ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA THÀNH PHẬT KINH SỚ

A-xà-lê Nhất Hạnh ghi chép

 

 

Phẩm 1: NHẬP MÔN CHÂN NGÔN TRỤ TÂM

1. Giải thích chung về Đức Tỳ-lô-giá-na thành Phật:

Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì:

Tiếng Phạm Tỳ-lô-giá-na là tên khác của mặt trời, nghĩa là nghĩa trừ tối khắp sáng; nhưng mặt trời ở thế gian thì có giới hạn, nếu chiếu ở bên ngoài thì không thể chiếu đến bên trong, sáng ở bên này thì không đến bên kia; lại chỉ sáng ban ngày thì không sáng ban đêm; ánh sáng trí tuệ Như lai thì không phải như vậy, có công năng chiếu sáng khắp tất cả mọi nơi, không có trong ngoài, nơi chốn, ngày đêm khác nhau.

2. Nêu ví dụ:

a) Ví dụ một: Lại nữa, sự vận hành của mặt trời ở cõi Diêm-phù- đề, khiến tất cả cây cối, lùm rừng, tùy theo phần tánh của chúng đều được lớn thêm, các công việc ở thế gian nhờ đó được thành tựu. Ánh sáng Đại Nhật Như lai chiếu khắp pháp giới, cũng khai phát các gốc lành cho vô lượng chúng sinh một cảnh bình đẳng , cho đến sự nghiệp thế gian, xuất thế gian đều được tốt đẹp, đều do đây mà thành tựu.

b) Ví dụ hai: Lại như mây dày tối tăm che khuất mặt trời thì, cũng không phải mặt trời bị mất đi. Gió lớn thổi mây đi thì ánh sáng mặt trời hiện ra, cũng không phải mặt trời mới sinh, mặt trời tâm Phật cũng như thế, dù bị mây dày vô minh, phiền não, nói suông che lấp, nhưng mặt trời tâm Phật vẫn không bị giảm, rốt ráo tướng thật các pháp Tam-muội tròn sáng không bờ bến, vẫn không làm tăng thêm. Do các nhân duyên như thế, mặt trời thế gian không thể ví dụ, chỉ lấy một phần nhỏ tương tự kia, cho nên phải thêm chữ Đại vào, mà gọi là “Đại Tỳ-lô-giá-na”.

3. Giải thích:

–  Thành Phật, tiếng Phạm đầy đủ phải nói là thành Tam-bồ-đề. nghĩa là Chánh giác chánh tri, nghĩa là dùng trí như thật, biết rõ quá khứ, vị lai, hiện tại số chúng sinh chẳng phải số chúng sinh, hữu thường, vô thường… Tất các pháp đều hiểu biết rõ ràng, nên gọi là Giác; mà Phật tức là giác, cho nên văn lược , chỉ là nói thành Phật.

– Thần biến gia trì: Xưa dịch là thần lực che chở, hoặc được Phật che chở , nhưng ở đây (Đức Phật) tự chứng Tam-bồ-đề, vượt ngoài tất cả tâm địa, hiểu rõ các pháp vốn bất sinh, đó là chỗ “lời nói đều rốt ráo, tâm hành cũng vắng lặng”. Nếu xa lìa năng lực oai thần của Như lai thì dù Bồ-tát Thập địa cũng không đạt đến cảnh giới kia, huống chi những người còn trong sinh tử.

4. Ý nghĩa của Đức Thế-tôn:

Bấy giờ, Đức Thế-tôn vì nguyện đại bi từ thuở trước, mà nghĩ rằng: Nếu ta chỉ trụ trong cảnh giới như thế thì các hữu tình không thể nhờ đó mà được lợi ích. Vì thế Như lai trụ ở thần thông tự tại gia trì Tam-muội, khắp vì tất cả chúng sinh, chỉ bày các đường để vui mừng thấy thân, nói các tánh dục để ưa thích nghe pháp, tùy theo các tâm hành khai mở pháp môn quán chiếu, nhưng sự ứng hóa này không từ thân, hoặc miệng, hoặc ý của Tỳ-lô-giá-na sinh ra, trong bất cứ thời gian, không gian, bờ mé sinh diệt đều không thật có. Ví như nhà ảo thuật, gia trì năng lực chú thuật vào cỏ thuốc hiện ra những việc chưa từng có, cảnh năm căn đối diện làm vui tâm chúng sinh, nếu bỏ gia trì thì sau đó mất đi. Huyễn ảo của Như lai Kim Cang cũng giống như vậy, duyên hết thì diệt, cơ khởi thì sinh, ngay nơi sự mà chân không có cùng tận. Vì thế nói thần lực che chở kinh; nếu theo bản Phạm thì nên nói đủ là Đại Quảng Bác Kinh Nhân-đà-la Vương.

5. Giải thích danh từ:

Nhân-đà-la Vương là Đế-thích: nói kinh này là kho bí yếu của tất cả Như lai, là oai tức đặc biệt tôn quý trong các giáo pháp Đại thừa, giống như Thiên Mục là người đứng đầu Thích Thiên, nay sợ đề kinh quá rộng cho nên không nêu đủ.

Phẩm Nhập môn Chân ngôn Trụ Tâm: Bản Phạm có đủ hai đề:

  1. Phẩm Tu Chân Ngôn Hạnh.
  2. Phẩm Nhập môn Chân ngôn Trụ Tâm.

Trộm nói nghĩa của nhập trụ gồm cả tu hành, do văn rườm rà nên chỉ để một đề mà thôi.

Chân ngôn: Tiếng Phạm là Mạn-đát-la, tức là chân ngữ, như ngữ, không vọng, không khác.

Thích Luận của ngài Long Thọ nói là Bí mật hiệu, xưa dịch là Chú, không phải dịch đúng.

6. Phẩm này nói chung về đại ý của kinh:

Phẩm này nói chung về đại ý của kinh, cái gọi là tự tâm chúng sinh, tức là trí Nhất thiết trí, hiểu rõ như thật, gọi là Nhất thiết trí giả, vì thế ở đây dạy các Bồ-tát, chân ngôn là môn, tự tâm phát Bồ-đề, tức tâm đầy đủ muôn hạnh, tâm thấy Chánh đẳng giác; tâm chứng Đại Niếtbàn, phát khởi tâm phương tiện, cho nên nói: Phẩm Nhập môn Chân ngôn Trụ Tâm.

Nhập môn Chân ngôn lược có ba việc:

  1. Thân mật môn.
  2. Ngữ mật môn.
  3. Tâm mật môn.

Việc ấy dưới đây có nói rộng. Hành giả dùng ba phương tiện này, để tự thanh tịnh ba nghiệp, thì được Tam-muội của Như lai che chở, cho đến có thể ngay trong đời này, đầy đủ Ba-la-mật, không cần trải qua nhiều kiếp số, tu hành đầy đủ các hạnh đối trị, do đó trong Đại Phẩm chép: hoặc có Bồ-tát khi mới phát tâm, liền bước lên địa vị Bồ-tát không lui sụt, hoặc có khi mới phát tâm, liền được Vô thượng Bồ-đề, thường xoay bánh xe pháp, ngài Long Thọ cho rằng như đi đường xa, người cỡi xe dê mà đi thì lâu mới đến, người đi xe ngựa còn hơi nhanh, nếu người nương thần thông thì trong khoảnh khắc khởi tâm liền đến chỗ muốn đến, không được nói trong thời gian khởi làm sao mà đến được.

Tướng thần thông như thế không được sinh nghi, là ý chỉ sâu kín của kinh này.

7. Đi vào văn kinh:

Kinh chép: Tôi nghe như vầy:

Một thời, Bạc-già-phạm, trụ trong cung pháp giới Như lai gia trì năm nghĩa đầu của kinh, như trong luận Trí Độ có nói rộng, nhưng bản Phạm kinh này, thiếu không có tựa chung, Sa-môn Nhất Hạnh nói đại bản Tỳ-lô-giá-na, có mười muôn bài kệ, vì sâu rộng nên khó tu trì, bậc Thánh truyền pháp, phải dò xét tông yếu kinh này, gồm hơn ba ngàn bài tụng, văn nghĩa hành pháp của chân ngôn lược bỏ cả, vì không phải bản chính của Đại kinh nên không nêu tựa chung; nay so sánh thì chẳng tổn hại gì cho nghĩa .

8. Nghĩa của Bạc-già-phạm:

Bạc-già-phạm: các vị Luận sư giải thích đầy đủ gồm có sáu nghĩa, nay trong tông này, Bạc-già-phạm có nghĩa là Năng Phá, như người cầm vũ khí sắc bén thường hàng phục được kẻ thù. Những bản khác không có danh từ này, có nhiều bàn bạc xét sự tích ngài, nên hiệu là Năng phá.

Thế-tôn cũng như thế, dùng ánh sáng trí tuệ rộng lớn, phá tất cả phiền não, vô minh của thức tâm, những thứ này vốn tự vô sinh, cũng chẳng tướng mạo, nhưng khi mặt trời trí tuệ xuất hiện thì bóng tối hoặc nghiệp tự tan biến, vì thế gọi là nghĩa phá. Thích luận cũng chép: Bàgià dịch là Phá, Bà dịch là Năng phá, Phật có khả năng phá dâm, nộ, si nên gọi là Bà-già-bà.

Hàng Nhị thừa tuy phá ba độc cũng không hiểu rõ hết. Như vật đựng hương thơm thì vật đó có mùi thơm . Lại như đốt cháy cây cỏ, dùng sức yếu kém thì tro than không hết; Như lai như vào kiếp lửa đốt cháy, tất cả đều cháy hết, không khói, không tro, nên gọi là Bà-già-bà.

9. Dẫn luận:

Lại nữa, Đế-thích Thanh Luận cho rằng người nữ là Bạc-già, nghĩa là muốn tìm nhân duyên để dứt bỏ phiền não, lại có nghĩa là từ đó sinh ra. Kim Cương Đảnh Tông thì dịch nghĩa này là: Người nữ tức là Bát-nhã Phật Mẫu, người có tri kiến vô ngại, đều từ đó sinh ra, họ có chí cầu nhân duyên được tương ứng, mọi phiền não nói suông đều dứt hẳn, khác với dục vọng thế gian nóng bỏng, chỉ tạm dừng trong chốc lát, mà thật ra lại càng thêm. Vì Mật Giáo không thể nói thẳng ra được, nên thường diễn tả bằng ẩn ngữ như vậy. Người học nên suy nghĩ từng thứ một.

Lại, Bạc-già-phạm tức là đới hữu thanh, như người có nhiều tiền của, gọi là người giữ gìn tài sản, do có vàng, nên gọi là người giữ vàng: Như lai vì có đủ các đức tốt đẹp nên gọi là Trì chúng đức.

Thích Luận cũng chép: Bà-già dịch là đức, Bà dịch là Có, do đó Bà-già-bà dịch là có đức.

Lại, Bà-già dịch là danh thanh, Bà dịch là Có, vì thế Bà-già-bà dịch là hữu danh thanh. Tất cả thế gian không ai có đức thanh danh như Phật, chính là nghĩa ấy.

10. Bạc-già-phạm cũng dịch là Thế-tôn:

Trong kinh thường dịch là Thế-tôn, đó là từ dùng để khen ngợi (khen ngợi) công đức, theo ngữ pháp Tây Vực, khi nói về người nào thì phải có từ tôn xưng, không dám nói thẳng tên vị ấy ra, trước phải khen ngợi công đức của họ, như nói: Đại trí Xá-lợi-phất! Thần thông Mục-kiền-liên, Đầu-đà Đại Ca-diếp, Trì luật Ưu-bà-ly… cho nên trong kinh này gọi là Bạc-già-phạm Tỳ-lô-giá-na. Ở đây cũng thuận theo văn pháp Trung quốc mà đặt ra danh từ Thế-tôn ở dưới.

Kinh chép: Bạc-già-phạm trụ Như lai gia trì: Bạc-già-phạm: tức là Bản địa pháp thân Tỳ-lô-giá-na.

11. Nói về Như lai:

Kế là nói: Như lai, là thân gia trì của Phật, chỗ ở của Như lai gọi là thân thọ dụng của Phật, tức thân này là chỗ ở gia trì của Phật. Tâm vương của Như lai, các Đức Phật an trụ mà an trụ trong đó, đã từ năng lực gia trì khắp mọi nơi sinh ra, tức là không hai không khác với pháp thân vô tướng, lại dùng thần lực tự tại giúp tất cả chúng sinh thấy dung mạo mật thân, nghe lời mật ngữ, ngộ pháp mật ý, tùy theo căn tánh họ mà chia ra các thứ khác nhau, tức chỗ ở này gọi là chỗ Gia trì.

12. Nói về chổ ở:

Lại nữa, giải thích khen ngợi gia trì chỗ ở, nên gọi là Quang đại kim cang pháp giới cung. Đại: là không có bờ mé, Quảng: là không thể tính đếm đo ường, Kim cang: là dụ cho trí tướng thật, vượt qua tất cả đạo lý lời nói tâm hành, thích hợp với Vô sở y, không chỉ bày các pháp, không có đầu, giữa, sau, không tận cùng, không hư hoại, lìa các tội lỗi, không thể thay đổi, không thể phá hủy, nên gọi là Kim cang.

13. Ví dụ như vật báu Kim cang:

Như vật báu Kim cang ở đời, có ba tính chất quý:

  1. Không thể phá hư.
  2. Hơn hết trong các thứ báu.
  3. Quý nhất trọng các khí cụ chiến tranh.

Ba thứ này so sánh với ba thứ Kim cang Tam-muội trong Thích Luận, ý phần lớn giống nhau.

Pháp giới là trí thể Kim cang rộng lớn, trí thể này, có chỗ nói là tướng thật trí thân Như lai, dùng để gia trì, tức là công đức chân thật dùng để trang nghiêm chỗ ở, Cảnh tâm vương khéo trú gọi là Cung, cung này là nơi các vị Cổ Phật thành “Đạo”, có chỗ nói là cung trời Ma-hê-thủ-la.

Thích Luận chép: Năm chỗ ở Na-hàm trong thiền thứ tư, gọi là trời Tịnh Cư vượt qua cõi đó, có chỗ ở của Bồ-tát Thập Trụ, cũng gọi là Tịnh Cư, tên là Đại tự tại Thiên vương. Nay Tông này nói về nghĩa, vì thần tâm tự tại gia trì nương gá nên gọi là cung Tự tại Thiên vương . Nghĩa là tùy theo chỗ Như lai có ứng, đều là cung này, không chỉ có người đã ra ngoài ba cõi, tất cả người trì Kim cang đều đến nhóm họp.

14. Nói về quyến thuộc tốt:

Kế là nói quyến thuộc tốt. Như lai ở trong cung này, là ở một mình hay có quyến thuộc? Do đó nói trong đây có vô biên quyến thuộc thường đến nhóm họp, cái gọi là Chấp kim cang…

Tiếng Phạm là Phạt-chiết-la Đà-la, Phạt-chiết-la: là chày Kim cang. Đà-la: nghĩa là cầm nắm, giữ gìn, vì thế xưa dịch là Chấp kim cang, nay dịch là Trì kim cang, được cả hai cách giải thích sâu cạn, đối với nghĩa là hơn, cho nên tùy văn xen vào lời ấy.

15. Nói về ấn Kim cang:

Nếu theo thường tình của thế đế thì nói là Sinh thân Phật, thường có năm trăm vị Thần Chấp kim cang kính trọng đi theo hầu hạ, nhưng mật ý của tông này thì Phạt-chiết-la là Trí ấn kim cang của Như lai, như thế trí ấn kia số không đếm được người có khả năng giữ gìn ấn này thì lại có rất nhiều (vô biên). Vì sao? Vì chỗ tâm vương đã trú, chắc chắn có nhiều tâm sở như cát bụi, lấy làm quyến thuộc. Nay tâm vương Tỳlô-giá-na tự nhiên thành giác ngộ, bấy giờ tất cả tâm sở đều nhập vào cảnh Kim cang, thành trí ấn Như lai nội chứng công đức khác nhau, Trí ấn như thế, chỉ Phật và Phật mới giữ gìn được. Y theo nghĩa Bồ-đề thì có vô lượng, vô biên trì Kim cang ấn, Y theo nghĩa Phật đà thì có vô lượng, vô biên Trì kim cang, do các đức này, đều một tướng một vị đến chỗ mé thật, nên gọi là nhóm họp. Nếu có chút phần nào chưa bình đẳng, một pháp nào chưa đầy đủ thì không được gọi là tất cả nhóm họp. Nhưng dùng thần lực tự tại để gia trì thì từ tâm vương Tỳ-lô-giá-na hiện ra thân tôn đặc gia trì, bấy giờ vô lượng pháp môn quyến thuộc, mỗi vị đều hiện thân Chấp kim cang, hiển phát oai thế lớn mạnh của Như lai. Ví như Đế-thích tay cầm Kim cang, đánh tan quân Tu-la, nay các Chấp kim cang này, cũng giống như vậy, mỗi vị theo một môn, cầm khí vụ Đại không chiến đấu, có công năng phá hoại phiền não vô tướng cho chúng sinh, vì thế so sánh nhau.

Như lai tín giải du hý thần biến sinh, đại lầu các Bảo vương, cao không có chính giữa hay ngoài bìa, dùng các thứ tốt đẹp sang quý tô điểm trong đó, thân Bồ-tát làm tòa Sư tử, Đại chúng đã nhóm họp lẽ ra có chỗ nói pháp, cho nên kế là nói lầu gác để ở và tòa Sư tử.

16. Nói về Tín giải:

Tín giải là bắt đầu từ chân chính phát tâm cho đến thành Phật, ở khoảng giữa đó gọi chung là địa Tín giải. Tiếng Phạm là Vy-ngật-lýní-đa là nghĩa là hớn hở dạo chơi, thần biến, nghĩa là từ khi mới phát tâm đến nay, trồng nhiều gốc lành, khởi các hạnh nguyện, trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sinh, thường tiến lên cao hơn, không có dừng nghỉ, tức là nghĩa vượt lên.

Như người ca múa chuyển động, có thể dùng thân, miệng, ý một cách khéo léo làm cho mọi người vui khắp, vì thế sự vượt lên này được gọi là dạo chơi, dạo chơi như thế tức là thần thông tự tại của Bồ-tát. Nói Tỳ-lô-giá-na khi còn hành Đạo Bồ-tát, dùng năng lực Tam-muội nhất thể nhanh chóng, cúng dường vô lượng Thiện tri thức, thực hành hết vô lượng các độ môn, pháp tự lợi lợi tha đều đầy đủ, nếu được như thế thì trí báu Như lai sẽ nhóm thành, bí mật trang nghiêm pháp giới lâu quán, cao hơn tất cả đối với tất cả thật báo sinh ra, giống như Chân-đà ma-ni đứng đầu các thứ báu, vì thế nói du hí thần biến sinh ra lầu gác Bảo vương, cao rộng vô cùng, phải biết rộng khắp không ranh giới, vì ngoài bìa không thật có, nên ở giữa cũng hông thật có, đây thì khắp tất cả xứ thân đều là chỗ ở, phải biết lâu quán như vậy ở cùng khắp tất cả nơi chốn.

17. Nói về tướng lầu gác trang nghiêm:

Kế là nói tướng lầu gác trang nghiêm, giống như có người dùng các thứ kim cang nhiều màu sắc để tô điểm kim cang, nhưng thể tánh của nó không có khác nhau, ở đây cũng vậy, lại dùng các thứ công đức quý báu của Như lai, để tô điểm lầu gác Bảo vương. Vì sao? Vì không có pháp nào xuất ra tánh báu như thế; Nhưng tướng vắng lặng bậc nhất, dùng Thần lực che chở của Như lai, khiến người đáng độ, tùy theo pháp môn là biểu tượng, nếu thấy, nghe, tiếp xúc, hiểu biết được thì lấy đây làm cửa mà vào pháp giới. Như nhân duyên Đồng tử Thiện Tài vào cung điện Di-lặc.

18. Thân Bồ tát làm tòa sư tử:

Trong đây nên nói rộng thân Bồ-tát làm tòa Sư tử; trên nói cung Kim cang pháp giới tức là thân Như lai, sau nói về lầu gác lớn Bảo Vương, cũng chính là thân Như lai. Nay nói tòa Sư tử, nên biết cũng vậy. Sở dĩ nói thân Bồ-tát là vì khi còn hành đạo Bồ-tát, theo thứ lớp tu hành “Địa Ba-la-mật” cho đến Địa thứ mười một. Phải biết Địa sau lấy Địa trước làm nền tảng, vì thế nói Như lai dùng thân Bồ-tát làm tòa Sư tử.

Thích luận chép: Ví như sư tử ở trong các loài thú bước đi một mình mà không lo sợ, Phật cũng như vậy, ở trong chín mươi sáu thứ ngoại đạo, hàng phục tất cả không sợ hãi, nên gọi là Sư Tử trong loài người, chỗ Như lai ngồi, dù trên giường hay dưới đất, đều gọi là tòa Sư tử.

Nay nghĩa trong tông này nói: Sư tử là tâm Bồ-đề mạnh mẽ, từ khi phát tâm đến nay, được tiến lên thế lực rộng lớn, không yếu hèn, giống như sư tử hể con gì bị chúng bắt thì nhất quyết là được không để mất, tức là nghĩa tùy ý cứu người không luống uổng, nếu giải thích lược qua, nói rằng thâm tâm kính pháp của các Bồ-tát, cho đến dùng thân làm tòa Sư tử để mang đội Phật, nên gọi là thân Bồ-tát làm tòa Sư tử. Kim cang kia gọi là Hư không vô cấu Chấp kim cang, cho đến Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, các bậc Thượng thủ như thế, trong mười cõi Phật chúng trì, Kim cang nhiều như số cát bụi đều đông đủ, và các Bồ-tát như Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng… Các Đại Bồ-tát vây quanh trước sau mà nói pháp, kế là nói về chúng cùng nghe.

19. Hỏi đáp về nói trước:

Hỏi: Kinh do Phật nói, vì sao nói về chỗ ở của quyến thuộc trước?

Đáp: Ví như vua trong một nước nếu có mệnh lệnh về việc hành chính, thì trước phải ra khỏi triều đình rồi đặt ra và phán quyết hình phạt, khen thưởng, lúc bấy giờ quan chép sử ghi rằng: Thời gian nào đó, nhà vua ở chỗ nào đó, cùng các vị đại thần nào đó hội họp luận bàn, có mệnh lệnh như thế, muốn cho người trong nước tin phục vâng hành không còn nghi ngờ. Đấng Pháp Vương cũng giống như vậy, khi sắp nói pháp lớn, chắc chắn ở giữa chúng Đại Bồ-tát quyến thuộc để chứng minh, đó là lý do khiến người nghe sinh tín, do tâm kính tin, mới nhập vào pháp như thế, được tu hành chứng đắc, lại càng sinh tín, cho nên trước nêu chúng.

20. Nói về các vị chấp Kim cang:

1/ Hư không vô cấu Chấp kim cang: tức là thể của tâm Bồ-đề, lìa tất cả sự tranh chấp nói rộng, giống như hư không trong sáng không bị ngăn che, không dơ, không nhiễm, cũng không phân biệt, tâm như vậy chính là Kim cang trí ấn, người trì được ấn này gọi là Hư không vô cấu Chấp kim cang.

2/ Lại nữa, Hư không du bộ Chấp kim cang: Du Bộ là nghĩa bất trụ, thắng tấn, thần biến, với tâm Bồ-đề thanh tịnh, đối với tất cả pháp đều không chấp đắm, thường tiến tu muôn hạnh, phát sinh thần thông rộng lớn, nên gọi là Hư không du bộ.

3/ Lại nữa, Hư không vô cấu Chấp kim cang: tức là hạt giống bình đẳng của tự môn A, tu hạnh vô trú, ví như dùng phương tiện gieo trồng, mầm rễ dần dần mộc lên, cho nên kế là nói về khai hành ấn Kim cang.

4/ Thứ ba, Hư không sinh Chấp kim cang: như mầm mống đã mộc, bốn đại, thời tiết là duyên, hư không chẳng chướng ngại, niệm niệm thấm nhuần nuôi lớn, tâm Bồ-đề cũng vậy, Vô sở đắc là phương tiện, muôn hạnh làm duyên, sinh được chân thật, cái gọi là Đại không sinh, nên gọi là Hư không sinh.

5/ Thứ tư, bị tạp sắc y Chấp kim cang: như mầm mống lớn lên, cành, lá, hoa, thật dần lớn lên, cây tâm Bồ-đề nở hoa muôn đức cũng vậy, do đó nói đủ các màu sắc.

Lại nữa, dùng các mầu pháp giới nhuộm tâm Bồ-đề Vô cấu này, thành Mạn-trà-la đại Bi, cho nên gọi là bị tạp sắc y.

6/ Thứ năm, Thiện hành bộ Chấp kim cang: Chữ Thiện, tiếng Phạm là Tỳ-chất-đa-la, có các nghĩa: đoan nghiêm, hạt giống. Ví như đã được trái, trở lại làm hạt giống.

Khéo bước đi: là oai nghi của các Đức Phật, là khéo biết thời nghi đáng độ không đáng độ, các việc thông suốt, bíp lấp… dùng phương tiện thân, miệng, ý, để ứng với các căn cơ chúng sinh, trong khuôn phép tà vọng đều thành Phật sự, cho nên lấy làm tên.

7/ Thứ sáu, là trụ nhất thiết pháp bình đẳng Chấp kim cang: nghĩa là trụ trong tánh bình đẳng của tất cả các Đức Phật, là tất cả pháp nhân quả, tự tha, hữu vi, vô vi… nhập vào trí Như thật này đều rốt ráo bình đẳng, đồng một thật tế, do trì được trí ấn này, nên lấy đó làm tên.

Nhưng năm câu ở trên cũng đều là công đức chân thật của Như lai không có sâu cạn khác nhau, vì muốn phân biệt giúp cho người dễ hiểu, cho nên làm thứ lớp để nói mà thôi.

8/ Thứ bảy, ai mẫn vô lượng chúng sinh giới Chấp kim cang: thương xót này còn gọi là cứu giúp, nghĩa là đã trụ trong pháp tánh bình đẳng thì tự nhiên đối với tất cả chúng sinh, phát tâm đồng thể thương xót, cảnh giới các loài chúng sinh vô lượng cho nên tâm đại bi ấy cũng không có hạn lượng, đây là một trong các công đức của Như lai, vì thế người hành trì, do đó lấy làm tên.

9/ Thứ tám, Na-la-diên lực Chấp kim cang: đã phát tâm thương xót, nếu đầy đủ thế lớn mạnh thì sẽ cứu giúp được, cho nên kế là nói trong kinh so sánh sức mạnh sáu mươi con voi, không bằng sức mạnh một con Hương tượng, cho đến cuối cùng sức mạnh Na-la-diên là hơn hết; mỗi lỗ chân lông của sinh thân Phật đều bằng sức mạnh Na-la-diên, do đó thân pháp giới dụ cho sức mạnh của Na-la-diên.

10/ Thứ chín, Đại Na-la-diên lực Chấp kim cang: nghĩa là giữ gìn năng lực thần thông bí mật, như Nhất-xiển-đề ắt chết nhanh chóng, hàng Nhị thừa thật tế làm người chứng đắc rồi chết, các Đức Phật là bậc Y Vương thấy rõ tánh Như lai thì chắc chắn là như Sư Tử rống, đối với nhân duyên cứu giúp, tâm không hèn nhát, các Bồ-tát còn không thể như như, cho nên lại nói không chung với tất cả sức mạnh của Đại Ma-la-diên.

11/ Thứ mười, Diệu Chấp kim cang: Diệu gọi là không còn ai sánh bằng, còn có nghĩa là không ai hơn, giống như đề hồ ngon ngọt cùng cực, không thể thêm nữa, thường không thay đổi, không xen, không tạp. Như lai cũng vậy, tất cả công đức, đều không ai sánh bằng, không ai vượt hơn, việc làm trong các cõi cũng chỉ vì một việc nhân duyên này, do đó gọi là Diệu Chấp kim cang.

12/ Thứ mười một, Thắng Tấn Chấp kim cang: Thắng nghĩa là Đại Không, Đại không là Biến nhất thiết xứ, cho nên có khả năng khởi thần thông nhanh chóng. Người nương trụ ở đây, khi vừa phát tâm liền thành Chánh giác, không động sinh tử mà đến Niết-bàn, nên gọi là thắng tấn.

13/ Thứ mười hai, Vô Cấu Chấp kim cang: tức là lìa tất cả thứ che lấp tâm Bồ-đề; ví như thể tánh vàng thật hoàn toàn trong sạch, nếu dùng các cách nung luyện các thứ báu, mài ngọc, lại sáng đẹp hơn thì biết được chất ban đầu, còn lẫn lộn các hạt cát bụi, có khả năng giữ gìn Kim cang trong sạch rốt ráo này, do đó lấy làm tên.

14/ Thứ mười ba, Nhận tấn Chấp kim cang: Chữ Nhận này tiếng Phạm là sự giận dữ trong sự giận dữ, sự bén nhọn trong sự bén nhọn, dịch nghĩa giống như dao nhọn, giữ gìn trí Kim cang sắc bén này thì tất cả chỗ khó dứt trừ đều dứt trừ hết, chỗ khó tiêu diệt thảy tiêu diệt sạch, vì thế lấy làm tên.

15/ Thứ mười bốn, Như lai giáp Chấp kim cang: Như lai giáp: là đại từ, dùng đây trang nghiêm thân che chở chúng sinh, thực hành Phật sự, không bị tất cả phiền não làm tổn thương, còn hàng phục được những hạng người thô ác, cho nên lấy làm tên.

16/ Thứ mười lăm, Như lai cú sinh Chấp kim cang: Cú gọi là chỗ ở tức là Đại không sinh; công đức tự chứng của các Đức Phật, từ tánh Như lai sinh ra, gia trì thân này, từ Như lai tự chứng công đức sinh ra, do không lìa “tự môn A nên gọi là Như lai cú sinh”.

17/ Thứ mười sáu, Trụ vô hý luận Chấp kim cang: chính là trụ tuệ Đại không, nghĩa là quán tướng thật duyên khởi, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, cũng không có đến đi, một, khác, đó là chỗ dứt những lời nói rộng, pháp như Niết-bàn, giữ trí ấn như thế, cho nên lấy đó làm tên.

18/ Thứ mười bảy, Như lai Thập lực sinh Chấp kim cang: tức là trí phương tiện của Đức Phật, diệu quyền như thế từ chỗ nào sinh ra? Nghĩa là từ mười Trí lực của Như lai sinh ra, giữ ấn này, cho nên được lấy làm tên.

19/ Thứ mười tám, Vô Cấu Nhãn Chấp kim cang: tức là ngũ nhãn của Như lai, vì tâm Bồ-đề rốt ráo thanh tịnh, nên dùng tất cả cách quán sát tất cả pháp, biết rõ kiến, văn, giác, tri không hề chướng ngại, có thể trì Kim cang ấn như thế, cho nên lấy làm tên.

20/ Thứ mười chín, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ: Tiếng Phạm Bá-ni, tức là bàn tay nắm giữ, chưởng trì Kim cang và thủ chấp nghĩa giống nhau, cho nên trong kinh hai danh từ xen nhau nêu bày. Ấn-độ cho Dạxoa là bí mật, vì thân, miệng, ý của nó nhanh chóng ẩn mật khó có thể biết được; xưa dịch hoặc nói mật tích hoặc lược nói nghĩa cạn cợt thì Bí Mật Chủ tức là vua Dạ-xoa, cầm chày Kim cang thường theo che chở Đức Phật, nên gọi là Kim Cang Thủ. Như trong đó có nghĩa sâu sắc.

21. Thân, ngữ, ý bí mật của Như lai:

Nói Dạ-xoa tức là thân, ngữ, ý bí mật của Như lai, chỉ có Phật và Phật mới biết được, cho đến Bồ-tát, Di-lặc… đối với thần thông bí mật ấy, năng lực vẫn chưa bằng, bí mật nhất trong các bí mật, cái gọi là vua của tâm bí mật, đó gọi là Bí Mật Chủ, có khả năng trì ấn này nên gọi là Chấp kim cang. Các vị Thượng thủ như thế nhiều như số cát bụi trong mười cõi Phật cầm chày Kim cang nhóm họp đầy đủ; nếu còn bản Phạm, sẽ nêu tên ở dưới, mỗi vị đều có tiếng tăm rộng lớn, lẽ ra gọi là Hư không vô cấu… hư không du bộ… cho đến Bí Mật Chủ… Vì sao? Vì các vị Thượng thủ Chấp kim cang này mỗi vị đều có Vô lượng bộ loại quyến thuộc, Đại bản vẫn còn đủ. Nhưng nói chung cương yếu kia thì cành ngọn đều theo, đối với các Tông thường dùng thì không đáng thiếu.

22. Nói về số lượng các Đức Như lai:

Nói như số cát bụi của mười cõi Phật: là Trí ấn khác nhau của Như lai, số ấy vô lượng, chẳng thể dùng toán số ví dụ mà biết được, lại dùng mười trí lực Như lai, mỗi trí lực hợp với số cát bụi trong một cõi Phật, để tiêu biểu số chúng nhóm họp. Nghĩa thế giới hải, thế giới tánh, cho đến nghĩa một cõi Phật, như trong Thích Luận có nói rộng. Nhưng vì công đức nội chứng của Tỳ-lô-giá-na này được gia trì cho nên từ mỗi trí ấn đều hiện thân Chấp kim cang, hình sắc tánh loại, đều hiện ra bên ngoài. Mỗi vị tùy theo duyên tánh dục của mình, để dẫn dắt nhiếp hóa chúng sinh. Nếu những người tu hành siêng năng tu tập thì sẽ khiến cho ba nghiệp đồng với Bổn tôn, từ một môn này được vào pháp giới, tức là khắp nhập vào tất cả pháp giới môn.

23. Nêu chúng Bồ tát:

Kế là nêu chúng Bồ-tát, suy tôn bốn Thánh làm Thượng thủ; trước nói các vị Chấp kim cang vốn là trí ấn Như lai, nay Bồ-tát này nghĩa gồm định tuệ lại gồm Từ bi, cho nên được tên riêng, cũng là công đức nội chứng của Tỳ-lô-giá-na. Như Chấp kim cang số chúng nhiều như cát bụi trong mười cõi Phật, nên biết các Bồ-tát, pháp môn tương đối, cũng có chúng nhiều như cát bụi trong mười cõi Phật, để gia trì, đều được từ một môn pháp giới, hiện thành một thân Thiện tri thức.

Lại, Bát-nhã Thích Luận nói: Khi sinh thân Phật thành đạo, A-nan Mật Tích Lực sĩ… gọi là nội quyến thuộc, các vị Thánh như Xá-lợi-phất,

Mục-kiền-liên… và các Bồ-tát không lui sụt như Di-lặc, Văn-thù, các Bồ-tát một đời Bổ xứ, gọi là Đại quyến thuộc. Ở đây nói thân gia trì của Phật cũng vậy. Các vị Chấp kim cang đều giữ mật ấn Như lai, gọi là nội quyến thuộc, các Bồ-tát do tâm đại Bi dùng phương tiện phổ môn, che chở vô lượng chúng sinh, giúp cho Pháp Vương, làm việc Như lai, gọi là đại quyến thuộc. Vì thế, Kinh Đại phẩm chép: Muốn làm nội quyến thuộc, muốn được đại quyến thuộc của các Đức Phật, phải học “Bátnhã ba-la-mật”.

1/ Bồ-tát Phổ Hiền: Phổ là cùng khắp tất cả mọi nơi; Hiền là rất tốt đẹp, nghĩa là tâm Bồ-đề đã khởi nguyện hạnh và thân, miệng, ý đều bình đẳng khắp tất cả mọi nơi, tốt đẹp thuần nhất đầy đủ các đức, nên lấy đó làm tên.

2/ Bồ-tát Từ Thị: là bốn tâm vô lượng của Phật. Ở đây lấy chữ Từ làm đầu; từ này là từ trong giòng họ Như lai sinh ra, có công năng giúp cho tất cả thế gian không ngừng dứt nhà Như lai, đó gọi là Từ Thị.

Ở trên nói Phổ Hiền, là đức tự chứng bản nguyện đã mãn, muốn giáo hóa chúng sinh cho được đạo này, nên kế nói sau.

3/ Bồ-tát Diệu Cát Tường: nghĩa là trí tuệ vô thượng của Phật, giống như đề hồ thuần tịnh bậc nhất.

4/ Thất-lợi, Hán dịch là Cát tường nghĩa là đầy đủ các đức; hoặc dịch là Diệu Đức, cũng dịch là Diệu âm, nghĩa là dùng năng lực đại Từ bi giảng nói pháp mầu, giúp cho tất cả đều nghe, cho nên nói sau ngài Di-lặc.

5/ Bồ-tát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng: chướng là các thứ tâm cấu của chúng sinh, làm che mắt thanh tịnh Như lai, không thể mở sáng, nếu dùng pháp Vô phân biệt, dứt trừ các lời nói rộng, giống như mây sương tan biến thì mặt trời hiện ra trong sáng, cho nên nói Trừ cái chướng, việc làm của Như lai trong các cõi, đều vì một việc nhân duyên này, cho nên nói sau Bồ-tát Diệu Âm.

24. Bát nhã phải có thiền định:

Lại nữa, người tu hành, tuy học Bát-nhã ba-la-mật, nhưng nếu không Thiền định thì vẫn như người mù, dù gặp ánh sáng mặt trời cũng không thấy được, cho nên sau Văn-thù Diệu Tuệ liền nói tam-muội Trừ cái chướng. Bốn vị Bồ-tát này là bốn đức của thân Phật, nếu có thiên lệch sai sót thì không thể thành Vô thượng Bồ-đề, cho nên nêu trên hết. Để gom chung các đức nhiều như cát bụi. Các vị Đại Bồ-tát, nêu đầy đủ tiếng Phạm, thì lẽ ra nói là Ma-ha Bồ-đề Tát-đỏa.

