ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA THÀNH PHẬT KINH SỚ

A-xà-lê Nhất Hạnh ghi chép

 

 

Phẩm 11: BÍ MẬT MẠN-ĐỒ-LA

Bấy giờ, Tỳ-lô-giá-na Thế Tôn lại nhập vào Nhất Thiết Pháp Giới Như Lai Nhãn Giới Quán, Pháp Giới Tạng Phấn Tấn Như Lai Bình Đẳng Nghiêm Tạng Tam-ma-địa Chứng. Pháp giới vô tận trang nghiêm hiện nên dùng hạnh môn chân ngôn ấy để độ không sót chúng sinh trong các thế giới thì Bổn nguyện mới đầy đủ. Từ trên đã nói phẩm Tự Luân xong.

Kế là nói phẩm Bí mật Mạn-đồ-la. Do bí mật nên hễ có nói gì đều là Như Lai gia trì thần lực, chẳng thể biểu thị, nên gọi là Thần Lực Gia Trì Tự Luân phẩm (tất cả phẩm khác đều giải thích như thế).

Đã nói Tự Luân phẩm xong, kế là muốn thành tựu Tự luân này nên lại nhập vào Tam-muội. Trong đây kinh nói là nói xuất định. Tất cả pháp giới tức là pháp giới vô tướng. Đã là pháp giới vô tướng thì dùng Phật nhãn mà quán pháp giới như thế. Lại giải thích theo Bí mật, như Tự luân trên tức là pháp giới của chư Phật, dùng Phật nhãn mà quán pháp giới này. Phải biết Phật nhãn quán này tức là năng lực gia trì của Như Lai. Nếu lìa gia trì thì chẳng thể nói. Pháp giới tạng, tạng này tiếng Phạm là Câu-xá, là nghĩa cái túi dao (vỏ kiếm) cũng như dao của thế gian ở trong túi. Tạng này cũng như thế, nên dùng nghĩa đó. Trong đây nói pháp giới tạng tức là từ chỗ Như Lai ra, nghĩa là tất cả Như Lai ở trong đó. Phấn tấn là nghĩa tuôn ra, tuôn ra tràn trề. Như sư tử đầu đàn ở trong hang sâu bất động, có lúc ra ngoài mà dạo chơi khuấy động. Tức là thân ấy vốn bất động nay khiến lìa chỗ thường mà động. Phật cũng như thế, ở yên như thế trong Thâm Mật Tạng. Nếu không phải thần lực gia trì của Như Lai thì vi diệu lặng dứt không thể hiện ra. Nay thị hiện ra vô tận thân, miệng, ý đủ các hình tiếng đầy khắp pháp giới tức là chư Phật phấn tấn. Thị hiện Như Lai Bình Đẳng Nghiêm Tạng, đây là Thai Tạng, cũng vào pháp môn này mười phương ba đời tất cả thân, miệng, ý Như Lai thảy đều bình đẳng, bình đẳng, Phật Phật đạo đồng nên gọi là Đẳng. Nghiêm nghĩa là trang nghiêm thân ấy, tức là dùng vô lượng môn Phật đạo mà trang nghiêm pháp thân, để độ chúng sinh. Tức dùng pháp giới bình đẳng mà trang nghiêm pháp thân, nên gọi là nghiêm. Cũng như trong chỗ quân binh ở thế gian có cây cờ lớn gọi là nghiêm. Tammuội này cũng như thế. Do Tam-muội này mà biểu bày được sự bí mật của Như Lai nên lấy đó làm tên. Tạng ở đây, tiếng Phạm là Yết-ha, tức là chảy ra vô tận trang nghiêm, phấn tấn hiện bày chẳng thể cùng tận. Cũng như kho báu lớn. Tạng pháp giới bình đẳng này tức là nghĩa tạng Như Lai, vì pháp giới trang nghiêm chẳng thể cùng tận. Cũng như Tự luân xoay mãi chẳng thể cùng tận nên gọi là Vô tận tạng. Vì sao Như Lai đối với Tam-muội này, đều cho là nhân duyên? Cái gọi là sự mở bày chỗ bí yếu sâu xa của Như Lai. Cho nên khế kinh nói: Dùng môn chân ngôn ấn mà độ không sót chúng sinh trong thế giới, đầy đủ bản nguyện. Khi xưa Phật hành đạo Bồ-tát có lập đại thệ nguyên đều khiến tất cả chúng sinh đồng vào Tạng Như Lai pháp giới. Nay thệ nguyện đã trọn vẹn, do đại bi nên hăng hái thị hiện độ chúng sinh, như pháp giới nghiêm tạng chẳng thể cùng tận, Chúng sinh trong thế giới chẳng thể cùng tận cũng như thế. Nay muốn đem khắp hạnh môn chân ngôn bình đẳng lợi ích đều khiến mở bày tri kiến thanh tịnh rốt ráo không sót, tức là sở nguyện được đầy đủ nên gọi là mãn Bổn nguyện.

