của xanh v.v… mà đồng thời ý thức nương nhãn căn làm cửa, phân rõ hiển bày, thủ được dài v.v… là căn cứ ý thức được, hợp pháp xứ thâu, chỉ duyên lúc đó, ý thức nương nhãn căn thủ đối căn chỗ nương nên sắc xứ gồm.

Hỏi: Năm thức trước đủ bao nhiêu nghiệp thì năng liễu (có thể rõ) cảnh trước?

Đáp: Năm thức trước đủ sáu nghiệp. Trong luận Du-già nói: “Một là, chỉ liễu biệt tự cảnh sở duyên; hai là, chỉ liễu biệt tướng; ba là, chỉ liễu biệt hiện tại; bốn là, chỉ một sát-na liễu biệt; năm là, tùy ý thức chuyển, tùy thiện nhiễm chuyển, tùy phát nghiệp chuyển; sáu là, năng thủ quả ái và chẳng phải ái.

Hỏi: Nhãn thức hiện lượng, xứng cảnh mà biết, nếu lúc mắc bệnh hoặc thấy xanh cho là vàng đâu xứng cảnh ư? Nếu chẳng xứng cảnh sao gọi là hiện lượng?

Đáp: Có một sư nói: Thấy xanh cho là vàng, thật là ý thức, nghĩa là do căn bệnh nên dẫn được nhãn thức bệnh, do nhãn thức bệnh bèn dẫn y thức phi lượng, thấy xanh cho là vàng, chẳng phải nhãn thức thấy xanh cho là vàng, do nhãn thức bệnh, năng khởi thức thấy vàng, nên nói như vậy, sư thứ hai nói: Do nhãn căn bệnh, dẫn nhãn thức bệnh, tuy thấy xanh cho là vàng, mà chẳng làm vàng giải, nên là hiện lượng, như không phân biệt lúc quán Phật tánh chân như là tám tự tại ngã, tuy chẳng xứng cảnh mà trí không phân biệt chẳng làm ngã giải, nên được là hiện lượng. Đây cũng như vậy, trong luận Tạp Tập có hỏi: Như liễu biệt sắc v.v… nên gọi là thức, cớ sao chỉ gọi là nhãn v.v… các thức, mà chẳng gọi sắc v.v… các thức ư? Đáp: Vì nương tựa nhãn v.v… năm thứ mà giải thích đạo lý, thành tựu chẳng phải ở sắc v.v… tại sao? Thức của trong nhãn nên gọi là nhãn thức nương nhãn xứ; chỗ thức được như vậy, lại do có nhãn mà thức có được. Tại sao? Nếu có nhãn căn thì thức quyết định sinh, người không mù lòa đến trong tối tăm cũng năng thấy vậy, chẳng do có sắc mà nhãn thức quyết định sinh, vì người mù lòa chẳng thể thấy vậy, lại, nhãn là nơi phát thức nên gọi là nhãn thức. Do nhãn biếi khác, thức cũng biến khác, sắc tuy không biến mà thức có biến vậy, như bệnh ca-mạt-la tổn hại nhãn căn, đối với sắc xanh v.v… đều thấy là vàng, lại thuộc thức của nhãn nên gọi là nhãn thức, do chủng tử thức tùy theo ở nhãn mà được sinh vậy, lại hổ trợ thức của nhãn nên gọi là nhãn thức, làm kia tổn ích vậy, tại sao? Do căn hợp thức, chỗ có lãnh thọ, khiến căn tổn ích, chẳng phải cảnh giới vậy, lại như thức của nhãn nên gọi là nhãn thức, đều là chỗ gồm của sở hữu tình. Sắc thì không như vậy, vì chẳng quyết định, nhãn thức đã vậy, các thức khác cũng vậy.

Hỏi: Do nhãn thấy sắc hay do thức v.v… ư?

Đáp: Chẳng phải nhãn thấy sắc cũng chẳng phải thức v.v… vì tất cả pháp không tác dụng vậy, do có hòa hợp giả lập mà thấy. Lại do sáu tướng nhãn ở trong thấy sắc, tối thắng chẳng phải thức v.v… cho nên nói nhãn năng thấy các sắc, những gì là sáu? Một là, do sinh nhân nhãn năng sinh vật kia; hai là, do y xứ thấy nương tựa, nhãn vậy; ba là, do không động chuyển, nhãn thường một loại vậy; bốn là, do tự tại chuyển, chẳng đợi duyên hợp niệm niệm sinh vậy; năm là, do đoan nghiêm chuyển, do chỗ trang nghiêm đây nương tựa thân vậy; sáu là, do thánh giáo, như trong kinh nói nhãn năng thấy sắc vậy. Đều nói sáu thứ tướng mạo như vậy, ở trong thức v.v… đều chẳng thể được, thức động chuyển là, phải biết có nhiều thứ sai biệt sinh khởi.

Hỏi: Chỗ sáu căn thành mỗi mỗi có bao nhiêu nghĩa?

Đáp: Các bậc cổ đức giải thích: mỗi mỗi có hai nghĩa: Một là dị thục; hai, nuôi lớn, vả lại như nhãn căn là như nghiệp, ở quá khứ chiêu cảm nhãn đời nay, gọi là nhãn dị thục, ở đời nay nhân ăn uống v.v… nuôi nhỏ khiến lớn, dưỡng gầy thành béo, gọi là nhãn trưởng dưỡng, ngoài ra năm căn cũng vậy.

Hỏi: Nếu không cảnh bên ngoài, nên không tâm hiện lượng, năng giác. Nếu không hiện lượng năng giác, cớ sao người đời làm giác (hiển biết) như vậy, nay ta hiện chứng cảnh như vậy ư?