Thích Luận chép: Bồ-đề là đạo của các Đức Phật, Tát-đỏa dịch là chúng sinh, hoặc dịch là tâm mạnh mẽ, người này đã dứt hết tham dục, được công đức của các Đức Phật, tâm đó không thể dứt bỏ, không thể phá hoại, như núi Kim cang, ấy gọi là Tát-đỏa.

25. Nói về Bồ đề tát-đỏa:

Lại nữa, người này tâm có thể làm việc lớn , không lui sụt không lay động, tâm mạnh mẽ, đối với nhiều chúng sinh, khởi đại Từ bi thành lập Đại thừa, có khả năng thực hành đạo lớn, được chỗ cao nhất, cho nên chắc chắn nói pháp, phá được tất cả các thứ phiền não như tâm đại tà kiến, đại ái, đại ngã… do đó gọi là Ma-ha Tát-đỏa.

A-xà-lê nói: Y theo nghĩa đúng, thì phải nói là Bồ-đề Sách-đá, Sách-đá, này nghĩa là chịu đựng, ưa thích tu hành, giữ vững không xả bỏ, nhưng Thanh minh có pháp như thế. Nếu nói về văn tự, nghĩa ấy tuy đúng, mà âm vận không lưu thông thuận tiện thì được lấy đặt vào cho tiện nên Thế luận sư cho là Tát-đỏa, các vị trao truyền, học tập thuận theo lời văn kia.

26. Có ba thứ Tát-đỏa:

Theo tông Du-già thì Tát-đỏa lược có ba thứ:

a) Ngu Đồng Tát-đỏa: Phàm phu trong sáu đường không biết nhân quả của thật đế , tâm hành tà đạo, tu tập nhân khổ, đắm mê ba cõi, chấp chặt không xả, nên lấy đó làm tên.

b) Hữu thức Tát-đỏa: là hàng Nhị thừa, vừa mới biết được lỗi lầm tai hại của sự sinh tử, tự cầu ra khỏi, được đến Niết-bàn, đắm mê “hóa thành”, nghĩ là diệt độ, đối với công đức Như lai không sinh tâm ưa thích phát nguyện, nên lấy đó làm tên.

c) Bồ-đề Tát-đỏa: Vô thượng Bồ-đề, vượt ngoài tất cả các thứ tội lỗi suy đoán, nói rộng, như thế hoàn toàn thuần thiện trong sạch không thể hiểu rõ nghĩa đại khái, tức là bản tánh chúng sinh là tâm không thể suy nghĩ bàn luận, có khả năng chịu đựng việc thành đạo như thế, nguyện muốn tu hành bền vững không lay động, cho nên gọi là Bồ-đề Sách-đá.

27. Các căn cơ hội họp nghe pháp:

Người có công nghiệp lớn lao như thế, có khả năng chuyển trao cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Ma-ha Tát-đỏa. Các Đại chúng này, vây quanh trước sau Như lai Đại nhật dùng vô lượng thân, miệng, ý cung kính cúng dường, để nghe pháp.

Kế là nói khi các căn cơ hội họp để nghe pháp, tức kinh cho rằng ngày Như lai vượt ba thời gia trì. Thân, miệng, ý, cú pháp môn ba bình đẳng . Nhưng kinh này truyền khắp Diêm-phù-đề, lược có mười muôn bài kệ, nếu Đại chúng nhiều như cát bụi trong mười cõi nước, mỗi vị đều nói rộng pháp môn thân, miệng, ý khác nhau thì không có hạn lượng, thời phần nói pháp này, phải (làm) thế nào? Cho nên người kết tập nói: Bây giờ, trú ở Phật nhật mà giảng nói pháp, như thời phần ở thế gian thì có quá khứ, hiện tại, vị lai, kiếp lượng dài ngắn các thứ khác nhau.

28. Nói về ba phần đầu, giữa, cuối:

Hơn nữa, y theo sự vận hành của mặt trời trong bốn Thiên hạ (bốn đại châu) thì một châu ngày đêm đều có sơ phần, trung phần và hậu phần (ba phần đầu, giữa, cuối) cho đến ba mươi thời… sát-na không dừng, thay nhau xô đẩy, dùng mắt thanh tịnh quán sát, tướng ba đời hoàn toàn không thật có, không đầu không cuối, cũng không đến không đi, đấy là mặt trời thật tướng, tròn sáng thường trú, vắng lặng như hư không, chẳng có thời phần dài ngắn khác nhau. Nhưng nhờ thần lực của Phật giúp hành giả Du-già sống trong vô lượng kiếp cho là như thời gian một bữa ăn, hoặc cho thời gian một bữa ăn là vô lượng kiếp, dài ngắn tự tại đều thích ứng với các căn cơ, tướng Vô định là thật có cho nên nói mặt trời Như lai.

Trong thời gian này Phật nói pháp gì? Đó là ba câu pháp môn bình đẳng thân, miệng, ý. Nói ba nghiệp… của Như lai, đều đến cảnh giới thật tế mầu nhiệm bậc nhất, thân… bình đẳng với ngữ, ngữ bình đẳng với tâm, giống như biển lớn, khắp mọi nơi chốn đồng một vị mặn, nên gọi là bình đẳng.

29. Nói về cú:

Cú: Tiếng Phạm là Bát-đàm dịch đúng là Túc (Chân) Thanh Luận nói là nghĩa tiến hành, chỗ ở, như người giở chân, hạ chân thì chỗ dấu chân in gọi là Bát-đàm. Nói từ “Cú đậu” nghĩa cũng như vậy, cho nên đồng một tên mà thôi. Nay y theo tông này, nói tu theo đạo lý, lần lượt tiến tu, được trú ba bình đẳng, gọi là cú. Chính vì dùng thân, miệng, ý bình đẳng bí mật giá trì, làm chỗ nhập môn, nghĩa là dùng mật ấn thân bình đẳng, chân lời nói bình đẳng, diệu quán tâm bình đẳng làm phương tiện, để thấy được thân gia trì Dụng thân, thân gia trì Dụng thân này, tức là thân Tỳ-lô-giá-na biến nhất thiết, thân biến nhất thiết, chính là trí thân bình đẳng của hành giả.

30. Dại ý kinh này là nhập môn bình đẳng:

Cho nên, người trụ ở thừa này, vì không làm mà làm, không đến mà đến, nên gọi là bình đẳng cú, tất cả chúng sinh đều nhập vào đó, mà thật không thể nhập, không có chỗ nhập, nên gọi là bình đẳng, pháp môn bình đẳng, là đại ý của kinh này.

31. Bồ tát Phổ hiền:

Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Hiền là người đứng đầu, các vị Chấp kim cang Bí Mật Chủ làm người đứng đầu, được Đức Phật Tỳ-lô-giá-na gia trì nên hăng hái, thị hiện thân kho Vô tận trang nghiêm , cho đến các loài hữu tình nghiệp thọ chủng trừ, lại có mầm mống sinh khởi, nghĩa là sắp nói pháp môn bình đẳng này, cho nên trước dùng tự tại gia trì làm cảm động đại chúng, đều hiện cảnh giới phổ môn bí mật trang nghiêm, là việc chưa từng có, không thể suy nghĩ bàn luận, do người kia nghi hỏi mà giảng nói thì người nghe càng thêm tin ưa, thâm nhập ý nghĩa lời nói, như phần tựa kinh Pháp Hoa, nhân duyên phẩm Tùng Địa Dõng Xuất, trong đây sẽ nói rộng.

32. Phổ Hiền Bí mật chủ:

Lại nữa, Phổ Hiền Bí Mật Chủ… các vị nhân giả thượng thủ, tức là trí thân khác nhau của Tỳ-lô-giá-na, đối với cảnh giới như thế, thông đạt đã lâu, nhưng các Thiện tri thức các môn giải thoát này hiện ra, mỗi vị đều dẫn dắt vô lượng chúng đương cơ đồng vào pháp giới Mạn-đồ-la, vì nhiều lợi ích như vậy nên mới nhập pháp môn thực hành hạnh Bồ-tát. Như lai gia trì, hăng hái thị hiện năng lực thần thông rộng lớn, như Sư tử đầu đàn khi muốn rống lên thì chắc chắn trước thân nó phải ra sức, tỏ ra sức mạnh rồi mới phát ra tiếng, Như lai cũng như vậy, khi muốn làm Sư tử rống thì chắc chắn phải giảng nói tất cả Trí môn, vì thế trước hăng hái thị hiện kho vô tận trang nghiêm. Cái gọi là trang nghiêm: nghĩa là từ một thân bình đẳng, hiện khắp tất cả oai nghi, oai nghi như thế, đều là mật ấn, từ một lời bình đẳng, khắp hiện tất cả âm thanh, âm thanh như thế, đều là chân ngôn; từ một tâm bình đẳng, khắp hiện tất cả Bổn tôn, Bổn tôn như thế, đều là Tam-muội. Nhưng mỗi tướng ba nghiệp khác nhau này, đều không bờ mé, không thể đo lường, nên gọi là Vô tận trang nghiêm.

33. Dẫn kinh:

Kinh Như lai Bí Mật Tuệ chép: Bồ-tát Trừ Cái Chướng ở trong pháp hội, muốn biết lượng thân Phật, bèn nhờ Đại Mục-kiền-liên tìm, Mục-liên lên đến cung điện Phạm thiên vẫn còn thấy Như lai như ở trước mắt. Oai nghi thân Phật, âm thanh nói pháp vẫn như cũ không khác, cho đến tất cả thần lực của Mục-liên, đi đến cõi Phật phương khác, cũng không khác cung điện Phạm thiên.

34. Thần lực của Như lai:

Bấy giờ, Bồ-tát Trừ Cái Chướng và Mục-kiền-liên, không thể đo lường, các ngài tự đến quán sát, trải qua mười phương mỗi phương thế giới nhiều như số cát sông Hằng, đều thấy Như lai, không rời khỏi chỗ ngồi vẫn giảng nói pháp, cho đến tất cả thần thông thế lực của các ngài vòng quanh hết mười phương cũng như vậy, sau đó lại trở về, mới thầy Trừ Nghi Thiên nữ cách Phật không xa, thấy nhập vào Tam-muội, liền khởi niệm rằng: Ta nghe nói Thiên nữ này, thông đạt Vô lượng môn Tam-muội, ta phải quán sát xem hiện giờ Thiên nữ đang trụ trong định nào, lại dùng hết tâm lực quán sát, không thể đo lường chỗ tâm kia đã hành, nhóm họp vô lượng chiếc trống trời, mỗi trống đều cao lớn như núi chúa Tu-di , dùng thần lực cùng một lúc phát ra âm thanh, muốn làm cho Thiên nữ xuất định mà không thể được, cho đến Đức Phật dạy: Khi ta chưa phát tâm Bồ-đề thì Thiên nữ đã có khả năng trụ trong Tammuội này, chính là nghĩa không bờ mé.

35. Thân Tỳ-lô-giá-na trùm khắp:

Tỳ-lô-giá-na như thế khắp ở tất cả các thế giới trong mười phương mỗi phương đều hiện thân che chở của Phật, mỗi thân ấy, đều có mười cõi Phật như số cát bụi… các đại chúng Bồ-tát Kim cang, đại chúng này các căn tướng tốt đẹp, cũng lại vô biên, nhiều như dầu mè, đầy khắp pháp giới ở giữa hư không chẳng có chỗ hở, lại như nhà vua có kho chứa lớn, nếu muốn chuyên chở người thì tự do mở ra bày khắp, nên nói là kho trang nghiêm.

Lại nữa, các đại chúng này, chỉ nhờ năng lực oai thần Phật, nên được thấy cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận như thế, nếu Như lai bỏ sự gia trì thì không hiện ra được, không phải chỗ giới hạn tự tâm của các vị ấy đạt đến được. Nếu hành giả bên trong tu Tam-muội Ban-chu, ở ngoài trông mong thần lực che chở thì có thể dùng sinh thân do cha mẹ và thấy các Đức Phật mười phương.

36. Nêu ví dụ:

Như vào ban đêm trời trong không có mây ngước nhìn thấy các sao, nghe được pháp âm rõ ràng không chướng ngại. Nhưng cảnh giới này, do tâm hành giả thanh tịnh mà sinh hay do Phật che chở mà sinh? Nếu do nội tâm tức là từ tự tánh sinh, nếu do Phật lực thì từ tha tánh sinh tất cả không khác ý nghĩa bàn luận của ngoại đạo, chỉ là do tự tha đều không, hòa hợp cũng không, lại đều do nhân duyên mà được thành tựu. Vì sao? Vì trong nhân ngoài duyên hễ thiếu cái nào thì không hiện tiền, phải biết tướng trang nghiêm như thế, khi đến không từ chỗ nào, khi đi ũng chẳng về đâu, rốt ráo bình đẳng không ra ngoài Như…

37. Dẫn Kinh:

Kinh chép: Không từ thân, hoặc ý, hoặc ngữ của Phật Tỳ-lô-giána sinh ra, tất cả mọi nơi bờ mé sinh diệt không thật có, nhưng tất cả nghiệp thân, ngữ, ý của Tỳ-lô-giá-na, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian ở cõi hữu tình, giảng nói pháp Chân ngôn Đạo cú, đây là xoay vần giải thích kho trang nghiêm của Phật, sở dĩ không cùng tận, không giới hạn, là vì không khác thân trùm khắp mọi nơi, thường trụ bất diệt của Như lai, tùy thường không khởi diệt nhưng có thể dùng tất cả ba nghiệp, đến khắp tất cả mọi nơi, bất cứ lúc nào trong ba đời, mười phương, nói đạo tối thật, giáo hóa chúng sanh, phép tắc của bậc thầy giúp tâm họ đến với Phật đạo.

Kinh chép: Lại hiện dung mạo của Chấp kim cang, Bồ-tát Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ… khắp trong mười phương, giảng nói Chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, cái gọi là mới phát tâm cho đến Thập Địa thứ lớp ở đây sinh đầy đủ, duyên nghiệp sinh nhiều lên loài hữu tình nghiệp loại, hạt giống tuổi thọ hoại, lại có mầm chồi sinh khởi, lại nhiều tướng trước, ý nói, không những thị hiện thân Phật, đủ khắp tất cả các thế giới trong mười phương, mà còn hiện thân Bồ-tát Kim cang… cũng dùng khắp tất cả mọi nơi, hơn nữa, như số cát bụi trong mười cõi Phật, các Bồ-tát Chấp kim cang… thân miệng tâm ấn khác nhau không đồng, như thế mỗi hình loại quyến thuộc của Bổn tôn, đều như Tỳ-lô-giá-na, đầy đủ tất cả thế giới trong mười phương, như lưới trời Đế-thích giao xen không ngăn ngại.

38. Nêu ba vị Thánh để tôn xưng người đứng đầu:

Nay lược nêu ba vị Thánh, là để tôn xưng người đứng đầu. Chấp kim cang ứng với môn Kim cang trí tuệ, là phương tiện hàng phục, Phổ Hiền ứng với môn pháp thân Như Như, là phương tiện tiêu tai. Quán Âm ứng với môn Tam-muội Liên hoa, là phương tiện tăng ích, nêu ba điểm này thì vô lượng diệu dụng không thể suy nghĩ bàn luận, đều đã thu nhiếp ở trong đó, cho đến chư thiên tám bộ chúng, các tiên đắc năm thứ Thần thông, bên ngoài hiện Mạn-trà-la để biểu thị, so sánh rất dễ hiểu.

Các thứ nhân duyên như thế, vô số phương tiện phổ môn ứng hiện giáo hóa chúng sinh, tuy sâu cạn, thô tế khác nhau, nhưng nghiên cứu sự thật kia đều bí mật gia trì, mỗi mỗi đều mở bày tri kiến thanh tịnh Như lai, nếu xa lìa ấn tướng thật như thế thì ngoài ra đều từ ác kiến sinh ra, kết làm bè bạn với Thiên ma ngoại đạo, đâu được gọi là cú nghĩa thanh tịnh ư?

Kế lại giải thích rằng cái gọi là câu Thanh tịnh ức là nương thần thông đốn ngộ thành Phật. Như Bồ-tát ở các thừa khác, chí cầu Bồ-đề vô thượng, bao nhiêu cần cù gian khổ không tiếc thân mạng, trải qua vô số A-tăng-kỳ kiếp, hoặc có vị thành Phật, hoặc có vị không thành Phật.

39. Vượt lên địa vị Phật:

Nay Bồ tát của môn chân ngôn này, nếu có thể không thiếu phép tắc, phương tiện tu hành, cho đến sinh ở trong đây, đợi thấy cảnh giới vô tận trang nghiêm che chở, không chỉ hiện ra trước mắt mà thôi, nếu muốn vượt lên địa vị Phật liền đồng với Như lai Đại Nhật thì cũng có thể đến được.

Lại nữa hành giả, khi mới phát tâm được nhập tự môn A, tức là từ Kim cang tánh của Như lai sinh ra đầu mối, phải biết đầu mối của mầm móng này, xoay chuyển tiến lên, không còn có nghĩa lui sụt, cho đến thành Bồ-đề, không hành, có thể thêm lên, sau đó mới dừng dứt, cho nên nói thứ lớp đời này đầy đủ.

Trong đây, thứ lớp: Tiếng Phạm nghĩa là bất trụ, tinh tấn, biến hành. Nghĩa là mới phát tâm muốn nhập vào giai vị Bồ-tát đối với Pháp yếu chân ngôn này làm phương tiện tu hành, được đến Sơ địa.

40. Vượt lên Địa thứ ba:

Bấy giờ, tâm Vô sở trụ tiến lên không dừng, ấy là đầy đủ Địa thứ hai, lại y theo pháp yếu chân ngôn làm phương tiện tu hành, được đến Địa thứ ba, lúc ấy, đem tâm Vô sở trụ tiến lên không dừng, được đến Địa thứ tư; lại y vào pháp yếu chân ngôn, được nhập vào Địa thứ năm, như thế lần lượt, cho đến đầy đủ Thập địa, chỉ dùng một hạnh, một đạo, mà thành Chánh giác.

Nếu nhập vào môn phương tiện khác để mở bày ý sâu kín thì cũng đều không lìa thừa báu như thế.

Duyên nghiệp mà sinh: Nghĩa là vì nhân duyên si ái của hữu tình, thân, miệng, ý tạo ra các thứ nghiệp không thanh tịnh, luống dối, nương các nghiệp như thế thân sinh trong sáu đường, làm cho luân hồi thêm dài, chịu đủ các khổ.

Nay tu môn tuệ thanh tịnh ba nghiệp bình đẳng, tất cả các uẩn, nghiệp thọ hạt giống trong A-lại-da, thảy đều đốt sạch, được đến tâm Đại Bồ-đề như Hư không vô cấu, hạt giống bình đẳng của tất cả Như lai, từ trong Bi tạng nẩy mầm pháp tánh, cho đến cành, lá, hoa, quả đầy khắp các pháp giới, thành cây Bồ-đề chúa, nở ra hoa muôn đức, nhưng quán sát theo nghĩa Tứ Bất Sinh thì đều không sinh khởi, cũng không có chỗ khởi, phải biết sinh này tức là Đại không sinh, cho nên nói nghiệp thọ hạt giống của loài hữu tình, được dứt trừ thì lại có mầm giống sinh khởi.

41. Thần lực thị hiện của Phật:

Lại nữa, Như lai hiện ra các thiện tri thức và môn pháp giới số nhiều như cát bụi trong mười cõi Phật, dù cho lần lượt xem nghe thì vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp không thể rộng khắp, nhờ mặt trời Phật che chở cho nên như khoảng thời gian ngồi trong hội thảy đều hiện ra trước mắt; chính là sắp nói kinh này, thị hiện tướng tốt, thần thông không thể suy nghĩ bàn luận, như Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi xem thấy sợi lông trắng soi chiếu một muôn tám ngàn cõi nước, các thứ nhân duyên của các Bồ-tát đều hành đạo Bồ-tát, liền biết các Đức Phật muốn nói kinh Pháp Hoa bỏ quyền bày thật. Phải biết Kim Cang Thủ… cũng như vậy, thấy khắp thế giới gia trì, chỉ nói pháp môn bình đẳng, liền biết Như lai sắp nói giáo nương khắp tất cả, tự tâm thành Phật. Cho nên lời hỏi ở văn dưới là nương theo đây mà sinh.

42. Chấp Kim cang Bí Mật Chủ thưa hỏi Phật:

Bấy giờ, Chấp kim cang Bí Mật Chủ, ngồi trong chúng hội kia, bạch Phật rằng: Bạch đức Thế-tôn! Vì sao Như lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri được trí Nhất thiết chủng trí? Cho đến trí tuệ như thế, lấy gì làm nhân? Thế nào là căn? Làm sao rốt ráo?

Trí Như lai tự chứng, dù cho dùng thần lực che chở, cũng không thể chỉ bày cho người thấy, trước nói ra năng lực thị hiện kho Vô tận trang nghiêm , đều là dấu vết của công dụng bên ngoài. Người trí thấy ngọn nghành thì dụ với tông bổn, như thấy dấu vết con voi hơn nhiều loài thú. Chỗ nó dẫm đến lại sâu rộng hơn, dù không thấy hình dáng nó, phải biết con voi này thân lực phải lớn, lại như sấm chớp mưa gào, làm cho chim thú bị rúng động mà chết, trăm sông chảy xiết hoại núi lở đồi, tuy không lường nguồn gốc của nó, nhưng biết ngay được thế lực của rồng này chắc chắn lớn mạnh.

Nay các đại chúng cũng như vậy, dùng quán thân miệng, ý Vô tận, của Như lai, có thể cùng lúc ứng khắp với chúng sinh trong pháp giới, khéo thích hợp với căn cơ, trở thành Phật sự thì biết trí lực Như lai, chắc chắn trong một niệm, xem xét khắp gốc ngọn, nhân duyên của các căn cơ rốt ráo không ngăn ngại, nương theo quyền tục mà còn như thế, huống chi khế hiệp cảnh giới chân thật kia thì sẽ như thế nào? Nếu pháp không như thế thì có dấu vết nhỏ để tìm; ta đã thấy hết như vậy, không biết pháp này từ đâu mà được, cho nên Chấp kim cang do tâm nghi của chúng hội mà hỏi Đức Phật rằng: Vì sao Như lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đắc trí Nhất thiết trí này.

43. Giải thích danh từ Như lai:

Tiếng Phạm lời Đát-tha Yết-đa: Đát-tha là Như; Yết-đa là Lai, hiểu biết, nói, đi, như các Đức Phật nương đạo như thật, đến thành Chánh giác, nay Phật cũng đến (lai) như thế, nên gọi là Như lai, tất cả các Đức Phật, hiểu biết tướng thật đúng như pháp, hiểu rồi cũng như tướng thật các pháp, vì chúng sinh mà nói, nay Đức Phật cũng như vậy, nên gọi là biết Như thật, cũng gọi nói đúng như thật, tất cả các Đức Phật được tánh an vui như thế, thẳng đến Niết-bàn, nay Phật cũng đi như thế, nên gọi là như khứ. Thích Luận gồm có bốn nghĩa, nhưng xưa dịch Đa là Như lai, Giới Bổn của Hữu Bộ nói như khứ, ý của A-xà-lê là như khứ, như thuyết. Nay lại thuận theo đề xưa.

44. Giải thích danh từ A-la-hán:

Tiếng Phạm là A-la-ha: A-la là phiền não, Ha là hại, là dứt trừ, Thích luận nói là Sát tặc (giết giặc). Đức Phật dùng áo giáp nhẫn nhục, tinh tấn, cưỡi ngựa giữ giới, cung định, tên tuệ, ngoài phá ma quân, bên trong giết giặc phiền não, vì thế lấy đó đặt tên; lại A là bất, La-ha là sinh, nghĩa là hạt giống trong tâm Phật, không sinh trong ruộng đời sau, thoát ra lớp vỏ vô minh.

Lại nữa, A-la-ha là nghĩa xứng đáng thọ cúng dường vì có công đức như thế, lẽ ra được sự cúng dường cao nhất của trời người, vì thế lấy đó làm tên.

45. Giải thích danh từ chánh kiến Tri:

Bổn Phạm là Tam-miệu Tam-phật-đà, Tam-miệu là Chánh, Tam là Biến, Phật-đà là Tri, do đó gọi là Chánh Biến Tri. Thích luận chép: Nếu có người nói vì sao chỉ có Phật như thật thuyết, Như lai, như khứ, xứng đáng được thọ sự cúng dường tối thượng ư?

Vì Đức Phật đắc trí tuệ chánh biến (trí tuệ chân chính trùm khắp. Chánh là tướng không động, không hoại của các pháp, Biến là không vì một pháp, hai pháp, cho nên biết tất cả pháp không có dư sót, ấy gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà. Nhưng trong tông này, Phật-đà là Giác, nghĩa là mở bày, nghĩa là do trí tuệ tự nhiên, biết khắp tất cả pháp, như hoa sen nở tròn không có dơ bẩn, cũng có công năng mở bày cho tất cả chúng sinh, vì thế gọi là “Phật”.

46. Giải thích danh từ Tát-bà-nhã:

Tiếng Phạm là Tát-bà Nhã-đa, tức là trí Nhất thiết trí. Thích Luận chép: Tát-bà-nhã tức là Nhất thiết trí, Nhất thiết nghĩa là Vô lượng pháp môn như danh sắc… mỗi thứ đều nhiếp tất cả pháp, như thế vô lượng ba, bốn, năm, sáu… cho đến A-tăng-kỳ pháp môn nhiếp tất cả pháp, trong tất cả pháp này thì đối với tất cả pháp như tướng một, tướng khác, tướng lậu, tướng phi lậu, tướng tác, tướng phi tác… mỗi tướng, mỗi mỗi lực, mỗi nhân duyên, mỗi quả báo, mỗi tánh, mỗi đắc, mỗi thất, tất cả năng lực trí tuệ, tất cả đời, tất cả chủng loại, đều hiểu biết khắp, đó gọi là Tát-bà-nhã.

47. Trí nhất thiết trí:

Nay nói trí Nhất thiết trí tức là trí ở trong trí, không phải chỉ dùng tất cả thứ biết khắp tất cả pháp, cũng biết pháp ấy rốt ráo, thật tế, tướng thường không hư hoại, không thêm, không bớt, giống như Kim cang, cảnh tự chứng như thế, người nói không có lời nói, người nhìn không thấy được, không giống như quả Am-na-lặc trong lòng bàn tay, có thể trao cho người, nếu có thể dùng lời nói truyền trao cho người thì khi Bồtát Thích-ca được Đức Phật Định Quang thọ ký lẽ ra phải thành Phật ngay. Vì sao tu đủ phương tiện, phải đợi không thầy tự giác, mới gọi là Phật?

48. Nêu ví dụ:

Lại như nhìn thấy người đời, bị gươm đao, gậy gộc làm tổn thương, tuy tin người kia chịu khổ không thể nghi ngờ, nhưng nói cho nghe các việc rồi cũng không bao giờ chứng biết, nếu tự thân mình trực tiếp chịu khổ thì mới biết được rõ ràng. Ý nói rằng, vì sao giúp chúng ta… có được trí tuệ tự giác như thế, vì sao được tuệ này rồi, thì có khả năng vì vô lượng chúng sinh, giảng nói phân bố khắp nơi, tùy theo các đường, các thứ tánh dục, các thứ phương tiện, giảng nói trí Nhất thiết trí, cái gọi là an lập vô lượng thừa, thị hiện vô lượng thân, mỗi việc giống như lời nói kia, trụ trong oai nghi kia, nhưng đạo lý Nhất thiết trí này vẫn cùng một vị, đó là vị giải thoát của Như lai, phương tiện mầu nhiệm này làm sao mà chứng được.

49. Các thứ đường:

Trong đây, các thứ đường. Tiếng Phạm là Na-diên, cũng dịch là hành, cũng dịch là Đạo, Hán dịch là đạo Đại thừa… nghĩa đồng. Luận Tỳ-bà-sa chép: Có năm đạo, người tu theo Đại thừa (Ma-ha-diễn) thường nói sáu đường, như thế giảng rộng ra cho đến trong thế giới này có ba mươi sáu câu-chi đường chúng sinh , huống chi tất cả thế giới trong mười phương?

50. Tánh dục:

Tánh dục: Dục là ham muốn ưa thích, như Tôn-đà-la Nan-đà ưa năm dục, Đề-bà-đạt-đa thích tiếng tăm… cho đến những người đắc đạo cũng đều có sở thích, Đại Ca-diếp ưa thích hạnh Đầu-đà, Xá-lợi-phất thích trí tuệ, Ly-bà-đa thích ngồi thiền, Ưu-ba-ly thích hiểu biết luật, Anan thích học rộng v.v… sau sẽ nói rộng. Tánh gọi là chứa nhóm; tướng từ tánh mà sinh, dục tùy theo tánh mà thực hành, hoặc có khi từ dục thành tánh, tập dục thành tánh, tánh gọi là tâm nhiễm , tâm nhiệm làm việc dục gọi là theo duyên khởi, việc này trong Thích Luận có nói.

51. Các đạo phương tiện:

Chủng chủng phương tiện đạo: Bồ-tát Long Thọ dạy: Bát-nhã và phương tiện bản thể là một nhưng công dụng có khác. Ví như người thợ bạc, dùng phương tiện khéo léo, gia công vàng thành các phẩm vật khác nhau, tuy đều là vàng, nhưng mỗi món đều có tên khác.

Nay Tỳ-lô-giá-na cũng như vậy, có khả năng đem thể trí vàng ròng đến khắp mọi nơi, để tạo thành các thừa.

Lại nữa, ý hỏi trong đây, tức là phát khởi Đại bi thai tạng Mạntrà-la. Trong tâm địa bình đẳng Tát-bà-nhã, vẽ thành Phật, Bồ-tát, cho đến Nhị thừa, tám Bộ chúng… tứ chủng đàn tròn pháp giới, mỗi tâm ấn thân ngữ của bản tôn này, đều là một loại Thừa khác nhau. Hơn nữa như có người chí cầu đạo trí năm thông, liền từ Đại bi thai tạng, hiện ra hình tướng Vi-đà, Phạm chí, nói cho nghe hành pháp chân ngôn như tiên Cù-đàm… hành giả tinh tấn không lâu thì thành vị tiên này, lại chuyển phương tiện, liền thành thân Tỳ-lô-giá-na, như thế, hoặc hiện thân Phật nói các thứ thừa, cho đến hiện thân phi nhân nói các thứ thừa, tùy loại âm thanh hình tướng đều là chân ngôn mật ấn, hoặc lâu hoặc mau, đều là nhân duyên trống độc, cho nên kinh nói đều đồng một vị, đó gọi là vị giải thoát của Như lai.

52. Trí nhất thiết trí lìa tất cả phân biệt:

Vì sao? Vì tướng thật sắc tâm của tất cả chúng sinh, từ bản tế xưa nay thường là trí thân bình đẳng của Tỳ-lô-giá-na, không phải khi đắc Bồ-đề, gắng gượng coi các pháp là không, mà thành pháp giới. Phật từ tâm địa bình đẳng tự khai mở kho Vô tận trang nghiêm Đại Mạn-trà-la rồi, lại phải mở bày tâm địa bình đẳng và kho Vô tận trang nghiêm Đại Mạn-trà-la cho chúng sinh, khéo léo cảm ứng, đều không ngoài tự môn A, phải biết nhân duyên cảm ứng sinh ra phương tiện, cũng không ra ngoài tự môn A. Ví như trong biển lớn, sóng mòi vô nhau thành năng sở, nhưng cũng đều cùng một vị, đó là vị mặn.

Lại nữa, Chấp kim cang nương thần lực Phật, vì muốn khai mở phương tiện bí mật Đại bi thai tạng nên lại nói năm thí dụ, đó là hư không, đất, nước, gió, lửa. Đầu tiên là thí dụ như cõi hư không lìa tất cả phân biệt, vô phân biệt, chẳng phải vô phân biệt, trí Nhất thiết trí này lìa tất cả phân biệt, vô phân biệt, chẳng phải vô phân biệt, đó tức là nghĩa trong Tỳ-bà-sa, hư không chẳng lỗi, chẳng đức, nay trí thân của Như lai lìa tất cả lỗi, thành tựu muôn đức, làm sao ví dụ được? Chỉ lấy một phần nhỏ tương tự, huống chi là đại không? Trong đây, so sánh có ba nghĩa:

  1. Hư không rốt ráo thanh tịnh.
  2. Không có bờ mé.
  3. Không phân biệt.

53. Giống như hư không chẳng có phân biệt:

Tánh của tất cả trí tâm cũng như vậy, vì thế dùng thế gian dễ hiểu không, thí dụ thì khó hiểu không. Trước nói lìa tất cả phân biệt, tiếng Phạm là Kiếp-ba, sau nói vô phân biệt, tiếng Phạm là Kiếp-ba-dạ-đế, sở dĩ lặp lại , là vì trên sự phân biệt lại sinh nghĩa phân biệt, chẳng hạn như tầm, tứ, nếu xem qua loa thì gọi là tầm, xem xét kỹ gọi là từ. Lại như khi nhãn thức sinh, có phân biệt qua loa, kế là ý thức sinh là phân biệt kỹ. Xưa dịch có chỗ cho Kiếp-ba là vọng chấp, ý vị dụ nói, giống như hư không chẳng có vọng chấp phân biệt, vô phân biệt, cũng chẳng phải vô phân biệt.

54. Lại như hư không lìa tướng hiển sắc, hình sắc:

Lại như hư không lìa các thứ tướng hiển sắc hình sắc, không có tạo tác, nhưng có thể chứa đựng dung nạp muôn vật, tất cả cây cỏ nhờ đó mà sinh ra và lớn lên, sự nghiệp của hữu tình nương đây mà được thành tựu, trí Phật, hư không cũng như vậy, tuy lìa tất cả tướng nhưng thường không sanh khởi phân biệt, mà vô lượng độ môn, các nghiệp tốt đẹp đều được thành tựu, do đó đem làm ví dụ.

55. Trí nhất thiết trí là chỗ nương:

Câu thứ hai nói: Ví như mặt đất tất cả chúng sinh đều nương ở, trí Nhất thiết trí cũng giống như thế, là chỗ nương của các trời, người, A-tu-la. Như ở thế gian trăm thứ lúa đậu, các cây thuốc, cây cối, lùm rừng, tùy theo tánh của nó chia thành vô lượng thứ khác nhau, đều từ mặt đất mà sinh mầm rễ, cho đến cành lá, hoa quả lần lượt thành tựu, được tất cả chúng sinh làm nơi nương ở và vun trồng chăm bón, mặt đất cũng không nghĩ rằng, nay ta gánh vác tất cả thế gian, không nghĩ ân đức, không có nhàm mõi, tăng cũng không vui, giảm cũng không buồn, sâu rộng khó lường, không thể làm lay động; đất Nhất thiết trí cũng như vậy, đã sinh ra tất cả hạt giống đại Bi Mạn-trà-la, đây là chỗ vô lượng sự nghiệp của các Thừa nương ở, đối với sinh tử hay Niết-bàn tâm kia đều bình đẳng, tám thứ gió ở thế gian không thể làm xao động, lấy những phần nhỏ tương tự như thế, để làm ví dụ.

56. Lửa đốt cháy củi, như lửa trí Như lai đốt sạch của phiền não:

Câu thứ ba nói: Như lửa đốt cháy tất cả củi không biết thỏa mãn, trí Nhất thiết trí cũng như thế, đốt cháy tất cả củi không vô trí, mà chẳng biết thỏa mãn. Ví như ngọn lửa, giả sử chất củi đầy khắp thế giới, đều cao như núi chúa Tu-di, lần lượt đốt cháy không hề sợ hãi, không nghĩ rằng, ta sẽ đốt cháy củi ấy, không đốt cháy củi ấy, cháy mãi không dứt, càng dữ dội không thỏa mãn, đốt cháy hết rồi, sau đó diệt theo, lửa trí Như lai cũng như vậy, đốt sạch tất cả củi nói suông phiền não, cho đến duyên đối đãi đều hết, chính ánh sáng trí tuệ này cũng không có chỗ nương.

Lại nữa, như lửa ở thế gian, sang hèn đều dùng, có công năng chiếu sáng trong đêm tối, người lạc đường đều được nẻo chính, lại đều có công năng thành tựu tất cả các vật, lửa Nhất thiết trí này, bậc Thánh, phàm phu dị sinh đều có, trong đêm dài từ vô thỉ, giúp các vị tu hành thấy đạo như thật, lần lượt thành tựu tất cả Phật pháp, do đó lấy làm thí dụ.

57. Như gió thổi bụi giống như trí Nhất thiết trí thổi tam bụi phiền não:

Câu thứ tư nói: Như gió thổi tan tất cả bụi, trí Nhất thiết trí này thổi tan tất cả bụi phiền não, như khi gió lớn nổi lên, khói, mây, bụi, sương tất cả đều tan biến, bầu trời rộng lớn trong xanh thì ba thần mặt trăng, mặt trời, sao hiện rõ, chúng sinh bị sự nóng bức ép ngặt đều được mát mẻ, làm cho cây cối, lùm rừng thêm lớn tốt tươi, cũng có công năng phá diệt tất cả loài vật. Lại như tánh gió cùng khắp không nương vào đâu, tự tại vận chuyển không gì làm trở ngại được, gió tuệ Như lai cũng như vậy, thổi tan tất cả chướng, các, bụi bặm phiền não, giúp chứng Niết-bàn pháp tánh trong mát.

Lại nữa, có công năng giúp cho tất cả pháp lành thế gian, xuất thế gian thêm lớn, phá diệt cây lớn vô minh, nhổ cả gốc rễ , nhưng năng lực không chướng ngại này đều không có chỗ nương cho nên làm ví dụ.