Lại nữa, thực hành pháp chưa được thành tựu, cũng vì chưa thành tựu nên tu hạnh chân ngôn chẳng được mau thành đạo Vô thượng. Nay lại quyết trạch đều khiến được hiển hiện là nhập vào định này. Kế là ở trong định, nghĩa là Phật trụ ở Tam-muội mà hiện việc ít có để lợi ích khắp chúng sinh. Đây ở trong định làm sao hiện ít có, nghĩa là không sót chúng sinh trong thế giới, Thanh môn… như ý nghiệp sinh thành tựu, chịu các quả báo về âm hình sắc, tùy tâm nghĩ nói các pháp, khiến tất cả chúng sinh vui mừng. Tất cả lỗ chân lông ở pháp giới tạng thân đều xuất ra. Âm thanh Phạm này cũng là gầm thét. Cũng như rồng xuất hiện tiếng sấm. Tiếng sấm gầm thét tất cả đều nghe không đâu chẳng khắp. Như Lai gầm thét cũng thế, khắp giới vô dư hữu tình. Giới này vô lượng tiếng cũng nghe khắp, chẳng phải như rồng ở đời có hạn lượng, chúng sinh thượng trung hạ phẩm tùy theo nghiệp mà chịu quả báo, cho nên nói chúng sinh thành tựu. Cũng như người đời nhai mà chưa nuốt, thì cũng chưa gọi là nhận. Nếu nhận lãnh ăn rồi, mới gọi là nhận ăn. Nay dị thục chịu quả báo cũng như thế, tiếng gọi nhân trước mà thọ báo ấy hình sắc khác nhau, tiếng nói muôn thứ khác nhau, ý lạc tin hiểu cũng đều khác. Phật dùng một thứ tiếng bình đẳng, ứng khắp các tâm chí, tùy tiếng nói mà mở bày cho họ các phương tiện suy nghĩ, hiểu biết mà dạy dỗ khiến vui mừng, tức là điềm lành chưa từng có trong Tam-muội. Trong đây nói các thứ, như nghĩa tiếng trong luận, phải nhờ các âm hòa hợp cùng nói lên một nghĩa. Nếu nghĩa chưa tròn thì phải thêm một chữ cho tròn. Nếu bốn âm cùng nói lên một nghĩa, nay dùng ba âm nghĩa ấy cũng khắp, thì trừ đi một chữ. Như thế mà tùy lời thêm bớt. Nay ở đây cũng như thế, chỉ dùng một tự môn A mà đủ tất cả nghĩa, đối với việc đều trọn vẹn nên gọi là nói, chẳng đồng với nói của nói pháp. Tiếng Phạm có khác, lại hỏi: pháp giới tăng thân xuất ra, là bình đẳng pháp giới rốt ráo vắng lặng không có tướng ra vào. Vì thần lực gia trì của Như Lai mà sinh ra sắc thân vô tận, nghĩa là từ trong mỗi lỗ chân lông của Phật mà hiện tiếng gầm thét như trước. Lại sinh ra các hình sắc gọi là pháp giới tạng thân. Tướng ấy duyên mà khởi tánh vô sinh. Như thật tướng ấy tức đồng thể pháp giới, làm sao có tăng thêm sinh diệt ư? Tuy pháp duyên khởi thể thường như thường, nhưng vì năng lực gia trì của Như Lai nên từ mỗi lỗ chân lông đều hiện tiếng gầm thét, hoặc dùng lời mềm mại, hoặc thô bỉ, hoặc sâu xa, hay cạn cợt đối với tâm cơ ấy. Như sóng biển lớn không quá hạn thường, thân ấy cũng thế, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc giận dữ hoặc thực hành sáu độ, hoặc làm oai phục muôn thứ khác nhau mà độ hữu tình không hề lầm lẫn. Trước nêu Tự luân nay từ pháp giới luân mà hiện hình tiếng, xuất ra từ hư không đều cùng trong thế giới, một âm thanh pháp giới nói lên Như Lai sinh kệ thuyết, là như hư không chẳng có bến bờ. Tiếng này cũng thế, đồng với hư không. Biểu là biểu thị, tức là ngữ nghiệp biểu thị của Như Lai, nghĩa là biển hiện tất cả chúng sinh đều khiến xứng ngộ pháp giới bình đẳng, dùng diệu âm mà biểu thị pháp giới, nói pháp giới tức là tâm.