Đáp: Các bậc cổ đức nói: Hiện giác như mộng là như chánh khởi hiện lượng năng thức lúc chứng sắc v.v… năm cảnh, chỉ lượng năng chứng cảnh sở chứng sắc v.v… chẳng năng giác tâm hiện lượng năng giác, tại sao? Giác pháp năng giác là ý thức, chánh lúc tùy khởi năm thức, hẳn không ý thức, nên ở niệm đó, hẳn chẳng có tâm năng giác hiện lượng. Đến niệm thứ hai chánh khởi ý thức giác năm thức hiện lượng ở niệm trước, lúc không sở giác thì hiện lượng năm thức và cảnh của hiện lượng sở giác đều đã rụng diệt. Tại sao? Vì các thức chẳng đều sinh vậy, lúc khởi ý thức, hiện lượng năm thức đã diệt, lại pháp hữu vi từng sát-na diệt nên cảnh sở duyên của năm thức hiện lượng lúc ấy cũng đã rụng diệt. Nếu nói phải có thật cảnh bên ngoài mới năng sinh tâm là, thản như ý thức ở niệm sau duyên hiện lượng năm thức ở niệm trước làm cảnh, đâu là pháp có thật ư? Do quá khứ không thể vậy, hiện lượng năng thức ở quá khứ đây đã diệt, nay tuy không thể còn năng làm cảnh sinh ở ý thức, nào hẳn năm thức phải duyên cảnh thật ngoài tâm mà sinh ư? Nghĩa là như lúc đang ngủ chánh tâm khởi mộng, tức chẳng thể khởi tâm biết mộng, đến lúc sau khi ngủ tỉnh tâm biết mộng, thì tâm mộng của chỗ biết đó đã diệt, lúc năm thức hiện hành đó chánh khởi, chưa thể khởi biết tâm hiện lượng ý thức, cho đến niệm thứ hai khởi được tâm ý thức biết hiện lượng năm thức, thì năm thức hiện lượng chỗ biết đó đã diệt, cùng biết mộng tâm tương tợ, nên nêu làm thí dụ, lại cật nạn: Quyết định chấp thuận có hiện lượng ư? Nghĩa là chánh lúc năng giác ý thức khởi biết hiện lượng, thì năm thức chỗ biết kia quyết định là có ư? Đáp: Lúc đó chỗ biết (sở giác) đã diệt, tuy không thể, mà còn sinh tâm năng giác, nào phòng cảnh bên ngoài là không năng sinh thức ư? nhưng với Đại thừa thì năm cảnh tuy tợ có mà chẳng phải ngoài tâm, chẳng đồng như phàm phu Tiểu thừa.

Hỏi: Ở trong nhãn v.v… có bao nhiêu phân biệt?

Đáp: Lược có ba thứ: Một là, tự tánh phân biệt, nghĩa là chỉ duyên hiện tại chỗ duyên các hành tự tướng hành phân biệt, chỗ duyên các hành tức là năm trần, tự tướng hành là như sắc lấy xanh làm hành tướng, lúc nhãn thức duyên cũng mặc tình làm hành tướng xanh, gọi là hành tướng. Lại tự tướng hành tức năng duyên hành, chọn lựa cộng tướng hành, như lúc duyên xanh tức duyên vàng chẳng dính; hai là, tùy niệm phân biệt, ở xưa trước nơi từng thọ các hành, truy niệm hành phân biệt, chỉ duyên quá khứ; ba là, kế độ phân biệt, đối với vị lai, nay chẳng hiện tiền tư duy gây tạo hành phân biệt, tức chẳng phải có mà tính chấp là có, là cảnh phi lượng, nhưng nói về ba đời kế độ chẳng quyết định ở một đời, lại trong luận Tạp Tập trong phần ba phân biệt lại có bảy thứ phân biệt: Một gọi là ở duyên nhậm vận phân biệt, ở tự cảnh giới mặc tình chuyển vậy; hai, có tướng phân biệt, nghĩa là hai thứ phân biệt tự tánh và tùy niệm thủ cảnh quá khứ và hiện tại các thứ tướng vậy; ba, không tướng phân biệt, nghĩa là mong cầu cảnh tương lai, hành phân biệt; bốn, tầm cầu phân biệt; năm, dò xét phân biệt; sáu, nhiễm ô phân biệt; bảy, chẳng nhiễm ô phân biệt, bốn thứ phân biệt này (từ bốn tới bảy) đều dùng kế độ phân biệt để làm tự tánh, tại sao? Vì tư đạt vậy có lúc tầm cầu, có lúc dò xét, có lúc nhiễm ô, hoặc chẳng nhiễm ô các thứ phân biệt. Lại trong luận Nhiếp Đại thừa nói có mười thứ căn cảnh vi tế phân biệt. Luận nói: “Lại nữa, tổng gồm tất cả phân biệt, lược có mười thứ: một là, căn bản phân biệt, nghĩa là thức A-lại-da; hai là, duyên tướng phân biệt, nghĩa là sắc v.v…; ba là, hiển tướng phân biệt, nghĩa là nhãn thức v.v… đều là thức chỗ nương tựa; bốn là, duyên tướng biến khác phân biệt, nghĩa là già lão v.v… biến khác, lạc thọ v.v… biến khác, tham v.v… biến khác, thời tiết bức hại đổi thay rơi rụng v.v… biến khác, Nại-lạc-ca v.v… các thứ biến khác, và dục giới v.v… các giới biến khác; năm là, hiển tướng biến khác phân biệt nghĩa là tức như nói biến khác trước có các thứ biến khác; sáu là, tha dẫn phân biệt, nghĩa là nghe loại chẳng phải chánh pháp và nghe loại chánh pháp phân biệt; bảy là, chẳng như lý phân biệt, nghĩa là các ngoại đạo nghe loại chẳng phải chánh pháp phân biệt; tám là, như lý phân biệt, nghĩa là trong chánh pháp nghe loại chánh pháp phân biệt; chín là, chấp trước phân biệt, nghĩa là loại chẳng nhu lý tác ý, Tát-ca tà kiến làm gốc, sáu mươi hai kiến thú tương ưng phân biệt; mười là, tán động phân biệt, nghĩa là chư vị Bồ-tát mười thứ phân biệt”. Giải thích: Căn bản phân biệt nghĩa là thức A-lại-da là tự tánh căn các phân biệt khác cũng là phân biệt nên gọi là căn bản phân biệt. Duyên tướng phân biệt nghĩa là phân biệt sắc v.v… có duyên tướng như vậy. Hiển tướng phân biệt, nghĩa là nhãn thức v.v… đều là thức, chỗ nương tựa hiển hiện tợ tướng sở duyên kia vậy. Duyên tướng biến khác phân biệt, nghĩa là tợ ảnh sắc v.v… thức biến khác chỗ khởi phân biệt. Già lão v.v… biến khác, nghĩa là các thức (?) sắc v.v… tợ tướng lão v.v… khởi các biến khác, tại sao? Sắc bên trong bên ngoài v.v… đều có tướng già lão v.v… chuyển biến; v.v… là gồm bệnh chết biến khác, lạc thọ v.v… biến khác là, do lạc thọ nên thân tướng biến khác, như nói lại, là mặt mắt đoan nghiêm v.v… là gần khổ và chẳng khổ chẳng lạc thọ, tham v.v… biến khác nghĩa là do tham v.v… mà thân tướng biến khác v.v… là gồm sân si phẫn v.v… như nói phẫn v.v… hình sắc xấu ghét v.v… Thời tiết bức hại đổi thay rơi rụng v.v… biến khác, nghĩa là giết buộc v.v… khiến thân tướng v.v… đều sinh khởi biến khác, thời tiết thay đổi rơi rụng cũng khiến trong ngoài thân cây, hình tướng sắc v.v… đổi biến. Như nói lúc lạnh bức thiết v.v… thì thân v.v… biến khác. Nại-lạc-ca v.v… các thú biến khác v.v… tức gồm tất cả ác thú, sắc xấu kia v.v… biến khác cộng xong. và dục giới v.v… các giới biến khác là gồm trong sắc giới, vô sắc giới, không thức ảnh tượng tợ sắc v.v… Vậy, ở trong các trời và trong tỉnh lự cũng có các thứ hữu tình và khí sắc v.v… biến khác, như sức thần châu ma-ni vậy, các thứ sắc ánh sáng sạch đẹp biến khác. Hiển tướng biến khác phân biệt, nghĩa là do nhãn v.v… các căn rơi nương tựa, khiến ảnh tượng tợ sắc v.v… hiển hiện nhãn thức v.v… các thức các thứ biến khác, tức ở trong đây khởi các phân biệt, tức biết như nói ở trước, già lão v.v… biến khác tùy chỗ ứng là khởi biến khác, tại sao? như nói nhãn v.v… các căn có lợi động thức tối sáng vậy, như vô biểu sắc chỗ nương tựa biến khác, kia cũng biến khác, do lạc thọ v.v… biến khác cũng vậy, như nói lạc là tâm an định vậy, nói khổ là tâm tán động, tham v.v… thời tiết bức hại đổi thay rơi rụng cũng vậy, Nại-lạc-ca v.v… và dục giới v.v… nương thân biến khác, thức cũng biến khác, như đáng nên biết, trong vô sắc giới cũng có thọ v.v… chỗ làm biến khác, các thức phân biệt, tha dẫn phân biệt, nghĩa là bạn lành bạn dữ thân gần chỗ khởi và cùng lắng nghe chánh pháp và chẳng phải chánh pháp làm nhân phân biệt, tức là ngoại đạo Ca-tỳ-la và các Tao –kiệt đa trong chánh pháp chỗ có phân biệt, gọi là chẳng như lý và như lý phân biệt, hai thứ như vậy tùy chỗ đáng năng sinh, tà kiến chánh kiến hai thứ tương ưng phân biệt. Tát-ca tà kiến làm nhân, chỗ khởi sáu mươi hai (62) kiến tương ưng phân biệt, tức như trong kinh Phạm Võng nói khoảng trước sau phân biệt, nghĩa là ngã quá khứ là từng có ư? Phân biệt như vậy v.v… gọi là chấp trước phân biệt. Nói kiến thú nghĩa là phẩm loại, tán động phân biệt là tán loạn nhiễu động nên gọi là tán động. Đây tức phân biệt, cho nên nói là tán động phân biệt, đây tức nhiểu loạn, không trí phân biệt. Tại sao? Do đây nhiễu loạn Bát-nhã ba-la-mật vậy, trí không phân biệt tức là Bát-nhã ba-la-mật-da, nghĩa là các Bồ-tát mười thứ phân biệt. Nghĩa là các Bồ-tát năng phát nói năng, tha chuyển và chuyển chẳng xứng chân lý, mười thứ phân biệt. Tại sao?