58. Như nước rửa sạch, nước trí của Phật rửa sạch phiền não:

Câu thứ năm nói: Ví như nước, tất cả chúng sinh vui vẻ nương ở, trí Nhất thiết trí này, làm lợi lạc cho các trời và người đời, như nước, từ cao chảy xuống thấp làm nhiều lợi ích, thấm nhuần cây cỏ để sinh hoa quả, lại nữa, bản tánh của nước trong sạch không dơ, không đục, đều giúp cho các chúng sinh đói khát được đầy đủ, rửa sạch cặn bã dơ bẩn, trừ hết nóng bức, lặng sâu khó vào, không thể đo lường, ở trong hầm hố tánh đều bình đẳng, nước trí của Như lai cũng như vậy, từ pháp giới chân thật chảy đến thế gian, thấm nhuần các đẳng trì, sinh ra pháp trợ đạo, thành quả lớn lao, lợi ích chúng sinh, thể vô phiền não, cho nên trong sạch, lìa xa các hoặc do đó không dơ, một tướng không khác vì thế không vẩn đục, các hữu chứng đắc nguyện ấy mới dứt, được định trong mát rửa sạch trần lao, vắng lặng khó suy nghĩ, chứng tánh bình đẳng, vì thế lấy làm ví dụ, tức là phát khởi nghĩa năm chữ ở văn dưới đây.

59. Nói về tự môn A:

Tự môn A là đất, tự môn phược là nước, Tự môn La là lửa, Tự môn Hạ là gió, tự môn Khư là không, lại như hạt giống ở thế gian, đất nước gió lửa làm duyên, hư không chẳng chướng ngại, sau đó mới mọc lên, hễ thiếu một duyên nào thì không bao giờ lớn lên, tất cả hạt giống trí tánh của Như lai, cũng như vậy, liền dùng năm nghĩa tất cả trí môn để làm các duyên, có thể đến quả mầu Bồ-đề thường trụ, tức là nhân duyên không sinh không diệt không thể suy nghĩ bàn luận.

Quán Kim Cang Thủ, biết chỉ Như lai có tướng Nhất pháp giới che chở, tâm đã suy nghĩ thì biết sẽ nói pháp môn như vậy. Trước ví dụ công đức kia, để phát khởi sự hiểu biết cho các căn cơ trong Đại hội, sau đó hỏi Phật trí tuệ ấy, lấy gì làm nhân, sao gọi là gốc rễ thế nào là rốt ráo?

Từ đây về sau, trí ấn Như lai liền định tâm kia, phân biệt nói rộng. Ví như Bồ-tát Di-lặc, thấy điềm lành Thần thông của Phật, ngay khi ấy tâm có sự thắc mắc nghi ngờ; vì nói pháp sở đắc của đạo tràng này, được thọ ký Bồ-đề. Văn-thù phát huy danh, thể, chỉ ra rằng Diệu pháp mầu, sau đó Như lai dùng ấn thật tướng , dựa vào căn cơ giảng nói, giúp cho những người thường chấp chặt lìa được lưới nghi. Ví như trời xuân mầm giống bắt đầu nứt vỏ, khi sấm sét nổi lên, nước mưa thấm đượm, thực vật lìa được màng bao, sẽ nầy mầm, nếu người không có cơ duyên thì dù được gặp gỡ nhau, cũng không thể phát khởi lợi ích sâu xa được.

60. Phật khen chấp Kim cang khéo hỏi:

Đức Phật Tỳ-lô-giá-na liền bảo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: Lành thay, lành thay! Chấp kim cang! Lành thay! Kim cang thủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế, ông hãy nghe kỹ, khéo léo tác ý, bây giờ ta sẽ nói, cho đến các pháp vô tướng, cho là tướng hư không.

Do Chấp kim cang Thủ Bí Mật Chủ, lường trước ý sâu của Như lai gia trì, lại có khả năng phát khởi chúng đương thời, làm nhân duyên sinh hiểu biết, kính lường Thánh tâm, không mất cơ hội, cho nên nói lại hai chữ lành thay; ta quán tất cả trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến các Bồ-tát hạnh cạn thấp, không thể ở trước Đức Thế-tôn, phát ra lời hỏi như thế. Vì sao? Vì nghĩa trong ba câu này, đều nhiếp tất cả Phật pháp và những việc thần lực bí mật sâu xa. Lại khen rằng: Lành thay! Kim cang thủ! Ông mới có thể hỏi ta nghĩa như thế do được lời nói lành thay của Như lai gia trì. Bấy giờ, Kim Cang Thủ vô lượng công đức càng tăng lên, lại nói pháp đã lãnh thọ, hoàn toàn không sót mất, kế là liền dạy ông phải nghe kỹ, khéo léo tác ý, bây giờ ta sẽ nói, cũng vì chúng đệ tử ở đời đương lai, nói nghi thức thọ pháp này với tâm sâu xa mà thôi. Vì thế Thích Luận chép: Nếu người tâm tốt tin thẳng thì người ấy có khả năng nghe pháp, nếu không có việc ấy thì không thể hiểu biết.

Như nói bài kệ rằng:

Người nghe thân thẳng như khát uống

Nhất tâm nhập vào trong lời nghĩa

Hớn hở nghe pháp tâm buồn, vui

Người như thế nên nói họ nghe.

Kinh Vô Tận Ý chép: Dụng tâm nghe pháp có hai mươi ba câu công đức, đó là nói rộng.

61. Hợp pháp:

Kinh dạy: Phật bảo Kim Cang Thủ, tâm Bồ-đề là nhân, bi là gốc

rễ, phương tiện là rốt ráo, giống như hạt giống ở thế gian, nhờ bốn đại các duyên cho nên mọc rễ, cứ như thế lần lượt cho đến trái chín gọi là rốt ráo. Nhưng dùng trí trung đạo quán sát thì không hề sinh không diệt, cho nên nghĩa nhân quả thành tựu. Nếu pháp không như thế, có tướng sinh diệt, đoạn thường thì rơi vào nói rộng, thảy đều có thể phá, nghĩa nhân quả không thành. Nay hành giả quán tướng thật của tâm cũng giống như vậy, vượt ngoài tất cả nói rộng, thanh tịnh như hư không, bên trong chứng việc đã làm, được năng lực tín sâu, tâm Tát-bà-nhã vững bền không dao động, lìa nghiệp thọ sinh, thành tựu sinh chân tánh, muôn hạnh công đức từ đây thêm lớn, cho nên nói tâm Bồ-đề là nhân. Tâm Bồ-đề này, làm nhân hai câu sau. Nếu trong sinh tử, đã gieo trồng gốc lành thì gọi là quả, vì thấy tướng Phật pháp ở trước.

62. Nêu ví dụ:

Ví như có người nghe Thiện tri thức nói: Nay trong nhà ông tự có vô lượng kho báu, phải tự siêng năng tu hành mà mở ra, có sức chu cấp cho cả nước, thường không thiếu thốn, người kia nghe rồi liền sinh tâm tin thật, đúng như lời nói mà thực hành, cho đến thì công không dứt, dần dần thấy tướng trước. Bấy giờ, đối với kho báu công đức, lìa tâm nghi ngờ, sẽ phát khởi gia hành tốt đẹp, cho nên tâm Bồ-đề, tức là nghĩa tín tâm trong sạch. Thích luận cũng chép: Biển lớn Phật pháp tin thì vào được; như vua Phạm thiên khi thỉnh Phật xoay bánh xe pháp, Đức Phật dạy kệ rằng:

Ta nay mở cửa vị cam lồ

Nếu người sinh tín được vui mừng v.v…

63. Giải thích bài kệ:

Trong bài kệ này không nói người bố thí, giữ giới, học rộng, nhẫn nhục, thiền định sẽ được vui mừng, chỉ nói người tín, ý Phật như vầy: Pháp của ta mầu nhiệm sâu xa bậc nhất, vô lượng vô số không thể suy nghĩ bàn luận, không lay động, không nương nhờ, không mê đắm, không có pháp để đắc, chẳng phải bậc Nhất thiết trí thì không thể hiểu, do đó lấy Tín lực làm đầu, chẳng phải do tuệ… mà vào Phật pháp được, vì khiến tín tâm thanh tịnh như thế bền vững thêm lên.

Trong kinh kế là nói đại bi làm gốc, gốc có công năng giữ gìn nghĩa giống như rễ cây giữ gìn cành, lá, hoa, quả, không để nghiêng đổ. Tiếng Phạm gọi bi là Ca-lô-noa, Ca nghĩa là khổ, Lô-noa là Diệt trừ. Từ như trồng lúa tốt, Bi như nhổ bỏ cỏ úa, vì thế trong đây nói Bi tức là nói gồm cả đại Từ, vả lại như khi hành giả tu cúng dường, hoặc dâng một cành hoa, hoặc hương hoa… liền dùng tâm Bồ-đề thanh tịnh trùm khắp tất cả chỗ, nổi mây cúng dường khắp làm Phật sự, phát khởi bi nguyện hồi hướng cho chúng sinh, nhổ tất cả gốc khổ, ban Vô lượng vui, nhờ gốc lành của mình và năng lực pháp giới che chở của Như lai mà các nghiệp lành đã làm đều được thành tựu, tức là khắp tất cả trí địa cho đến cõi hữu tình vô dư, tất cả đều mọc rễ.

Tùy theo hành giả dùng tâm vô trú để tu muôn hạnh, tức là được đất đại Bi giữ gìn, lửa đại Bi đã ấp nóng, lửa Bi thấm nhuần, lửa đại Bi sinh mở phát, hư không đại Bi vô chướng ngại, bấy giờ, vô lượng độ môn nhậm vận khai phát. Giống như mầm rễ, lá, cành, thứ lớp trang nghiêm.

64. Nói về phương tiện rốt ráo:

Phương tiện là rốt ráo, nghĩa là muôn hạnh tròn đầy không thể tăng thêm nữa, quyền xảo thích ứng chúng sinh rốt ráo làm được việc, tức là quả mầu ba mật nguồn gốc Đề hồ.

Lại là tâm Bồ-đề thanh tịnh , giống như vàng thật, bản tánh sáng sạch, lìa các chất dơ bẩn; đại Bi như học tập thợ khéo, dùng các thứ thuốc, các cách luyện chế, cho đến soi suốt mềm dẻo, cong thẳng tự tại; phương tiện như nghề khéo đã thành tựu, hễ chế tạo vật gì đều tùy ý thành tựu. Quyền trong quy chế hơn hẳn các tài nghệ, khéo được ý kia cũng khó truyền trao cho người. Như Ma-ha Bát-nhã chép: Các đạo phẩm như sáu độ, mười tám Không, Tam-muội, môn tông Trì… đều vào trong câu Đại bi, tức là quả trí Nhất thiết trí do muôn hạnh thành tựu.

Gọi là phương tiện, vì bên trong đầy đủ phương tiện, nghiệp của phương tiện tức là lợi tha, vì thế tiếng Phạm là Ổ-ba-na cũng dịch là phát khởi, như từ hạt giống sinh ra quả, quả trở lại thành hạt giống do đó lấy làm tên.

65. Nói về Bồ-đề:

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Thế nào là Bồ-đề? Nghĩa là biết tự tâm như thật, tức là chỉ bày kho báu công đức của Như lai; như có người tuy nghe kho báu nên có tâm siêng tìm. Nếu không biết chỗ kho báu ở đâu thì không thể đến được, cho nên lại chỉ ra rằng như trên đã nói, pháp sâu xa mầu nhiệm bậc nhất cho đến chẳng phải bậc Nhất Thiết Trí thì không thể hiểu được, pháp này từ chỗ nào mà đắc? Chính là tự tâm hành giả mà thôi. Nếu quán sát như thật, chứng biết rõ ràng thì gọi là thành Bồ-đề, thật sự không do người mà ngộ, không phải từ người mà đắc.

66. Hỏi đáp vì sao chúng sanh không được thành Phật:

Hỏi: Nếu ngay nơi tâm là Đạo, vì sao chúng sinh luân hồi sinh tử, không được thành Phật?

Đáp: Vì không biết đúng như thật. Cái gọi là phàm phu ngu ngơ nếu nghe pháp này thì sẽ tin chút ít, thức tánh hàng Nhị thừa tuy tự quán sát nhưng chưa biết đúng như thật, nếu tự biết đúng như thật thì khi mới phát tâm liền thành chánh giác, ví như nhà trưởng giả có người con nghèo khổ, nếu khi tự biết cha mình thì đâu còn là khách, đâu còn làm người thấp hèn? Bấy giờ, hành giả chân chính biết tướng thật của tâm, thấy tất cả pháp đều sâu xa mầu nhiệm, vô lượng vô số, không thể suy nghĩ bàn luận, không động, không nương, không đắm, đều không thật có, rốt ráo như tướng Bồ-đề, cho nên kinh lại nói Bí Mật Chủ là Anậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho đến pháp ấy một phần nhỏ cũng không thật.

Nghĩa Vô Thượng Chánh Biến Tri, trước đã nói xong.

Trong đây nói chút ít: Tiếng Phạm là A-nậu, tức là do bảy hạt bụi hợp thành, từ duyên sinh ra sắc rất nhỏ nhiệm, vì thế dùng làm ví dụ.

Nói pháp: lìa đây thì không có tướng tâm Bồ-đề, ngoài lại không có một pháp.

Trong kinh kế đến là nói: Nhân duyên rằng vì sao?

67. Nói về tâm Bồ-đề:

Tướng hư không là Bồ-đề, người không hiểu biết cũng chẳng mở mang hiểu biết. Vì sao? Vì Bồ-đề vô tướng. Ví như hư không trùm khắp tất cả mọi nơi, rốt ráo thanh tịnh, lìa tất cả tướng, không lay động, không phân biệt, không thể biến đổi, không thể phá hoại, vì những phần nhỏ tương tự như thế nên dụ cho tâm Bồ-đề vô tướng. Nhưng trong đó lại có Vô lượng, vô biên việc bí mật sâu xa, thật sự hư không ở thế gian không thể sánh được, mong người học giả, được ý quên lời.

Lại như hư không xa lìa luống dối phân biệt, cho nên không hiểu biết tướng, cũng không mở mang cho biết tướng, các Đức Phật tự chứng Tam-bồ-đề phải biết cũng như vậy, chỉ là tâm tự chứng tâm, tâm tự giác tâm, trong đó không có pháp hiểu biết, không có người hiểu biết, không có bắt đầu khai hiểu cũng không có người khai hiểu, nếu phân biệt ít phần năng sở giống như cát bụi thì tức là đã chấp tướng pháp là phi pháp, không lìa được ngã, nhân, chúng sinh, tuổi thọ, làm sao được gọi là Kim cang Tuệ.

68. Kinh tự giải thích:

Lại nữa, trong kinh tự chuyển giải thích, nói vì sao Bồ-đề Vô tướng? Như Thích Luận chép: Trí tuệ Phật thanh tịnh, ra ngoài các quán trên, không quán tướng thường, tướng vô thường, tướng hữu biên , tướng vô biên, tướng hữu khứ, tướng vô thứ, tướng hữu, vô tướng, sinh diệt tướng, không sinh diệt tướng, vô tướng, tướng bất không của các pháp, thường thanh tịnh vô lượng như hư không, cho nên trí Phật vô ngại, nếu quán sinh diệt thì chẳng được quán không sinh diệt, nếu quán không sinh diệt thì không được quán sinh diệt; nếu sinh diệt là thật thì không sinh diệt chẳng thật, nếu bất sinh diệt là thật thì sinh diệt không thật, các pháp quán… đều như thế, vì tâm Bồ-đề thanh tịnh như thế, vượt ngoài các quán, xa lìa các tướng, đối với tất cả pháp được không quái ngại.

Ví như tướng hư không cũng vô tướng, muôn vật đều nương vào hư không, mà hư không chẳng có chỗ nương, muôn pháp như thế đều nương vào tâm thanh tịnh mà tâm thanh tịnh lại không có chỗ nương thì các pháp này, cũng lại như tướng Bồ-đề, cái gọi là tướng hư không thanh tịnh, do đó Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng nghĩa là tướng hư không.

69. Kim cang Thủ bạch Phật:

Bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch Đức Phật rằng: Bạch đức Thếtôn! Người nào tìm cầu Nhất thiết trí? Ai thực hành Bồ-đề thành chánh giác? Vị nào phát khởi trí Nhất thiết trí kia?

Phật dạy: Này Bí Mật Chủ! Tự tâm tìm cầu Bồ-đề đạt đến Nhất thiết trí. Vì sao? Vì bản tánh thanh tịnh, cho đến vô lượng công đức đều thành tựu.

Bấy giờ, Chấp kim cang, nghe nghĩa Phật nói, tuệ Tát-bà-nhã chỉ là tự tâm, cho đến không có chút pháp nào ra ngoài tâm này, vì để cho chúng sinh đời vị lai dứt nghi ngờ nên hỏi Phật rằng, tâm Bồ-đề gọi là một bề chí cầu trí Nhất thiết trí, nếu trí Nhất thiết trí tức là tâm Bồ-đề thì trong đây ai là năng cầu, cái gì là sở cầu? Ai là được giác, ai là người giác.

70. Ngoài tâm không có pháp:

Lại nữa, ngoài tâm đều không có một pháp, người nào phát khởi được tâm này? Khiến đến quả mầu? Nếu pháp không có nhân duyên mà được thành thì tất cả chúng sinh lẽ ra cũng không nhờ phương tiện mà tự nhiên thành Phật, vì thế Phật đáp rằng tự tâm tìm cầu Bồ-đề và Nhất thiết trí. Vì sao? Vì bản tánh thanh tịnh, tuy tướng thật tự tâm của chúng sinh chính là Bồ-đề, có Phật hay không Phật đều là trang nghiêm thanh tịnh, nhưng không tự biết đúng như thật, tức là vô minh, vì vô minh điên đảo chấp tướng, cho nên sinh ra các phiền não như sinh ái… do phiền não nên khởi các thứ nghiệp đi vào các đường, thọ các thứ thân, chịu biết bao điều khổ vui, như tằm nhả tơ không có nguyên nhân, tự mình ra mà lại quấn mình trong đó, chịu khổ đốt nấu, ví như nước sạch ở nhân gian, tùy theo tâm trời, quỷ, có loài cho là của báu, có loài cho là lửa, tâm mình tự thấy khổ, vui, do đó nên biết ngoài tâm không có một pháp.

Như hành giả Du-già, chân chính quán tướng thật ba pháp thì liền thấy tướng thật của tâm. Tướng thật của tâm, chính là Bồ-đề Vô tướng, cũng gọi là trí Nhất thiết trí, tuy lìa các nhân duyên, cũng chẳng có pháp nào không nhờ nhân duyên mà được thành tựu.

71. Lần lượt dùng phương tiện phân biệt giảng nói:

Lại nữa, Thế-tôn muốn giúp chúng sinh biết tự tâm như thật, nên lần lượt dùng phương tiện phân biệt giảng nói. Vì sao? Vì nếu chỉ nói tự tâm không sinh không diệt, vì không có nguyên nhân nên nghĩa là giải thoát, cho nên trước chỉ bày chỗ mê đắm kia.

Kinh chép: Tâm không ở trong, không ở ngoài, và ở giữa, tâm không thật có, như kinh Đại Bát-nhã, đem Vô lượng môn nhập vào tướng thật các pháp. Nay muốn nêu lên tông yếu ấy, chỉ quán trong ngoài mười hai xứ thì thu nhiếp tất cả pháp. Tâm của hành giả từ xưa đến nay, phần nhiều đối với pháp bên trong chấp trước tướng tâm, trước hết đối với sáu xứ… tức là lìa các phương tiện như tướng… mỗi pháp quán kỹ, tâm không thật có, vô sinh, vô tướng, không có nơi chốn. Lại khởi niệm rằng, tâm này ở ngoài ư? Lại ở ngoài sáu xứ đúng như thật quán sát, tâm cũng không sinh, vô tướng, không có nơi chốn, vẫn sợ sai lầm nên hiệp lại quán sát, ở giữa hai bên (trung gian) cũng không thật có thì ngộ thật tánh của tâm này, vốn tự không sinh không diệt, rốt ráo thường tịnh, mây nói rộng tan biến, ví như nhờ công năng của phèn nên nước lắng trong, nước trong nên ngọc hiện, chắc chắn không từ chỗ khác mà đến.

72. Ngã chân thật không phải vàng, xanh, dài, ngắn:

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chẳng phải xanh chẳng vàng chẳng đỏ, chẳng trắng, chẳng hồng tía, chẳng phải màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tròn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, chẳng phải nam nữ, trước tóm tắt tất cả pháp nói tướng thật của tâm rồi, nay lại tóm tắt Chân ngã để nói tướng thật của tâm. Xét nghĩa tông này, tức là lấy tâm làm Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cái gọi là Đại Ngã của nội tâm.

Như có một loại ngoại đạo, không hiểu tự tâm mà nói rằng: Tu quán Chân Ngã sắc nó màu xanh, mọi người đã không thấy được, hoặc nói màu vàng, màu đỏ, hoặc nói trắng tươi, hoặc nói màu đỏ tím (cây yến chi), nay nói nghĩa là hồng tía, hoặc nói ta thấy Chân Ngã, tướng kia rất dài, rất ngắn, cho đến tướng như người nam… Chỉ có lời nói này là thật, ngoài ra đều là giả. Nhưng các tướng này, đều từ duyên sinh, không có tự tánh, làm sao gọi là Chân thật ngã được? Đối lại những thứ vọng chấp như thế, Đức Phật nói Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có những màu như xanh… Vì sao? Vì tướng xanh này không bao giờ sinh thì chẳng phải xanh, tướng thật của xanh không hư hoại, mà cũng chẳng phải không xanh, phải biết Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác, không có tướng chắc chắn để nói, cũng không lìa các tướng như thế.

73. Ngoại đạo cho các đệ tử sờ voi trong đêm tối:

Như có ngoại đạo A-xà-lê, vào đêm trăng tối dẫn các đệ tử đến trước con voi lớn mà bảo rằng: Ta ở chỗ này chỉ bày chân ngã cho các ông.

Khi những người kia, hoặc dùng mắt nhìn, hoặc dùng tay rờ mó, họ nhìn hình tướng voi, rồi nói: Nay ta đã biết, Chân ngã ấy màu rất trắng, cao lớn.

Người sờ ngà voi thì nói: Chân ngã như ngọn giáo.

Người tai voi thì nói như cái ky, người sờ chân thì nói như cây cột, người sờ đuôi thì nói như sợi dây lớn, tùy theo sờ bộ phận nào đều cho là khác nhau, tuy lại càng phải quấy qua lại, nhưng cuối cùng không thể biết thể thật của con voi.

Nếu người tu Du-già, khi khai mở tâm đạo sáng suốt, soi thấy tâm vương Như lai. Như trong ánh sáng rực rỡ mắt thấy muôn vật thì không sinh tranh luận như thế.

74. Tâm không đồng với tính chất của ba cõi:

Kế lại nói: Bí Mật Chủ! Tâm không đồng tánh với cõi Dục, không đồng tánh với cõi Sắc, không đồng tánh với cõi Vô sắc, không đồng tánh với trời, rồng, Dạ-xoa, cho đến đồng tánh với các đường Nhân phi nhân, cũng là đối trị các vọng chấp, mà hiển bày tự tâm không thay đổi, cho nên nói tâm này đồng tánh với ba cõi; có các ngoại đạo cho rằng, tánh ta đồng với cõi Dục, hoặc đồng cõi Sắc, cõi Vô sắc, cho đến nói Phi tướng xứ tức là Niết-bàn, hoặc nói Phạm vương Tỳ-nữu thiên… sinh ra tất cả pháp. Nhưng ba cõi này, đều từ các duyên sinh ra, tìm tự tánh nó, đều không thật có, huống chi khiến tâm tánh đồng với tánh của nó.

Kế là phân biệt rộng vô lượng các đường chúng sinh, mỗi lời nói đều không đồng tánh với kia. Giống như trong hư không mưa xuống nước có tám tính chất tốt, một vị hoàn toàn trong sạch, tùy theo loại thọ dụng mà có các thứ khác nhau, hoặc cay, hoặc chua, hoặc nóng ấm, hoặc vẩn đục, nhưng tánh tám tính chất tốt không đồng với kia, khi hết nóng hết đục thì trong mát như xưa, không hề thay đổi.

75. Tâm ví như viên ngọc ma-ni tùy cảnh chung quanh mà có mầu sắc khác nhau:

Lại như ngọc ma-ni Chân-đà tự nó không có tướng chắc chắn, gặp vật nào thì đồng với màu sắc của vật đó, nhưng tánh báu của ma-ni Chân-đà không đồng với vật ấy. Nếu đồng tánh với kia thì khi sắc tùy duyên sinh diệt, tánh báu cũng nên sinh diệt.

Lại nữa, khi Đức Thế-tôn sắp muốn khai mở Đại bi thai tạng sinh Mạn-trà-la thì trước phải mở bày môn tướng thật của tâm. Vì sao? Như hành giả trong Bổn Tôn Tam-muội, nói có hiện những hình tướng nam nữ, cho đến Phổ môn thị hiện thân sáu đường sợ những người tu hành, không hiểu tâm nhân duyên sinh, đối với vật báu Chân tánh đứng đầu mà sinh lời nói suông, vì thế Phật dạy rằng: Như lai chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, cho đến tâm này không đồng tánh với ba cõi, sáu đường, nếu quán sát được như vậy thì không chướng ngại tâm Bồ-đề.

Lại kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Tâm thường trụ ở nhãn giới, không trụ ở nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Người không thấy không hiển hiện, trước nói không trụ ba chỗ, đã nhiếp tất cả pháp. Vì người chưa ngộ, lại mỗi pháp lần lượt phân biệt. Nếu tâm không đồng tánh với các đường thì trú ở nhãn giới… ư? Cho đến trụ ở ý giới hay sao? Nếu tâm trụ ở nhãn giới, nhãn từ các duyên sinh, tánh tương tự không, chẳng có chỗ trụ, huống chitướng thật của tâm trụ ở trong mắt, cho đến “ấm”, “nhập” các pháp đều nên nói rộng.

76. Không trụ chấp các pháp:

Lại nữa, trước đã phá các thứ ngoại đạo, nay nói không trụ các pháp, vì phá chấp một bên của Thanh văn. Như trong Độc Tử A-tỳ-đàm chép: Ví như bốn đại hòa hợp có nhãn pháp, năm pháp hòa hợp như thế có nhân pháp, nhân pháp này không thể nói trong tạng, mà nói với tất cả người có đạo rằng, trong tất cả pháp môn của thần thì tìm cầu không thật có.

Như lông rùa sừng thỏ thường là không, nhưng “ấm, giới, nhập” thật có tự tánh, do nói suông về pháp như thể nên không biết tâm kia, nếu quán được tâm, không trụ các pháp thì tâm không có chỗ hành, nói ruông đều hết, chẳng phải thấy, chẳng phải hiển hiện. Như có người nói tất cả chúng sinh vốn có tự tánh tri kiến Phật, chỉ khi nào cạo bỏ màng che trong mắt thì sẽ tự thấy lý.

Hoặc có người nói: Thường lý ấy không thể tạo tác, chỉ khi vẹt tan mây mù triền cái, mặt trời tự hiện ra, đều nói theo thế đế mà thôi, nếu tâm Bồ-đề thanh tịnh, là pháp có thể thấy, có thể hiện thì đó là có tướng, hễ cái gì có tướng thì đều là luống dối, làm sao thấy được Vô thượng Bồ-đề? Lại trong kinh tự nói Nhân duyên. Vì sao? Vì tướng tâm như hư không lìa các vọng chấp, cũng không phân biệt, giống như hư không thanh tịnh rốt ráo, tất cả sắc tướng không thể làm nhiễm ô; tánh của tâm cũng như vậy, tất cả phân biệt không thể nhiễm ô, nếu không phân biệt tức là xa lìa tất cả tướng.

77. Hư không chẳng nhơ tức là tâm:

Kinh nói: Vì sao? Vì tánh đồng hư không, tức là đồng với tâm tánh, đồng với tâm tức là đồng với Bồ-đề. Cũng thế, này Bí Mật Chủ! Tâm, hư không, giới và Bồ-đề ba thứ không hai, những thứ này Bi làm gốc, đầy đủ phương tiện Ba-la-mật, các thứ như trên, nhập môn thanh tịnh , đều là nghĩa phát minh tự tâm cầu Bồ-đề. Nay lại kết thúc rằng hư không chẳng nhơ tức là tâm, tâm chính là tướng Bồ-đề, gốc của tướng đồng một tướng nhưng có ba tên, tức một tâm pháp giới này, tuy nhân duyên rốt ráo không sinh, nhưng không hoại nhân duyên tướng thật do không sinh nên sẽ không có năng, sở khác nhau, do không hoại nên cũng lấy Bi làm gốc, phương tiện Ba-la-mật đầy đủ là nghĩa Trung đạo, rốt ráo không thể suy nghĩ bàn luận.

78. Vô lượng phương tiện đều để giúp Bồ tát:

Kinh chép: Bí Mật Chủ! Ta nói các pháp như thế, khiến các chúng Bồ-tát kia, tâm Bồ-đề thanh tịnh hiểu biết tâm kia, Phật đã chỉ bày tâm Bồ-đề thanh tịnh, lược nói ba câu (tâm Bồ-đề là nhân, đại Bi là gốc, phương tiện là rốt ráo) làm đại tông đã xong, tức là nói chung từ đầu đến cuối một bộ, vô lượng phương tiện, đều là vì giúp các Bồ-tát, tâm Bồ-đề thanh tịnh hiểu biết tâm knào Thích-ca Như lai đã nói, phải biết tất cả Như lai trong ba đời mười phương, các thứ nhân duyên tùy nghi nói pháp đều là ba câu của pháp môn này, cuối cùng đồng trở về gốc chẳng khác dấu vết, cho nên nói ta thuyết các pháp như thế, cho đến hiểu biết tâm kia.

79. Tướng thật của tâm:

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Làm sao biết tư tâm? Nghĩa là, nếu phân đoạn hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc cảnh giới, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc ngã sở, hoặc năng chấp, hoặc sở chấp, hoặc thanh tịnh, hoặc giới, hoặc xứ cho đến tất cả trong phân đoạn, tìm cầu không thật có, Đức Thế-tôn trước đã nói rộng tướng ấy của tâm Bồ-đề thanh tịnh. Vì chúng sinh chưa thể đắc ý hiểu ra, lại thực hành phương tiện, nói đây chóng ngộ thành Phật nhập vào môn tướng thật của tâm, cũng chắc chắn hiểu rõ pháp của tất cả các Đức Phật trong mười phương ba đời. Như trong Đại tạng kinh, hoặc nói trong các Uẩn hòa hợp ngã không thật có. Hoặc nói các pháp từ duyên sinh đều không có tự tánh, đều là dần dần mở bày môn tướng thật. Kinh nói tướng thật các pháp chính là tướng thật của tâm trong kinh này. Tướng thật của tâm, chính là Bồ-đề, không còn có lý riêng.

80. Chúng sanh không thể tự tin thành Phật:

Chỉ vì chúng sinh phước mỏng, rồi lại không thể tự tin thành Phật, người tự tin thành Phật rất khó được, cho nên Thế-tôn dạy hãy làm cho các cấu chướng được thanh tịnh , dùng để giữ gìn tâm kia, vì muốn làm cho thời nghi khế hợp, sau đó vì họ nói ẩn tức tâm. Kinh này thì không như vậy, y cứ thẳng vào các pháp để hiểu biết tâm kia, cho nên là kho bí yếu.

Câu đầu nói nếu phần đoạn thì đó là nêu chung từ duyên sinh ra pháp, vì pháp đợi nhân duyên mới thành, chắc chắn có tướng khác nhau, hành giả phải biết quán sát như thế, nay trong phần đoạn này cái gì là tâm? Cho đến phân tích tìm cầu đều không thật có, tức là biết tâm này vượt ngoài các tướng, lìa các nhân duyên và biết tâm tánh thường như thế.

81. Hiển sắc hình sắc và cảnh giới:

Bấy giờ, tất cả các pháp tự nhiên chẳng khác với tâm.

– Hiển sắc:là màu xanh, màu vàng…

– Hình sắc: là vuông, tròn…

– Cảnh giới: là sở đối của sáu căn, tức là sáu trần, để giúp người dễ hiểu, lại lần lượt quán sát các pháp, nay trong hiển, sắc hình sắc này cái gì là tâm? Sắc vốn chẳng phải tình, chẳng hiểu biết tướng, huống chi ở trong đó có tâm để đắc, như hiển hình ấy, nên biết tất cả sắc trần cũng như thế, như sắc trần, cho đến thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng như vậy. Hành giả ở ngoài trần thì trong tâm không thật có, lại quán ngũ uẩn trong thân, cũng như chùm bọt nước, hơi nóng bốc lên, cây chuối, huyễn hóa, tự cầu tánh thật còn chẳng thật có, huống chi ở trong đó mà thật có tâm. Như thế từ thô đến tế, bỏ rộng theo lược, cho đến biết một niệm hiện tại. Cũng chẳng có thời gian dừng nghỉ.

82. Tức không tức giả, tức trung:

Lại nữa, từ các duyên sinh ra nên tức không, tức giả, tức trung.

Xa lìa tất cả nói ruông, cho đến mé “vốn bất sinh”, mé bất sinh tức là tâm thanh tịnh của tự tánh, tâm thanh tịnh của tự tánh tức là tự môn A, dùng tâm nhập tự môn A sẽ biết tất cả pháp, đều nhập tự môn A. Đã nói quán tướng thật các pháp xong, kế là nói quán tướng của ngã, cho nên nói ngã, hoặc ngã sở, hoặc năng chấp, hoặc sở chấp, hoặc thanh tịnh, như trên đối với các ấm, các thứ phương tiện quán tâm, còn không thật có, huống chi các pháp như nhân, ngã, thọ giả… từ xưa đến nay chỉ có giả danh, mà ở trong đó có tâm để đắc. Thanh tịnh tức là cái mà ngoại đạo chấp, chỗ rất thanh tịnh cho đó là Niết-bàn. Như Phạm chí Trường Trảo không thọ tất cả pháp, mà thọ kiến chấp, ở đây cũng như vậy. Chấp mắc trí tuệ quán không, mà nghĩ là thanh tịnh, liền đối với tưởng như thế, chính quán tự tâm không có chỗ sinh, được nhập tâm Bồ-đề thanh tịnh chân chính, ở trên rộng đối trị năm ấm, kế là lại nói mười tám giới, mười hai xứ, cho đến tất cả trong phân đoạn tìm cầu không thật có. Nghĩa ấm, giới, nhập, trong A-tỳ-đàm có nói rộng: Ba pháp này đã thâu nhiếp tất cả, lại nói trong tất cả phần đoạn tìm cầu không thật có, tức là trong Đại Bát-nhã… lần lượt nói rộng, Như trong ấm, giới, nhập phân tích để tìm tâm, thì tâm không thật có, phải biết trong sáu độ, muôn hạnh, cho đến tất cả môn Tổng trì Tam-muội, các thứ tìm cầu tâm cũng không thật có, vì tâm không thật có, nên tâm ấy thường, lạc, ngã, tịnh không có tướng thường, lạc, ngã, tịnh… cũng không thật có như vậy.

83. Lại nữa, như các vị Thanh văn, khi bắt đầu quán ấm, giới, nhập ngay nơi ấm mà tìm ngã, xa lìa ấm tìm ngã, đều không thật có, cùng nhau tồn tại cũng không thật có, bấy giờ vào thẳng trung đạo, xa lìa bụi nhơ, mắt chánh pháp liền sinh. Bồ-tát tu môn Chân ngôn cũng giống như vậy, khi bắt đầu quán ấm, giới, nhập ngay nơi ấm tìm tâm, xa lìa ấm tìm tâm đều không thật có, cùng nhau tồn tại cũng không thật có, vì thế tức thời xa ngộ mé vốn không sinh của tự tâm, đối với Đại đạo Bồ-đề là tri kiến của Như lai, xa lìa bụi nhơ, đắc pháp nhãn thanh tịnh, nếu không thực hành phương tiện trước tiên như thế, lại từ xứ quán sát, mà chỉ nói tâm này trùm khắp tất cả mọi nơi rốt ráo vô tướng thì tất cả chúng sinh không nhờ đâu mà ngộ nhập.

84. Phải biết pháp quán này là pháp môn rất quan trọng và sâu xa. Như các Bồ-tát lìa phương tiện này, dần dần tu tập giới, định, tuệ, trong vô lượng kiếp, dùng các môn quán người, pháp đều không, còn chưa thể xa lìa hình bóng của tâm. Nay hành giả Chân Ngôn, khi mới phát tâm, quán thẳng tướng thật của tự tâm, biết rõ vốn bất sinh, ngay khi ấy người, pháp, nói rộng đều thanh tịnh như hư không, thành tự nhiên giác, không nhờ người mới ngộ; phải biết pháp quán này, còn gọi là pháp môn đốn ngộ rõ đạo.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Pháp môn làm thanh tịnh tâm Bồ-đề này gọi là pháp đầu rõ đạo. Bồ-tát trụ trong đây tu học, siêng năng khổ nhọc không lâu, liền đắc Tam-muội Trừ nhất thiết cái chướng, nhập trí tuệ Phật, có vô lượng phương tiện môn. Nay tông này, quả thật lấy thanh tịnh tâm Bồ-đề làm môn, nếu nhập vào môn này, tức là nhập vào tất cả cảnh giới của Như lai.

85. Ví như Di-lặc, mở cửa lầu gác, Đồng tử Thiện Tài thấy trong đó có vô lượng việc không thể suy nghĩ bàn luận, khó dùng lời diễn bày, chỉ có người nào nhập vào mới tự biết mà thôi. Pháp minh: là do tâm giác vốn bất sinh, trụ trong tâm thanh tịnh ấy sinh ra ánh sáng trí tuệ rực rỡ, chiếu khắp vô lượng pháp tánh, thấy con đường các Đức Phật đã đi, nên gọi là Pháp rõ đạo. Khi Bồ-tát an trụ trong Đạo này, từ nhân duyên vọng tưởng đã có nghiệp khổ phiền não, đều trừ diệt hết, được thanh tịnh.