Một âm tức là tuôn chữ A luân chuyển vô cùng bằng hư không đầy khắp pháp giới. Chư Phật ba đời đều từ diệu kệ như thế mà sinh ra. Nay Phật từ môn nhất âm này mà nói diệu kệ, không để sót pháp giới, bình đẳng nghe biết tùy loài được hiểu, cho nên lấy làm tên. Như trên đã nói Tự luân, muốn biểu hiện công đức Như Lai cho nên Phật ở mỗi mỗi lỗ chân lông phát ra diệu âm thanh khắp cõi này, nói nghĩa sâu xa của nghĩa Tự luân ấy, nên gọi là kệ sinh ra chư Phật. Nếu có chúng sinh hiểu biết nghĩa tự luân như thế liền thành Bồ-đề, nên nói tất cả chư Phật từ đó sinh ra. Nhưng pháp thân chư Phật lìa sinh diệt. Nếu Như Lai có sinh tức là có chấp tướng, hễ có chấp tướng thì sinh tử còn chẳng thể lìa huống chi thành Đại Bồ-đề. Nay nói sinh là chân thật lìa tướng sinh, vì pháp thân thanh tịnh lìa tất cả tướng. Nhưng vì Phật dùng năng lực gia trì nên dùng Tự luân này để mở bày đức nội chứng bí mật của Như Lai. Phật gia trì thần lực tự tại, do đây mà có tướng phương tiện sinh ra tướng cúng dường. Cũng như khi nó chưa hiểu biết, như tự luân này mà dùng làm phương tiện. Dần dần sẽ hiểu rõ quán sát tự môn A. Vì tự môn A này tức là pháp thân rốt ráo tự tại. Kệ rằng: Sinh tùy loại hình pháp, các pháp tướng nghĩa là vào tự môn A này, tức là pháp thân bình đẳng. Do pháp thân vô tướng này, tức là tùy theo duyên cảm ứng hiện khắp sắc thân, tùy các thứ hình loại ấy, dùng thân ưa thấy mà chỉ bày cho trí tuệ Như Lai.