Chứng hội, như chánh hiện tiền, chẳng thể nói vậy.

Hỏi: Ba phân biệt trước, trong tám thức có mấy thức năng đủ?

Đáp: Trong tám thức, chỉ thức thứ sáu đủ ba phân biệt, tự thức thứ bảy chỉ có tự tánh phân biệt, vì duyên hiện tại vậy. Hoặc có thể mạt-na cũng có kế độ, vì kế độ chấp ngã vậy, nếu luận về thể tánh thì kế độ phân biệt lấy tuệ làm tánh, tùy niệm lấy niệm làm tánh, phân biệt lấy tuệ làm tánh. Trong pháp chân như đã không tám thức hư vọng, do đó không phân biệt đây. Lại, các sư xưa trước đem mười thứ phân biệt căn cứ tám thức mà biện giải rộng.

Hỏi: Trong tám thức, mỗi mỗi có đủ bao nhiêu phân biệt?

Đáp: Thức thứ sáu đủ cả mười thứ phân biệt rộng lược, năm thức trước chỉ hai thứ tự tánh và mặc tình phân biệt, vì năm thức ở nơi tự cảnh giới mặc tình chuyển vậy. Thức thứ bảy có đủ ba thứ kế độ nhiễm ô có tướng phân biệt. Thức thứ tám đồng năm thức trước được có tự tánh măc tình phân biệt, nếu tự tánh mặc tình phân biệt tự hiện lượng, nếu kế độ nhiễm ô không tướng phân biệt là chỉ tỷ lượng và phi lượng. Nếu có tướng phân biệt một phần duyên hiện tại là thông cả ba lượng, một phần duyên quá khứ là chỉ tỷ lượng và phi lượng, nếu tùy niệm phân biệt vô lậu tức là hiện lượng, nếu hữu lậu tức tỷ lượng và phi lượng.

Hỏi: Cớ sao năm thức không phân biệt chấp?

Đáp: Phàm nói chấp, phải là ý của phân biệt tính lường mới năng chấp chặt, năm thức tuy có tuệ mà chỉ mặc tình, chẳng thể phân biệt tính lường, nên năm thức trước không, chỉ thức thứ sáu có vậy.

TÔNG KÍNH LỤC
Thời Bắc Tống, Thiền sư Trí Giác – Diên Thọ viện chủ chùa Tuệ Nhật, Vĩnh Minh tại Ngô Việt soạn tập.
Kinh số: 2016

 

QUYỂN 59

Hỏi: Hai môn hữu vi, vô vi là một hay là khác?

Đáp: Chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải hết, chẳng phải còn. Tại sao? Nếu là một thì trong kinh Nhân Vương không nên nói: “Các Bồ-tát v.v… với công đức hữu vi, công đức vô vi thảy đều thành tựu”. Lại trong kinh Duy-ma nói: “Bồ-tát chẳng hết hữu vi, chẳng trú vô vi v.v…”. Hai nghĩa đều rõ há là một ư? Nếu là khác, trong kinh Bát-nhã Đức Phật bảo Thiện Hiện: “Chẳng được lìa hữu vi nói hữu vi, chẳng được lìa vô vi nói vô vi” há thành khác ư? Nếu nói là đều sạch hết là, trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Ở hữu vi giới bày lý vô vi, chẳng diệt tướng của hữu vi, ở vô vi giới, bày pháp hữu vi, chẳng hoại tánh vô vi” thì hữu vô tánh tướng chẳng ngại đều còn. Nếu nói đều còn, như luận trước nói: “Hai thức pháp tánh giả đặt có”, nghĩa là không vô ngã là chỗ hiển bày chân như, có không đều chẳng phải, tuyệt đường tâm ngôn, thì trăm phủ định (bách phi) chẳng thể mê hoặc, bốn câu (Tứ cú) chẳng thể phân tích, có thể vì tình mà cho là có không, chỉ nên trí vượt ngôn tượng mới đạt hữu vi vô vi, chân tánh của duy thức vậy. Như trong luận Đại Trí Độ nói: “Lại nữa, phàm pháp sinh diệt là, nếu trước có tâm sau có sinh, thì tâm chẳng đợi sinh, tại sao? Vì trước đã có tâm vậy. Nếu trước có sinh thì sinh không chỗ sinh, lại sinh diệt là tánh trái nhau. Sinh thì chẳng nên có diệt, lúc diệt chẳng nên có sinh, vì vậy nên một thời chẳng thể được, khác cũng chẳng thể được, vậy thì không sinh, không sinh thì không trú diệt, nếu không sinh trú diệt thì không tâm số pháp, không tâm số pháp thì không tâm chẳng tương ưng. Hành các sắc pháp, sắc pháp không nên pháp vô vi cũng không. Tại sao? Nhân hữu vi nên có vô vi, nếu không hữu vi thì cũng không vô vi, cho nên không nên nói các pháp có. Lại trong kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn nói: “Pháp hữu vi vô vi, văn tự ngôn thuyết có sai biệt vậy”. Trong kinh Trì