86. Ví như có người, ở trong chỗ tối bị vật báu sắc nhọn làm tổn thương, nói là rắn độc, vì nghĩ là độc nên tâm kia chấp trước, liền thành hơi độc nhập vào khắp tay chân thân thể, khi sắp qua đời, có thầy thuốc khám bệnh, biết được gốc ngọn của kia, ngay khi đó dẫn đến chỗ bị thương, dùng đèn soi sáng, còn thấy vật báu ở chỗ bị thương, có vết máu dơ, người kia biết không phải độc, hơi độc cũng tan, phân biệt khí cụ tốt đẹp sẽ sinh vui mừng.

Người tu hành cũng như vậy, do tâm Bồ-đề thanh tịnh chiếu sáng các pháp, nên ít dụng công sức, liền được Tam-muội trừ cái chướng, thấy tướng thật của tám mươi bốn ngàn phiền não, thành tám mươi bốn ngàn pháp môn báu nhóm, vì thế kinh chép: Bồ-tát trụ trong đây tu học, siêng năng gian khổ không lâu, liền được Tam-muội Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, nếu được như thế thì ngang với các Đức Phật, Bồ-tát.

87. Trong đó, có năm thứ Chướng:

1- Phiền não chướng: Nghĩa là phiền não căn bản, cho đến tám mươi bốn ngàn thượng, trung, hạ phẩm chướng, che lấp tâm thanh tịnh và do thói quen chấp nghiêng lệch nhiều đời ngăn ngại cơ duyên chứng đạo không nhập vào Phật pháp.

2- Nghiệp chướng: là các tội nặng đã gây ra, cho đến chê bai kinh điển Đại thừa từ đời quá khứ cho đến ngày nay. Người đó dù có nhân duyên đắc đạo, nhưng do nghiệp chướng trước chưa dứt, nên các thứ nạn kéo giữ lại, không nhập vào Phật pháp.

3- Sinh chướng: là nếu người này được sinh vào chỗ tốt đẹp không có các nạn thì sẽ ngộ đạo, nhưng nương nghiệp trước lại thọ thân không lầm lỗi, vì báo sinh tức là chướng làm cho không được nhập vào Phật pháp.

4- Pháp chướng: là người này đã được chỗ sinh không chướng, lại có căn cơ ngộ đạo, nhưng do đời trước có các duyên chướng pháp, nên không gặp bạn lành, không nghe chánh pháp.

5- Sở tri chướng: là người này được gặp Thiện tri thức, được nghe chánh pháp, nhưng có hai thứ nhân duyên không hòa hợp, chướng ngại tu Bát-nhã ba-la-mật, như trong Đại phẩm ma sự có nói rộng.

Cũng là đời trước, hoặc có sai hóa đạo cơ sai lầm nên ưa sinh chướng này. Hành giả đã trừ sạch được năm chướng Tam-muội, bấy giờ trong tự tâm, thường thấy tướng nhiệm mầu trong sáng của tất cả các Đức Phật trong mười phương, như nhìn thấy gương sáng, cho đến trong các oai nghi đi, lại, ngủ, thức, đều không lìa nhân duyên thấy Phật như thế.

88. Bấy giờ, các bậc Thánh thường dùng phương tiện cao quý nhiệm mầu giúp khởi tâm ngộ kia, các bậc Thánh dùng phạm âm an ủi dẫn dắt để dứt lưới nghi, hành giả hễ nghe được liền vui theo với sự ngộ rồi, lưới chướng tiêu trừ theo, không lâu thành tựu tất cả pháp Phật, vì thế nói nếu được Tam-muội này, liền ngang hàng với các Đức Phật, Bồ-tát. Phải biết người tu hành thì địa vị đồng với bậc Đại giác, do tâm họ tự giác, liền được danh hiệu là Phật, nhưng địa vị không rốt ráo diệu giác Đại Mâu-ni. Ví như trăng sáng tuy thể không thêm, bớt nhưng cũng dần dần sáng thêm, cho đến ngày mười lăm, mưa nước mới dâng.

89. Lại hành giả còn trụ ngang với Như lai, có khả năng dùng năng lực phương tiện khởi năm thứ Thần thông, bản tâm không động mà vẫn đến được các cõi Phật, hiện các thứ thân, miệng, ý, nổi các loại mây cúng dường, dùng đại nguyện vô tận rộng tu các độ.

Lại nhờ ý căn thanh tịnh, nên được hiểu rõ vô lượng lời nói âm thanh Đà-la-ni, như ba mươi sáu câu-chi các đường trong một thế gian, tùy theo chủng loại tánh thượng trung hạ kia, bao nhiêu lời nói phong tục ở địa phương, đều khác nhau, đều hiểu chỉ thú của họ, nên dùng âm thanh tùy theo từng loài, như một thế giới, tất cả thế giới cũng giống như vậy.

90. Tiếng Phạm là Lỗ-đa: nghĩa là tiếng lớn, La-vĩ-đa: là tiếng nhỏ, Niết-cù-sam: là tiếng dài, lại bao gồm nhiều tiếng. Sở dĩ nói đầy đủ, vì muốn nói lên cảnh giới Tổng trì không chỗ nào không hiểu rõ, đối với văn tự Trung quốc khó phiên dịch được đầy đủ. Do đắc Đà-lani, nên biết được tất cả tâm hành của chúng sinh, nghĩa là chúng sinh như thế, tâm hành nặng mà tánh tham nhẹ, chúng sinh như thế nặng về tánh tham, sân nhẹ, cho đến tướng thông suốt, bít lấp có vô lượng khác nhau.

Như đạo chủng trí trong Thích luận có nói rộng, là Bồ-tát, không những ý căn biết được, mà cho đến thấy, nghe, ngửi, xúc chạm (nhãn, nhĩ, tỷ, thân căn) cũng đều dùng lẫn nhau không chướng ngại, lại quán sát được căn duyên kia để dứt cái, chướng, dùng các thứ phương tiện thành tựu chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật, làm việc Như lai. Phải biết hành giả môn Chân ngôn, cho đến một đời được thành tựu.

91. Lại nữa, như trên đã nói các công đức, tất cả chúng sinh thảy đều như bản tánh kia, tất cả đều có, nhưng vì vô minh ngăn che không tự biết rõ, nên chưa thể khởi phát năng lực thần thông bí mật, nay các Bồ-tát tu hành môn Chân ngôn này, để thấy Pháp rõ đạo, liền sinh được Tam-muội Trừ nhất thiết cái chướng, liền đồng trụ với các Đức Phật, Bồ-tát, phát sinh năm thứ Thần thông, đem năm thứ Thần thông, thâu hoạch, giữ gìn tất cả, lời nói của tất cả chúng sinh đạt được Đà-la-ni này, nên có thể biết tâm hành của tất cả chúng sinh mà làm Phật sự, vì rộng làm Phật sự nên không cắt đứt hạt giống trí Như lai, bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu, thường được các Như lai trong mười phương che chở; giống như trẻ nhỏ mới sinh tình thương cha mẹ nghiêng nặng thường không xa lìa; phải biết các “câu” như thế, thảy đều lần lượt được giải thích.

92. Lại nữa, hành giả, do bên trong đầy đủ các công đức như trên, bên ngoài được các Đức Phật che chở, cho nên trong chốn sinh tử mà không đắm nhiễm, giống như hoa sen mọc lên khỏi mặt nước, không bị bùn dơ làm ô nhiễm, thường dùng phương tiện bốn pháp nhiếp nhổ gốc khổ cho chúng sinh, cho đến vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp thường ở trong địa ngục Vô gián, thân tâm tinh tấn hăng hái không dứt, không có lui sụt, không từ mệt nhọc. Vì sao? Vì tâm Bồ-đề thanh tịnh, tánh ấy pháp vốn thế, như Kim cang, tánh rất bền chắc như thế, tức là không từ thầy mà đắc, vô trụ là giới, không dơ không đục, không thể phá hoại.

93. Giới, tiếng Phạm là Thi-la, nghĩa là trong mát, thí như tánh nước thường mát, dù gặp nhân duyên củi lửa có thể đốt cháy các vật, nhưng tự tánh kia không bao giờ thay đổi, nếu lấy củi ra, tắt lửa thì tự nhiên trong mát như cũ. Hành giả chân ngôn cũng như vậy. Khi đạt được Tam-muội Trừ cái chướng thì bản tánh của tâm chính là Thi-la,

220 chẳng phải pháp tạo tác, không do người mà được, do đó nói trụ giới Vô vi, như giới Thanh văn thanh tịnh, cần phải do bạch tứ yết-ma và các duyên đầy đủ, mới được sinh, lại phải phương tiện giữ gìn như ngăn ngừa gai nhọn, một ngày nào đó tuổi thọ đã hết, giới cũng mất theo. Giới này thì không như thế, sinh về thế giới nào thì giới này thường sinh theo, không nhờ thọ trì mà thường không mất phạm, lại do trụ ở giới này, thật trí thêm sáng suốt, khi thấy duyên Trung đạo sâu xa không thể suy nghĩ bàn luận sinh khởi thì ngăn cấm tám đảo điên, lìa bỏ hai bên, cho nên kinh kế đó nói: Xa lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến, Ca-diếp cũng nói, từ đây trở về trước, chúng ta đều gọi là người tà kiến.

94. Trong đó trí tuệ không chân chánh cho nên gọi là tà kiến. Do phàm phu, Nhị thừa, không thể xét chọn tướng thật của tự tâm chánh tri đối với lý chắc thật, cho đến “không” nói là bất không, bất không nói là không, không thấy các vị Phật xưa đã thực hành đạo Đại Bồ-đề, nay Bồ-tát này, dùng tâm soi thấy Minh Đạo, do đó ngay lúc ấy trí tuệ phát sinh không chướng ngại, đối với tất cả pháp, thảy đều hiện ra trước mắt, thông đạt không bị nhầm lẫn, giống như người có mắt sáng, ở trong ánh sáng mặt trời nhìn thấy các màu, dù vô lượng thiên ma, thảy đều hóa thành thân Phật, đều nói Tương tự Ba-la-mật, không hề lay động một chút nào lưới nghi ở tâm kia, vì thế kinh lại nói: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Do năng lực tín giải của Bồ-tát trụ ở tam muội Trừ nhất thiết cái chướng này, siêng năng tu tập không lâu sẽ đầy đủ tất cả Phật pháp, vì chánh kiến như thế giống như kim cang, tức là năng lực tín giải vững chắc trên hết.

95. Nương vào đây tiến tu như thật khéo qua, được năng lực vô sở úy, giải thoát Tam-muội của các Đức Phật, cho đến vô lượng Phật pháp thảy đều thành tựu. Long Thọ cho là như người đúc luyện đồ kim loại, dùng các thứ phương tiện làm tiêu tan khoáng vật, sau đó mới thành vàng. Nếu người có thần thông, có thể khiến cho các loại đất, gỗ liền thành thể vàng, cho nên nói: Siêng năng tu tập không lâu liền được đầy đủ tất cả Phật pháp, vì khi Bồ-tát này mới phát tâm liền gọi là Phật, công đức chân thật không thể đo lường.

Dù cho Như lai trong vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp phân biệt giảng nói cũng không thể hết, cho nên Phật dạy: Nói theo chỗ chính yếu thì thiện nam, thiện nữ vô lượng công đức đều thành tựu, bấy giờ, Chấp kim cang Bí Mật Chủ lại dùng kệ thưa hỏi Đức Phật, cho đến không biết các không, không thể biết Niết-bàn kia, cho nên phải hiểu rõ không xa lìa đoạn thường, như trên Phật dạy đại ý chủ yếu của kinh, pháp môn tướng thật của tâm lược đã khắp đủ.

96. Bấy giờ, Kim Cang Thủ, vì khiến chúng sinh đời tương lai đầy đủ phương tiện không còn nghi ngờ nên dùng kệ hỏi Phật, thỉnh Đức Thế-tôn giảng nói nghĩa ấy. Trong đó lược có chín câu. Vì sao nói Đức Thế-tôn nói tâm này sinh Bồ-đề? Tức là tâm Bồ-đề sinh.

Thứ nhất: Như các kinh Hoa Nghiêm… rộng khen ngợi công đức phát tâm Bồ-đề, nay ở trong đây, hỏi thẳng mật ấn của tâm, làm sao hiểu rõ hạt giống trong tâm Bồ-đề này phát sinh, đã phát sinh rồi tánh kia thế nào?

Câu thứ hai nói: Lại lấy tướng thế nào để biết phát tâm Bồ-đề?

97. Tướng: nghĩa là tánh thành ở bên trong, chắc chắn có bóng dáng ở bên ngoài, như trong Bát-nhã nói rộng tướng mạo A-bệ-bạttrí (bất thoái chuyển). Nay trong đây cũng hỏi khi tâm Bồ-đề sinh, có tướng mạo gì?

Kinh chép: Xin biết tâm tâm thù thắng tự nhiên trí sinh: là như thật khen ngợi công đức của Phật, xin khai giảng nghĩa của hai câu trước. Trước hết nói thức tâm là trí do tâm tự hiểu biết, sau lại nói tâm, tức là tướng thật của tâm, ý nói cảnh trí đều mầu nhiệm không hai không khác, do đó nói lập lại. Trí Tự nhiên: tức là thường trí của Như lai, chỉ là tâm tự chứng tâm, không do người mà ngộ, ý nói Phật đã ở trong thức tâm loài người biết tâm là bậc nhất, chắc chắc biết được tâm Bồ-đề phát sinh và tướng thanh tịnh nhiệm mầu của nó, cúi mong giảng nói.

Câu thứ ba nói: Đại Động Dũng bao nhiêu thứ lớp tâm tiếp tục sinh? Đại Động Dũng, tức là tên khác của Phật, khen ngợi công đức mà lại nêu câu hỏi, có bao nhiêu tâm thứ lớp mà được tâm.

Câu thứ tư, thứ năm nói: Các tướng của Tâm và thời gian xin Phật giảng nói rộng: Hỏi: Các tướng khác nhau của tâm này, nối nhau tiến lên, trải qua bao nhiêu thời gian, mà được rốt ráo tâm Bồ-đề thanh tịnh.

Câu thứ sáu nói: Nhóm công đức cũng như thế, nói tâm là công đức mầu nhiệm, cũng xin Đức Thế-tôn giảng nói rộng, cho nên nói cũng như thế.

Câu thứ bảy nói: Người thực hành tu hành kia kế là hỏi phải tu hạnh nào, làm sao tu hành để đạt được Vô thượng Tất-địa cũng chia làm hai câu.

Câu thứ tám và thứ chín nói: tâm tâm có khác nhau, chỉ có Đại Mâu-ni nói, nghĩa là thức tâm Dị thục của chúng sinh khác với tâm của hành giả Du-già, cũng xin Đức Thế-tôn nói rộng. Mâu-ni: nghĩa là vắng lặng, ý nói thân, ngữ, tâm của Phật đều rốt ráo vắng lặng tội lỗi của đất lời nói, vì đối với hàng Nhị thừa vắng lặng chưa hoàn toàn không thể làm ví dụ, cho nên nói là Mâu-ni.

98. A-xà-lê nói: Chín câu như vậy có thể chia làm mười câu, từ đây về sau cho đến cuối kinh đều là Như lai trả lời ý của chín câu hỏi, phân biệt nói rộng, nhưng Phật quán chúng hội lúc ấy, cốt phải được ý tìm tông, hoặc hỏi ở sau, đáp ở trước, văn không có tiêu chuẩn chắc chắn, kế là hoặc chuyển sinh nghi để hỏi, dùng hết nguồn dòng, như văn dưới đây nhập đại Bi Tạng Mạn-trà-la… tức là trả lời câu tu hành.

Bách tự quả… tức là trả lời tâm khác nhau và câu công đức, còn các câu khác hễ có chỗ tương ưng thì đều dùng loại để quán, nghĩa có thể biết. Kế là Như lai trả lời trong bài kệ của Kim Cang Thủ. Lành thay! Người đệ tử chân chính của Phật tâm lợi ích rộng lớn, do từ chủng tánh Như lai sinh ra, từ thân, ngữ, tâm Phật sinh ra, cho nên nói đệ tử chân chánh, như Đức Thế-tôn Đại Nhật ở trước hiện cảnh giới gia trì rộng lớn, nay Bí Mật Chủ cũng muốn độ khắp vô lượng chúng sinh nên độ như thế, khiến cho mau thành đại hạnh, xé rách mành lưới nghi lớn. Vì lợi ích vô lượng chúng sinh cho nên nêu câu hỏi như vậy.

99. Lại nói thắng thượng Đại thừa cú, tướng nối nhau sinh của tâm, các Đức Phật Đại bí Mật, ngoại đạo không thể biết. lược có bảy nghĩa cho nên nói là Đại thừa:

a) Dĩ pháp đại, là kho bí mật sâu xa mầu nhiệm của các Đức Phật, Tỳ-lô-giá-na trùm khắp tất cả mọi nơi, là chỗ nương của bậc Đại nhân.

b) Phát tâm đại, một bề chí cầu Đại tuệ bình đẳng, khởi bi nguyện vô tận, thệ sẽ trao khắp cho chúng sinh trong pháp giới.

c) Tín giải đại, là khi mới thấy Tâm rõ đạo đầy đủ vô lượng công đức, có thể đến khắp hằng sa cõi Phật, dùng đại sự nhân duyên thành tựu chúng sinh.

d) Dĩ tánh đại, là kho báu kim cang trong tâm thanh tịnh của tự tánh, không có thiếu giản, tất cả chúng sinh đều có.

e) Y chỉ đại: nghĩa là cỗ xe nhiệm mầu như thế, chính là chỗ rộng lớn cho chúng sinh trong pháp giới nương ở, ví như trăm sông chảy về biển, cỏ cây nương đất mà sống.

f) Dĩ thời đại: Nghĩa là tuổi thọ lâu dài vượt hơn ba thời. Dụng lực thần thông bí mật hăng hái của sư tử, chưa hề dừng nghỉ.

g)  Dĩ trí đại: nghĩa là các pháp vô biên bằng với hư không tâm tự nhiên, diệu tuệ cũng lại vô biên, cùng tận nguồn gốc tướng thật, ví như cái hộp và nắp xứng nhau, do bảy lý do như thế, nên trong các pháp môn Đại thừa giống như Đề hồ thuần vị bậc nhất, vì thế nói là tối thắng Đại thừa. Thừa là tiến tới, cú là chỗ dừng nghỉ, do đó nói là Đại thừa Cú.

Tướng nối nhau của tâm: Tuy tâm này rất rốt ráo thường tịnh, giống như hư không lìa tất cả tướng, nhưng cũng từ nhân duyên khởi, có tướng của tâm sinh, giống như sóng mòi của biển lớn, không phải thường có cũng không phải thường không; nếu là thường có thì không phải gió dữ dừng thổi là lặng trong yên ổn, nếu thường không thì lẽ ra gió dữ thổi cũng không nổi sóng, phải biết tâm ấy từ duyên khởi, tức là không sinh mà sinh, sinh mà không sinh, tướng trong vô tướng, tướng thường vô tướng, sâu xa mầu nhiệm khó có thể biết rõ, ấn bí mật của các Đức Phật không vọng chỉ bày, cho nên phàm phu, Nhị thừa, hai thứ ngoại đạo, chẳng những không biết tâm vô sinh diệt, mà cũng không biết tâm sinh diệt, vì thế nói Bí mật lớn của các Đức Phật, ngoại đạo không thể biết. Nay ta đều mở bày nên nhất tâm phải nghe cho kỹ. Kế là kệ nói.

100. Vượt một trăm sáu mươi tâm sinh công đức rộng lớn, tánh kia thường vững bền. Biết kia Bồ-đề sinh: Là đáp sơ lược câu hỏi ban đầu làm sao biết tâm Bồ-đề sinh, nay Đức Phật bảo rằng, vượt một trăm sáu mươi tâm nối nhau, tức là tâm Bồ-đề thanh tịnh, như có người hỏi làm sao biết trong sữa này sinh ra đề hồ, đáp rằng nếu sữa bò thành bơ chín, tướng thô đục thay đổi, đều đã hòa tan khéo léo không còn cặn dơ, phải biết tức là Bồ-đề sinh. Khi hành giả mới khai mở kho báu kim cang thì thấy tâm tánh ấy như hư không thanh tịnh, vượt các số lượng.

Bấy giờ, lìa nhân sinh nghiệp, mầm cây Phật sinh, khi mầm này sinh, đã trùm khắp pháp giới, huống chi cành, lá, hoa, quả, cho nên nói sinh công đức rộng lớn; do vượt qua tâm hành nói rộng, nên không thể phá hoại, không thể xoay chuyển, giống như vàng ở cõi Diêm-phù-đàn không thể nói tánh chất xấu của nó, cho nên nói tánh kia thường bền vững, nếu biết tự tâm có ấn như vậy, phải biết đó là Bồ-đề sinh.

Kế là nửa bài kệ đáp sơ lược dáng mạo tâm Bồ-đề, do thế gian không còn pháp nào, có thể đem biểu thị tướng tâm Bồ-đề thanh tịnh, chỉ trừ hư không rộng lớn ví dụ chút phần tương tợ, cho nên nói vô lượng như hư không, ví như hư không bị khói mây bụi mù làm ô nhiễm, tánh kia thường trú, lìa các nhân duyên, dù cho tám phương gió thổi hết thế gian, cũng không thể khiến kia lay động, từ gốc ban đầu đến nay thường tự vắng lặng vô tướng, không thích hợp với ngày nay, tâm tướng cũng giống như vậy, từ vô thỉ đến nay vốn tự bất sinh, do vốn tự bất sinh, nên không có một pháp nào làm nhiễm ô, lay động, thường trụ bất biến, thường tịnh vô tướng.

101. Cho nên nói: Không nhiễm ô thường trụ, các pháp không thể động, xưa nay vắng lặng vô tướng. Bấy giờ, người tu hành được ánh sáng vắng lặng này soi chiếu, vô lượng tri kiến tự nhiên khai phát, như hoa sen nở, cho nên nói vô lượng trí thành tựu, trí thành tựu này là tâm Phật Tỳ-lô-giá-na hiện ra trước, do đó nói Chánh đẳng giác hiện bày, tiếng Phạm nói là Tam-miệu Tam-phật-đà Bồ-đề hiện.

Phật đã nói lược về ấn tướng thật của tâm như thế, nếu hành giả tương ưng với đây thì phải biết đã đầy đủ sức tín vững chắc, nhưng sức tín này, vốn từ thực hành pháp môn Chân ngôn cúng dường nghi quỹ, như lời dạy tu hành được đến tâm Bồ-đề thanh tịnh, cho nên nói cúng dường hạnh tu hành, từ đây mới phát tâm.

102. Cúng dường ở đây có hai thứ:

  1. Cúng dường bên ngoài .
  2. Cúng dường bên trong.

Văn dưới sẽ nói rộng. Hoặc có chỗ nói rằng, chỉ quán tâm tánh vô tướng vô vi, không nên lăng xăng hành đạo Bồ-tát nhiều thứ loạn động, đây là nói không đúng, như dùng bốn thứ bất sinh quán sát tánh vàng trong quặng, tuy là xét nhân xét quả, thường tự không bớt không thêm, nếu không dùng phương tiện hòa tan cặn dơ thì vàng bất sinh này không do đâu mà được, người tu hành cũng vậy, nếu không dùng ba thứ phương tiện bí mật cúng dường hạnh môn, tiêu dung một trăm sáu mươi tâm, và chất nhơ trong quặng thì làm sao lấy được tâm Bồ-đề thanh tịnh này; Trung đạo chánh quán của A-xà-lê Long Thọ, chính là từ duyên khởi, nên nghĩa Vô sinh thành tựu, nhưng ngài nói lông rùa sừng thỏ là vô sinh, thế nên rơi vào chỗ lỗi.

103. Lại như ở đời thấy vàng thật gia công trăm lần cũng không thay đổi, cho là diệu tánh tột cùng, như vị Tiên chứng được năm thứ thông, dùng các vị thuốc, chế biến bằng mọi cách, có khả năng hóa các loại đất đá thảy đều thành vàng báu, họ có phép dưỡng sinh của Đạo gia, tuổi thọ dài lâu, thần biến vô phương. Phải biết trong tánh vàng thật, tự có lực dụng như thế, chỉ vì người đời không có phương tiện bí mật nên không thể được mà thôi.

Tâm Bồ-đề thanh tịnh, nếu dùng đại bi muôn hạnh, các cách trau dồi thì được thành tựu sự nghiệp thần biến gia trì không thể suy nghĩ bàn luận, vì thế không nên chưa được nói được, cho sơ tâm là quả cuối cùng.

104. Kinh dạy: Bí Mật Chủ! Phàm phu như đứa trẻ ngu sinh tử từ vô thỉ, chấp đắm ngã gọi là ngã hữu, phân biệt vô lượng ngã phần. Này Bí Mật Chủ! Nếu kia không quán tự tánh của ngã thì ngã và ngã sở sinh khởi: Dưới đây trả lời nghĩa tâm nối nhau. Muốn nói nguyên nhân đầu tiên tâm thanh tịnh sinh khởi, trước hết phải nói tâm trái lẽ của phàm phu như đứa trẻ ngu .

Vô thỉ sinh tử: Luận Trí Độ chép: Thế gian hoặc chúng sinh, hoặc pháp đều không có chỗ bắt đầu. Trong kinh Đức Phật dạy: Vô minh che ngăn, ái buộc ràng, sinh tử qua lại, chỗ bắt đầu không thật có, cho đến Bồ-tát quán chỗ bắt đầu cũng không, nên không rơi vào kiến chấp thấy có chỗ bắt đầu. Ngu đồng: nghĩa như trước đã nói. Phàm phu, dịch đúng nên nói là Dị sinh, nghĩa là do vô minh, theo nghiệp thọ báo không được tự tại, đọa vào trong các đường, sắc tâm hình loại mỗi mỗi khác nhau, vì thế nói là Dị sinh. Chỗ chấp ngã ấy, chỉ có lời nói mà không có sự thật, cho nên nói chấp trước ngã danh. Nói ngã hữu tức là ngã sở. Ngã, ngã sở chấp như thế, giống như sáu mươi tri kiến, tùy việc khác nhau, vô lượng không đồng, nên gọi là phần.

105. Kế là giải thích lý do luống dối phân biệt, vì thế gọi là Bí Mật Chủ, nếu kia không quán tự tánh của ngã thì ngã và ngã sở sinh khởi, nếu kia quán sát các uẩn đều từ các duyên sinh, trong đó cái gì là ngã? Ngã trụ chỗ nào? Tướng uẩn ở đâu? Nếu tìm kỹ như thế, sẽ được cái thấy chân chánh nhưng kia không tự quán sát, chỉ xoay vần nhận lãnh từ người truyền trao, từ xưa đến nay noi theo kiến chấp này, nói là ngã ở trong thân, có sự tạo tác và nuôi lớn, thành tựu các căn, chỉ có đây là đạo rốt ráo, ngoài ra đều là nói dối, vì thế gọi là ngu đồng.

Kinh chép: Lại chấp có thời: nghĩa là chấp tất cả sự tốt xấu trong trời đất đều lấy thời làm nhân, như kệ kia nói: Thời đến chúng sinh thuần thục, thời đến thì thôi thúc, thời có công năng giúp người giác ngộ, vì thế thời là nhân.

Lại có người nói: Tuy tất cả người, vật chẳng phải do thời tạo tác, nhưng thời đúng là nhân không thay đổi, là pháp thật có, vì nhỏ nhiệm cho nên không thấy được; y theo hoa quả… có thể biết có thời. Vì sao? Vì thấy quả biết có nhân Pháp, bấy giờ thời không hoại cho nên thường, cũng vì không quán tự tánh của thời, nên sinh ra vọng chấp như vậy.

Kinh chép: Đất… biến hóa: nghĩa là đất nước, lửa, gió, hư không, mỗi mỗi có người chấp là chân thật, hoặc nói đất làm nhân cho muôn vật, tất cả chúng sinh muôn vật, nương vào đất mà được sống, do không quán tự tánh của đất, chỉ trừ các duyên hòa hợp có, mà sinh sự hiểu kiến chấp như thế, cho là cúng dường đất, sẽ được giải thoát. Kế là có chấp: Nước có thể sinh ra muôn vật, lửa, gió cũng giống như vậy; hoặc chấp muôn vật từ không mà sinh, nói không là nhân của chân giải thoát, phải nên cúng dường kính thờ, đều nên nói rộng.

Kinh chép: Du-già ngã: Nghĩa là người học Định, Chấp lý tương ưng trong tâm này, cho là chân ngã, thường trụ bất động, chân tánh vắng lặng, chỉ có đây là con đường rốt ráo, xa lìa nhân quả, không quán tự tánh của tâm, kiến chấp như thế sinh, cho là Chân ngã, chỉ trụ lý này thì gọi giải thoát.

Kinh nói: Kiến lập tịnh, không kiến lập vô tịnh: Trong đây có hai thứ chấp: Câu trước nói có kiến lập tất cả pháp, nương đây tu hành gọi là Tịnh, câu tiếp theo này nói kiến lập pháp chẳng rốt ráo, nếu không kiến lập gọi là vô vi, chính là Chân Ngã, cũng xa lìa chỗ tu của Tịnh ở câu trước, vì thế nói Vô tịnh, do không quán tự tánh của ngã, có sinh sự hiểu biết như thế, nói rộng như trên.

Kinh chép: Hoặc trời Tự tại, hoặc lưu xuất kịp thời: Nghĩa là có một hạng ngoại đạo chấp trời Tự tại là thường, tự tại ấy có khả năng sinh ra muôn vật. Như trong luận Thập Nhi Môn có vặn hỏi rằng, nếu chúng sinh là con của trời Tự tại thì trời Tự tại chỉ nên đem vui ngăn khổ, không nên cho khổ, cũng nên chỉ cúng dường tự tại thì diệt khổ được vui, nhưng thật ra không phải như vậy, chỉ tự mình tạo nhân duyên khổ hoặc vui mà tự thọ báo, không phải trời Tự tại làm ra.

Lại nếu tự tạo thành chúng sinh thì người nào tạo thành trời Tự tại này? Nếu Tự tại tự tạo thành thì không đúng; như vật không tự tạo ra, nếu lại có sự tạo ra thì không gọi là Tự tại. Như luận ấy nói rộng. Chấp lưu xuất: đồng với kiến lập Đại, kiến lập như từ tâm xuất ra tất cả pháp; lưu xuất trong đây như từ bàn tay xuất ra tất cả pháp; như người thợ gốm rèn luyện, lấp các chỗ không hở, sinh ra các hình dạng nhau. Kế đến là nói thời: Cùng thời ở trước, ngoại đạo chấp hơi khác, đều là chủng loại trời Tự tại.

*********

 

Kinh nói: Tôn quý đây là trời Na-la-diên, ngoại đạo chấp trời này vắng lặng, thường trụ bất động, và có phụ tướng tạo thành muôn vật, ví như người đứng đầu không làm nhưng cai trị, có quản lý trông coi mà làm, lại người đứng đầu năng tạo không có ai tôn quý hơn nữa, cho nên nói là Tôn quý.

Lại tông này chấp, Tôn quý là khắp tất cả đất, nước, gió, lửa, hư không. Xưa có vị Luận sư muốn hàng phục điều tông kia chấp, bèn đến đền thờ trời ngồi ăn uống trên thân tượng vị trời ấy, người Tây phương cho rằng thức ăn uống còn dư là rất bất tịnh nên đều cùng nổi giận, Luận sư nói, như chỗ y cứ đâu há chẳng phải là đất, nước, gió, lửa, hư không trùm khắp tất cả mọi nơi ư? Đáp rằng: Đúng thế! Luận sư nói: Đó là đất, nước, lửa, gió, ngã cũng như thế, đem tướng nhập vào thì chỗ nào không đáng tức giận? những người kia im lặng, không trả lời được, cũng do không quán tự tánh của ngã, nên sinh vọng chấp như vậy.

Kinh nói: Tự nhiên: là một thứ chấp của ngoại đạo, tất cả pháp đều tự nhiên mà có, không do tạo tác, như hoa sen màu sắc tươi sạch, cái gì làm nhiễm được? Đầu mũi gai nhọn, đâu có ai vót thành? Do đó biết các pháp đều tự nó như vậy. Có sư vặn hỏi rằng, nay mắt ta thấy thế gian làm ra các loại thuyền, tàu, nhà, cửa, đều từ các duyên mà có, đâu phải tự nhiên thành, vì sao nói là tự như vậy? Nếu cho là có mà chưa rõ ràng, cho nên cần người công phát, tức là do duyên, không phải tự nhiên có.

Kinh nói: Nội ngã: Có người chấp, ngoài cái trong thân lìa tâm thì có ngã tánh riêng, có thể vận động thân này làm các việc. Người nạn vấn nói: Nếu như thế, thì ngã là vô thường. Vì sao? Vì nếu pháp là nhân thì từ nhân sinh đều là vô thường, nếu ngã vô thường thì tội phước quả báo đều là đoạn diệt, những thứ luận nghị như thế, cho đến so lường nói rộng.

Kinh nói nhân lượng: nghĩa là chấp lượng của thần ngã bằng với thân người, thân nhỏ ngã cũng nhỏ, thân lớn ngã cũng lớn. Luận Trí Độ chép: Có người chấp thần lớn nhỏ tùy theo thân người, khi chết thân tan rã thần cũng ra trước, tức là cùng giống như đây, nhưng Tông kia cho rằng ngã là pháp thường trụ tự tại, nay đã tùy theo thân lớn nhỏ, tức là vô thường, do đó biết là không đúng.

Kinh nói Biến nghiêm: nghĩa là chấp thần ngã này có khả năng tạo ra các pháp, nhưng ở thể gian việc tôn nghiêm cao cả thì do ngã làm ra, cùng với chấp trời Tự tại có khác chút ít, như trong Luận có phá tự tại, nói trời Tự tại vì sao không hết lòng làm cho người vui mà lại hết lòng làm cho người khổ, và phải biết có khổ có vui từ thương ghét mà sinh, do đó không tự tại. Biến nghiêm ở đây, đã là năng tạo các phước vui, nhưng không thể đem vui để dứt khổ, làm sao gọi là thường tự tại khắp?

Kinh chép: như thọ: nghĩa là các ngoại Đạo chấp, tất cả pháp cho đến bốn đại cây cỏ… đều có tuổi thọ, như cỏ cây thay đổi rồi tiếp tục sống, nên biết có mạng, lại ban đêm thì nó cuốn xếp lại, nên biết cũng có tình thức, để mà nghỉ ngủ. Người nạn vấn nói: Nếu thấy giết chết rồi sống lại, cho là có mạng sống thì người chặt đi một cành không mọc trở lại, chẳng lẽ không có mạng sao? Nếu buổi tối xếp lại (nói) cây có ngủ nghỉ thì dòng nước ngày đêm không dừng, chẳng lẽ lúc nào cũng thức ư? Đều do không quán tự tánh của ngã, nên sinh các thứ vọng kiến.

Kinh dạy, Bổ-đặc-già-la: Nghĩa là tông kia chấp có Số thủ thú (thường hướng về các đường) đều là một ngã, thì chỉ tùy theo việc mà khác tên thôi. Nếu có từ đời này đến đời sau thì thần thức đó là thường, nếu thức thần là thường, vì sao nói có sinh tử, tử gọi là diệt ở chỗ này, sinh nói là có ra ở chỗ kia, vì thế không được nói thần là thường, Nếu vô thường thì không có ngã, như Độc Tử Đạo Nhân trong Phật Pháp và Thuyết Nhất Thiết Hữu Hộ, hai bộ này chấp có pháp ba đời, nếu chắc chắn có quá khứ, hiện tại, tương lai thì đồng có sác thủ thú, mất ba thứ pháp ấn của Phật, các Bồ-tát ở Tây phương, tạo ra các thứ lượng để phá chấp của tông kia.

Kinh nói: Như thức: nghĩa là có một thứ chấp, thức này ở khắp tất cả mọi nơi, cho đến các cõi địa; thủy, hỏa, phong, hư không, thức đều khắp đủ trong đó, điều này cũng không đúng, nếu thần thức là khắp thường, thì lẽ ra có thể thấy nghe hay biết riêng, nhưng nay phải nhờ căn trần hòa hợp, mới có thức sinh thì thần thức của ông không dùng được, lại như thần thức khắp trong năm đường, vì sao lại có sinh tử? Cho nên biết là không đúng.

Kinh nói: A-lại-da: nghĩa là chứa đựng nắm giữ, cũng là nghĩa nhà. Tông này nói: Có A-lại-da có thể giữ gìn thân này, có sự tạo tác chứa đựng muôn hình, thu nhiếp thì vô sở hữu, duỗi ra thì đầy khắp cả thế gian, không giống như nghĩa Thức thứ tám (A-lại-da) trong Phật pháp, nhưng mật ý Thế-tôn nói Như lai Tạng là A-lại-da, nếu người trong Phật pháp, không quán tướng thật tự tâm, phân biệt chấp trước, cũng đồng với ngã kiến.

Kinh nói: Thấy biết: Nghĩa là có ngoại đạo chấp, trong thân có thấy biết, những việc khổ, vui, lại có người chấp năng thấy, tức là chân ngã, luận Trí Độ chép: Mắt thấy sắc gọi là kiến, năm thức biết gọi là tri, đều là ngã chấp, tùy theo việc mà có tên khác nhau. Người vặn hỏi rằng: Ông nói năng kiến là ngã, mà kia có thể nghe, có thể xúc chạm biết, như thế có phải là ngã hay không? Nếu đều là ngã thì sáu căn, sáu trần (cảnh giới) không biết lẫn nhau, một không thể làm sáu, sáu không thể làm một, nếu có chẳng phải ngã thì cũng đồng với nghi, cho nên biết căn trần hòa hợp có sự hiểu biết, không có ngã riêng.

Kinh nói: Năng chấp, sở chấp: Nghĩa là có ngoại đạo nói, trong thân lìa thức tâm, có năng chấp riêng tức là chân ngã, có thể vận động thân, miệng, ý, làm các việc, hoặc có thuyết nói rằng, năng chấp chỉ là thức tâm, họ chấp cảnh giới, bèn nói chân ngã, ngã này ở khắp mọi nơi, nhưng tánh của thân, thọ, tâm, pháp ở trong, ở ngoài, đều từ duyên sinh, không có tự tánh, trong đó năng chấp sở chấp, chấp còn không thật có, huống chi là ngã ư? Cũng do không quán tự tánh của ngã, nên nói lời ấy.

Kinh dạy: Nội tri, ngoại tri: Cũng là tên khác của biết, chia thành hai chấp: Có người chấp nội tri là ngã, nghĩa trong thân có nội chứng riêng, chính là chân ngã, hoặc lấy ngoại tri làm ngã, nghĩa là biết được cảnh giới ngoại trần, tức là chân ngã.

Kinh chép: Xả-thản-phạm: nghĩa là cùng biết người ngoại đạo chấp đại đồng, nhưng bộ đảng khác nhau, nên đặc biệt nêu ra.

Kinh nói: Nhược Ma-nô-xà: Luận Trí Độ dịch là nhân, tức là người chấp, dịch đầy đủ phải nói là nhân sinh, đây là trời Tự tại của bộ loại ngoại đạo, chấp người thì từ người sinh, do đó lấy làm tên, Đường Tam Tạng nói ý sinh, là sai. Mạt-na là ý, nay nói mạt-nô, thanh chuyển nghĩa cũng khác, là lầm.

Kinh nói: Ma-nạp-bà: là bộ loại ngoại đạo trời Tỳ-nữu, dịch đúng phải là Thắng Ngã, nói ngã ở trong thân tâm, rất là tốt đẹp, kia thường ở trong tâm, quán ngã cao khoảng một tấc: Luận Trí Độ cũng chép: Có người chấp, thần ở trong tâm, nhỏ như hạt cải, thanh tịnh gọi là tịnh sắc, hoặc như hạt đậu, cho đến một tấc, khi mới thọ thân, đầu tiên là trước khi thọ, ví như xương voi và sự thành thân, của nó như voi đã mạnh mẽ. Đường Tam Tạng dịch là Nho Đồng, là sai, Nho Đồng, tiếng Phạm là Ma-noa-ba, Hán dịch là nạp, nghĩa là khác, đó là lầm (hai danh từ này do Xà-lê Bồ-đề giải thích).

Kinh chép: Thường định sinh: Ngoại đạo kia chấp, ngã là thường trụ không thể phá hoại, tự nhiên thường sinh không có sinh lại, vì thế lấy đó làm tên.

Kinh nói: Thanh, phi thanh: Thanh tức là thanh luận của ngoại đạo, nếu chấp thanh hiện rõ, thể của thanh vốn có, đợi duyên hiện ra, thể tánh thường trụ, nếu chấp thanh sinh, thanh vốn sinh, đợi duyên sinh, sinh đã thường trụ, trong kia lại tự chia riêng mà chấp, như các chỗ khác giải thích rộng. Phi thanh: Khác với chấp trước, ấy chấp thanh là thường khắp, tông này đều bác bỏ là vô, rơi vào pháp vô thiện, ác, cũng không có chỗ thanh, chữ cho đây là thật.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Các ngã phần ấy, từ xưa đến nay, phân chia tương ưng, mong cầu thuận lý giải thoát hữu. Trong kinh nêu sơ lược ba mươi việc, nếu tùy theo loại khác nhau thì có vô lượng, vô biên, như người ngồi được Tứ thiền thì chấp pháp này là thường lý chân thật, hoặc sinh ý nghĩ, ta phải đắc thiền, những ý niệm như thế đều tương ưng với ngã phần, so sánh có thể biết, đều do không quán tướng thật của ngã, chỉ do sự truyền trao cho nhau từ xưa đến nay, bắt chước theo kiến chấp này, mỗi người tự nói có Đại sư Bạc-già-phạm, do khéo tu Du-già, nên nay hiểu pháp này, lại giảng nói cho thế gian nghe, chỉ có đây là đạo rốt ráo, không còn đạo khác, như khi vào kiếp sơ chỉ có một trời, trước sinh phạm giới, lại khởi niệm rằng, nếu có chúng sinh, đến sống chung với ta thì tốt lắm?

Bấy giờ trên cõi trời có người qua đời sinh đến đó, người sinh ra trước liền nói rằng, do nguyện lực của ta, ông được sinh đến đây, ông chính là do ta đã sinh ra, nhưng kia cũng khởi niệm rằng, bậc đáng kính trọng kia có thể sinh chúng ta, liền cùng nhau thuận theo, chấp là đầu tiên có ngã, từ đó đến nay, nói là Phạm thiên vương có khả năng tạo ra thế gian, như thế lần lửa sinh vào chỗ hiểu biết quái lạ, không thể ghi nhớ, mong cầu thuận lý giải thoát. Thuận lý, tiếng Phạm là Du-kỳ, tức là ngày xưa hành giả tu Du-già nói họ được chân giải thoát là chỗ y cứ của muôn vật. Nay thuận với hạnh kia mong cầu giải thoát, nên nói là đúng. Trên đây đều là phá hoại tâm trái lý nhân quả trong ngoài. Kế là nói tâm đầu tiên thuận theo lý, khéo thuận tức là tám tâm ở thế gian.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Loại phàm phu như đứa trẻ ngu, giống như dê đực, thỉnh thoảng có một pháp tưởng sinh, gọi là trì trai, kia suy nghĩ chỉ một ít phần này, sinh tâm vui mừng, thường luôn tu tập. Này Bí Mật Chủ! Đó là hạt giống nghiệp lành bắt đầu phát sinh, Dê đực quả là trong súc sinh, tánh rất thấp hèn chỉ nhớ nghĩ đến cỏ, nước và sự dâm dục, ngoài ra không hiểu biết gì, do thuận theo ngữ pháp Tây phương đem dụ cho hạng phàm phu như đứa trẻ ngu không biết nhân quả thiện ác.

Thế gian từ xưa đến nay, xoay vần truyền trao cho nhau gọi là pháp lành, nhưng đem tâm trái lý tìm cầu bằng mọi cách thứ mà không thể được, sau đó bỗng nhiên tự nghĩ. Nay ta bớt ăn, trì trai, tức là pháp lành, nhưng chưa phải là bát quan trai giới trong Phật pháp, kia do tự răn dè ăn uống vừa đủ, liền biết công việc giảm ít, khiến ta ăn uống dễ đầy đủ, không sinh tìm cầu khổ nhọc. Bấy giờ, liền sinh chút phần tâm không mê đắm, tâm kia vui mừng lại được yên ổn, do thấy lợi ích này, thường có tu tập thì trước hết liền hiểu biết sự tinh diệu về nhân quả thiện ác, cho nên nói là hạt giống tâm.

Kinh dạy: Lại lấy đây làm nhân, trong sáu ngày trai, cúng cho cha mẹ, bà con nam nữ đó là mầm giống thứ hai, trong sáu ngày trai này, chính là trong luận Trí Độ nói: Đời trước có vị tiên đã chứng năm thần thông, khuyến khích vào ngày này nhịn ăn, đã thuận pháp lành, lại khỏi bị tai họa quỷ thần, như luận ấy có nói rộng. Nhờ đó mà dứt tham cầu, trong được lợi lạc, muốn tu tập pháp này khiến được thêm lớn, trong ngày trì trai, xả bỏ tài vật của mình đem cho sáu thân, tự nghĩ ta không quý mến giữ gìn, mà khiến người khác yêu kính, được khen hiếu nghĩa, do thấy nhân quả này, càng sinh vui mừng, do vui mừng, nên tâm lành hơi tăng, giống như từ hạt giống sinh ra mầm.

Kinh chép: Lại đem những vậy này bố thí cho người không bà con, quen biết, đó là mọc mầm thứ ba, nghĩa là muốn thành tựu pháp lành giữ trai này, tu tập tâm vô tham tuệ xả, do thường tu tập nên tâm lành thêm lớn, lại bố thí cho người không phải bà con quen biết, thấy tâm bình đẳng bố thí công đức lợi ích. Bấy giờ, mầm lành lớn lên nhiều lần, giống như khi chồi, cành lớn mạnh chưa sinh nghiệp, do đó gọi là bào chủng.

Kinh dạy: Lại đem những thứ này cúng thí cho người cao đức độ lượng là diệp chủng thứ tư, nghĩa là đã có thể tu tập hạnh tuệ xả, nương đây làm nhân, dần dần có thể xét kỹ chọn lựa cảnh để cúng thí, người đức hạnh cao quý như thế, ta phải nên gần gũi cúng dường, tức là tuệ tánh dần mở, cũng dần dần gặp Thiện tri thức.

Kinh chép: Lại đem những thứ ấy bố thí, hoan hỷ trao cho những người kỹ nhạc và dâng cúng những vị Tôn túc. Nghĩa là tuệ tánh dần mở, lại xét riêng cảnh để cúng thí, thấy lợi ích của hạnh lợi tha kia, vì người kỹ nhạc có thể hóa độ đại chúng, khiến họ vui mừng cho nên khen ngợi công ấy, loại này rất nhiều, cho nên nói là Đẳng. Tôn túc: là bậc kỳ cựu, nghe nhiều hiểu rộng và học hạnh cao thượng, làm khuôn phép cho thế gian, vì theo kia phần nhiều được lợi ích, thành kính hoan hỷ mà thí cho, cũng khiến cho khi ta thí tâm rất hoan hỷ, tức là hoa chủng.

Kinh dạy: Lại đem những thứ này cúng thí, phát tâm thân ái mà cúng dường, đó là thứ sáu thành quả, nghĩa là tu tập thuần thục, chẳng những luôn hoan hỷ mà thôi, mà còn hay dùng tâm thân ái, cúng thí bậc có đức hạnh cao quý, lại nhờ nhân duyên thí trước, được nghe pháp lợi, biết người ấy trong lòng mang đức tốt, nghĩa là có thể vượt ra khỏi dục… thân quen gần gũi để cúng dường, mong hạt giống ban đầu, chính là tâm thành quả.

Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Người ấy giữ giới sinh lên cõi trời là thứ bảy, hạt giống thọ dụng, nghĩa là đã có thể trì trai bố thí, thấy lợi ích ấy thì biết ba nghiệp không lành, đều là nhân duyên dứt bỏ phiền não, ta phải bố thí, giữ giới mà trụ, do giữ giới nên đời hiện tại đạt được thiện lợi, có danh tiếng lớn, thân tâm an vui, tăng thêm nhiều những điều hiền thiện, khi qua đời lại được sinh lên cõi trời, thí như trái đã chín thì thọ dụng hạt của nó, cho nên nói thọ dụng hạt giống. Lại nói từ một hạt giống (hạt giống) thành trăm ngàn quả trái thì mỗi trái lại sinh biết bao nhiêu, lần lượt nuôi lớn, không thể đếm được. Nay tâm thọ dụng quả này, trở lại thành hạt giống của tâm sau, cũng giống như vậy, vì thế nói hạt giống thọ dụng.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Do tâm sinh tử trôi lăn này, bạn lành nghe được nói rằng đây là Thiên đại, trời cho tất cả vui, nếu thành kính cúng dường, nguyện tất cả chỗ đều đầy đủ, có chỗ nói trời Tự tại… cho đến kia nghe sinh tâm vui mừng như thế, ân cần tôn trọng cung kính thuận theo tu hành, này Bí Mật Chủ! Ấy gọi là ngu đồng dị sinh sinh tử trôi lăn vô úy nương tâm anh đồng thứ tám. Đã biết bậc có đức hạnh tôn quý phải nên gần gũi cúng dường, lại thấy giữ giới hay sinh thiện lợi, tức là dần dần biết về nhân quả: Nay lại nghe Thiện tri thức nói có Đại Thiên này có thể ban cho tất cả điều vui, nếu thành kính cúng dường, sở nguyện đều đầy đủ, liền có thể khởi tâm quy y, tuy chưa nghe pháp Phật, nhưng biết chư Thiên này, nhân tu hạnh lành được quả báo tốt đẹp này, lại dần dần tin hiểu, phân biệt ruộng tốt, lại nghe pháp Phật đặc biệt nhiệm mầu, chắc chắn sẽ tin nhận quy y cho nên là tâm trên hết ở thế gian.

Hỏi: Trước nói trời Tự tại… đều là tà chấp, nay nói quy y đây… là tâm trên nhất ở thế gian, vậy có gì khác trước?

Đáp: Trước là tâm không biết nhân quả, chỉ chấp các pháp là do trời Tự tại… tạo ra, nay do gốc lành thuần thục, ở trong sinh tử trôi lăn tìm cầu chỗ nương dựa không sợ hãi, muốn bắt chước hạnh nhân kia, mong thành quả thù thắng, cho nên không đồng với chấp trước.

Thương-yết-la: là tên khác của Ma-hê-thủ-la. Hắc Thiên, tiếng Phạm là Lỗ-nại-la là bà con của trời Tự tại. Long tôn: là các rồng lớn, như Câu-phệ-la… đều được người đời suy tôn là Đại thiên.

Phạm thiên hậu: là vị thần cao quý được thế gian kính trọng, nhưng trong pháp Phật, Phạm vương ly dục không có hoàng hậu, phi tần, từ Ba-đầu-ma trở xuống, chỗ nói là Đắc-xoa-ca long, Tu-hòa-cát long, Thương-khư long, Yết-câu-trích Kiếm long, Đại Liên Hoa long, Câu Lý Kiếm long, Ma-ha Phán-ni long, A-địa-đề-bà long, Tát-đà long, Nan-đà Long… đều là những vị tôn thần thế gian kính trọng.

Thiên tiên: là các vị Thần tiên chứng năm thần thông, số kia vô lượng nên không nêu tên.

Vi-đà: Đó là bốn thứ Minh luận do Phạm thiên giảng nói, Đại Luận sư Vi-đà, phải thọ trì kinh kia có thể dạy bảo cho người, do có thể chỉ dạy hạnh ra khỏi dục, nên quy y.

Ở trong bộ loại kia, Phạm vương giống như Phật, bốn bộ Vi-đà giống như mười hai bộ kinh; người truyền pháp này giống như Hòa thượng Tăng, khi kia nghe Tam bảo ở thế gian như thế… hoan hỷ quy y thuận theo tu hành, là thứ tám sinh tử phàm phu nương vô úy.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Lại nữa, hạnh thù thắng tùy theo chỗ an trụ thù thắng mà trong kinh ấy nói, cầu giải thoát tuệ sinh… nghĩa là trong vô úy y thứ tám này lại có tâm thù thắng; đã nghe nói các Bạc-già-phạm ở thế gian như trên, đã nói thì phải nên cúng dường quy y, sau đó bèn sinh tâm, các Tam bảo này Tam bảo nào là hơn? Ta phải chọn cái tốt kia thuận theo tu hành, nhờ năng lực gốc lành đời trước, tùy theo pháp trong kinh ấy nói mà được chỗ an trụ thù thắng, có cầu giải thoát sinh trí; nhưng vì chưa biết pháp duyên khởi, tất cả quán không, trí tuệ không lìa đoạn thường, vì thế nói thường vô thường là không, chỉ thuận theo nói như thế, mà siêng năng tu học.

Trong đây lại có hai thứ: Nếu cầu giải thoát sinh trí gọi là tâm thù thắng, đã đối với pháp không tác chứng gọi là tâm quyết định, nếu lìa phần mà nói thì trước gồm có mười tâm. Đức Thế-tôn muốn hướng vào xuất thế gian nói quán không trí tuệ, sau đó nói rằng: Bí Mật Chủ! Kia không hiểu biết nghĩa không, chẳng phải không, rõ ràng đoạn thường, tuy các quán bình đẳng phi hữu phi vô, dứt các nói rộng, nhưng cũng không thể lìa cả hai kiến ấy, do kia chưa hiểu nhân duyên đúng đắn. Nhưng trong Phật pháp, để biết có nhân duyên thì lìa Vô kiến, tức là không rơi vào đoạn thường, nếu không đạt nghĩa không như thế thì dù không dính mắc hữu, vô, ly ngôn tuyệt tướng, cuối cùng cũng theo tưởng phân biệt, khởi tâm vô phân biệt này giống như Trường Trảo Phạm Chí quán tướng thật các pháp, không thọ tất cả các pháp nhưng thọ kiến chấp ấy.

Xét rằng, chân không lìa phân biệt, làm sao phân biệt không? Nếu không hiểu nghĩa không, tuy có nhất tâm tinh tấn siêng cầu giải thoát thì cũng không thể biết Niết-bàn, vì thế Phật dạy: Ông muốn cầu Niết-bàn, phải hiểu biết duyên khởi của không, xa lìa đoạn thường, do người kia hạt giống tâm ban đầu bị giảm đi, có một phần ít tham cấu, tức thuận theo một ít phần tâm thanh tịnh, từ đây về sau trì trai, bố thí dần dần thêm lên, tức là thế lực của tâm tịnh dần được bắt đầu phát động, nhờ sự huân tập này thì có thể xét chọn chỗ để quay về. Có cầu giải thoát tuệ sinh, nếu không gặp duyên lành, trở lại theo đoạn thường không, nhập vào tà kiến, nhưng hạt giống tám tâm kia không bao giờ hoại mất; nếu nghe Phật pháp, chỉ đối với đoạn thường không, khiến quán duyên khởi không thì nhập Chánh đạo, nếu là người không có căn cơ hạt giống chưa sinh, tuy nói các pháp cho họ nghe, cuối cùng cũng không thể tin hiểu.

Lại như hành giả ở tâm thứ tám, khi cầu thoát sinh tử nương vào Vô úy nếu gặp Thiện tri thức, và nói Tam bảo là chỗ chân chánh quay về (Quy y). Nhờ người ấy đời nay dần biết nhân quả, nên có thể tín thọ, lại bố trí việc đó. Nếu người kia tu trai, người ấy gặp Thiện tri thức, bảo rằng, ông thấy lợi ích gì, mà cố thực hành trì trai, bố thí này?

Người kia liền đáp rằng: Tôi thấy nhân duyên tham cầu giữ gìn có các thứ buồn khổ, thiểu dục hành thí thì được an trụ trong hoan hỷ an vui.

Bấy giờ Thiện tri thức bảo rằng: Lành thay! Thiện nam! Như Đức Phật đã dạy, chúng sinh vì bỏn sẻn tham lam, đời hiện tại có các thứ buồn khổ, khi qua đời do nhân duyên này, đọa vào trong đường ác; nhờ tâm xa lìa san tham dơ bẩn, hiện đời an vui, được tiếng khen, khi qua đời được sinh lên cõi trời, sau chứng Niết-bàn, thế nên nay ông càng phải đem tâm thù thắng trên mà thọ pháp tám trai giới, người kia nghe rồi, lập tức tín, thọ, đúng như lời dạy tu hành. Nếu người không có cơ duyên, chỉ nói khổ vui ở thế gian đều do trời Tự tại tạo ra, hoặc đất… biến hóa, lấy thời làm nhân thì nghe tám giới trai được một phần ít an vui thanh tịnh như thế, còn không thể tin, huống chi những việc sâu xa khác ư.

Hỏi: Hạt giống đầu tiên của tám tâm như thế, lại lấy gì làm nhân?

Đáp: Do thế gian từ lâu xa đến nay có tên gọi thiện ác, hạt giống từ đó mà sinh.

Như kiếp sơ chúng sinh tham ăn đất màu mỡ. Bấy giờ cho người ăn nhiều là bất thiện, người ăn ít là thiện, hoặc có người thấy nhân duyên ăn nhiều, khởi các tội lỗi, liền khởi niệm rằng, nay ta thường tự kềm chế răn dè ăn ít vị này, chính là thiện? Nhưng chúng sinh ở đây, cũng chưa biết nhân quả và nghiệp báo đời sau, chỉ xoay vần truyền nhau, cho rằng nhân nghĩa, hổ thẹn… là pháp lành, người nào làm được như thế thì thế gian đều khen ngợi.

Lại như khi cuối cùng thiểu kiếp, chúng sinh bỗng nhiên phát tâm, biết pháp ác tội lỗi ở thế gian, lại còn cùng nhau khuyến khích dẫn dắt đều làm việc lành. Bấy giờ, cũng không có Thiện tri thức khuyến khích dẫn dắt như thế, phải biết đều nhờ năng lực nhân duyên huân tập lẫn nhau của tướng thật tự tâm, như hạt giống đầu tiên, khi xa lìa tâm cấu chừng mảy bụi, liền hiện bày thế lực tâm thanh tịnh chừng bằng hạt cát bụi.

“Tuy nói hạt giống lành sinh, thực ra chính là bất sinh” sinh khởi, vì đó là tánh vững chắc, ở chúng sinh tâm thức không bao giờ hoại mất, chưa đến trong lớp đại kim cang của mé thật tự tâm, còn không có chỗ an trú, lìa quả lại thành hạt giống lần lượt nuôi lớn, nhưng cũng không ra ngoài tự môn A, vì thế nói tối thượng Đại thừa cú, tướng tâm nối nhau sinh, đại bí mật của các Đức Phật, ngoại đạo không thể biết; phẩm Dược thảo dụ trong kinh Pháp Hoa, ý cũng ở đây.

Lại nữa, hành giảquy y Tam bảo, thuận theo Luật nghi của Như lai, ở trong một ngày thọ tám pháp quan trai, do phòng giữ giới Thánh, vắng lặng an vui, do an vui ấy, sẽ tin việc làm của bậc hiền Thánh, luôn luôn tu tập, đó gọi là hạt giống đầu tiên, vì giúp điều lành này thêm lớn, mà tu các điều lành, cho đến nhờ giới hoàn toàn thanh tịnh, chắc chắn được sinh lên cõi trời, sau đến Niết-bàn, đó gọi là hạt giống thọ dụng.

Lại do gần gũi Thiện tri thức, nghe chánh pháp lợi lạc, không khởi tâm quy y khác, đó là phàm phu trôi lăn sinh tử, thứ tám chân thật vô úy y, lại sự an trụ thù thắng ở trong đây, có cầu giải thoát sinh trí, tư duy quán sát, sinh ý tưởng quyết định, từ đây liền phát tâm hạt giống đầu tiên trong Bồ-đề của Thanh văn, đều nên y theo văn trước phân biệt nói rộng, cho đến mỗi một địa trong ba thừa, đều đủ mười tâm, đến Địa thứ mười, cũng đủ mầm bao hạt giống, lá, hoa, quả… có cầu Phật địa sinh trí, quán rốt ráo không, được đến mé Kim cang.

Bấy giờ, Kim Cang Thủ, thỉnh Phật rằng: Cúi mong Đức Thế-tôn nói về tâm này. Nói như thế rồi, Phật bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: Này Bí Mật Chủ! Hãy lắng nghe kỹ, tâm tướng nghĩa là tâm tham, tâm không tham, tâm sân giận, từ tâm, tâm si, tâm trí, cho đến thế nào là tâm thọ sinh? Nghĩa là các hữu, tu tập hạnh nghiệp kia sinh, tâm đồng với tánh như thế, ở đây trả lời các tâm tướng cú trong câu hỏi trước.

Đầu tiên nêu lên sáu mươi tâm, kế là giải thích tướng kia.

Này Bí Mật Chủ! Vì sao tâm tham kia nói là thuận theo pháp nhiễm? Nghĩa là đắm nhiễm cảnh trước, tức là làm ô nhiễm tâm thanh tịnh. Nếu thuận theo tu hành pháp này, gọi là có tâm tham. Vì tâm pháp nhỏ nhiệm khó hiểu, chỉ quán sát sự nghiệp kia đã làm, chắc chắn có hình tướng ở ngoài. Giống như xem xét hình dáng của khói thì tánh lửa có thể sánh biết, vì thế các câu phần nhiều do thuận tu để hiểu nghĩa, nhưng đem so sánh thì đúng, những vị này đến nay đều chưa được tâm xuất thế và các thứ tâm lành tạp khởi. Nếu hành giả khéo biết thật giả, giống như việc nhổ cỏ xấu để giúp lúa tốt của nhà nông thì thế lực tâm thanh tịnh dần dần thêm lớn. Chớ cho rằng nhân duyên sự tướng này là câu nói tận cùng lý lẽ mà xem thường, khiến tâm chìm đắm trong đó mà không tự giác biết.

Thứ hai, vì không có tâm tham mà nói là thuận theo pháp vô nhiễm? Nghĩa là trái với tâm trước, cho đến nên tiến lên tìm cầu chỗ tốt, cũng lại không sinh nguyện vui, thế nên không làm nhiễm pháp lành, đều ngăn cản mầm lành và không có tâm ô nhiễm, tên đồng mà việc khác, rất cần xem xét. Vì thế hành giả chỉ quán tướng thật của tâm tham, tự nhiên tham không nhiễm tâm, không nên khởi hạnh Vô tuệ bất tham như thế.

Thứ ba, vì sao tâm sân mà nói là thuận theo pháp tức giận? Nộ:

nghĩa là tâm sân phát động, việc hiển bày ở bên ngoài, vì tâm pháp khó biết, nên thuận theo tu nộ pháp để giải thích. Nếu thường khởi như thế tướng không vắng lặng thì biết là tướng tâm sân, chỉ ở trong các duyên này, quán sát tâm sân, tự không có chỗ an trụ thì đây là chướng ngại không sinh.

Thứ tư, vì sao tâm Từ nói là thuận theo tu hành pháp từ? Từ này cũng trái với sân; từ này là do tâm ái kiến bị cấu bẩn, chẳng phải do mầm lành sinh ra, chữ Từ trên là căn cứ vào nội tâm, chữ Từ ở dưới là tướng bên ngoài của sự nghiệp đã làm, đã giác biết rồi, chỉ sửa lỗi làm chướng ngại đạo, xoay vần tu tâm từ vô lượng, tức là đối trị.

Thứ năm, vì sao tâm si mà nói là thuận theo tu pháp bất quán? Nghĩa là không quán lời ở trước xấu tốt đúng sai, gặp liền tin, thọ, hễ sự nghiệp đã làm thì không thể trước đem tâm tuệ xem xét so lường phải trái. Những thứ như thế phần nhiều lầm lỗi, đều là tướng của tâm si.

Thứ sáu, thế nào là trí tâm? Nghĩa là thuận theo tu pháp tăng thượng thù thắng? Nghĩa là người đó ở trong các thứ đã nói, đều dùng trí chọn lựa cái này hơn cái kia thua, pháp này nên thọ, pháp kia không nên thọ, kia chọn lấy pháp thù thắng hơn cả để thực hành, tức là tướng vô si. Nhưng pháp hơn người, không phải đem trí lực so lường mà đạt đến được, chỉ có người tin mới có thể thâm nhập mà thôi, thế nên khó quán sát thế trí biện thông, để đối trị kia.

Thứ bảy, thế nào là Tâm quyết định? Nghĩa là vâng theo giáo mệnh, đúng như lời dạy mà vâng làm.

Thứ tám, thế nào là tâm nghi? Nghĩa là thường thu giữ những việc bất định, nay trước giải thích tâm nghi, khiến quyết định tâm tướng dễ hiểu rõ ràng. Nghĩa là: người này tùy theo những gì đã nghe, liền sinh tâm không quyết định, như khi thọ giới, liền tự sinh tâm nghi, nay ta chắc chắn đắc giới hay không đắc giới? Hoặc nghi thầy, nghi pháp, các việc so sánh như thế như người hành đạo, do nghi hoặc cho nên không thể tiến lên trước, bài kệ trong luận Trí Độ nói: Cho đến ví như quán sát lối rẽ, lối nào tốt thì nên theo, là đối trị kia, lại tâm quyết định: nghĩa là tùy theo nghe bạn lành… đúng như pháp dạy bảo, lập tức không sinh nghi ngờ, dốc lòng vâng làm, nhưng cũng phải dùng tuệ quán sát, sinh tâm quyết định chân chánh.

Thứ chín, thế nào là tâm ám? Nghĩa là đối với pháp không đáng nghi ngờ lại sinh tâm nghi ngờ. Nghĩa là như Tứ Đế, bất tịnh, vô thường… người trí ở đời không nên sinh nghi, nhưng nghe kia bèn do dự, như ban đêm thấy gốc cây sinh tâm so lường, nếu thấy có tướng như thế, phải biết do tâm tối tăm khiến cho như thế.

Thứ mười thế nào là tâm sáng? Nghĩa là đối với pháp không đáng nghi ngờ, người tu hành không nghi ngờ, tức là đối với pháp ấn quyết định, chẳng phải là pháp đáng nghi ngờ, người kia tùy theo chỗ nghe biết liền tin sâu, phải biết đó là tâm sáng, nhưng trong đó hoặc vượt qua, hoặc không kịp, tức là tâm chướng Đạo, lại tuệ trong xứ là đối trị kia.

Thứ mười một, thế nào là tâm chứa nhóm? Nghĩa là vô lượng là một làm tánh: nghĩa là người này tùy theo một việc sinh tín giải rồi, lại nghe các pháp đặc biệt khác, đều nhóm họp thành một, như người học được một Tam-muội, thấy kinh khác dạy về sự thù thắng khác nhau của vô lượng pháp môn khác đều cho rằng nói pháp này thì định tâm, lìa pháp này thì không còn pháp nào khác, do đó gọi là tâm chứa nhóm.

Thứ mười hai, thế nào gọi là tâm tranh đấu? Nghĩa là cho lẫn nhau, là đúng sai làm tánh? Nghĩa là nghe lời dạy bảo của người khác nói, thường ưa tranh luận phải trái, nói nghĩa là ấy nên như vậy, việc đó nên không như vậy, giả sử đã nói hợp lý, cũng dùng các phương tiện tìm cầu chỗ tốt, xấu của kia, muốn làm cho rơi vào chỗ lỗi. Nếu người đến hỏi thì cũng tìm việc tốt xấu của kia, nói câu hỏi này là trái nghịch, không thông đạt, ta không cần trả lời, có hiện tướng như vậy, phải biết là tâm tranh đấu.

Thứ mười ba, thế nào gọi là tâm tranh cãi? Nghĩa là đối với bản thân mình mà sinh phải trái? Nghĩa là trong tâm ôm ấp phải trái, như tự tư duy một nghĩa xong, liền trở lại đặt ra dị đoan tìm cầu lỗi của nó, tuy tâm lành mưu thọ, nhưng đối với người đã lãnh thọ rồi, trở lại tự tìm cầu được mất, nói việc này hợp như thế, việc này không hợp, có nhiều hiện tướng như thế, phải biết là tâm tranh cãi.

Thứ mười bốn, thế nào là tâm Vô tránh? Nghĩa là phải, trái đều bỏ; căn cứ vào bản Phạm chuyển thanh, đều nhắm chữ hữu làm tánh, so sánh có thể biết, nghĩa là tâm người ấy không khi vầy khi khác, tuy trước Tông môn học tập có kiến giải như thế, lại nghe lời nói kỳ lạ cho là hợp lý liền lãnh thọ và thực hành, hoặc trước cho là đúng, nghe người khác cho là không lành, liền thay đổi, lòng không chấp trước, phải trái đều bỏ, nếu có tướng như thế, phải biết là tâm vô tướng, hiểu biết tâm vô ký vô tránh, tu tướng thật các pháp tâm vô tránh, để đối trị kia.

Thứ mười lăm, thế nào là tâm trời? Nghĩa là tâm suy nghĩ tùy niệm thành tựu, như chư Thiên nhờ quả báo đời trước, nếu có cần gì, không cần gia công lực tùy tâm mà sinh, thường khởi nguyện muốn như thế, phải biết đó là tâm trời, cũng do từng sinh lên cõi trên, nên có thói quen này. Nghe người tu chân ngôn, không trông mong quả cao lớn, chỉ để tự tâm vâng theo, nếu bị chướng ngại tâm Bồ-đề thanh tịnh thì sẽ tự biết, chớ tham Tất địa ở thế gian, đó là đối trị kia.

Thứ mười sáu, thế nào là tâm A-tu-la? Nghĩa là ưa chỗ sinh tử. A là Phi, Tu-la là trời, vì quả báo giống như trời, nhưng hạnh nghiệp, chỗ ở thì khác, nên lấy đó đặt tên. Loài này, biết có lợi ích của sự giải thoát, nhưng rất ưa sinh tử và quả báo vui sướng, không thể tiến lên, nếu người tu hành có tướng trạng này, phải biết gọi là tâm Tu-la, cũng do đời trước từng sinh vào đường này, nên có thói quen này. Quán sát vô thường, khổ… để đối trị tâm kia.

Thứ mười bảy, thế nào gọi là tâm rồng? Nghĩa là suy nghĩ của cải rộng lớn? Nghĩa là: thường khởi niệm rằng ta phải dùng phương tiện nào, được các thứ của cải châu báu tốt đẹp to lớn như thế, có tư tưởng tham nhiều không chán, ấy là tâm của loài rồng. Cũng vốn từ trong loài rồng mà đến, cho nên sinh ra thói quen này, ưa khiến người tu hành nguyện cầu tất địa thế gian, ngăn cản tâm thanh tịnh xuất thế, suy nghĩ ít muốn, biết đủ vô thường… đó là để đối trị tâm ấy.

Thứ mười tám, thế nào gọi là tâm người? Nghĩa là suy nghĩ lợi ích người khác? Nghĩa là ưa theo đuổi tìm kiếm suy nghĩ, người ấy đối với ta có ân, ta phải dùng phương tiện như thế để cho được lợi lớn, người kia đối với sở hữu của ta không có lợi ích, nay ta sẽ đáp trả lại, và các lý mưu người lợi vật, đều là tâm người. Phải nghĩ tự quán sát tâm hạnh, sớm cầu pháp lợi, không nên xôn xao lo nghĩ duyên khác, đó là để đối trị tâm ấy.

Thứ mười chín, thế nào gọi là tâm nữ? Nghĩa là thuận theo pháp dục, cũng là tâm loài người những chỉ nhiều tham dục là khác mà thôi, như kinh nói rằng, người nữ tham dục nhiều hơn người nam gấp trăm lần, thường nhớ nghĩ việc vui đã qua, hoặc nhớ nghĩ hình dáng, nhan sắc người khác… có thể làm cho hành giả che lấp tâm thanh tịnh, cũng là nhiều đời từng làm người nữ nên còn có thói quen xưa, ở đây dùng bất tịnh niệm xứ… quán tướng thật của thân, để đối trị tâm ấy.

Thứ hai mươi, thế nào gọi là tâm tự tại? Nghĩa là suy nghĩ ta tham muốn tất cả đều như ý, Tự Tại là vị Thiên thần mà ngoại đạo tôn thờ . Tông kia chấp, trời Tự tại có thể tùy ý tạo ra các chúng sinh và những việc khổ, vui, người tu pháp này cũng thường buộc niệm, nguyện được như bổn tôn kia, nếu hành giả chân ngôn thường nghĩ tất-địa như thế, nghĩ ta theo niệm thành tựu, phải biết đó là tâm tự tại, cũng là thói quen đời trước khiến cho như thế; phải quán các pháp thảy đều thuộc các nhân duyên không có tự tại, là để đối trị.

Thứ hai mươi mốt, thế nào gọi là tâm người buôn? Nghĩa là thuận tu, trước kết hợp lại, sau phân chia ra, như người lái buôn trước cốt phải dồn chứa hàng hóa, sau đó mới suy nghĩ chia ra, vật này nên sử dụng ở đâu, vật kia chỗ nào dùng, có thể được lời; như hành giả cần phải học hỏi trong ngoài, khiến đầy đủ rồi mới trở lại so lường, đó là sách đời phải sử dụng như thế; pháp Nhị thừa đây dùng để ứng tiếp người gì? Tư lương Đại thừa này thì cần những duyên nào? Đó gọi là tâm người buôn, cũng do huân tập từ trước đến nay khiến cho như vậy, tu trì nhanh chóng, đó là đối trị tâm ấy, nghĩa là hễ nghe pháp nào, liền phải quán sát việc sử dụng nhân duyên kia, đâu đợi chứa nhóm nghe nhiều, mới tìm chỗ dùng ư?

Thứ hai mươi hai, thế nào là tâm người làm ruộng? Nghĩa là thuận theo trước học rộng, sau mới cầu pháp, như người học trồng lúa phải học hỏi với người làm ruộng lâu năm làm sao để biết đất tốt? Làm sao để cày trồng làm cỏ? Làm sao biết thời tiết? Làm sao hặt hái, cất chứa? Như thế mỗi mỗi đã biết rồi mới đem công sức mà làm, tâm này cũng giống như vậy, trước cần phải vâng theo người trí rộng nghe đạo phẩm, sau đó mới thực hành, đều là thói quen nhiều đời khiến như vậy, dùng trí sắc bén làm chỗ đối trị; như nghe các uẩn vô thường, liền biết giới, nhập, duyên khởi… so sánh kia đều như vậy, lại như tên độc bắn vào thân, đâu được đợi Tam nông nguyệt để rộng hỏi, sau đó mới nhổ ư?

Thứ hai mươi ba, thế nào gọi là tâm sông? Nghĩa là thuận tu pháp nương nhân hai bên, tâm tánh đây đều nương vào hai bên, hoặc khi tu thường, hoặc khi tu đoạn, hoặc lại tin cả tà chánh, như nước sông đều nương vào hai bờ, vật kia trôi nổi, cũng không chắc chắn thuộc một bên nào, để đối trị thì hành giả chuyên tâm vào một cảnh để có được chỗ đến, nếu tâm không giữ định mà muốn sự nghiệp thành tựu thì không có lý như vậy.

Thứ hai mươi bốn, thế nào gọi là tâm ao? Nghĩa là thuận theo khát khao pháp không biết thỏa mãn. Vì như vũng chứa nước, nếu các dòng nước chảy vào không bao giờ thỏa mãn. Tâm này cũng giống như vậy, nếu danh lợi, thân thuộc… các việc đến nhóm họp thân kia không bao giờ thỏa mãn, cho đến đối với việc học pháp cũng giống như vậy, như đã được sữa, cháo không cần ăn vội. Lại còn trông mong vị khác, trong đây dùng ít muốn biết đủ để đối trị.