Thế nói: “Pháp hữu vi như thật tướng, tức là vô vi.”

Hỏi: Tâm sở đủ mấy nghĩa, lập môn của tâm sở?

Đáp: Các bậc cổ đức giải thích: Nghĩa tâm sở có ba: Một, hằng y (luôn nương) tâm khởi; hai, cùng tâm tương ưng; ba, hệ thuộc ở tâm. Tâm vương duyên tổng tướng, như họa sư làm khuôn, tâm sở thông duyên tổng tướng biệt tướng, như đệ tử ở trong khuôn tổng tướng điền vào lắm nhiều màu sắc ,tức tâm sở ở nơi tâm vương gồm xanh, như lúc nhãn thức tâm vương duyên cảnh sắc xanh. Tổng tướng ấy lại chẳng làm nhiều loại hành giải. Tâm sở duyên biệt tướng, là như tác ý trong năm tâm sở, lấy cảnh răn tâm dẫn tâm làm biệt tướng v.v… trên bèn lãnh nạp tưởng tượng tạo tác các thứ hành tướng là thông duyên tổng biệt tướng.

Hỏi: Tâm vương và tâm sở là đồng hay khác biệt?

Đáp: Nói về tục thì tợ đồng tợ biệt, luận về chân thì chẳng phải tức chẳng phải lìa. Trong luận Duy thức nói: “Sáu vị tâm sở pháp như vậy, vì lìa tâm thể, mà có riêng tự tánh, vì tức là tâm phân vị sai biệt, giả sử vậy có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Nếu lìa tâm thể có riêng tự tánh, cớ sao thánh giáo nói chỉ có thức? Lại cớ sao nói tâm xa riêng hành, nhiễm tịnh do tâm, sĩ phu sáu cõi, trong luận Trang Nghiêm nói lại làm sao thông? Như kệ tụng nói:

“Cho tâm tợ hai hiện,

Như vậy tợ tham thảy…

Hoặc tợ ở tín thảy…

Không riêng pháp nhiễm tịnh”.

Nếu tức là tâm phân vị sai biệt, cớ sao thánh giáo nói tâm tương ưng, tha tánh tương ưng, chẳng phải tự tánh. Lại cớ sao nói tâm và tâm sở cùng thời mà khởi, như mặt nhật và ánh sáng. Trong luận Du-già nói: “Tâm sở chẳng phải tức tâm, nên nói lìa tâm có riêng tự tánh, vì tâm ưu thắng, nên nói duy thức v.v… tâm sở nương thế lực tâm mà sinh, nên nói tợ kia hiện, chẳng phải kia tức tâm. Lại thức tâm lời cũng gồm tâm sở, luôn tương ưng vậy, nói duy thức v.v… và hiện tợ kia đều không có lỗi. Đây y cứ theo thế tục, nếu y cứ thắng nghĩa, thì tâm sở và tâm chẳng vậy. Đó gọi là Đại thừa, diệu lý chân tục”. Trong luận Nhiếp Đại thừa có kệ tụng nói:

“Đi xa và riêng đi,

Không thân ngủ nơi hang,

Điều tâm khó điều đó,

Gọi là chân Phạm chí”.

Trong luận Bách Pháp giải thích: “Đức Như Lai y cứ ý căn xứ mà nói đi xa và riêng đi vậy. Tùy vô minh, ý thức duyên khắp tất cả cảnh vậy, nên gọi là đi xa. Lại các tâm tương tục mỗi mỗi chuyển vậy, không thật chủ tể, gọi là riêng đi. Không thân, tức tâm không hình chất, ngủ nơi hang, tức nương gá các căn ngầm chuyển trong thân, gọi là ngủ nơi hành vậy. Ngủ là tàng vậy, tức chỗ của tâm tích chứa tại trong thân, ý bày kệ đây là phá ngoại đạo chấp có thật ngã vậy. Đức Thế Tôn nói chỉ là tâm riêng đi (độc hành) không riêng biệt chủ tể, nên nói là riêng đi vậy. Lại từ vô thủy dạo khắp cảnh sáu trần nên gọi là đi xa, không riêng biệt tâm sở nên gọi là riêng đi, rõ biết không riêng biệt tâm sở vậy, sĩ phu sáu cõi. Trong luận Du-già nói: “Bốn đại không thức năng thành hữu tình sắc động tâm ba pháp tối thắng làm sở y tức là bốn đại. Động sở y tức là không, nghĩa là không giới bên trong, chẳng thủ bên ngoài, do trong nội thân có không giới đây vậy, do đó có động nên làm động y. Tâm sở y là thức ấy vậy, tức nói sáu cõi năng thành hữu tình, chẳng nói tâm sở giới vậy, cho tâm tợ hai hiện là, tợ trong đây là nói tợ chỗ ngoài tâm chấp thật pháp hai phần v.v… nên gọi là tợ. Không riêng nhiễm thiện pháp, nghĩa là chỉ tâm biến tợ hai phần kiến tướng. Hai phần lìa tâm biến khác riêng có pháp. Lại nói tâm biến tợ tham tín v.v… tham tín v.v… lìa ngoài tâm, không riêng nhiễm thiện pháp, thể tức tâm vậy, như hai phần vậy. Nên nói lìa tâm có riêng tự tánh, vì tâm ưu thắng vậy. Nói duy thức v.v… là đã nói lìa tâm có sở. Tại sao nói duy thức, tâm đi xa, riêng đi, nhiễm tịnh do tâm. Trong sáu cõi chỉ nói tâm là, vì tâm ưu thắng nên nói duy thức v.v… đây ưu thắng thế nào? Gồm có bốn nghĩa: Một, năng làm chủ; hai, năng làm y; ba, hành tổng tướng; bốn hằng quyết định, chẳng phải như tâm sở v.v… có lúc chẳng định. Lại nếu nương thể dụng hiển hiện đế thứ nhất, tức tâm vương là thể, tâm sở là dụng, tức thể dụng chẳng tức chẳng lìa vậy. Nếu nương thắng nghĩa, tức là nhân quả sai biệt đế, tức vương sở qua lại làm nhân quả, pháp nhĩ chẳng lìa vậy. Nếu nương chúng đắc được thắng nghĩa đế thứ ba, tức nương phân tích hiển bày. Nếu nương năng phân tích tánh y tha khởi nói chẳng phải tức. Nếu nương sở phân tích lý hai vô ngã nói, tức vương sở chẳng phải lìa. Nếu thắng nghĩa thắng nghĩa đế phế bỏ phân tích nói chỉ thứ tư, cũng chẳng nói tức lìa vậy, tức một chân pháp giới lìa ngôn tuyệt tướng, tức đạo lý vương sở đồng quy về một chan như vậy.