Thứ hai mươi lăm, thế nào là tâm giếng? Nghĩa là tư duy như thế, sâu lại càng sâu, như bảo cúi xuống xem nước giếng sâu cạn, lượng đó khó có thể biết, tâm tánh này cũng giống như vậy, phàm chỗ tư duy ham muốn sâu xa, chỗ có việc lành, không lành, khắp cả ham muốn đều khiến người không thể đo lường, cùng đi đứng làm việc nhưng cũng không biết tâm hạnh của kia, phải biết đó là tâm giếng, pháp môn duyên khởi và tướng người lành đều hiện rõ dễ biết, đó là để đối trị kia.

Thứ hai mươi sáu, thế nào là tâm Thủ hộ? Nghĩa là chỉ có tâm này là thật, các tâm khác không thật. Như người đời rất giữ gìn thân mình, những tài vật, cho đến phòng giữ các thứ lầu gác tường rào, không để cho người khác làm tổn hoại, tâm này cũng giống như, thường giữ gìn thân tâm như con rùa giữ: đầu đuôi và bốn chân, không để cảnh bên ngoài làm thương tổn. Người học Thanh văn, thường sinh tâm này, phải dùng thủ hộ cả người khác để đối trị.

Lại có người tự giữ gìn sự hiểu biết của mình, không muốn để cho người khác, các thứ dị luận làm tổn thương, nghĩa là các kiến giải khác thảy đều không thật cũng thế.

Thứ hai mươi bảy, thế nào gọi là tâm san, nói là thuận theo pháp vừa vì mình vừa vì người? Nghĩa là người này các việc đã làm được, thảy đều vì tự thân, nên tài vật kỹ nghệ cho đến pháp lành, đều tham tiếc, giấu kín không ban cho người, người có tướng này phải biết là tâm san, dùng suy nghĩ bố thí và đến vô thường… làm chỗ đối trị, phải biết tài vật, kỹ nghệ năng lực, giả sử khi vô thường, không có đi theo ta, nhưng nay thân này, niệm niệm không thể giữ gìn, tiếc cái gì ở đây?

Thứ hai mươi tám, thế nào là tâm chồn? Nghĩa là thuận theo pháp tu từ từ tiến tới; như mèo chồn rình bắt cầm điểu dừng trụ ở chỗ vắng yên, không tiến đến vội, sau đó bắt lấy, người này cũng giống như vậy, gặp nghe các pháp quan trọng chỉ tác tâm lãnh thọ nhưng không tiến hành, mong đợi duyên tốt nhóm họp thì sẽ mạnh mẽ cố làm. Lại như mèo chồn vâng chịu thương yêu các loài, cũng không biết ân, như người chỉ thọ kẻ khác ban cho lòng thương yêu và lời tốt, nhưng không nghĩ báo đáp, đó là tâm chồn. Lấy không đợi thời gian nơi chốn, như nghe liền thực hành, thường nhớ nghĩ ân đức, để làm pháp nơi đối trị.

Thứ hai mươi chín, thế nào gọi là tâm chó? Nghĩa là chỉ được một phần nhỏ lấy làm vui mừng đầy đủ, vì chó theo nhân duyên phước mỏng, chỗ mong cầu thấp hơn, gặp được một ít thức ăn thô dở, liền sinh tâm vui mừng, thỏa mãn, nếu hơi vượt hơn thì không phải chỗ trông mong của nó; tâm này cũng giống như vậy, nghe một phần nhỏ pháp lành, liền cho là thực hành không thể hết, lại không tìm cầu việc tốt.

Hàng Thanh văn này do thói quen sinh ra, lấy ý muốn tăng lên làm pháp đối trị. Cho đến tâm như biển lớn, ít cũng không từ chối, nhiều cũng không tràn đầy.

Thứ ba mươi, thế nào là tâm Ca-lâu-la? Nghĩa là thuận theo pháp bè đảng lông cánh; chim này thường nhờ hai cánh cặp dưới hai nách của thân nó, bay đến nơi nào cũng tùy ý để trở thành thế lớn. Ví như thiếu một lông thì không thể bay được. Tâm này cũng giống như vậy, thường nhớ nghĩ được nhiều bè đảng giúp đỡ lẫn nhau để thành tựu sự nghiệp, lại nhân người đã làm sau đó phát tâm, không thể một mình tiến lên, như thấy người làm lành, liền nghĩ người kia còn có khả năng làm, ta vì sao không làm, phải nghĩ tâm Bồ-đề mạnh mẽ, như Sư tử đầu đàn không nhờ bạn giúp, để làm pháp đối trị.

Thứ ba mươi mốt, thế nào gọi là tâm chuột? Nghĩa là tư duy dứt trừ các sự ràng buộc, như chuột thấy người lấy dây buộc cái rương… liền muốn làm hư hoại trái với lẽ phải, cũng không nghĩ rằng nhờ dứt bỏ cái này ta sẽ được lợi như vậy, thế nhưng không hứng thú làm, tâm này cũng thế, tất cả sự hệ thuộc và thành tựu sự việc, khéo vì sự ngăn cách mà làm cho hợp lại.

Thứ ba mươi hai, thế nào là tâm Ca vịnh? Bản Phạm thiếu văn không giải thích. A-xà-lê nói: Ở đây dụ cho truyền pháp âm; như người đời giúp người khác hát, khi được khéo léo rồi, lại vì người đó diễn tấu, phát ra các âm thanh hay ho, người nghe hoan hỷ, tâm này muốn theo người nghe chánh pháp, ta phải chuyển cho chúng sinh, dùng các thứ văn cú trang nghiêm phân biệt giảng nói, khiến âm thanh mầu nhiệm này khắp mọi nơi chốn đều nghe biết, đa số là thói quen nhiều đời của Thanh văn, cũng làm chướng ngại tâm thanh tịnh. Phải nghĩ ta sẽ được tuệ nội chứng tự nhiên, sau đó khắp hiện sắc thân mà giảng nói, đó là đối trị tâm kia.

Thứ ba mươi ba, thế nào gọi là tâm Vũ? Nghĩa là tu hành pháp này, ta phải vượt lên trên các thứ thần biến, như người đời tay chân quơ múa gọi là Vũ. Thần biến cũng giống như vậy, hiện các việc chưa từng có, khiến người đối diện tâm thanh tịnh, mắt vui, đa số là các thói quen của bậc ngũ thông, nếu còn thiên lệch về tất-địa như thế mà phương tiện nguyện cầu, cũng cản trở tâm thanh tịnh, phải nhớ nghĩ Tam-muội Trừ cái chướng tâm không lay động, thần thông không khởi diệt định, mà thực hành gia trì thần biến, chớ tham một ít hiệu nghiệm của thế gian, là pháp đối trị.

Thứ ba mươi bốn, thế nào là tâm đánh trống? Nghĩa là thuận theo tu pháp này, ta sẽ đánh trống pháp, đánh có thể thức tỉnh răn dè chúng sinh, khiến được giác ngộ, nếu người tu hành nghĩ rằng chúng sinh ngủ vùi trong đêm dài tăm tối, ta phải tu tập các thứ vô ngại biện tài, đánh trống pháp lớn mà cảnh ngộ họ, cũng có thể ngăn ngại tâm thanh tịnh, phải nghĩ sớm chứng vô lượng nói năng Đà-la-ni, dùng âm thanh vi diệu của trống trời, khắp bảo tất cả chúng, chớ vì chút lợi nhỏ ở thế gian mà làm chướng ngại nhân duyên việc lớn, đó là pháp đối trị tâm kia.

Thứ ba mươi lăm, thế nào gọi là tâm Nhà cửa? Nghĩa là thuận tu pháp tự hộ thân. Như người xây cất nhà cửa để che chở phòng hộ thân, được tránh khỏi nóng, lạnh, gió, mưa, giặc cướp, trùng độc… các việc không lợi ích. Tâm này cũng giống như vậy, ta phải giữ giới tu điều lành để tự phòng giữ, khiến đời này đời sau xa lìa các khổ trong đường ác, thường là pháp tu tập của Thanh văn, phải nghĩ cứu giúp tất cả chúng sinh, không phải chỉ riêng mình, đó là pháp đối trị.

Thứ ba mươi sáu, thế nào là tâm Sư tử? Nghĩa là tu hành tất cả pháp không sợ hãi. Như sư tử ở trong các thú, hễ đến bất cứ chỗ nào đều hơn cả. Không có sợ hãi, tâm này cũng giống như vậy, ở trong tất cả việc đều muốn khiến hơn tất cả mọi người, tâm không khiếp sợ. Tự tâm nói không có việc khó, không thể làm ta lo sợ xấu tốt. Nếu tự hiểu biết rồi phải phát tâm như Đức Thích-ca Thế-tôn, phải giúp tất cả chúng sinh đều được tốt đẹp, không có tốt xấu, đó là pháp đối trị.

Thứ ba mươi bảy, thế nào gọi là tâm con cú (con cú tai mèo)? Nghĩa là trong đêm tối thường suy nghĩ; loài chim này ở dưới mặt trời (ban ngày) không thể làm gì được, ban đêm thì sáu căn lanh lợi, như hành giả ngày đêm tuy có chỗ nghe nhưng đọc tụng mù mờ, chẳng được khéo léo, đến đêm tối nhớ nghĩ việc đã làm, trở lại tính lường liền được rõ ràng, cho đến tu thiền quán… cũng cho chỗ tối là tốt. Nếu hiểu biết rồi, phải nghĩ những nơi sáng tối, khiến chỗ tác ý không chia ngày đêm, đó là pháp đối trị.

Thứ ba mươi tám, thế nào là tâm chim quạ? Nghĩa là mọi nơi chốn nhớ nghĩ lo sợ; như chim quạ nếu người khéo léo gần gũi nuôi nấng, thỉnh thoảng tìm dịp bay đi, đều sinh tâm nghi ngờ lo sợ, tâm này cũng giống như vậy, dù bạn tốt muốn làm lợi ích cũng bị vùi lấp mất, tất cả đều nghi ngờ cản trở mà có tâm hoài nghi lo sợ, cho đến khi giữ giới tu điều lành, cũng có tâm nghi ngờ lo sợ ở trong sinh tử, nếu hiểu biết rồi, phải tu tâm an định không sợ hãi, đó là pháp trị kia.

Thứ ba mươi chín, thế nào gọi là tâm La-sát? Nghĩa là đối với điều lành phát khởi tâm không lành, như thấy người làm việc lành, đều

tác ý hiểu là không lành. Phật dạy: Xây dựng tháp miếu (chùa) được vô lượng phước nhưng kia ngược lại nói rằng, do xây dựng tháp chùa nên tổn hại vô lượng loài sâu bọ nhỏ, làm rối loạn thí chủ, đâu được lợi ích gì mà phải chịu khổ báo, nói những lời như thế… là sinh khởi tâm không lành. Trong đó lấy quán công đức lợi ích, không nghĩ khuôn phép kia để làm pháp đối trị.

Thứ bốn mươi, thế nào là tâm gai? Nghĩa là tất cả chỗ xấu (ác) lấy làm tánh; giống như rừng gai ở khắp mọi nơi, thường gây tổn hại, chướng ngại, khiến người đến gần không an. Tâm này cũng giống như vậy, nếu làm việc lành như bố thí lớn… đã làm rồi liền sinh tâm ăn năn về việc đã qua, nếu làm việc xấu rồi, lại tự suy nghĩ cũng có tâm hổ thẹn sợ hãi, thế nên có tâm xấu ác tác lo nghĩ không yên, pháp đối trị ở đây là nếu có phạm thì phải nhanh chóng sám hối, chớ sinh thương tiếc ăn năn, đã làm việc lành, nên tự suy nghĩ, tâm vui mừng may mắn.

Thứ bốn mươi mốt, thế nào là tâm hang hố? Nghĩa là thuận tu pháp vào hang, nói là các rồng, A-tu-la… đều ở dưới đất hoặc trong hang sâu dưới đáy biển, thường có các loại thuốc của thần tiên, có thể được sống lâu tự tại. Hành giả hoặc nghĩ trong đó có nhiều mỹ nữ (gái đẹp), tính tình đoan nghiêm chân chánh đồng với chư Thiên, thật là không lo chết non, năm dục buông lung, hoặc nghĩ ở lại trong đó, có thể được tuổi thọ nhiều kiếp, thấy các Đức Phật đời vị lại, đều là tâm hang hố. Phải nhớ nghĩ như pháp tu hành, có thể sinh ở đây nghe pháp hiểu đạo cho đến thành Phật, không nên uổng công dừng lại giữa đường, nhớ giữ pháp tiên ở đời này, là để đối trị.

Thứ bốn mươi hai, thế nào gọi là tâm gió? Nghĩa là khắp mọi nơi làm tánh, tánh gió tán loạn do không dừng lại. Tâm người này cũng giống như vậy, ở tất cả mọi nơi trồng khắp các gốc lành, nghĩa là ở thế gian, các thứ ngoại đạo, thiên tôn cho đến các hạnh trong ba thừa, đều khiến có phần, mà nghĩ rằng, giống như hạt giống ở khắp mọi nơi, sẽ có thành tựu, tâm gió cũng giống như vậy. Phải nghĩ ruộng đá không trồng trọt được hạt giống trí, phải tìm chỗ ruộng phước tốt đẹp mầu mỡ, hết lòng cày cấy làm cỏ, thu hoạch sẽ nhiều, đó là đối trị tâm kia.

Thứ bốn mươi ba, thế nào gọi là tâm nước? Nghĩa là thuận tu tập rửa sạch tất cả pháp không lành, như tánh nước trong sạch, tuy tạm bị các cấu làm nhiễm ô, nhưng lọc thì sạch trong, lại có thể rửa bỏ dơ bẩn. Tâm người này cũng giống như vậy, thường muốn nói ra các tội dơ xấu để sám hối rửa sạch ba nghiệp, do thấy những thứ dơ, sạch ta đã làm như thế gây chướng ngại tâm thanh tịnh thì chỉ nên quán tướng thật của tâm, từ xưa đến nay không sinh pháp dơ, tự có thể dứt trừ tất cả chướng, cái, đó là hạnh đối trị kia.

Thứ bốn mươi bốn, thế nào gọi là tâm lửa? Nghĩa là lấy lửa dữ đốt cháy làm tánh, như tánh lửa hừng rực tiến nhanh, tâm người này cũng giống như vậy, như khi làm lành, chỉ trong phút chốc trở thành vô lượng công đức, khi tạo ác trong thời gian ngắn cũng trở thành nghiệp rất lớn. Trị hành ở đây, nên tư duy tâm hung dữ thường bị tổn hoại, dùng nước mềm mại từ thiện phương tiện để dứt trừ, nhưng việc lành đốt cháy phải cho dài lâu, đó là pháp đối trị kia.

Thứ bốn mươi lăm, Nê-bùn. Bản Phạm thiếu văn không giải thích. A-xà-lê nói: Đây là tâm vô minh ngày trước, cho đến việc gần ở trước mắt cũng không thể phân biệt ghi nhớ, cho nên trong luật nói giống như cục bùn, lại như bùn non ở bãi lầy, gặp việc khó vượt qua, khiến phải có chỗ nương nhờ, nghĩa là nhờ cầu… mới có thể vượt qua, nếu biết có phương tiện này thì phải trở về nương nhờ bạn lành, giúp phương tiện khai mở, mới có thể dần dần bỏ vô tri, trở lại sinh khởi tuệ tánh.

Thứ bốn mươi sáu, thế nào là tâm Hiển sắc? Nghĩa là bắt chước kia làm tánh, ví như các màu nhuộm xanh, vàng, đỏ, trắng… nếu đem tơ trắng bỏ vào thì liền cùng một màu; tâm người này cũng giống như vậy, thấy, nghe pháp lành cũng theo đó mà làm, thấy nghe việc ác cũng nương theo tu học, cho đến Vô ký cũng giống như vậy, nhằm vào các cảnh giới tùy theo việc thay đổi, người tu hành tự hiểu biết rồi, phải nhớ nghĩ chuyên cầu pháp tự chứng, không do người khác ngộ, không bị duyên khác xoay chuyển, đó là pháp đối trị kia.

Thứ bốn mươi bảy, thế nào là tâm bản? Nghĩa là thuận theo tu pháp tùy lượng. Xả bỏ các điều lành, như ván ở trong nước, tùy theo sức của nó chở được các vật, quá hạn lượng thì không thể được cuối cùng vất bỏ hết. Tâm người này cũng giống như vậy, chọn lựa pháp lành, nghiệp tùy theo phần sức của mình, thực hành một việc xong, liền nói rằng: Ta từ trước đến nay, chỉ thực hành pháp này không biết pháp khác, cho đến tu hạnh tám trai giới thì không xả bỏ, lại không ưa thích làm các việc thiện ác, do phát tâm rộng lớn học hạnh Bồ-đề, đó là pháp đối trị tâm kia.

Thứ bốn mươi tám, thế nào là tâm mê? Nghĩa là chỗ chấp kỳ quái, chỗ suy nghĩ lạ lùng. Như người si mê muốn đến phía Đông mà lại đi về hướng Tây. Tâm người này cũng giống như vậy, ý muốn học pháp quán Bất tịnh, mà trở lại chấp lấy tướng tịnh, tự nói nay ta tu bất tịnh quán, hoặc là khi tu vô thường vô ngã, ngược trở lại thực hành thường, ngã, nghĩa là nay ta tu vô thường vô ngã, do tâm tán loạn nên khiến cho như vậy, phải chuyên nhất nhớ nghĩ tâm kia, xét kỹ rõ ràng không quán sát trái ngược đó là đối trị tâm kia.

Thứ bốn mươi chín, thế nào gọi là tâm thuốc độc? Nghĩa là thuận tu pháp vô sinh phần. Độc nghĩa là các thứ ác độc rồng, rắn, cỏ thuốc. Như người trúng độc chết ngất, chuyển đến chỗ chết không có phần sống, tâm người này cũng giống như vậy, không sinh tâm lành cũng không sinh tâm ác, cho đến tất cả tâm không thể sinh khởi, chỉ để mặc mà làm, dần dần vào trong vô nhân vô quả, vì thế gọi là vô sinh phần pháp; người tu hành tự hiểu rồi, nên phát khởi đại bi, các điều lành lìa đoạn diệt không, tức cái gọi là thuốc mầu cam lồ.

Thứ năm mươi, thế nào là tâm ràng buộc? Nghĩa là tất cả nơi trụ trong ngã phược làm tánh. Như người bị dây lưới trói buộc, cho đến tay chân không thể lay động, tâm người này cũng giống như vậy, rơi vào trong đoạn kiến ngã phược, kiến này có khả năng buộc tâm hành giả, cho đến đối với tất cả nơi chốn, thường bị giam giữ không thể tự thoát ra, là chướng rất nặng. Đã hiểu biết rồi, phải mau dùng dao chính tuệ duyên khởi quyết định dứt trừ chướng, cái, đó là pháp đối trị.

Thứ năm mươi mốt, thế nào là tâm gông cùm? Nghĩa là hai chân dừng trụ làm tánh. Ở tay nói là cùm, ở chân nói là gông, như người bị gông cùm giam giữ hai chân đứng lại không bước tới trước được; tâm này cũng giống như vậy, thường ưa ngồi ngay thẳng, đứng ở yên lặng để tâm tu định và quán sát pháp nghĩa, vì bị tâm này bó buộc, gọi là tâm gông cùm, trong đây thực hành để đối trị là phải ở trong bất cứ nơi nào, bất cứ ở đâu tư duy tu tập, khiến tịnh loạn không chia rẽ, là đã đối trị.

Thứ năm mươi hai, thế nào gọi là tâm mây? Nghĩa là thường suy nghĩ khi làm mưa xuống, như trong ba tháng hạ ở bốn phương, mưa dầm rất lâu ngày, thường gây ra sự trệ ngại, tối tăm đến cùng tột. Khi tâm thô tục, buồn, vui, suy nghĩ, lo lắng thì che lấp sự vẻ vang tươi tốt sinh trưởng rất nhiều, cho nên nói khi mưa xuống thì lo lắng suy nghĩ, hiểu biết rồi thì phải thực hành tâm xả, xa lìa sự vui buồn ở thế gian, thuận theo pháp hỷ, đó là pháp đối trị.

Thứ năm mươi ba, thế nào là tâm ruộng? Nghĩa là thường chăm sóc tự thân, như người có thửa ruộng tốt đẹp, thường làm đất, cày cuốc, làm cỏ nhổ bỏ cỏ xấu các, các thứ phương tiện để được sạch sẽ, người này cũng giống như vậy, thường chăm sóc tự thân, dùng hoa hương mùi thơm… rửa bẩn, chăm sóc nuôi dưỡng khiến cho sáng sạch tốt đẹp, hiểu biết rồi thường nhớ nghĩ lại công sức này mà sửa đổi tâm mình, do các thứ cúng dường đầy đủ như vậy, gieo trồng ruộng phước giúp thành quả tốt, là pháp đối trị kia.

Thứ năm mươi bốn, thế nào gọi là tâm muối? Nghĩa là suy nghĩ lại thêm suy nghĩ. Như tánh muối là mặn, tất cả nhập, xứ, đều thêm vị mặn, Tâm người này cũng giống như vậy, đối với việc suy nghĩ lại thêm suy nghĩ, như khi nhớ nghĩ dục, sắc thì liền sinh ý, trở lại tự tìm cầu, tâm ấy do đâu mà sinh? Tạo ra tướng mạo thế nào? Quán tâm này chưa quyết định, lại nhớ nghĩ tìm cầu tâm này xem có nhân duyên gì, như vậy sẽ không cùng tận, đã giác biết rồi, phải tất cả nhắm vào an tâm mà xét lý của sự việc, khiến cho thông suốt; lại tâm tánh xa lìa suy nghĩ, không thể so lường năng tri, không ở trên phân biệt lại thêm “tâm sở”.

Thứ năm mươi lăm, thế nào gọi là tâm đao cạo? Nghĩa là chỉ nương vào pháp cạo bỏ này. Cạo bỏ râu tóc là tướng lìa tục xuất gia, nghĩa là tâm người này chỉ nghĩ rằng: Ta đã cạo bỏ tướng thế tục, khiến pháp ác không sinh trưởng thì còn gì để tìm cầu, phải biết tâm này rất ác, do tự mình phân làm giới hạn, làm cho gốc lành bị cạo bỏ khiến không sinh được, phải suy nghĩ tất cả Thánh hiền cái cần dứt bỏ, đó gọi là Vô minh trụ địa, nguồn gốc ba độc. Nếu có thể cạo bỏ thứ này cho vọng tưởng không sinh, mới gọi là chân xuất gia.

Thứ năm mươi sáu, thế nào là tâm Di-lô? Nghĩa là thường tư duy tâm cao cử làm tánh. Như núi Tu-di cao hơn tất cả các ngọn núi, không núi nào hơn nó được. Tâm người này cũng giống như vậy, thường lấy núi cao làm tánh cho đến thầy tổ, cha mẹ… là những bậc đáng tôn kính, đều không thể hạ ý, giống như cờ cao không thể cong lại, nếu muốn cong lại thì phải bẻ cong, cuối cùng không thay đổi được mà luôn giữ vững, lấy nhẫn nhục khiêm ty, đối với tất cả chúng sinh tưởng như Đại sư, làm pháp đối trị.

Thứ năm mươi bảy, thế nào gọi là tâm biển…? Nghĩa là thường thọ dụng tự thân mà an trụ. Ví như biển lớn dung nạp trăm sông trở về không giới hạn, tâm này cũng giống như vậy, tất cả việc tốt đều trở về nơi mình, nghĩa là nghi ngờ người khác không bằng mình, thường giữ như thế sinh nhiều sở trường, từ thọ dụng này mà an trụ, tâm trước cần phải cao, tâm này cần phải rộng, cho nên nói ngang với biển. Hành giả hiểu biết rồi phải nghĩ ba Hiền mười Thánh… biển vô lượng công đức lớn, lần lượt sâu rộng, tự chế phục tâm hành, nó chưa từng bị mảy trần làm ngăn ngại, không nên khởi tâm đại mạn.

Thứ năm mươi tám, thế nào là tâm hố? Nghĩa là trước quyết định kia, sau lại thay đổi làm tánh. Ví như đồ dùng bền chắc, sau đó gặp duyên khoét một lỗ không thể dùng được, tâm này cũng giống như vậy. Lúc đầu thọ trì được nhiều, sau bị khoét lỗ lủng chảy, hoặc khi mới phát tâm thọ giới thì đầy đủ không thiếu, không bao lâu dần dần sinh pháp hữu lậu, giống như đồ dùng đã hư hoại thì nước sẽ rỉ chảy không dừng, những trường hợp như thế, đều gọi là tâm hố, vì thế hành giả phải khiến cho việc đã làm đều có đầu, cuối; lại biết tánh hay thay đổi, có thể rất chướng ngại tâm Bồ-đề vững chắc, để đối trị kia.

Thứ năm mươi chín, thế nào gọi là tâm thọ sinh? Nghĩa là tu tập hạnh nghiệp ở các hữu mà tâm ấy sinh, tâm đồng như thế, như người do nghiệp hắc, bạch mà chịu quả báo thiện ác, do việc làm nhiều thứ lẫn lộn, nên thọ báo phải chịu vô lượng thân khác nhau, Tâm này cũng giống như vậy, các hạnh đã tu đều muốn hồi hướng thọ sinh, phải biết đắc quả cũng gồm cả thiện ác. Vì thế hành giả phải suy nghĩ xét chọn thiện ác, trừ bỏ bất thiện, thuần tu bạch pháp, từ trong điều lành này, trở lại dùng trí tuệ lần lượt dứt bỏ các kim loại không tinh, thứ lớp như vậy, cho đến đắc thành diệu quả thuần nhất đề hồ thanh tịnh, là pháp đối trị.

Tâm sáu mươi, bản Phạm thiếu văn, A-xà-lê nói: Một ít tâm khỉ vượn. Vậy tánh của khỉ vượn, thân tâm tán loạn, thường không tạm dừng, người tu hành cũng giống như vậy, tánh kia loạn động không yên, thường bị phan duyên, giống như khỉ vượn buông một cành, bắt lấy một cành. Tóm lại, chúng sinh đều như vậy, nay thì chú trọng mà nói, trong đây lại không theo tư tưởng động tán, buộc duyên một cảnh, đó là cách đối trị, giống như khỉ vượn, nếu buộc vào cột thì không buông lung bước chân nhảy cao, là đã đối trị.

Nhưng sáu mươi tâm này hoặc khi hành giả bản tánh thay đổi nhiều, hoặc do hành đạo thói quen trước kia dụng tâm phát động, hoặc cùng lúc nhiều thứ xen nhau sinh khởi, hoặc theo thứ lớp mà sinh, phải bất cứ lúc nào cũng lưu tâm xem xét, tự nhiên được thuận với tâm Bồđề thanh tịnh, nếu bậc thầy khi vì đệ tử sửa cho đất tâm bằng phẳng (thanh tịnh) cũng phải mỗi mỗi chọn, bỏ.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Một, hai, ba, bốn, năm, nhiều số, tất cả sáu mươi tâm, vượt khỏi ba vọng chấp thế gian, tâm xuất thế gian sinh khởi, cho đến một trong bốn phần, giúp người tín giải, cũng là trả lời các tâm tưởng và tâm khác lạ. Do có vô minh nên tâm sinh năm thứ phiền não căn bản là tham, sân, si, mạn, nghi. Sở dĩ không nói ngũ kiến, vì thuộc kiến phiền não thường nằm trong sáu mươi tâm, năm thứ phiền não căn bản này, số đầu tiên là mười, số lần thứ hai thành hia mươi, số lần thứ ba thành bốn mươi, số lần thứ bốn thành tám mươi, số lần thứ năm thành một trăm sáu mươi tâm. Do tâm phiền não của chúng sinh thường nương vào hai pháp nên không được trung đạo. Tùy theo việc có tên khác nhau, liền chia làm hai, căn cứ trong hai thứ này, lại còn lần lượt chia nhỏ, danh tướng kia, đầy đủ như trong Thập Muôn Kệ nói, nếu lại căn cứ vào chín phẩm thượng, trung, hạ… cho đến thành tám muôn trần lao, rộng thì vô lượng. Ví như từ một hạt giống sinh năm gốc rễ. Trong một gốc rễ đều chia thành hai cành đến thứ năm chia ra thì thành sáu mươi tâm chi (cành nhỏ). Từ đây lại còn chia ra thì cành lá không thể tính được. Lại như vào kiếp sơ, người đều do hóa sinh, lấy niệm làm thức ăn, ánh sáng của thân tự nhiên an vui không chướng ngại, nhưng vì không biết tướng thật của tâm, tham trước chút ít vị đất, do ăn vị đất nhiều hay ít nên sắc mạo tùy theo đó mà khác nhau, tâm phải, trái, hơn, thua, do đây mà sinh, do đó tâm kiêu mạn, nên phước lợi suy giảm, vị đất ẩn mất, cho đến cây rừng ở trên mặt đất cũng không còn mọc, sau tự nhiên ăn lúa gạo, mới có các thứ nam nữ, dâm, trộm, sát sinh, nói dối, các thứ phi pháp… lần lượt sinh khởi. Việc ấy trong kinh A-hàm có nói rộng. Từ đó về sau có các thứ giòng họ, các thứ phong tục của địa phương, khởi đủ loại kết nghiệp phiền não, thành bao nhiêu nẻo chúng sinh, tạo ra đủ loại thân năm ấm. Bản thân không phải bậc Nhất thiết trí thì không thể xét đoán ngọn nghành kia; các vị A-xà-lê sở dĩ làm ví dụ này, vì muốn chỉ bày một tâm vô minh tùy theo việc chia ra, mà thành vô lượng, vô biên vọng chấp.

Vượt ba vọng chấp thế gian thì tâm xuất thế gian sinh khởi, nếu đem tâm Bồ-đề thanh tịnh làm tâm xuất thế gian, tức là vượt lên ba kiếp Du-già hành. Tiếng Phạm là Kiếp-ba, có hai nghĩa:

  1. Thời phần.
  2. Vọng chấp.

Nếu giải thích theo thông thường thì vượt qua một kiếp Du-kỳ (Du-già) hành, tức là vượt qua một trăm sáu mươi tâm bằng một lớp vọng chấp thô, gọi là một A-tăng-kỳ kiếp. Hành giả môn Chân ngôn lại vượt một kiếp, lại vượt qua một trăm sáu mươi tâm, bằng một lớp vọng chấp rất tế, đắc đến sơ tâm Phật tuệ, cho nên nói ba A-tăng-kỳ kiếp thành Phật. Nếu một đời vượt qua ba vọng chấp này thì một đời thành Phật, đâu luận đến thời phần ư? Căn cứ trong lớp thứ nhất, vào lúc đầu tiên hiểu rõ chỉ có uẩn mà không có ngã thì gọi là tâm xuất thế gian sinh khởi. Vượt qua sáu mươi tâm thế gian, lìa ngã đến chỗ sinh ra ba độc căn bản, gọi là vượt ba vọng chấp.

Lại nữa, có ba vọng chấp, đó là căn, cảnh, giới, lưu giữ người tu hành.

Căn nghĩa là sáu căn, Cảnh tức là sáu trần, Giới là sáu thức giới, như trong ngoài mười hai giới chính là căn, cảnh, nên hiệp lại để nói. Chính ba quả này là chỗ đã lưu giữ người học đạo, do đó nói là lưu giữ tu hành.

Lại nữa có ba vọng chấp đó là nghiệp, phiền não gốc và hạt giống vô minh, chính là các vị Thánh, Vô học đã dứt bỏ, chỗ rất khó dứt bỏ gồm có ba thứ ba vọng chấp. Người học Đại thừa mới bắt đầu được xuất thế, tâm ngang với sự thấy đạo của Tiểu thừa, nhưng không rơi vào chánh vị Thanh văn. Vì sao? Vì do kia từ khi mới phát tâm, đã biết tâm tánh chỉ bị ngã đảo che lấp, nên chưa hiện ra được. Bây giờ quán xét ấm, giới, nhập… đều từ duyên sinh, thay đổi vô thường, trong đó cái gì là thần ư? Khởi tìm cầu như thế, liền hiểu rõ Thần vốn không sinh, vượt qua vô lượng lưới kiến chấp, tâm Bồ-đề thanh tịnh sáng thêm một ít, do được thế lực tâm Bồ-đề, vì thế không rơi vào đất Nhị thừa.

Nhưng hành giả kia có pháp cấp ở trong tâm, nếu khi tu thiền định, các loại đạo phẩm, các độ, dù trong đó không khởi các ngã tưởng, nhưng tâm trụ ở và lưu lại lâu trong những pháp thiền định, không thể chóng đến Bồ-đề, vì chẳng phải thật khéo léo vượt qua nên gọi là lưu giữ tu hành, nhưng cũng có một ít xa lìa ba chấp cõi dưới, có thể nhổ gốc của nghiệp phiền não và hạt giống vô minh, sinh mười hai Nhân duyên, biết pháp sâu xa như thế, có Phật hay không có Phật, tánh tướng thường như thế. Như trước đã nói: kiến lập tịnh, không kiến lập vô tịnh… Các tông chấp đều không tương ưng, cho đến Trường Trảo, Tiên Ni… các đại luận sư… tự tâm đem trí tuệ lợi căn tìm cầu tướng thật các pháp, đều không thể suy tính so lường; nghĩa mười hai nhân duyên này, như lúa nếp thơm tươi tốt… như kinh Đạo Can có nói rộng.

Trạm tịch: Tịch, nghĩa là bất sinh, nghĩa là năm phiền não căn bản và một trăm sáu mươi tùy phiền não… rốt ráo đều không sinh, nên gọi là “tịch”. Trạm: nghĩa là sâu xa, đầm nước trong sâu muôn nhận lặng yên soi suốt, người ở trên nhìn xuống không lường được cạn sâu, cho nên nói ba loài thú qua sông, mỗi loài tùy theo chỗ dấu chân quậy đến. Chỉ có voi Đại hương tượng đầu đàn, có thể dần dần quậy sâu vào đến tận đáy kia mà thôi. Trong đây có người trong ba thừa, đồng dùng vô ngôn nói Đạo, đắc tướng thật các pháp, nhưng hàng Thanh văn nhập pháp tránh rất cạn, vì thế nhàm chán sinh tử, tự nói đã đắc Niết-bàn, sinh tưởng diệt độ. Bích-chi-Phật chỗ nhập khác xa, cho nên ở trong sinh tử mà không quá vội vàng, nhưng không thể dùng năng lực phương tiện phát khởi đại bi, khi Bồ-tát ngộ pháp như thế thì biết tâm ấy dơ bẩn dần dần dứt bỏ, vì thế tâm thanh tịnh hiện dần. Bấy giờ, liền được tâm Bồ-đề lớn mạnh, có thể theo học đạo không dừng, vượt qua các pháp môn, vì thế trước nói cùng trong một pháp mà cao thấp có khác.

Kinh chép: tất cả ngoại đạo không thể hiểu biết: Trong tông này có hai thứ ngoại đạo:

a) Ngoại ngoại đạo: Ví như nhìn thấy hồ nước trong ngược lại sinh lo sợ không dám thường gần.

b) Nội ngoại đạo: tuy có thể thường ngâm ở trong đó, vừa nóng để gội bỏ dơ bẩn được vui mát mẻ, nhưng không biết trong đó có vô lượng vật quý báu, một là không vào nên không biết, hai là vào mà không biết, vì thế nói tất cả ngoại đạo không thể biết.

Trước, Đức Phật giảng nói lìa tất cả lỗi: là nói các Đức Phật ba đời mười phương chỉ có một môn này, khuyên dụ dẫn dắt chúng sinh mê muội ra khỏi nhà lửa, chỗ này không còn chướng ngại, nói rộng không sinh, cho nên các vị sư nhân lượng, không thể thoát khỏi lỗi ấy, nhưng chưa vượt qua pháp chướng, chưa gọi là tâm Bồ-đề chân tịnh, như hoa sen đã lìa bùn dơ, vẫn chưa ra khỏi nước, vì thế kinh chép: Tâm ra khỏi thế gian mà thân ở trong uẩn, do hành giả ở trong Du-già tâm vắng lặng tuy đã hiện rõ; nhưng khi gặp việc thì căn, trần, thức… vẫn còn trong tâm. Nhờ nhàm sợ hữu vi, mê đắm pháp vô vi, nhưng do thế lực tâm Bồ-đề, tự nhiên không do người khác dạy, có như thế tuệ theo đó sinh khởi, có thể đối với uẩn… phát khởi tâm kia tu xa lìa chấp trước phương tiện.

Trong năm thứ ví dụ quán sát vô tánh không.

Câu thứ nhất quán sát chùm bọt nước, như bọt nổi trên mặt nước, dù có thể nhìn thấy các thứ hình dáng, nhưng tìm thật tánh thì hoàn toàn không thật có. Sắc ấm cũng giống như vậy, hoặc thô, hoặc tế đều từ các duyên sinh ra, duyên sinh sinh vô tánh, tức là sắc vốn không sinh.

Câu hai quán chùm bọt nước, như mùa hạ mưa lớn, bọt nổi trên mặt nước, cũng chỉ lệ thuộc các duyên.

Câu bốn đều quán sát không khởi diệt, thọ, ấm cũng giống như vậy, các khổ vui… đều từ căn và trần hòa hợp mà sinh, từ duyên sinh thì không có tự tánh, tức là thọ vốn không sinh.

Câu tiếp theo quán ánh sánh mặt trời như trăng xuân khí đất, ánh sáng mặt trời nhìn giống như nước, người khát lầm sinh tâm mong cầu, gắng sức chạy nhanh đến chỗ xa xôi. Chúng sinh cũng như vậy, không biết duyên khởi tánh không nên có pháp tưởng sinh, nếu ngộ tướng thật thì tưởng vốn không sinh.

Câu tiếp theo là quán cây chuối như người tìm sự chắc thật trong cây chuối, cho đến từng bẹ từng bẹ lột hết ra, đến chỗ gần với hư không cũng không thật có.

Hành ấm cũng giống như vậy, một mảy nhỏ liên quan đến trần cảnh, đều từ các duyên sinh ra, duyên sinh không có tự tánh, tức là hành vốn không sinh.