Hỏi: Tâm vương tâm sở làm sao rõ giả thật?

Đáp: Từ chủng sinh gọi là thật, nương tha lập gọi là giả, tâm pháp chỉ là thật có. Biến hành biệt cảnh trong tâm sở chỉ là thật có, ngoài ra các pháp hoặc giả hoặc thật, chân như vô vi tuy chẳng phải tự từ chủng không, cũng gọi là thật, vì chẳng y tha vậy. Hoặc các pháp danh nghĩa đều giả, chỉ một thứ chân như vô vi, danh giả mà thể thật, vì lìa ngôn thuyên vậy.

Hỏi: Trong luận Duy thức nói: Chỉ nói thức tức gồm tâm sở, vậy chân như cùng thức chẳng phải như tâm sở tại sao chẳng nói?

Đáp: Thức là thật tánh, thức là đều có, chẳng lìa thức, chẳng phải ngã pháp nương tựa, nên chỉ nói thức, mà chẳng nói chân như, nên biết chân như tức thức, thức tức chân như

Hỏi: Chân như tức thức, thức tức chân như, vả lại chân như chẳng phải chỗ biến hiện của thức sao thành duy thức?

Đáp: Tuy chẳng phải thức biến, thức thật tánh nên cũng gọi là duy thức, chân như lìa ngôn và năng tính chấp thức chẳng phải một chẳng phải khac, chẳng phải như sắc v.v… có thể nương tựa khởi chấp, nên chẳng phải chấp nương tựa. Trong đây chẳng nói như viễn (xa) trông sơ (xa). Ngôn cũng có thể nương tựa chấp pháp. Hàng học sau nương tựa khởi chấp vậy. Lại chân như đã chẳng phải chỗ thức chuyển biến, nên chẳng phải duyên thức, chẳng vì biến nên gọi là duy thức, chẳng lìa thức nên chánh danh duy thức.

Hỏi: Trong bách pháp phàm thánh gồm đủ chăng?

Đáp: Nếu phàm phu vị, căn cứ chung về chủng tử trong ba cõi chín địa thì đều đủ một trăm pháp, nếu quả vị chư Phật thì chỉ đủ sáu mươi sáu pháp, trừ căn bản phiền não có sáu, tùy phiền não có hai mươi, bất định có bốn, trong bất tương ưng hành có bốn, gồm số trừ đó cả thảy ba mươi bốn pháp.

Hỏi: Tâm gồm tất cả cớ sao chỉ nêu môn năm vị năm pháp?

Đáp: Tuy nêu trăm pháp, dùng làm cương yếu, trong đây năm vị lần lược đã gồm vô tận pháp môn, chẳng pháp môn nào vượt ngoài đây vậy. Tại sao? Trong luận Bách Pháp nói: Thứ nhất nói rõ tâm pháp, nghĩa là tám thứ tâm vương đây, trong pháp hữu vi thì đây là tối thắng. Tất cả thế gian và xuất thế gian không gì chẳng do tâm tạo. Thứ hai nói rõ tâm sở hữu pháp, cùng tâm vương đây thường tương ưng vậy, gọi là pháp tương ưng, so với tâm vương trước thì được tức là kém. Trước hơn sau kém, do đó thứ tự nói. Thứ ba sắc pháp là chỗ của tâm vương v.v… hiện ảnh, nghĩa là sắc pháp đây chẳng năng tự khởi, cốt yếu pháp nhờ biến hiện của tâm vương và tâm sở trước. Biến chẳng thân duyên, nên đặt để ảnh mà nói, hoặc thông bản chất. Hai tâm trước là năng biến, đây là sở biến, trước năng sau sở, do đó lần lượt nói. Thứ tư chẳng tương ưng hành, nghĩa là đắc v.v… hai mươi bốn pháp đây chẳng năng tự khởi, nhờ ba vị trước sai biệt giả lập, ba vị trước là thật, đây tức là giả, trước thật sau giả, do đó lần lượt nói. Thứ năm pháp vô vi, thì chẳng do đâu mà được hiển bày, nhờ chỗ bốn vị trước đoạn nhiễm thành tịnh mà hiển bày, bốn vị trước là hữu vi, đây tức là vô vi, trước hữu sau vô, do đó lần lượt nói. Lại trong luận Sao giải thích rộng: Thứ nhất tâm pháp tối thắng là, trong kinh Hoa Nghiêm có kệ tụng nói:

“Tâm như thợ vẽ giỏi,

Họa các thứ thế gian,

Tất cả trong thế gian,

Không pháp nào chẳng tạo”

Là tám thức tâm vương đây tối thắng, giống như người thợ vẽ giỏi, năng họa vẽ tất cả hình tượng trời người năm thú, cho đến hình tượng Phật Bồ-tát v.v… nhưng trong kinh nêu cử thí dụ Phật là chỉ lấy một phần ít, vì thợ vẽ chỉ vẽ được sắc uẩn, ngoài ra bốn uẩn cón lại tức chẳng thể vẽ. Trong pháp nếu là tám thức, tức năng thông tạo được năm uẩn. Vả như thức thứ sáu tương tục chẳng cùng vô minh và các phân biệt khác đều cùng (câu) sinh hoặc v.v… nếu tạo được nghiệp báo tổng biệt của địa ngục tức năng thông tạo được năm uẩn, cho đến nếu tạo được nghiệp báo tổng biệt của trời người tức tự họa được hình tượng trời người, nêu tu đầy đủ muôn hạnh thì chứng đắc hai quả chuyển y, tức tự họa vẽ được hình tượng Phật quả. Nên biết năm uẩn của tất cả thế gian và xuất thế gian đều là tự thức thứ sáu, họa vẽ được chẳng kén chọn y chánh báo, đều là tâm biến, do đó, tâm pháp độc xưng tối thắng. Thứ hai, tâm sở hữu pháp cùng đây tương ưng là, như trong luận Du-già có nói năm nghĩa lược biện giải tương ưng: Một, thời, đó là vương sở đồng thời khởi; hai, y, tức là vương sở đồng một căn sở y; ba, duyên, tức vương sở đồng một cảnh cảnh sở duyên; bốn, hành đó là vương sở ba lượng hành tướng đều đồng; năm, sự tức vương sở mỗi mỗi có tự chúng phần thể sự. Thứ ba, sắc pháp là chỗ hiện ảnh của hai pháp trước là, hiện nghĩa là biến, vì mười một thứ sắc đều là chỗ biến hiện của tâm vương tâm sở vậy. Ảnh nghĩa là ảnh tượng, là tương tợ lưu loại, tức tướng phần mười một thứ sắc pháp đây là lưu loại của bản chất, tợ nơi bản chất. Nếu không chất, tức tợ trong tâm nên nói là ảnh vậy. Biến chẳng thân duyên nên đặt ảnh mà nói, vì tám thức đều có nghĩa biến tướng phần duyên. Vả lại như lúc năm thức trước duyên năm cảnh trần, phải biến ảnh tượng mà duyên. Thức thứ sáu duyên pháp mười tám giới cũng biến tướng phần duyên. Lúc thức thứ bảy duyên kiến phần thức thứ tám làm ngã cũng biến tướng phần duyên, nếu thức thứ tám lúc duyên phù trần người khác, sắc của quả định và khế giới, cũng biến tướng phần duyên, tướng phần so với tám thức tức thân sở duyên duyên, bản chất so với tám thức tức sơ sở duyên duyên. Nói trên đây tạm so với hữu chất ảnh mà nói thì, nếu chỉ có tướng phần không bản chất, tức thức thứ tám tự duyên ba cảnh, thức định tuệ tự duyên sắc quả định. Thứ tư, phân vị sai biệt là, đắc v.v… hai mươi bốn pháp đây tức là y tha giả lập trên chủng hiện ba vị trước. Thứ năm, hiển bày thật tánh, tức năm vô vi, như trước đã giải thích. Lại thứ nhất, tám thức tâm vương là môn tối thắng năng duyên. Thứ hai, tâm sở hữu pháp cùng tâm tương ưng là môn cộng thắng đồng duyên. Thứ ba, sắc pháp ảnh tượng của tâm là môn cảnh giới sở duyên. Thứ tư, chẳng tương ưng pháp là môn phân vị kiến lập. Thứ năm, pháp vô vi là môn hiển bày thật tánh. như trên hơn kém hiển hiện, năng sở qua lại thành, giả thật phân tích so lường, có không ẩn hiển v.v… năng bày rõ vô tận pháp môn, vô tận pháp môn chẳng vượt ngoài năm vị trăm pháp, năm vị trăm pháp chẳng vượt ngoài hai vị sắc tâm, nhiếp ngọn về gốc, chẳng vượt ngoài một pháp duy tâm.

Hỏi: Tám thức chân nguyên, nơi muôn pháp nương dừng, nói về thể tánh đó đều có bao nhiêu thứ?

Đáp: Trong các kinh luận biện chung giải có ba thứ tánh, nói về năng sở nhiễm tịnh phân biệt, tùy sự nói ba, giả sử có cuộn buông đều chẳng lìa thức tánh. Hợp thì một thể không khác, khai thì ba tướng chẳng đồng, ba tướng chẳng đồng căn cứ dụng mà hành bố, một thể không khác y cứ tánh để viên dung. Hành bố mới tùy nghĩa để hành xử. Viên dung thì thuận tánh mà ngầm lắng. Nếu không hành bố thỉ không viên dung, như không vọng tình thì chẳng lập chân trí. Nhiễm tịnh đã mất hai đế chẳng thành. Do đó, nhân vọng mà biện chân, tại hành tướng mà phải đều tìm vết được gốc , mượn nhân duyên để phát minh. Pháp môn ba tánh đó thâu gồm cảnh giới thánh phàm, sự không mà chẳng tận, lý không gì chẳng cùng, nay nói ba tánh, ước theo các kinh luận cộng lập đó tức: Một, tánh biến kế sở chấp; hai, tánh y tha khởi; ba, tánh viên thành thật. Tánh biến kế sở chấp là, hàng ngu phu tính lường khắp cùng, chỗ chấp uẩn v.v… là thật ngã thật pháp, gọi là tánh biến, (lường khắp) gồm có hai: Một, tự tánh, gồm chấp các pháp thật có tự tánh; hai, sai biệt, riêng chấp thủ thường, vô thường v.v… thật có tự thể, hoặc y cứ danh biến kế nghĩa, như chưa biết trâu, nghe tên trâu, bèn suy lường nhân đạo lý gì mà gọi đó là trâu? Hoặc y cứ nghĩa biến kế tên, hoặc thấy vật thể chẳng biết tên nó bèn dối suy lường vật đây tên gì? như chưa biết trâu, cộng suy lường bảo: Là quỷ ư? Các biến kế đây, nói về thể thì chẳng vượt ngoài hai thể nhân pháp, nói về chấp thì chẳng vượt ngoài hai thứ danh nghĩa. Lại một, có biến (khắp) chẳng phải kế (lường), như các tâm vô lậu, thức hữu lậu thiện, năng duyên rộng khắp mà chẳng phải kế chấp, các tâm vô lậu, tức trí tuệ vô lậu của các thánh nhân, rõ các pháp không tức không pháp nào chẳng khắp (biến) đều không kế chấp gọi là chẳng phải kế, chỉ trí hậu đắc, thức hữu lậu thiện, tức hàng Bồ-tát địa tiền (trước sơ địa) tuy trong tâm hữu lậu năng tác quán vô ngã, cũng năng tác quán tất cả đều không có ngã, cũng là biến mà chẳng phải kế; hai có kế mà chẳng phải biến, như thức thứ bảy hữu lậu, luôn duyên kiến phần thức thứ tám khởi ngã chấp pháp chấp. Từ thức thứ sáu lúc vào sinh không quán, trong thức thứ bảy vẫn cón duyên kiến phần thức thứ tám mà khởi pháp chấp, nên biết kế mà chẳng phải biến; ba, cũng biến cũng kế, tức chúng sinh nhiễm tâm; bốn, chẳng phải biến chẳng phải kế, tức năm thức hữu lậu và thức A-lại-da thứ tám, mỗi mỗi rõ tự phần cảnh giới chẳng khắp cùng (biến) không tính lường tùy niệm phân biệt nên chẳng phải kế vậy. A-lại-da chỉ duyên ba thứ cảnh chủng tử căn thân và khí thế gian, còn chẳng năng duyên bảy thức hiện hành trước, nên chẳng phải biến chẳng phải kế, chủng tử hữu lậu năng giử ăng duyên, chủng tử vô lậu tức trì mà chẳng duyên, huống gì các cảnh khác? Lại các bậc cở đức nói: Chúng sinh nhiễm tâm, ở trong tự tánh y tha khởi, phải biết có hai thứ biến kế sở chấp tự tánh chấp: Một, tùy giác, tức hiện hành chấp; hai, quán tập tập khí tùy niên, tức chấp chủng tử, tánh y tha khởi là, nương các duyên khác hòa hợp sinh khởi, giống như huyễn sự, gọi là tánh y tha. Tánh viên thành thật là, một vị chân như viên mãn thành tựu.