Kế là nói về giả: như năng lực chú thuật, thuốc ở thế gian, làm mê hoặc che lấp tâm người, hiện các việc chưa từng có, thức ấm cũng giống như vậy, từ một niệm vô minh, huyễn tâm mới vượt qua ba cõi, cứu xét nguồn gốc kia, đều không có sinh diệt qua lại. Phải biết từ các duyên sinh không có tự tánh, cũng lại vốn không sinh.

Trong kinh Thanh văn, tuy nói năm dụ này, nhưng ý nói Vô ngã. Nay năm dụ ở đây, ý nói các uẩn tánh không, như quán năm uẩn phải biết mười hai nhập, mười tám giới, sáu nhập, mười hai duyên… đều nên phân biệt nói rộng, như trong kinh Đại Bát-nhã chép: Hành giả khi quán sát như vậy. Từ pháp môn vô tánh đạt được các pháp tức không lìa được một lớp pháp đảo, rõ biết tâm tánh, như thế không bị uẩn, giới, xứ, năng chấp, sở chấp làm lay động, vì thế gọi là chứng cảnh giới tịch nhiên. Khi chứng cảnh giới tịch nhiên này, dần dần vượt qua cảnh giới Nhị thừa, như hoa sen tuy chưa nở, nhưng đã vượt lên dòng nước trong. Hành giả cũng giống như vậy, tâm không trở lại chìm đắm trong uẩn, cho nên gọi là tâm ra khỏi thế gian. Nếu Y theo dịch đúng thì phải nói tâm trên thế gian.

Này Bí Mật Chủ! Kia xa lìa tám tâm trái thuận, nối tiếp mành lưới nghiệp phiền não. Như trước đã nói hạt giống căn bào… đến quy y Tam bảo, cho trời người vâng làm pháp lành trai thí, đều gọi là tám tâm thuận đời. Nếu ba thừa bắt đầu phát Đạo ý cho đến nhổ gốc nghiệp phiền não, hạt giống vô minh, sinh mười hai nhân duyên, gọi là tám tâm trái đời, hoặc có thể phân chia các địa vị kiến đạo, tu đạo… mỗi địa vị tự có tám tâm. Hành giả Đại thừa hiểu rõ các uẩn tánh không, đối với tất cả pháp, đều không thủ cũng không xả, xa lìa tám tâm trái, thuận, hai đảo ngã, uẩn, hai thứ lưới nghiệp phiền não, đó gọi là vượt qua một kiếp Du-kỳ hành.

Du-già dịch là tương ưng, nếu dùng âm nữ mà gọi thì nói là Dukỳ. Có chỗ nói tương ưng: tức là người quán hạnh ứng với lý.

Y theo thường tình để giải thích thì Bồ-tát từ khi mới phát tâm đến

nay trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp, mới chứng cảnh giới tịch nhiên như thế, nay tông Bí mật, chỉ cần vượt qua một lớp vọng chấp này tức là vượt A-tăng-kỳ kiếp, hành giả chưa vượt qua kiếp này, khi bằng địa vị với Bích-chi-Phật thì gọi là chỗ cùng cực không thể nói năng. Bấy giờ, tâm dính mắc ở tướng pháp vô vi, nếu mất phương tiện thì thường rơi vào đất Nhị thừa, chứng tiểu Niết-bàn, nhưng nhờ thế lực tâm Bồđề có thể trở lại phát khởi bi, nguyện; từ đây về sau con đường ba thừa bắt đầu phân chia, nhưng nhân, pháp sở quán đều không, cùng các tông Thành Thật, chưa cách xa nhau mấy, còn ràng buộc ở lý thiên chân, nên thực hành quán bình đẳng này, vì thế tâm xuất thế gian ba thừa thượng, trung, hạ, hợp nói một tăng-kỳ kiếp, đến tăng-kỳ thứ hai, mới khác hàng Nhị thừa.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ: Hạnh Đại thừa, phát tâm vô duyên thừa, pháp không có tánh ngã. Vì sao? Như người kia ngày xưa tu hành như vậy, quán sát uẩn, A-lại-da, biết tự tánh như huyễn, ánh sáng của mặt trời, ảnh hưởng vòng lửa xoay tròn, thành Càn-thát-bà, tức là biết rõ quán lớp thứ hai pháp không có ngã tánh. Tiếng Phạm Mãng-bát-la, nghĩa là vô cũng là nghĩa Tha, tức là tha duyên. Thừa nghĩa là phát thệ lớn bình đẳng, vì pháp giới chúng sinh thực hành đạo Bồ-tát, cho đến các vị Nhất-xiển-đề, và Nhị thừa chưa vào Chánh vị, cũng phải dùng các thứ phương tiện khuất phục nhiếp thọ, khắp giúp đồng vào thừa ấy; dựa vào đại Bi vô duyên này, vì thế gọi là Tha duyên thừa. Lại Vô duyên thừa, đến tăng-kỳ này mới có thể quán sát thức A-đà-na sâu xa nhỏ nhiệm, hiểu rõ ba cõi duy tâm, ngoài tâm không có một pháp nào thật có, nương vào tâm vô duyên này mà thực hành đạo đại Bồ-đề, do đó gọi là Vô duyên thừa. Tâm Vô duyên thừa này tức là pháp không có ngã tánh, do hành giả vào kiếp sơ tu quán hạnh thì tâm chìm trong uẩn, dùng năm pháp môn vô tánh không để quán pháp vô ngã, nhưng trông mong duyên sinh trung đạo, vẫn thuộc về đối trị Tất-đàn. Nếu mất phương tiện Bát-nhã thì rơi vào đoạn diệt, gọi là người chấp không sai lầm, lạm xưng người tu đạo Đại thừa. Nay Đại thừa không thật có tướng không, tướng không cũng không thật có, dù quán các pháp vô sở hữu nhưng còn các pháp vô sở không cho nên đạo phải lìa có, lìa không, quán pháp không có ngã tánh, vì muốn trừ sạch trí chướng, thuận theo các Bồ-tát ngày xưa để tu học, quán uẩn A-lại-da tức là kinh Lăng-già, Giải Thâm Mật… tám thức, ba tánh, ba vô tánh, đều là ý này.

Kinh dạy: Biết tự tánh: tức là biết ba cõi duy tâm, sáu ví dụ không thực, ánh sáng mặt trời, ảnh hưởng, vòng lửa xoay, thành Càn-thát-bà, đều phân biệt rõ cả hai thứ có, không, hiểu nghĩa duyên khởi khác nhau của uẩn A-lại-da, cùng ý quán vô tánh không trong năm ví dụ trên ở kiếp trước, lại có khác nhau.

A-lại-da: nghĩa là hàm tàng, dịch đúng là thất, nghĩa là các uẩn ở trong đây mà sinh, cũng ở trong đây mà diệt, tức là chỗ chất chứa các uẩn, vì thế lấy làm tên. Nhưng A-lại-da có ba nghĩa:

  1. Nghĩa là phân biệt.
  2. Nghĩa là nhân duyên.
  3. Nghĩa là chân thật.

Như trong bài kệ cầu chân thật của luận Đại Thừa Trang Nghiêm, vì lìa hai và mê y nên không nói không nói rộng. Phải biết ba tánh đều chân thật. Có chỗ nói lìa hai, nghĩa là phân biệt tánh chân thật, từ năng sở rốt ráo không. Mê y: nghĩa là nương vào tánh chân thật người khác. Từ đây khởi các phân biệt. Không nói, không nói rộng: tánh chân thật thì chân thật, từ tự tánh không nói rộng.

Kế là nói về cầu chân thật, thí dụ kệ rằng:

Như kia khởi huyễn sự

Vì nói luống phân biệt

Như các việc huyễn kia

Vì nói hai thứ mê.

Giải thích rằng như nhà ảo thuật nương vào năng lực chú thuật, biến gỗ, đá… để làm nhân mê, luống phân biệt như thế, tánh y tha cũng thế. Khởi các thứ phân biệt là nhân điên đảo. Lại như tượng vàng huyễn… các thứ tướng mạo hiển hiện, tánh phân biệt do như vậy sinh khởi cũng thế, vì năng thủ, sở thủ nên hai thứ mê thường hiển hiện. Kế đến kệ nói, như kia không có thể, được nhập Đệ nhất nghĩa, như kia có thể được thông đạt thế đế thật. Ý trong này nói, như việc huyễn kia không có thật thể, ở đây ví dụ hai tướng y tha, và phân biệt cũng không có thật thể, nhờ Đạo lý này mà được thông đạt Đệ nhất nghĩa đế; lại như thể của người huyễn, việc huyễn cũng không thật có, ở đây ví dụ luống dối phân biệt cũng giống như vậy.

Nhờ đạo lý này, mà được thông đạt thế-đế chân thật. Lại kệ nói: Việc kia do không thể, liền được cảnh chân thật, như vậy do chuyển y, liền được cảnh chân thật, như vậy do chuyển y, liền được nghĩa chân thật. Giải thích rằng: Nếu người hiểu được việc huyễn kia không có tự thể, liền được cảnh chân thật như gỗ… Như các Bồ-tát, khi hiểu được hai thứ mê không có tự thể liền được chuyển y, tức là được tánh nghĩa chân thật. Lại kệ nói:

Việc ấy chỗ kia có

Kia có thể cũng không

Có thể không có ấy

Vì thế nói là huyễn.

Kệ này nói việc huyễn, có mà chẳng thật có. Vì sao? Vì Hữu: nghĩa là việc huyễn tượng, chỗ kia hiển hiện ra.

Phi Hữu: Nghĩa là thật thể kia không thật có. Như thế, có thể và vô thể cả hai đều vô, do nghĩa này cho nên nói kia là huyễn.

Lại kệ nói:

Vô thể chẳng vô thể

Chẳng vô thể tức thể

Vô thể hữu thể không hai

Cho nên nói là huyễn.

Kệ này nói việc huyễn chẳng phải có mà có. Vì sao? Vì Phi hữu nghĩa là việc huyễn kia không có thật thể, do không có thật thể cho nên có, nghĩa là việc huyễn chẳng phải vô thể, do hình tướng hiển hiện ra.

Như thế, vô thể và hữu thể không hai, do nghĩa này cho nên nói kia là huyễn. Huyễn này chính là ví dụ các uẩn, vì thế phải biết luống dối phân biệt có mà chẳng thật có. Vì sao? Vì hai hình ảnh kia hiển hiện nhưng thật thể không thật có. Vì thế nói sắc… có thể tức là vô thể.

Lại nữa, luống dối phân biệt, chẳng thật có mà có. Vì sao? Vì hai thứ kia đều không có thật thể, nhưng có hình bóng hiển hiện, nên nói sắc… vô thể và hữu thể không hai, do đây mà hữu Vô không hai, có thể ngăn ngừa sự dựng lập phỉ báng, đạt đến Niết-bàn, Tiểu thừa. Vì sao? Vì Vô thể biết vô thể, không nên an lập, do hữu thể biết thế đế, không nên phỉ báng; lại vì hai thứ không khác kia, không nên nhàm chán mà thể nhập Tiểu Niết-bàn.

Kệ kia lại nói:

Hình huyễn và thủ huyễn

Mê nên nói có hai

Như thế không hai kia

Có hai không thật có.

Tướng xương và chấp xương, do quán cũng có hai, không hai mà nói hai, thật có cũng như vậy.

Bài kệ trước ý nói: Người mê đối với thân huyễn và chấp huyễn, vì mê cho nên nói có hai việc năng thủ và sở thủ, hai kia tuy không nhưng cả hai thật có, do mê mà hiển hiện. Bài kệ sau ý nói: người tu hành quán cũng như vậy, hình xương và chấp xương, do quán nên nói có hai thứ năng quán sở quán, hai thứ ấy tuy không nhưng cả hai cũng thật có, do quán mà hiển hiện.

Hỏi: Quán như vậy rồi, lấy pháp nào để đối trị?

Đáp: Vì thế vị ấy lại nói hai bài kệ rằng: Nên biết Thể sở trị, nghĩa là pháp ấy mê tướng, thể ấy vô thể, hữu, phi hữu như huyễn. Nên biết Thể năng trị, các pháp như niệm xứ… thể ấy vô tướng, như huyễn cũng như thế. Bài kệ trước ý nói: chỗ nào đối trị thể, tức là mê pháp tướng. Mê pháp tướng: nghĩa là như thị như thị thể. Nhưng như thị thể có thể nói là có, do luống dối phân biệt nên cũng nói chẳng thật có, do hai thể năng thủ, sở thủ cùng chẳng phải thể không khác, như thế có cũng như huyễn, không cũng như huyễn, nên nói tướng này như huyễn.

Bài kệ sau ý nói: Thể năng trị tức là các pháp, nghĩa là niệm xứ… Đức Phật đã nói, như thị như thị thể, thể kia cũng đều như huyễn. Vì sao? Vì như chỗ chấp của các hạng phàm phu, như thị như thị hữu thể, như lời các Đức Phật nói, như thị như thị vô thể, thể này vô tướng.

Lại, Đức Phật, Thế-tôn thị hiện nhập thai, đản sinh, vượt thành xuất gia, thành đẳng chánh giác, như thị vô tướng, nhưng hình ảnh hiện ra, cho nên như huyễn.

Hỏi rằng, nếu các pháp đồng như huyễn thì do nghĩa gì, một là năng trị một là sở trị?

Kệ kia đáp rằng, như nhà ảo thuật giỏi, khiến các ảo thuật khác thoái lùi, pháp thanh tịnh như thế, có thể khiến pháp nhiễm không còn. Do nghĩa này Bồ-tát tuy tu các hạnh, mà không có sở đắc. Luận kia nói quán sát uẩn A-lại-da, hiểu rõ tự tánh như huyễn, rất phù hợp với kinh này, vì thế nêu ra đầy đủ. Phải biết ánh sáng mặt trời, ảnh hưởng, vòng lửa xoay, thành Càn-thát-bà, cũng nên nói rộng như vậy, kiếp trước, năm dụ có bọt nước, cây chuối, trong đây sở dĩ không nói là vì ba việc này còn bị vướng mắc, pháp nói về vô tánh không, nhưng ý của các dụ như huyễn diệm… nói duy thức không cảnh, thể pháp khó hiểu, tức là thô tướng chuyển dung cho nên không nói. Hành giả hiểu các uẩn duy tâm, tức là hiểu tự tánh của pháp, khi chưa hiểu rõ tự tánh như thế, sợ rơi vào có sở đắc, không thể quán tận nguồn gốc lý hữu, sợ rơi vào đoạn diệt, không thể quán cùng tận lý không, chẳng những chỉ thấy hữu không rõ, mà còn thấy không chưa cùng tận, nay nhờ pháp môn như huyễn… soi thấy hữu và không chẳng hai, tướng nhân không pháp không, cũng không có trong tâm, đó gọi là chân chánh nhập vào pháp không, ngộ duy thức tánh.

Kinh dạy: Này Bí Mật Chủ! Người ấy xả Vô ngã như thế! Tâm chủ tự tại giác tự tâm vốn bất sinh; tâm chủ tức là tâm vương, do không dính mắc đối với vô hữu, tâm không quái ngại, diệu nghiệp sẽ được tùy ý thành tựu cho nên nói tâm vương tự tại, tâm vương tự tại nói là tâm Bồ-đề thanh tịnh, lại chuyển một lần mở sáng hơn hẳn kiếp ở trước. Tâm vương giống như ao nước tánh vốn thanh tịnh, Tâm số trừ sạch giống như khách trần thanh tịnh, do đó khi chứng tánh tịnh này thì có thể tự biết tâm vốn không sinh. Vì sao? Vì tâm đời trước, đời sau đều không thật có, ví như biển lớn, làn sóng do từ duyên khỏi, không phải trước không sau không, mà tánh nước là không, khi sóng từ duyên khởi thì tánh nước không phải trước không, khi nhân duyên sóng hết thì tánh nước không phải sau không, tâm vương cũng giống như vậy, không có mé trước sau, vì mé trước sau dứt, tuy gặp cảnh giới gió theo duyên khởi diệt, nhưng tâm tánh thường không sinh diệt, hiểu tâm này vốn không sinh, tức là dần dần nhập tự môn A.

Bấy giờ lại xa lìa một trăm sáu mươi tâm… trên trần sa một lớp phiền não vọng chấp nhỏ nhiệm, gọi là A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, do đó

Kinh nói: biết tâm tánh mình là vượt qua hai kiếp Du-kỳ hành. Trong đây Vô vi sinh tử nhân duyên sinh hoại như trong luận Thắngman Bảo Tánh Phật Tánh có nói rộng, nay lại nói nghĩa của Tông nên không nói rõ. Nhưng từ trên đến đây hoặc bắt đầu hoặc cuối cùng, tự phát khởi một chút điều lành, cho đến vượt qua hai chướng nhân, pháp, hữu vô. Tuy tông cùng cực chuyển diệu càng sâu, vẫn để đối trị cấu ngoài tâm, nhưng còn chưa khai mở được các việc bí mật không thể suy nghĩ bàn luận ở trong tâm; từ đây về sau mới nói nếu không thực hành đối biện như thế thì thường tình đều theo thói quen xưa, không thể hiểu rõ sự nhiệm mầu ấy.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Bồ-tát tu hành các hạnh Bồ-tát môn Chân ngôn, chứa nhóm nhiều kiếp vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa, vô lượng công đức trí tuệ, tu đủ các hạnh vô lượng trí tuệ phương tiện, thảy đều thành tựu: tức là muốn nói tâm vượt qua kiếp thứ ba, muốn giúp người thấy nghe tin ưa, tôn trọng, nên trước khen ngợi công đức của người ấy; có thể biết, như các Bồ-tát trong các giáo khác, thực hành đạo lý phương tiện để đối trị; tiếp đến dần dần trừ tâm nhơ kia, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, hoặc có khi đắc đến Bồ-đề, hoặc có khi không đắc đến, nay trong giáo này các Bồ-tát này thì không như vậy.

Lấy chân ngôn chân thật làm thừa, nhập vào pháp môn tâm Bồ-đề thanh tịnh, khi thấy được tâm này rõ đạo, các Bồ-tát trong vố số kiếp tu phước, tuệ, tự nhiên đầy đủ, ví như có người dùng thuyền, xe, lăn lội, đi qua con đường ghê sợ, hiểm nạn, được năm trăm do-tuần.

Lại có một người, nương thần thông bay giữa hư không mà đi nơi người ấy bay qua và nơi đến tuy là không khác nhưng pháp nương vào có khác, vì thế Đức Thế-tôn trước nói rộng các tâm tướng như trên, để dạy cho hành giả tu quán môn Chân ngôn, nếu khi tu hành đến cảnh giới như thế thì phải hiểu rõ, không được chưa đến nói đến, mà bị dừng lại ở giữa đường.

Lại nữa, như khi Thái Tử của vua Chuyển luân vừa mới sinh ra, các tướng đầy đủ không thiếu, tuy chưa thể học hết các tài nghệ, thống trị bốn châu, nhưng đã sử dụng bảy thứ báu, thành tựu gia nghiệp của Thánh vương. Vì sao? Vì lúc đó đã đầy đủ thể của Chuyển vương. Hành giả chân ngôn bắt đầu vào tâm Bồ-đề thanh tịnh, cũng giống như vậy, tuy chưa ở trong vô số A-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ các hạnh Phổ Hiền, đầy đủ đại bi phương tiện, nhưng các công đức Như lai, đều đã thành tựu. Vì sao? Vì tức là pháp thân của đầy đủ thể Tỳ-lô-giá-na, do đó kinh nói vô lượng, vô số kiếp, cho đến trí tuệ phương tiện, thảy đều thành tựu.

Lại như Vương tử mới sinh, lại cũng là chỗ rất nhiều rồng thần tôn kính quay về, mới phát tâm Bồ-đề thanh tịnh, cũng giống như vậy, đã vì trời, người thế gian quên mất Chánh đạo mà làm chỗ đại quy y, như thông thường các luận đã nói, khi chứng tâm này thì gọi là Phật, cho nên tất cả Thanh văn, Duyên giác như Xá-lợi-phất… dụng hết trí lực của họ, cũng không thể so lường, cho nên kinh nói vượt qua tất cả địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật.

Do hành giả khi chứng được tâm này thì biết Tịnh độ của Thíchca Mâu-ni không hủy hoại, thấy tuổi thọ Phật dài lâu, thân bản địa và thượng hạnh… các Bồ-tát từ đất vọt lên, đồng nhóm họp một chỗ, tu tập đạo lý đối trị, tuy dấu vết gần Bổ xứ nhưng không biết một người, do đó gọi là Bí mật.

Lại Bồ-tát này, có khả năng ở trong tâm tịnh rốt ráo, khắp nhóm họp các Đức Phật, Bồ-tát trong mười phương pháp giới, cũng tự mình đến khắp mười phương, cúng dường các Thiện tri thức, thưa hỏi chánh pháp, chỉ một mình hiểu rõ, trời, người đời không thể biết, do nhân duyên này, lại gọi là bí mật, hai kiếp tiền, trung, tuy nói vượt qua địa vị Nhị thừa, tuy tu Bồ-đề… nhưng vẫn còn nương thần lực Đức Phật, giảng nói nhân pháp đều không, nhưng đối với nhất thừa bí mật này, tâm sinh nghi sợ, không biết hướng đến, chính gọi là vượt qua địa vị Thanh văn, Bích-chi-Phật.

Bấy giờ chư Thiên đại oai đức, không thấy tâm Bồ-tát nương chỗ nào, đều sinh kính tín, vì thế Thích Đề-hoàn Nhân nói lời nguyện rằng, nay vị Thượng nhân này không lâu nữa sẽ thành Phật, nếu khi vị ấy thành Phật, ta sẽ dâng cúng cỏ cát tường; Tứ Thiên Vương cũng nghĩ như vầy: Nếu khi Bồ-tát này thành Phật, ta sẽ dâng cúng bình bát, Phạm thiên vương cũng nghĩ là: Nếu khi Bồ-tát này thành Phật thì ta sẽ thỉnh cầu Xoay bánh xe pháp, cho nên nói gần gũi kính lễ.

Đã khen ngợi công đức nhập môn Chân ngôn xong. Nhưng hành giả lại dùng pháp nào để nhập môn này, cho nên kinh lại nói: pháp đó gọi là không tánh. Không tánh tức là tự tâm sánh bằng tánh hư không. Văn trên nói vô lượng như hư không, cho đến Chánh Đẳng giác hiện ra, tức là dụ cho tâm này.

Kiếp trước ngộ muôn pháp duy tâm, ngoài tâm không có pháp, nay quán tâm này tức là trí tự nhiên của Như lai, cũng là thân khắp tất cả của Tỳ-lô-giá-na, do tâm như thế, nên các pháp cũng như thế, căn, trần đều nhập tự môn A. Vì thế nói xa lìa căn cảnh, hình tướng không ra ngoài thường tịch diệt quang, do đó nói là vô tướng, vì trí tướng thật của tâm biết rõ tướng thật của tâm, cảnh trí đều là Bát-nhã ba-la-mật, cho nên nói không có cảnh giới, do mười dụ trong đây và mười dụ ở trước trở lại thành nói rộng, do đó nói vượt qua các thứ nói rộng.

Lớp nhỏ nhiệm thứ ba một trăm sáu mươi tâm, hạt giống thọ nghiệp phiền não dứt trừ, lại có mầm cây Phật sinh, vì thế nói tất cả Phật pháp sánh bằng hư không vô biên, nương vào đây tiếp tục sinh khởi, đã không hoại nhân duyên mà liền nhập pháp giới, cũng không động pháp giới tức là duyên khởi, phải biết nhân duyên sinh diệt, tức là pháp giới sinh diệt, pháp giới không sinh diệt tức là nhân duyên không sinh diệt, vì thế nói xa lìa hữu vi vô vi giới, hoặc Như lai xuất hiện, hoặc Như lai không xuất hiện thì các pháp vẫn pháp nhĩ như thị trụ, do đó nói lìa các tạo tác, như trong Bát-nhã tất cả pháp thú hướng đến mắt, thú hướng này không lỗi, giống như trăm sông chảy về biển, không chảy đến chỗ khác, thế nên phải biết mắt là mé thật bậc nhất, trong mé thật bậc nhất, mắt còn không thật có, huống chi là thú hướng, không thú hướng ư? Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như thế, cho nên nói lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Hành giả khi đắc tuệ nhỏ nhiệm như vậy, quán tất cả các pháp tinh nhiễm, cho đến một phần nhỏ gần như hư không đều từ duyên sinh, nếu từ duyên sinh thì không có tự tánh, nếu không có tự tánh thì tức là vốn không sinh, vốn không sinh tức là tâm thật tế, tâm thật tế cũng không thật có, do đó nói sinh Cực Vô Tự Tánh Tâm.

Tâm này quay về hai kiếp trước, giống như hoa sen nở tròn, nếu quay về phía hai tâm sau thì quả trở lại thành giống mầm, vì thế nói: Sơ tâm như thế Phật nói là nhân thành Phật, cho nên ở trong nghiệp phiền não mà giải thoát, nhưng nghiệp phiền não cũng nương đầy đủ; trong đây nói Phật dạy.

Thế-tôn nhờ các Đức Phật trong mười phương ba đời làm chứng, nói: Vì một việc nhân duyên này, mà làm cho tri kiến thanh tịnh của chúng sinh mở sáng, đạo lý sâu kín kia đồng nhau. Hành giả khi giải thoát tất cả nghiệp phiền não thì biết tất cả nghiệp phiền não đều là Phật sự. Vốn tự không có ràng buộc thì khiến ai giải thoát? Như thầy thuốc giỏi biến chất độc trở thành thuốc dùng để trị các tật bệnh; lại như hư không ra khỏi các tướng, nhưng muôn vật đều nương, nếu khi trụ giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận này thì đó là chân A-la-hán, không mê đắm hữu vi vô vi, thích hợp thọ sự cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian.

Do đó kinh nói: Thế gian tôn sùng, thường nên cúng dường.

Lại nữa, A-xà-lê muốn nói về việc nên cúng dường này, nói chung ba kiếp từ đầu đến cuối, lấy ngọc quý làm ví dụ, giống như có Ngọc Như Ý ở trong mỏ đá, do người đời không biết, nên bỏ giữa đường đi, không khác với ngói, đá, nhưng riêng ngọc ấy vừa thấy có chút ánh sáng ở ngoài thì liền biết được, trước dùng sắt nhọn, cạy bỏ đá xấu, đã gần ngọc quý thì đá kia dần mềm, lại dùng các thuốc cho ăn mòn, khiến tiêu hóa quặng đá xấu, nhưng không tổn hại chất kia.

Bấy giờ chất bẩn thô đã hết chỉ còn ít chất dơ nhỏ, đã rửa lại dùng tro nước mài cọ cho sạch, dùng các phương tiện để cho ánh sáng phát ra, ánh sáng đã được hiện ra, để trên cờ cao, có thể tùy theo tất cả chỗ mong cầu khắp mưa ra các vật. Bấy giờ, người đời sinh cho là lạ, tôn trọng ngọc quý ấy giống như đại thiên, vì có khả năng làm đầy đủ sự mong cầu. Nhưng ngọc báu này trong một thời gian khắp ứng với tâm mọi người, tùy theo chỗ được của người mỗi mỗi khác nhau. Nhưng các vật này trước có trong ngọc báu hay không có trước? Nếu có trước thì ngọc nhỏ này làm sao có thể chứa nhiều vật? Nếu không có trước thì làm sao có thể bỗng nhiên mưa xuống các vật? Thế thì vật báu ở thế gian này, đã không thể suy nghĩ bàn luận, huống chi là tâm Bồ-đề quý báu của chúng sinh?

Thế nên, các Thiện tri thức, khi vừa thấy tám tâm của chúng sinh ở thế gian bắt đầu phát động thì liền biết là chân thật, đó là do gặp nhau mà biết.

Các Đức Phật, Bồ-tát cũng giống như vậy, đã lâu chứng biết tự thân từ một việc lành rất nhỏ mà tự đến Đại đạo Bồ-đề, thế nên soi thấy căn cơ của người ấy, liền rất hoan hỷ, dùng phương tiện khuyến dụ tiến lên khiến thọ Tam quy, như trước đã phân biệt nói: Ví như lấy đá chai để ở trong nhà, kế là dùng ba thứ ba tâm, nhổ gốc nghiệp phiền não và mầm mống vô minh, như sắt nhọn mở đục bỏ quặng thô kia, tiếp đến quán vô duyên thừa pháp không có ngã tánh, giống như dần dần đến chỗ mềm, dùng các vị thuốc tiêu hóa mà không bị tổn hại. Tiếp đến lại sinh tâm Cực vô tự tánh như dùng tro nước sạch lau chùi khiến rất sáng sạch.

Bấy giờ, sinh trong nhà Phật, gọi là đặt ở cờ cao mưa xuống các thứ báu, do nhân duyên này, nên xứng đáng nhận sự cúng dường rộng lớn của người đời. Nếu hành giả, thẳng từ môn Chân ngôn được thấy tâm báu, như vị Tiên khéo chú thuật giỏi, dùng thần lực mà lấy tuy khéo vụng, khó dễ khác nhau, nhưng được vật báu cuối cùng không khác nẻo, vì thế kinh nói: từ cạn đến sâu, nói rộng về tâm tướng: đều là khai thị gốc, ngọn, nhân duyên của tâm Bồ-đề, nếu chỉ nương vào pháp tướng bình thường thì không được nói, đại bí mật của các Đức Phật nay đều mở bày.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Tất tín, giải, hành: quán sát ba tâm Vô lượng Ba-la-mật-đa, tuệ quán sát bốn pháp nhiếp, đất tín giải không đối đãi, không so lường, không nghĩ bàn, kiến lập mười tâm vô biên trí sinh. Tông chỉ của kinh này, từ tâm Bồ-đề thanh tịnh lên đến Thập trụ địa, đều là đi giữa tín giải, chỉ có Như lai mới gọi là rốt ráo Nhất thiết trí địa, như trong kinh Hoa Nghiêm chép: Sơ địa Bồ-tát mới có thể tin chỗ nhập bổn hạnh của Như lai, tin thành tựu các Ba-la-mật, tin nhập các thắng địa, tin thành tựu lực, tin đầy đủ vô sở úy, tin bất cộng Phật pháp, tin sinh trưởng không hư hoại, tin Phật pháp không thể suy nghĩ bàn luận, tin sinh ra trong cảnh giới Phật pháp không ở một bên, tin tùy vào cảnh giới vô lượng của Như lai, tin thành tựu quả, đối với các việc như thế, tâm kia rốt ráo không thể phá hoại, lại không theo duyên khác lay chuyển, vì thế gọi là tín giải hành địa, cũng gọi là đến chỗ tu hành.

Quán sát ba tâm: tức là tâm nhân căn rốt ráo, nếu nói chung về tín giải địa thì khi Bồ-tát Sơ địa này được Bồ-đề vô cấu như hư không này thì tự nhiên ở mười Vô tận giới, sinh mười đại nguyện, cho đến đầy đủ trăm muôn A-tăng-kỳ đại nguyện.

Lấy đây tức là tâm Bồ-đề làm nhân, từ Nhị địa trở lên, tu thêm đại bi muôn hạnh, tức là đại nguyện không cùng tận, đối với mười pháp giới sinh gốc, cho đến lần lượt tăng tưởng, đến Địa thứ tám trở đi đều gọi là phương tiện Địa.

Luận Phật tánh chép: Địa thứ tám trở lên cảnh giới đều đồng, chỉ căn cứ vào phương tiện làm thềm bậc mà thôi, nếu quán xét mỗi Địa cũng tự có ba tâm, như dùng rất nhiều Thập nhân duyên để được vào Sơ địa, gọi là nhân duyên; đã an trụ rồi, dùng các thứ đại bi muôn hạnh làm sạch địa ấy, gọi là nguồn gốc nói làm sạch quả tướng của Địa và nghiệp phương tiện, gọi là rốt ráo. Các địa khác đều Y theo đây.

Kinh này, Vô lượng Ba-la-mật-đa, bốn nhiếp pháp: tức là trị địa. Hành giả từ đây không còn đối đãi, vượt ra ngoài tâm lượng, chỗ không thể suy nghĩ bàn luận. Có mười tâm vô biên trí sinh, tứ là quả tướng Sơ địa. Kinh Hoa Nghiêm chép: Phát mười nguyện lớn rồi thì được tâm lợi ích, tâm mềm dịu, tâm tùy thuận, tâm vắng lặng, tâm điều phục, tâm vắng lặng, tâm nhún mình, tâm nhuần nhã, tâm bất động, tâm không đục, sau lại thành tựu mười pháp tịnh các Địa, cái gọi là tín Từ bi xả không có mỏi mệt, biết các kinh, luận, khéo hiểu pháp thế gian, hổ thẹn và năng lực nhân bền vững, cúng dường các Đức Phật, nương giáo tu hành.

Lại nữa, trụ ở địa này rồi, khéo biết các pháp chướng ngại các địa, khéo biết sự thành hoại của Địa, khéo biết tướng quả của địa, khéo biết Địa được tu, khéo biết pháp thanh tịnh địa, khéo biết chuyển hành Địa, khéo biết địa xứ, phi địa xứ của địa, khéo biết trí thù thắng của mỗi địa, khéo biết địa địa không lui sụt, khéo biết thực hành hết tất cả Bồ-tát Địa, cho đến chuyển nhập Như lai địa. Những địa như thế có rất nhiều mười tâm, nếu phân biệt rộng thì có trăm muôn A-tăng-kỳ pháp môn cứu giúp, vì thế nói vô biên trí sinh.

Lại y cứ ba tâm trước, làm thành mười tâm để nói: Nếu nói chung tín giải địa thì Sơ địa là hạt giống (hạt giống) Nhị địa là mầm, Tam địa là chồi, Địa thứ năm giống như hoa, Địa thứ sáu là quả, Địa thứ bảy là thọ dụng hạt giống, Địa thứ tám Vô úy y, cái gọi là quả ở trong quả, Địa thứ chín là có tinh tấn cầu Phật địa tuệ sinh, ấy là tâm tối thắng. Thập địa này tâm quyết định, hai tâm này cảnh giới không khác, vẫn là trong tâm thứ tám, Y theo phương tiện chuyển khai ra.

Nếu trong mỗi Địa, cũng tự đủ mười tâm này, hơn nữa như khi trụ Sơ địa, thành tựu pháp tịnh trị các địa và biết tướng các Địa, tức là trước hiểu một Địa xong, nương đầy làm nhân trí tuệ thêm lớn, lại hiểu Địa thứ hai, dùng mười thứ tâm so sánh, suy ra có thể biết. Hoa Nghiêm có rất nhiều mười pháp môn, cũng phải căn cứ vào đây thứ lớp rộng phân biệt nói.

Nhưng tông của kinh này, từ Sơ địa đã được nhập Kim cang Bảo Tạng (kho báu Kim cang). Kinh Hoa Nghiêm Thập Địa, mỗi mỗi danh ngôn, nương vào pháp A-xà-lê đã truyền đều phải có hai cách giải thích:

  1. Giải thích cạn, lược.
  2. Giải thích sâu, rộng.

Nếu không thông đạt mật hiệu như thế, chỉ nương vào văn để nói thì nhân duyên sự tướng, phải trải qua Thập Trụ phẩm. Nếu hiểu mười sáu vị Đại Bồ-tát từ Kim cang đỉnh sinh ra thì tự sẽ chứng biết.

Kinh chép: ta có chỗ nói tất cả pháp, đều nương đây mà đắc, như trên, tất cả trí địa vô tận pháp giới trang nghiêm và vô lượng Tu-đa-la khác, Phật đã khen ngợi vô lượng hạnh quả, đều nhân đây mà được, thế nên các kinh, rộng khen ngợi cành lá hoa quả của Sa-la Thọ vương như vậy.

Nay trong kinh này, chỉ nói về hạt giống (hạt giống) và nhân duyên sinh ra lớn lên của Thọ vương này. Nếu lìa nhân duyên này mà có thể thành quả kia, là việc không có, sở dĩ gọi là Đại Nhật Kinh Vương, chẳng phải vì đây sao? Kinh lại nêu lên sự lợi ích và khuyến khích tu hành như thế, cho nên người trí phải suy nghĩ tất cả trí, tín, giải, địa này; lại phải vượt một trăm sáu mươi tâm một lớp hoặc nhỏ nhiệm, gọi là vượt qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp.

Hành giả khi mới quán tánh không, hiểu tất cả pháp đều nhập vào mé thật của tâm, dưới không thấy chúng sinh để độ, trên không thấy các Phật để cầu; bấy giờ muôn hạnh dừng nghĩ, nói là rốt ráo, nếu trụ ở đây thì không lui sụt rơi vào địa vị Nhị thừa, không tiến lên được địa vị Bồ-tát, gọi là pháp ái sinh, cũng gọi là tâm vô ký, nhưng do thế lực tâm Bồ-đề và năng lực gia trì của Như lai, có thể trở lại phát khởi bi nguyện, bấy giờ, các Đức Phật trong mười phương cùng một lúc hiện ra khuyến dụ, được Phật dạy trao, nên chuyển sinh Cực Vô Tự Tánh Tâm cho đến mé thật của tâm cũng không thật có, tuy giải thoát tất cả nghiệp phiền não, nhưng nghiệp phiền não vẫn còn đầy đủ, đến bất tư nghì địa này, mới gọi là chân thật xa lìa Nhị thừa địa.

Căn cứ vào nghĩa trong ba cú trước, lại khai mở Phật Địa là tâm phương tiện thượng thượng, đến khi tâm thứ tư này gọi là rốt ráo Nhất thiết trí địa, nên gọi là một trong bốn phần này vượt qua tín giải.

***********

Kinh chép: Bấy giờ, Chấp kim cang Bí Mật Chủ bạch Đức Phật rằng: Cúi xin Đấng cứu thế, giảng nói tướng của tâm, Bồ-tát có được bao nhiêu chỗ Vô úy, cho đến sẽ được tất cả pháp tự tại bình đẳng Vô úy? Vẫn là trả lời câu tướng của tâm ở trước; vì Kim Cang Thủ đã nghe dạy các Bồ-tát này, thẳng nương môn Chân ngôn hướng lên Bồtát địa.