Hỏi: Thế nào là lý tự tánh năng biến kế?

Đáp: Chuẩn cứ theo Bồ-tát hộ pháp nói: “Tâm phẩm thứ sáu thứ bảy chấp ngã pháp là năng biến kế, chỉ nói ý thức năng biến kế vậy.” Hỏi: Thế nào là lý tự tánh sở biến kế?

Đáp: Chuẩn cứ theo luận Nhiếp Đại thừa nói: “Là y tha, là sở duyên duyên, tâm biến kế v.v… vậy”. Đại sư Từ Ân – Khuy Cơ nói: “Trong ba tánh, là y tha khởi, nói sở duyên hẳn là pháp có. Tâm biến kế v.v… dùng đây làm duyên, thân tướng phần là hẳn y tha vậy, chẳng dùng viên thành mà làm cảnh vậy” nghĩa là chẳng tương tợ.

Hỏi: Trong ba tánh, biến kế là vọng tưởng tức không, y tha thuộc nhân duyên là có ư?

Đáp: Hai tánh đây, năng sở tương sinh đều không tự thể. Tại sao? Nhân vọng tưởng nên lập danh tướng, nhân danh tướng nên lập nhân duyên. Nếu vọng tưởng chẳng sinh, danh tướng sao có? Danh tướng chẳng có nhân duyên tức không, vì muôn pháp chẳng vượt ngoài danh vậy. Trong kinh Lăng-già có kệ tụng nói:

“Thí như việc tu hành,

Ở một chủng chủng hiện,

Ở kia không chủng chủng,

Tướng vọng tưởng như vậy”.

Giải thích: Đây là phá tánh vọng tưởng biến kế. Như hàng Nhị thừa tu các quán hạnh, hoặc lúc tác quán tưởng xanh, thì trời đất muôn vật không gì chẳng đều xanh vậy, vì xứ không xanh mà thấy xanh là do tâm biến vậy, ở một cảnh sắc các thứ chẳng đồn. Thí như phàm phu vọng thấy sinh tử, cũng là xứ không sinh tử vọng thấy sinh tử vậy. Lại trong kinh có kệ tụng nói:

“Thí như các thứ màng (ế),

Vọng tưởng các sắc hiện,

Màng không sắc chẳng sắc,

Duyên khởi chẳng biết vậy”.

Đây là phá tánh nhân duyên y tha khởi, như mắt bị bệnh mùa, chỗ thấy sai biệt chẳng đồng, kia thật chẳng phải có, chỗ duyên khởi pháp. Đây thì vọng tưởng thể không, nhân duyên không tánh, tức là viên thành rốt ráo một pháp, như người mắt sáng thấy hư không trong sạch, huống gì một chân tâm lại không chỗ có.

Hỏi: Trong ba tánh đây, mấy pháp là giả, mấy pháp là thật?

Đáp: Trong luận Tùy Thức nói: “Biến kế sở chấp vọng an lập, nên có thể nói là giả, không thể tướng, nên chẳng phải giả chẳng phải thật. Tánh y tha khởi, có thật có giả, là tánh tụ tập tương tục phân vị nên nói là giả, có tâm tâm sở vá sắc theo duyên sinh nên nói là thật có. Nếu không pháp thật thì pháp giả cũng không, vì pháp giả nương nhân thật mà khái niệm vậy. Tánh viên thành thật chỉ là thật có, chẳng y tha duyên mà khái niệm vậy”. Giải thích: Biến kế có danh không thật, vọng tình an lập, có thể nói là giả. Nói về pháp thể đó, đã không có tướng, chẳng phải giả chẳng phải thật, chẳng phải sừng thỏ v.v… có thể nói giả thật hẳn nương trên pháp có thể tổng biệt mà lập làm giả thật vậy. Y tha giả có ba thứ: một, tụ tập giả là như bình, bồn, hữu tình v.v… vậy. Pháp tụ tập có nhiều pháp một lúc nhóm tập thành vậy. Năng thành tuy thật mà sở thành là giả; hai, tương tục giả là như đời quá khứ đời vị lai v.v… chỉ có nhân quả là tánh tương tục, nhiều pháp trên nhiều lúc lập một giả pháp như Đức Phật nói: “Xưa là nai chúa nay là thân ta vậy” chỗ nương năm uẩn, từng sát-na diệt là, tuy thể là thật, mà nhiều pháp đây tương tực giả lập một hữu tình, đến nay vẫn còn vậy; ba, phân vị giả là như chẳng tương ưng hành, tánh phân vị nên đều là giả, trên một thời một pháp mà lập, như trên một sắc, gọi là hữu lậu có thấy có đối, cũng gọi là sắc v.v… đều là ở trên một pháp giả khái niệm vậy. Nếu kia thật là nên có nhiều thể, như phẫn, hận v.v… đó đều giả đây gồm. Tâm tâm sở và sắc từ chủng nhân duyên sinh nên nói là thật. Lại ba tánh tức là một tánh, một tánh tức là không tánh. Tại sao? Biến kế không tướng, y tha không sinh, viên thành không tánh, trong kinh Giải Thâm Mật nói: “Người quàng mắt như biến kế, hiện xanh vàng như y tha, mắt trong sáng như kiên thành”. Trong luận Nhiếp Đại thừa nói: “Tánh phân biệt như rắn, tánh y tha như dây, nếu người duyên tướng bốn trần, phân chiết dây đây chỉ thấy bốn tướng, chẳng thấy riêng dây, chỉ thấy tướng sắc hương vị xúc vậy. Dây chẳng phải thật có, vì lìa ngoài bốn trần không riêng có dây”. Do đó trong luận có kệ tụng nói:

“Nơi dây khởi biết rắn,

Thấy dây thì không cảnh,

Nếu biết dây phân rồi,

Biết dây như biết rắn”.

Nếu biết tánh của dây chia chẻ là không, thì ví như trên dây vọng sinh tưởng rắn. Trong luận nhiếp Đại thừa nói: “Bồ-tát chẳng thấy trần bên ngoài, chỉ thấy ý ngôn phân biệt, tức rõ tánh y tha”. Làm sao liễu biệt pháp đây? Nếu lìa nhân duyên, mà căn trần đã chẳng thành, pháp đây không nhân duyên, làm sao được sinh, y cứ chân quán thứ nhất vào tánh y tha, do chân quán thứ hai trừ tánh y tha, thì duy thức tưởng dứt ý ngôn, phân biệt hiển hiện, tợ chỗ nghe và tư duy tất cả nghĩa, cho đến tợ chỉ có thức tưởng, đều chẳng được sinh. Duyên sinh có hai, đó là tánh phân biệt và tánh y tha. Tánh phân biệt đã diệt, tánh y tha lại chẳng được sinh. Đã không hai cảnh nên tất cả nghĩa, cho đến tợ duy thức tưởng đều chẳng được sinh. Duy thức tưởng còn chẳng được khởi, huống gì các ý ngôn phân biệt khác mà đáng được sinh. Bồ-tát trú xứ nào? Chỉ trú không phân biệt, trong tất cả danh nghĩa bình đẳng, bình đẳng, lại nương hai thứ bình đẳng, đó là năng duyên sở duyên. Năng duyên tức trí không phân biệt, vì trí không phân biệt nên xứng bình đẳng. Sở duyên tức là cảnh chân như, cảnh cũng không phân biệt nên xứng bình đẳng. Lại cảnh trí đây chẳng trú trong nghĩa năng thủ sở thủ. Thí như hư không nên nói là bình đẳng, bình đẳng do nghĩa này nên Bồ-tát được vào tánh chân thật. Vị đây chẳng thể nói năng, vì tự sở thuyên vậy, lúc chứng lìa giác quán tư duy phân biệt vậy, các bậc cổ đức có hỏi: “Chỗ ngã kiến duyên ảnh tượng nếu là y tha có, thì nên có tánh y tha thật ngã chăng?” Đáp: “Tướng đây nương nhân duyên sinh, chỉ là tánh y tha, pháp của huyễn có, mà chẳng phải là ngã, do vọng chấp kia làm ngã vậy. Nói vọng chấp, đây có hai lớp tướng, ước về tướng đây từ nhân duyên sinh có lực năng sinh tâm, đây mới là có tên pháp tánh y tha, ở đây chẳng xứng nghĩa biên pháp sở chấp, gọi là biến kế sở chấp, mới gọi là không, như người mờ tối chấp đá là trâu. Đá thể chẳng không, ngã kiến sở duyên duyên tướng y tha có, như đá vốn chẳng phải là trâu, vọng tâm chấp là trâu, chỗ chấp trâu đây, thể nó toàn không. như tướng phần vốn chẳng phải ngã, vọng tâm chấp làm ngã, sở chấp đây thể nó toàn không, chỉ có tâm năng chấp mà không ngã sở chấp, nghĩa là ở xứ đá đây, có đá sở duyên mà không trâu sở chấp, ở trên tướng phần đây, có pháp sở duyên mà không ngã sở chấp. Lại ví như người ở phương nam chẳng biết lông lạc đà, từng đến một xứ nọ nghe nói lông rùa, về sau chợt thấy lông lạc đà, do chẳng biết nên lầm cho lông lạc đà lấy làm lông rùa, như sở chấp thật ngã pháp vậy. Trong luận nói: “Có nghĩa tất cả và tâm sở pháp, do hai phần lục huân tập và sở biến, từ duyên sinh nên nói là y tha khởi, biến kế ngã vọng chấp đó là quyết định thật có không một khác, đều cùng (câu) và chẳng đều cùng v.v… hai đây gọi là tánh biến kế sở chấp.

Hỏi: Trong ba tánh, mấy tánh chẳng thể diệt, mấy tánh có thể diệt?

Đáp: Căn cứ theo luận Phật Tánh nói: “Hai tánh chẳng thể diệt, một tánh có thể diệt. Tại sao? Tánh phân biệt xưa nay là không nên chẳng thể diệt. Tánh chân thậy xưa nay là chân nên chẳng thể diệt. Tánh y tha tuy có chẳng chân thật, cho nên có thể diệt, do vì phân biệt”. Trong luận Trung Biên nói: “Tánh phân biệt, đó là sáu trần, trọn chẳng thể được, giống như hoa đốm hư không. Tánh y tha, nghĩa là chỉ loạn thức có, chẳng phải thật vậy, giống như huyễn vật, tánh chân thật, nghĩa là năng thủ sở thủ cả hai đều không chỗ có, chân thật có không vậy, giống như hư không.”

Hỏi: Tướng y tha khởi chỉ là tự tâm vọng phân biệt có, lý sự đều tịch, danh thể đều hư, cớ sao có mừng lo chỗ hàng cảnh giới?

Đáp: Thí như đi đêm thấy chiếc ghế cho là quỷ, nghi sợi dây cho là rắn. Rắn và quỷ đó, danh thể đều không, tánh tướng hằng lặng lẽ, tuy chẳng thể được, mà sinh tâm khiếp sợ, vì thể dối mà thành sự vậy. Trong Thanh Lương Sớ nói: “Nếu y cứ luận Nhiếp Đại thừa nói: Thí dụ đều thí dụ tánh y tha khởi, nhưng đều vì xưa trừ nghi ngờ, chỗ nghi ngờ chẳng đồng nên chỗ thí dụ cũng khác một vì người ngoài nghi tướng y tha khởi, chỉ là vọng phân biệt có, chẳng phải nghĩa chân thật, bèn liền sinh nghi rằng: Nếu không nghĩa thật, sao có chỗ hành cảnh giới? Nên nói là như huyễn, nói huyễn là, huyễn làm chỗ duyên sáu xứ, đâu có thật ư? Hai, nghi rằng: Nếu không thật, sao có tâm tâm pháp chuyển? Nên nói là như dương diệm, vụt động chẳng phải nước tợ nước, vọng có tâm chuyển. Ba, nghi rằng: Nếu không thật sao có ái chẳng phải ái thọ dụng? Nên nói như trong mộng, thật không nam nữ mà có ái chẳng phải ái thọ dụng? Nên nói như trong mộng, thật không nam nữ mà có ái chẳng phải ái thọ dụng, lúc tỉnh cũng vậy; bốn, nghi rằng: Nếu không thật sao có hý luận ngôn thuyết? Nên nói như vang. Thật không có tiếng, mà người nghe cho là có; năm, nghi rằng: Nếu không thật sao có nghiệp quả thiện ác? Nên nói như ảnh. Nghĩa là như ảnh tượng trong gương nên cũng chẳng phải thật; sáu, nghi rằng: Nếu không thật cớ sao Bồ-tát làm sự lợi lạc? Nên nói như hoá, nghĩa là biến hóa, tuy biết chẳng thật, mà việc hóa Bồ-tát cũng vậy, vì vậy, muôn pháp tuy không có thể dối thành sự, một chân chẳng phải tánh có không, tùy duyên thì lắng vậy cứng ngưng thường tùy vật hóa, rối ren khởi làm chẳng động chân như.

error: Alert: Content selection is disabled!!