Hỏi: Bạch đức Thế-tôn! Khi Bồ-tát này hành đạo có được bao nhiêu chỗ Vô úy?

Đức Phật lại y theo ba kiếp trước, thực hành hàng phục để hiểu. Tiếng Phạm là A-thấp-phạ-sa, dịch đúng phải là sống lại. Giống như người bị kẻ có sức mạnh bắt giữ bóp cổ, tắt thở gần chết, bỗng nhiên thả ra, được sống trở lại, chúng sinh cũng giống như vậy, bị vọng tưởng, nghiệp phiền não trói buộc, gặp duyên đều bị bít lấp, đến sáu xứ này như được sống lại, vì thế nói là chỗ sống lại: Cũng như khi vượt qua đường nguy hiểm, tâm kia bình thản không hề lo sợ, do đó gọi là chỗ không sợ.

Phật dạy: Này Bí Mật Chủ! Phàm phu như đứa trẻ ngu kia, tu các pháp lành tổn hại pháp không lành, nên được thiện vô úy, nghĩa chữ thiện là có cả cạn và sâu. Nay, ý trong đây, nói về mười nghiệp đạo thiện, như người đời do nhân duyên mười nghiệp đạo bất thiện mà chìm nổi trong đường ác, không có cùng tận, sau được tám tâm thuận đời, cũng dần dần thọ Tam quy giới, trong vô lượng đời sinh làm người hoặc chư Thiên, sau đến Niết-bàn, do thoát khỏi khổ lớn trong ba đường, nên gọi là chỗ sống lại đầu tiên.

Như hành giả chân ngôn bắt đầu nhập Tam-muội-da, nương vào giai Tam Mật vị cúng dường tu hành, ngang với ở đây.

Kinh dạy: Nếu biết Ngã đúng như thật thì sẽ được thân vô úy, như khi tu thuận theo thân quán sát, thấy thân này do ba mươi sáu vật nhóm lại mà thành, năm thứ bất tịnh đường ác đầy đủ, trọn vẹn không vì đây mà sinh tham ái.

Lại nữa, quán Thọ tâm pháp được lìa không thấy bốn thứ điên đảo trong tánh ngã, đối với các sự trói buộc của thân được Chỗ sống lại. Như hành giả Chân ngôn, khi các tướng Tam-muội của bổn tôn hiện ra thì ngang với ở đây.

Kinh dạy: Nếu đối với thủ uẩn gom nhóm thành thân ta, xả bỏ sắc tướng của mình để quán sẽ được vô ngã, vô úy, nghĩa là khi quán chỉ có uẩn không có ngã, ở trong ấm, giới, nhập, trong các thứ ấy chia chẻ tìm cầu ngã không thật có. Xả bỏ sắc tướng của mình, ví như nhờ cây nên có bóng cây hiện ra, nếu không có cây thì bóng từ đâu mà sinh, nay năm uẩn còn từ duyên sinh đều không có tự tánh, huống chi là đây do nhóm họp mà có ngã? Như trên đã nói, cho đến tâm chứng vắng lặng xa lìa tất cả tội lỗi, thế là sự trói buộc ở nơi ngã được Chỗ sống lại.

Như hành giả Chân ngôn, đối với tất cả phân đoạn của cảnh giới Du-già, có thể quán tâm không thật có, không sinh ái, mạn vị, giống với đây.

Kinh chép: Nếu làm tổn hại uẩn trụ pháp phan duyên sẽ được pháp vô úy: Nghĩa là tâm hành giả trụ trong uẩn, muốn khiến phát khởi xa lìa mê đắm.

Bấy giờ, những các dụ như sóng nắng giả huyễn… quán sát các uẩn tức không, được xa lìa tám tâm thuận nghịch, chứng được thế giới vắng lặng, nhưng lìa sự trói buộc của uẩn thì đối với pháp được Chỗ sống lại.

Pháp: nghĩa là mười câu duyên sinh. Như hành giả Chân ngôn, hiện rõ ràng cảnh giới Du-già đều như bóng trong gương, trăng đáy nước, vô tánh vô sinh; là ngang với ở đây.

Kinh chép: Nếu hại pháp trụ vô duyên thì sẽ được pháp vô úy: Tức là Vô duyên thừa tâm, quán sát pháp không có tánh ngã, ngoài tâm không có hình bóng, hình tướng trí tuệ đều không thật có, tâm vương tự tại giác vốn bất sinh, được xa lìa sự trói buộc pháp, đối với pháp vô ngã được Chỗ sống lại. Nếu hành giả Chân ngôn, đối với Du-già trung đạo tâm được lực dụng tự tại thì ngang với đây.

Kinh chép: Nếu lại tất cả uẩn, xứ, giới, năng chấp, sở chấp, ngã, tuổi thọ… và pháp vô duyên, không tự tánh, vô tánh, không trí này sinh, sẽ được tất cả pháp tự tánh bình đẳng vô úy: nghĩa là khi quán tự tâm rốt ráo tánh không thì ngã và pháp uẩn cho đến vô duyên đều đồng một tánh, cái gọi là tự tánh vô tánh, nghiệp phiền não… đều không thể trói buộc được, cũng không thể nói, vì thế nói đắc tất cả pháp tự tánh bình đẳng, bấy giờ đối với hai thứ hữu vi, vô vi là hai thứ trói buộc giới được Chỗ sống lại, tức là tâm Bồ-đề trong sạch như hư không của hành giả Chân ngôn, nhưng tâm này ở trong sự trói buộc mà ra khỏi sự trói buộc đều rốt ráo vô tướng; dùng năm nhãn của Như lai quán kỹ, còn không thể thấy được tướng mạo của kia, huống là các sự sinh diệt trong loài người. Nay sở dĩ nói rộng ba kiếp, sáu chỗ vô úy rất nhiều tâm tướng, đều là bắt chước dấu vết bên ngoài để nói về tu chướng cạn sâu.

Trên đã nói thấy tướng khói, có thể so sánh để biết tánh lửa, nhưng biết tâm cấu hết chỗ, nói rộng không thực hành, chính là nương Vô úy y thứ sáu, còn muốn biểu thị thế nào?

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Nếu các Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát, tu sâu quán sát mười câu duyên sanh, sẽ đối với Chân ngôn hành thông đạt tác chứng, cho đến biết khắp tất cả tâm tướng như thật, là lược đáp tu hành trong câu hỏi trước. Như văn dưới muôn hạnh phương tiện, đều nhờ mười câu duyên sanh này để rửa sạch tâm cấu, vì thế phải biết rất trọng đại, hành giả chân ngôn đặc biệt nên lưu ý suy nghĩ. Nhưng nói chung ở trong phẩm mười câu duyên sanh này lược có ba thứ:

  1. Giấu kín tâm trong uẩn, muốn đối trị thật pháp, quán mười câu duyên sanh này, như trước đã nói, ngay nơi không là huyễn.
  2. Giấu kín tâm trong pháp, muốn đối trị cảnh giới phan duyên, quán Mười câu duyên sanh này, như trước đã nói, uẩn A-lại-da ngay nơi tâm là huyễn.
  3. Giấu kín sự chấp trước sâu sắc trong mé thật của tâm, muốn xa lìa hữu vi vô vi giới, nên quán mười câu duyên sanh này, như trước đã nói, giải thoát tất cả nghiệp phiền não mà nghiệp phiền não nương đầy đủ, tức là huyễn tức không thể suy nghĩ bàn luận.

Mười ví dụ trong Ma-ha Bát-nhã, cũng bao gồm đầy đủ ba ý. Nay trong đây nói tâm tu quán sát, tức là ý nói lớp thứ ba. Lại như hành giả đối với Du-già, tự tâm mình được cảm ứng tâm Phật, nhân duyên cảm ứng, ngay khi đó Tỳ-lô-giá-na hiện thân mà chúng sinh thích nhìn thấy nói thích hợp nghe pháp, nhưng tâm ta cũng rốt ráo thanh tịnh, tâm Phật cũng rốt ráo thanh tịnh. Nếu nghi quấy tâm ta là tự thì tâm Phật là tha, nay cảnh giới này, là từ Tự sinh, hay từ Tha sinh ư? Dùng các pháp môn trong Trung luận để quán thì sinh không thật có nhưng hình tướng âm thanh rõ ràng tức là pháp giới, luận huyễn tức huyễn, nói pháp giới tức là pháp giới, nói khắp tất cả nơi tức là khắp tất cả nơi, nói huyễn cho nên gọi là huyễn không thể suy nghĩ bàn luận.

Lại nữa, nói tu sâu: Nghĩa là đắc tâm thanh tịnh rồi, từ đại bi sinh căn, cho đến phương tiện rốt ráo, trong khoảng giữa đó mỗi duyên sinh khởi, đều phải dùng mười dụ để quán, do đó chứng chuyển sâu sắc, nên nói là quán sát.

Hơn nữa, như nghĩa Tứ Đế, chỉ bày thẳng thế giới Ta bà đã có vô lượng, vô biên danh từ khác nhau, huống chi trong vô tận thế giới thực hành phương tiện khéo léo, đâu thể cùng tận. Nay hành giả ở trong một niệm tâm tịnh, thông đạt trần sa Tứ Đế như vậy, không thì rốt ráo bất sinh, hữu thì cùng tận tánh tướng kia, trung thì nêu thể đều là thường, do ba pháp vô định tướng (không có tướng chắc chắn) nên gọi là không thể suy nghĩ bàn luận. Như pháp Tứ đế, ngoài ra tất cả pháp môn đều lệ theo đây. Thế nên chỉ có Như lai mới có thể cùng tột mười ví dụ này, thông suốt tận nguồn gốc của nó. Kinh này sở dĩ đặt tâm Bồ-đề vô cấu ở sau, tức là nói mười ví dụ, bao gồm từ đầu đến cuối và tóm thâu các địa, đã chạm duyên thành quán, không thể nói ngang, nay tạm nương vào Thích luận, nói rõ kia là nơi đáng quy về.

Kinh chép: Những gì là mười? Đó là như huyễn, sóng nắng, mộng, bóng, thành Càn-thát-bà, tiếng vang, trăng đáy nước, bọt nổi, hoa đốm trong hư không và vòng lửa xoay tròn.

Cho đến thế nào là huyễn? Nghĩa là như chú thuật năng lực của thuốc, năng tạo sở tạo các thứ sắc tượng, hoặc tự mắt thấy việc ít có, xoay vần sinh nhau, qua lại mười phương, nhưng kia chẳng đi, chẳng phải không đi. Vì sao? Vì bản tánh thanh tịnh, như thế thật nói huyễn, trì tụng thành tựu sẽ sinh ra tất cả, Phật nói năng lực thuốc không thể suy nghĩ bàn luận, như người dùng năng lực thuốc nên bay lên hư không ẩn hình, đẫm nước, đạp lửa, đây không phải là việc của các Luận sư, có thể kiến lập nhân lượng sinh ra lý do, cũng không thể sinh nghi, nghĩa là quyết định nên hoặc không nên, vượt qua cảnh giới so lường như thế, chỉ có người đích thân làm thuốc này, giữ gìn thứ tự mà dùng mới chứng biết mà thôi.

Lại như nhân duyên của thuốc, hiện bày các thứ sắc tượng năng tạo sở tạo, tuy ở trong các duyên, mỗi mỗi tìm kỹ đều không có chỗ sinh, nhưng cùng năm căn đối đãi hiện ra rõ ràng, tuy xoay vần cùng sinh qua lại mười phương, nhưng cũng chẳng phải đi, chẳng phải không đi, đó là việc không phải cảnh suy nghĩ tính lường. Thích luận rằng: Phật hỏi đức nữ, ví như nhà ảo thuật làm các việc huyễn, ý ông thế nào?

Trong Huyễn đã làm ra là có hay không?

Đáp rằng không. Lại hỏi ngoài có hay không? Trong ngoài có hay không? Từ đời trước đến đời này, đời này đến đời sau là có hay không? Vật huyễn làm ra có sinh, có diệt không? Thật có một pháp là huyễn làm ra hay không? Đều đáp rằng không.

Đức Phật dạy: Ông có nghe thấy kỹ nhạc do huyễn làm ra không?

Đáp rằng, con vừa thấy vừa nghe.

Phật dạy nếu huyễn luống dối không thật thì vì sao từ huyễn có thể làm kỹ nhạc.

Đức nữ thưa: Bạch Đại Đức! Tướng huyễn này pháp vốn như thế, tuy không cội gốc nhưng có thể thấy nghe.

Phật dạy: Vô minh cũng giống như vậy, tuy chẳng phải ở bên trong có, cho đến không sinh diệt, nhưng do nhân duyên vô minh, nên sinh ra các hành, vô minh hết thì hành hết, cho đến nói rộng. Nay môn Chân ngôn này, dụ cho người trì tụng cũng giống như vậy. Văn dưới nói rộng, y tam mật tu hành được thành tựu tất cả việc kỳ lạ đặc biệt không thể suy nghĩ bàn luận. Tuy trong mỗi duyên tìm kỹ rốt ráo lìa Tứ cú, pháp vốn như thế, không khác tâm thanh tịnh, nhưng thần biến tự tại, rõ ràng không sai lầm, việc này cũng không phải việc của các bậc Đại luận Sư… người không biện lợi căn đâu thể suy lường, chỉ có đầy đủ phương tiện được thành tựu Tất-địa mới tự chứng biết mà thôi.

Kinh dạy: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Sóng nắng tánh không, người kia nương vọng tưởng của người đời mà thành lập, có chỗ luận rằng: Tướng Chân ngôn như vậy, chỉ là giả danh. Thích luận chép: Do ánh sáng mặt trời, gió thổi tung bụi, nên giữa đồng trống động như sóng nắng, người không có trí tuệ khi mới thấy cho là nước, chúng sinh cũng vậy, ánh sáng mặt trời kiết sử, phiền não, làm lay động các hành trần? Ở trong đồng trống sinh tử mà xoay chuyển, người không có trí tuệ, cho một tướng là nam, một tướng là nữ.

Lại nữa, nếu thấy xa cho là nước, thấy gần thì không phải tướng nước, như thế là xa chánh pháp, không biết vô ngã và các pháp không, đối với các pháp ấm, giới, nhập tánh không, con người sinh các tưởng, Nếu gần Thánh pháp thì biết tướng thật các pháp, lúc ấy, các thứ vọng tưởng giả dối đều dứt sạch. Ý kinh này nói: Như người đời xa nhìn đồng trống, từ xa nhìn thì trẻ nhỏ thấy đó là hơi nước, tướng hơi nước gượng lập ra chỉ là giả danh, tìm cầu việc ấy đều không thật có, do đó vọng tưởng thành lập, có chỗ luận bàn.

Như hành giả Chân ngôn đối với Du-già, thấy các cảnh giới rất đặc biệt, cho đến hải hội các Đức Phật trang nghiêm vô tận. Bấy giờ nên thực hành quán dương diệm này, biết rõ chỉ là giả danh, xa lìa kiêu mạn, mê đắm, chuyển gần đến đất tâm, thì ngộ các thứ nhân duyên gia trì, thần biến chỉ là pháp giới viêm mà thôi, cho nên nói, tướng Chân ngôn như vậy chỉ là giả danh.

Kinh chép: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Như điều thấy trong mộng, ban ngày trâu kêu thời gian rất dài, cùng các loài khác chịu những thứ khổ vui, biết rồi đều không còn thấy, mộng như thế. Chân ngôn hạnh nên biết cũng.

Thích Luận chép: Như trong mộng đều là việc không thật mà cho là có thật, giác rồi, biết là không mà trở lại tự cười, người ta cũng giống như vậy, các kiết sử trong khi ngủ thật không mà chấp trước, khi đắc đạo giác ngộ mới biết là không, biết rồi cũng lại tự cười.

Lại như do sức ngủ, nên chẳng phải pháp mà thấy là pháp, không phải việc vui mà vui, không phải việc sân mà sân, không phải việc sợ mà sợ, chúng sinh cũng như vậy, do năng lực của giấc ngủ vô minh, không nên sân, giận, lo, sợ mà sinh sân, giận, lo, sợ… Nay biết được việc trong mộng này không thể suy nghĩ bàn luận, như trong mộng, tự thấy tuổi thọ một ngày, hai ngày cho đến vô lượng tuổi, có các cõi nước và các loài chúng sinh, hoặc lên cõi trời hoặc ở địa ngục chịu các sự khổ vui, khi tỉnh dậy chỉ trong thời gian một niệm, ở trong tâm giác pháp năm nhân duyên, tứ cú tìm cầu rõ ràng không thật có, nhưng việc mộng chiếu rõ ghi nhớ không quên, do một niệm trở thành ngàn, muôn năm, do một niệm thành vô lượng cảnh, việc này người trí ở thế gian, không thể suy lường tính toán tận nguồn gốc của nó được, cũng không phải điều để nghi ngờ, chỉ có người nằm mộng tự thân chứng biết mà thôi, nay mộng của hành giả Chân ngôn Du-già này, cũng giống như vậy, hoặc chỉ trong khoảnh khắc thấy đủ Vô Lượng cảnh giới gia trì, hoặc không rời khỏi chỗ ngồi mà trải qua nhiều kiếp, hoặc dạo khắp các cõi nước của các Đức Phật, gần gũi cúng dường lợi ích chúng sinh, việc này đối với các nhân duyên, quán sát đều không có chỗ khởi, không vượt ngoài một niệm tâm thanh tịnh, nhưng cũng phân biệt không lầm, việc này ai có thể suy nghĩ bàn luận để nêu ra hết ngọn nguồn, nhưng thật ra chỉ có người chứng tự biết mà thôi. Hành giả đắc cảnh giới này, phải dùng dụ mộng quán sát, tâm không nghi sợ, cũng không sinh mê đắm, liền dùng mộng khắp hiện sắc thân, tạo nên sự trang nghiêm vô tận. Vì thế nói tu sâu mười câu.

Kinh chép: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Đem dụ hình bóng để hiểu rõ chân ngôn có thể phát sinh Tất-địa, như mặt duyên vào gương mà hiện ra hình của mặt, Chân ngôn Tất-địa kia, phải biết cũng giống như vậy. Trong đây nói hình bóng chính là Thích luận dụ hình ở trong gương. Luận kia nói như bóng trong gương, không phải gương tạo ra, không phải mặt tạo ra, cũng không chấp gương tạo ra, không phải tự nhiên tạo ra, cũng chẳng phải không có nhân duyên mà làm ra.

Vì sao không phải gương làm ra? Vì nếu mặt chưa đến gương thì không có hình.

Vì sao nói không phải mặt làm ra? Vì không có gương thì không có hình.

Vì sao không phải tự nhiên làm ra? Vì nếu chưa có gương chưa có mặt thì không có hình, hình đợi gương đợi mặt, sau đó mới có.

Cũng chẳng phải không nhân mà có, vì nếu không nhân duyên, phải thường có, phải thường không, nếu bỏ gương bỏ mặt lẽ ra tự hiện ra, vì thế nên chẳng phải không có nhân duyên, phải biết các pháp cũng giống như vậy, do ngã không thật có, nên tất cả nhân duyên sinh pháp không tự tại, các pháp thuộc nhân duyên, nên không tự làm ra, nếu tự không thì tha cũng không; không phải tha làm ra, nếu tha làm ra thì mất năng lực tội phước, cũng không phải cùng làm ra, vì có hai lỗi, cũng chẳng phải không nhân, như nghiệp nhân đời trước, duyên làm thiện ác đời nay, theo đó chịu khổ, vui, tất cả các pháp chắc chắn có nhân duyên, vì ngu si nên không biết mà thôi.

Như trẻ nhỏ, thấy bóng trong gương, tâm mê đắm ưa thích, khi mất rồi đập vỡ gương tìm kiếm, người trí lại chê cười; mất vui tìm kiếm cũng giống như vậy, cũng bị bậc Thánh đắc đạo chê cười. Nay trong môn Chân ngôn này, dùng Tam Mật Tịnh thân Như lai làm gương, tự thân hành tam mật làm nhân duyên hình bóng trong gương, có Tất-địa sinh giống như hình bóng của mặt, nếu khi hành giả thành tựu Tất-địa cho đến khởi năm thần thông, tuổi thọ lâu dài, tạn mặt thấy các cõi nước mười phương, dạo chơi các cõi Phật, đều dùng dụ này để quán sát việc ấy.

Từ tự sinh, hay tha sinh ư? Nếu là tha tam mật gia trì có thể trao quả ấy thì chúng sinh khi chưa tu hành, Đức Phật đại bi bình đẳng, vì sao không giúp thành tựu? Nếu nói tự họ đúng như lời dạy tu hành có thể đắc quả ấy, vì sao phải quán sát thân gương sáng ba mật, cầu được che chở ư?

Nếu cùng nhau làm chủ thì có hai lỗi. Vì sao? Vì nếu nói tâm ta là nhân, đợi các duyên kia mới được thành tựu thì trong nhân này trước có quả Tất-địa ư? Hay là trước không có ư? Nếu trước có thì các duyên không chỗ dùng, nếu trước không có thì các duyên dùng vào chỗ nào? Nhưng Tất-địa này thành tựu, cũng chẳng phải không có nhân duyên, vì thế bài kệ Cảnh tượng trong luận Đại Trí Độ chép: Chẳng có cũng chẳng không, cũng lại chẳng có không, lời này cũng không thọ, như vậy gọi Trung đạo, không nên như trẻ con kia vọng sinh mê chấp. Nếu thực hành quán như thế thì hành giả tâm vô sở đắc không sinh nói rộng, cho nên: Biết như thế.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! dùng thí dụ thành Càn-thát-bà, để hiểu rõ thành tựu cung Tất-địa!

Luận chép: Khi mặt trời vừa ló dạng, thấy cửa thành, lầu gác cung điện, người đi ra, vào, mặt trời lên cao, lặn xuống, thành này chỉ có mắt thấy, mà không thật có, có người trước chưa từng thấy, ý cho là thật vui, đi nhanh đến đó, đến gần liền biến mất, mặt trời lên cao thì mất, đói khát rất buồn, thấy hơi nóng (bốc lên) như ngựa đồng, nói đó là nước, lại chạy đến đó, cho đến tìm cầu, rất mệt nhọc mà không thấy được, suy nghĩ tự hiểu, tâm khát nước liền dứt. Hành giả cũng như vậy, nếu dùng trí tuệ vô ngã, vô thật pháp thì ngay lúc ấy điều mong muốn điên đảo liền dứt. Trong kinh Thanh văn, không dụ thành Càn-thát-bà này, lại dùng thành dụ cho thân này, nói các duyên này thật có, chỉ thành là giả danh, để phá cái tôi ta, Bồ-tát lợi căn, vào sâu pháp không, vì thế lấy thành Càn-thát-bà làm ví dụ.

Trong đây nói cung Tất-địa, có thượng, trung, hạ. Thượng nghĩa là bí mật trang nghiêm cõi nước Phật, vượt ngoài ba cõi hàng Nhị thừa không thấy được. Trung nghĩa là mười phương trang nghiêm thanh tịnh. Hạ nghĩa là cung điện chư Thiên, Tu-la… nếu khi hành giả thành tựu ba phẩm Trì, Minh, Tiên, an trú trong cung Tất-địa như thế, phải dùng dụ này quán sát, như nhân duyên ánh sáng mặt trời, không khí biển, chỗ ở trang nghiêm rực rỡ, lầu gác người vật tốt đẹp đáng chiêm ngưỡng, không nên cùng với kẻ ngu phu kia, vọng sinh tham đắm, tìm kiếm sự thật của kia, do nhân duyên này, đối với các thứ thù thắng mầu nhiệm trong năm trần, tâm thanh tịnh không có quái ngại.

Kinh chép: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Dùng tiếng vang để dụ cho hiểu rõ lời Chân ngôn. Như duyên âm thanh có tiếng vang Chân ngôn kia, phải như thế mà hiểu. Thích Luận chép: hoặc trong núi sâu, hang thẳm, khe sâu, hoặc giữa hư không, trong nhà lớn, do lời nói, âm thanh chạm vào nhau, từ âm thanh có âm thanh gọi là tiếng vang, người không có trí cho là có thật, người trí tâm nghĩ là âm thanh không có người làm, chỉ do âm thanh xoay chuyển, nên lần lượt có tiếng vang lừa dối lỗ tai người.

Khi người muốn nói, trong cổ họng cũng có gió, gọi là Ưu-đà-na, trở vào đến rốn. Khi âm thanh phát ra, lại tiếp xúc bảy chỗ là đảnh, đoạn, răng, môi, lưỡi, cổ họng, ngực, rồi lại rút đi, ấy gọi là lời nói, người ngu không hiểu mà sinh ra ba độc. Người trí hiểu rõ tâm không mê đắm, chỉ thuận theo luật tướng các pháp. Hành giả Chân ngôn hoặc đối với Du-già, nghe các âm bát phong trái thuận, hoặc các bậc Thánh dùng vô lượng pháp âm hiện ra dạy bảo, hoặc do lưỡi thanh tịnh có thể dùng một âm thanh đầy khắp thế giới, khi gặp các cảnh giới này cũng nên dùng ví dụ tiếng vang này để quán sát, chỉ từ ba mật mà có các duyên, việc ấy không sinh, không diệt, không hữu, không vô, thế nên trong đó không nên vọng sinh nói rộng, bấy giờ tự nhập pháp môn âm thanh tuệ.

Kinh dạy: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Như do trăng lên soi bóng dưới nước trong, mà hiện ra hình bóng trăng, Chân ngôn này dụ cho nước và trăng, người trì, minh kia, phải nói như vầy. Thích Luận chép: Trăng đi giữa hư không, mà bóng hiện ra trong nước, thật pháp tánh của vầng trăng, ở giữa hư không như như pháp tánh thật tế, nhưng nước tâm của phàm phu có hiện tướng ngã, ngã sở.

Lại như trẻ em thấy trăng trong nước vui mừng muốn vớt lấy, người lớn thấy thì cười, người không có trí cũng giống như vậy, vì đích thân thấy cho nên thấy có tôi, ta, không có thật trí cho nên thấy có các pháp, thấy rồi vui mừng muốn chấp các tưởng bị bậc Thánh đắc đạo chê cười.

Lại nữa, ví như trong nước đứng lặng thấy bóng trăng, quậy nước thì không thấy, vô minh ở trong nước đứng lặng của tâm thì thấy tôi ta, kiêu mạn, các kiết sử, gậy trí tuệ chân thật làm khuấy động nước tâm thì không thấy, vì thế nên nói các Bồ-tát biết pháp như trăng trong nước, hành giả trì minh cũng giống như vậy, nhờ phương tiện Tam mật, tâm tự lắng trong, hải hội bí mật trang nghiêm của các Đức Phật đều từ trong đó hiện ra.

Bấy giờ, phải tưởng quán kỹ, nay tướng nghiêm mật này, từ tâm thanh tịnh của ta mà sinh ra ư? Hay do thân Phật thanh tịnh mà sinh ra? Tướng thật tự, tha còn tự rốt ráo không sinh, huống chi nhân duyên trái nhau mà có chỗ sinh; lại như tất cả sông lớn, sông nhỏ, giếng, ao, các vật dùng lớn, nhỏ, trăng cũng không đến, nước cũng không đi, mà trăng sáng được có một vầng, mà vào khắp trong các mặt nước. Nay ta cũng giống như vậy, tâm chúng sinh cũng không đến, tâm mình cũng lại không đi, mà thấy nghe trông mong lợi ích đều thật không giả, do đó phải dùng gậy tuệ quậy lên, khiến biết như thật, không được như trẻ con kia, muốn tìm mọi cách để lấy, cho là đồ chơi tốt đẹp; đã có thể tự tịnh ý kia, lại phải như như bất động giảng nói cho người nghe, cho nên nói người trì minh phải nói như thế.

Kinh chép: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Như trời mưa sinh bọt nước, Chân ngôn Tất-địa kia biến hóa các thứ phải biết cũng như vậy, kinh Thanh văn đã chấp nhận ví dụ bọt nước, trong Bát-nhã lấy bọt nước làm dụ, tuy thật ra không có tự tánh, nhưng nhân duyên dường như là pháp thật, muốn trong Thập Cú có như biến hóa nên không nói thí dụ bọt nước, ở đây thí dụ của kinh này, ý lại riêng. Như mùa hạ, nước mưa từ trong hai thứ nước, tùy theo giọt lớn nhỏ sinh ra các thứ bọt nước hình loại đều khác, nhưng tánh nước một vị, tự làm nhân duyên trong Tứ Cú tìm kiếm không có một pháp nào sinh riêng, vì thế nên bọt nước này nêu thể từ duyên, bọt sinh tức là nước sinh, bọt diệt tức là nước diệt, do đó dụ này chính là tâm biến hóa. Như hành giả tức cho tự tâm làm Phật, lại được tâm Phật chỉ bày tỏ ngộ phương tiện, chuyển nhập vô lượng pháp môn, lại đem tâm làm Mạn-trà-la, cảnh này cùng tâm làm duyên có thể tạo ra các thứ biến hóa không thể suy nghĩ bàn luận, thế nên hành giả dùng bọt nước để quán sát, biết rõ không lìa tự tâm, do đó không sinh mê đắm.

Thích Luận lại chép: Người tu định có mười bốn thứ biến hóa: Trời, rồng, quỷ thần cũng có thể tạo ra sự biến hóa. Như hóa sinh ra ánh sáng, không có vật chắc chắn, nhưng do tâm sinh liền có tâm diệt sẽ diệt, đó là pháp không có đầu, giữa và sau (sơ, trung, hậu). Sinh thì không từ chỗ nào đến, diệt cũng không có nơi nào đi, phải biết các pháp cũng giống như vậy.

Lại nữa, như tướng biến hóa, thanh tịnh như hư không, không gì đắm nhiễm, không bị tội phước vấy dơ, các pháp cũng như vậy, pháp tánh như như thật tế, tự nhiên thường tịnh, ví như bốn sông lớn ở cõi Diêm-phù-đề mỗi một sông có năm trăm sông nhỏ làm quyến thuộc (sông phụ) các thứ bất tịnh trong nước này chảy vào biển lớn thảy đều thanh tịnh, ý đồng với ví dụ bọt nước.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Như trong hư không chẳng có chúng sinh, không tuổi thọ, người làm kia không thật có, vì tâm mê loạn mà sinh các thứ vọng kiến như thế. Thích Luận chép: Như hư không: nghĩa là chỉ có danh mà không có pháp thật; trong hư không không thể thấy

pháp, nhìn xa nên nhãn quang chuyển thấy như một tấm lựa pha màu trắng xanh. Các pháp cũng giống như vậy không, chẳng thật có, người xa lìa trí tuệ vô lậu chân thật, bỏ mất tướng thật, thấy các tạp vật như kia đây, nam, nữ, phòng nhà, thành quách… Tâm mê đắm như trẻ con ngửa nhìn trời xanh, nói có màu sắc thật, có người bay lên rất xa mà không thấy gì, lại như tánh hư không thường thanh tịnh, người cho rằng âm u bất tịnh, các pháp cũng giống như vậy, tánh ấy thường thanh tịnh, do dâm dục, sân nhuế… che mờ nên người nói không thanh tịnh. Kinh này nói tâm người mê loạn: như người đem các thứ nhân duyên bệnh tật, không phải loài người… làm mê loạn tâm kia, vọng thấy giữa hư không thanh tịnh có các thứ hình tướng người, vật, hoặc đáng sợ hãi, hoặc đáng mê đắm, nếu khi đắc bản tâm thì biết việc này khi sinh không nhiễm hư không, khi diệt cũng không trở lại trong sạch, xưa nay không ngại hư không, cũng không khác hư không. Khi người tu hành tu quán hạnh, nếu có các thứ việc ma và các cảnh nghiệp phiền não, đều phải an tâm, đây ví dụ hư không trong sáng này, tuy trong vô lượng kiếp ở trong địa ngục, nhưng bấy giờ ý không quái ngại, như người đắc thần thông, ở giữa hư không hiện bày tất cả các sắc tự tại bay đi, không bị nhân, pháp vọng tưởng ở đời làm dơ bẩn.

Kinh chép: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Ví như cây nhang cháy, nếu người cầm giữ trong tay để quay vòng trong hư không thì có một vòng tròn: Như người cầm cây nhang cháy, giữa hư không xoay tròn tạo ra các tướng, hoặc vuông, hoặc tròn, hoặc tam giác, hoặc bán nguyệt, lớn nhỏ, dài ngắn, tùy theo ý mà làm; người nhỏ tuổi khờ dại nhìn thấy cho là việc có thật mà sinh ý nghĩ mê đắm, nhưng thật sự đều không sinh pháp, chỉ do năng lực trong tay nhanh chóng, có thể xoay một cây nhang đang cháy thành vô lượng tướng mà thôi. Hành giả Chân ngôn nếu ở trong Du-già, tùy tâm vận chuyển đều được thành tựu, cho đến trong một tự môn A, xoay chuyển Vô ngại thành vô lượng pháp môn.

Bấy giờ, phải thực hành quán này, chỉ cần nương vào năng lực nhanh chóng của tâm Bồ-đề thanh tịnh nhất thể khéo dùng khiến được như vậy, không nên ở trong đó sinh ra các thứ kiến chấp, cho là thù thắng vi diệu mà sinh nói rộng. Thích luận không có ví dụ vòng lửa, nhưng có ví dụ hình bóng, rằng:

Như cái bóng có thể thấy mà không thể nắm bắt, các pháp cũng giống như vậy… sự thấy, nghe, hiểu biết như nhãn căn… thật không thể đắc, lại như cái bóng chiếu sáng thì hiện ra, không chiếu thì không có, các kiết sử phiền não ngăn ánh sáng chánh kiến thì có ngã tướng pháp tướng. Lại như cái bóng, người đi thì đi, người lay động thì lay động, người đứng thì đứng, bóng nghiệp thiện ác cũng giống như vậy, lại ở đời sau khi đi cũng đi, ở đời này khi dừng thì cũng dừng, quả báo không dứt, khi tội phước chín muồi thì phát ra, nhưng hình bóng này chẳng có vật thể, chỉ là nhãn pháp của người nào đó, như xoay tàn lửa thật nhanh thì thành vòng lửa, cũng chẳng thật có, dụ và ý, đại khái giống nhau.

Này Bí Mật Chủ! Phải hiểu rõ Đại thừa cú, Tâm Cú, Vô Đẳng đẳng cú, Tất định câu, chánh đẳng giác cú như thế, dần dần đến Đại thừa sinh cú. Tiếng Phạm nói Cú là Bát-đàm, nghĩa như trước đã giải thích. Mười ví dụ này đều là duyên khởi sâu xa của người Đại thừa, hàng Thanh văn, Duyên giác không đặt chân đến được, vì thế nói là Đại thừa Cú. Thật tánh của tâm còn không có một pháp để chỉ bày, cũng không thể trao cho người, chỉ có khi quán sát sâu sắc như vậy, mây cái ấm bay đi, tự sẽ chứng tri mà thôi, do đó gọi là tâm cú. Trí tuệ của Như lai đối với tất cả pháp không thể ví dụ so sánh, cũng không có loài nào vượt hơn, cho nên gọi là vô đẳng.

Lại tướng thật của tâm, cùng tương xứng như nắp và hộp, ở giữa không khác hai bên, cho nên gọi là Vô đẳng đẳng. Nếu đem mười duyên sinh để hiểu rõ tâm xứ thì ăn trụ trong đó, vì thế gọi là câu Vô đẳng đẳng, các Đức Phật dùng nghĩa mười duyên sinh, chắc chắn Như lai giảng nói ấn tướng thật trong tánh tâm Như lai. Nếu có người tin hiểu được thì giả sử tất cả các ma trong các thế giới ở mười phương, đều hóa thân thành Phật nói Bát-nhã giống nhau cũng không thể thay đổi tâm kia, khiến pháp tướng không như vậy, vì thế nói là Tất định câu. Do trung đạo chánh quán này, xa lìa hữu vi vô vi giới, Cực Vô Tự Tánh Tâm sinh, tức là tâm Phật hiện ra rõ ràng, do đó gọi là câu Chánh Đẳng Giác, do tu quán sát sâu sắc, như vào biển lớn dần dần chuyển sâu, cho đến Tỳ-lô-giá-na, dùng trí tối cao quán sát mới có thể cùng tận nguồn gốc của kia, cho nên nói dần dần đến câu Đại thừa sinh phải biết các “Cú” như vậy lần lượt bỏ nhau, lần lượt sinh nhau.

Tỳ-lô-giá-na liền dùng pháp giới mười câu duyên sanh bất khả tư nghì này, làm cho trang nghiêm vô tận, từ pháp giới môn nhiều như số cát bụi trong mười thế giới, thường sinh ra các báu như căn, lực, giác, đạo, thiền định, giải thoát, thí khắp cho chúng sinh lâu xa còn không biết, cho nên nói đầy đủ pháp tài, tất cả trí nghiệp của Như lai nhờ đây mà đầy đủ, do đó nói sinh ra các thứ Đại trí tuệ khéo léo. Nếu ở trong một niệm tâm, hiểu rõ nghĩa mười Duyên sinh thì trên cùng tột vô tận pháp giới, dưới đến vô tận cõi chúng sinh, tất cả tâm tướng trong đó, đều có thể hiểu biết rõ ràng, vì đều từ duyên khởi, tức không, tức giả, tức trung, vì thế nói biết khắp tất cả tâm tướng như thật. A-xà-lê nói: Khi hành giả bắt đầu tu quán hạnh thì cảnh giới hiện ra, do năng lực nhân trong duyên ngoài, tự nhiên có Duyên khởi trí sinh, không giống như bình thường tu tập thiền định công lực rất khổ mà sau mới thông suốt.

Trong bản Phạm nói: Từ đây về sau, kế là nói Chân ngôn, trì tụng thứ lớp, như pháp Tất-địa, như pháp quả sinh, đây là do người truyền pháp ghi chép, cho nên không nêu ra đầy đủ đại ý ấy ở trong kinh. Đã nói tâm Bồ-đề thanh tịnh và các tướng của tâm đã xong, từ đây về sau, nói phương tiện tâm tu và Tất-địa quả sinh.