Kệ rằng: Chư Phật Thanh văn và các Duyên giác, cứu thế Bồ-tát tiến mạnh như Phật. Cũng như thế, là do thân tướng Vô thượng này, tất cả chư Phật đều từ đó sinh. Không phải chỉ chư Phật từ đây sinh, mà tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát các thứ hạnh vị cho đến vị Nhất sinh bổ xứ đều do lý chữ A này mà sinh. Không phải chỉ sinh ra tất cả Thánh hiền, cho đến tất cả hữu tình thế gian và khí thế gian, các thứ khác nhau thứ lớp thêm lớn cũng đều từ nghĩa chữ A này sinh ra. Cho nên sinh ở đây lược có ba thứ: Thượng phẩm sinh, nghĩa là sinh ra quả thể thường trụ pháp thân chân tịnh của Như Lai, kế là sinh chư Phật, Bồ-tát, Nhị thừa, tùy ở địa vị nào mà dứt chướng ấy. Hạ phẩm sinh tức là hữu tình và khí thế gian, cũng đều do pháp môn này mà được sinh trụ… các pháp sinh thường. Nhưng chỗ nói trong đây khác với chấp Đoạn thường của ngoại đạo. Các pháp tuy từ nhân sinh, mà Nhân sinh thì vô tướng, tuy từ duyên sinh mà duyên này vô tướng tuy từ duyên khởi mà pháp vốn bất sinh, tuy từ duyên sinh diệt mà không có tướng sinh trụ thế nên là thường. Không phải đồng với chấp (kiến) của ngoại đạo cho nên nói sinh diệt thường.

Kệ rằng: Có trí phương tiện lìa cả nghi bất tuệ. Là thấu suốt luận chữ A, các pháp đều rốt ráo không thật có, thể vắng lặng vô tướng, từ xưa chẳng sinh ấy là tuệ. Chân ngôn thân ấn Du-già… khiến cho thực hành lợi ích lớn mà vào Phật tuệ là phương tiện. Nếu y theo phương tiện mà không tuệ, chỉ có tuệ mà không phương tiện, thì chẳng thể nào thành dụng tự nhiên không thể nghĩ bàn, phải nhờ phương tiện và trí tuệ đầy đủ. Phương tiện được vào Bí tạng tự luân. Lìa nghi chẳng tuệ, nếu lìa hai pháp ấy thì phải biết người ấy là người chẳng có trí tuệ. Vì chẳng có tuệ nên ở mọi chỗ sinh nghi chẳng thể tiến lên. Lại người ngu nếu trí tuệ phương tiện gồm đủ thì tự nhiên lìa vô tuệ chẳng sinh tà nghi.

Kệ rằng: Quán đạo này chư Phật đã nói, là không phải chỉ ta nói như thế. Vì tất cả Đẳng Chánh Giác đều nói như thế không khác nhau. Do Phật mười phương ba đời đồng được đạo này không khác nhau, một tướng một vị không nói khác. Bấy giờ, pháp giới sinh thân Như Lai. Tất cả pháp giới tự thân biểu bị hóa vân trùm khắp tâm tự tại Tỳ-lô-giá-na. Trong các lỗ chân lông Phật và chúng sinh xoay vần. Trong đây, thân pháp giới tức là pháp thân Tỳ-lô-giá-na, vì từ pháp giới chân thật sinh ra nên gọi là pháp giới sinh. Tất cả pháp giới tự thân biểu, biểu là khiến cho tất cả đều thấy. Nghĩa là ở trong tất cả mây pháp giới tự thân biểu hóa đều trùm khắp. Nghĩa là thân Như Lai hiện khắp sắc thân. Như mây lớn kia trùm khắp pháp giới. Mây là nghĩa trùm khắp, nói hóa thân này như mây trùm khắp pháp giới, trùm khắp các thế giới mười phương chẳng thể hạn lượng. Tâm tự tại trong đây là dịch nghĩa. Nghĩa đúng là Tâm Tài, nghĩa là khi vừa khởi niệm thì chẳng dùng công lực, tức cứ như thế mà rộng lớn cùng khắp, đây là ở tâm mà được tự tại. Trong các lỗ chân lông Phật sinh xoay vần mà gia trì, là cũng như Như Lai vừa vào Tam-muội, tức thì hiện nhanh sự hy hữu như thế, tức là thần lực gia trì của Như Lai. Xoay vần là thiệp nhập lẫn nhau. Từ lỗ chân lông thân Phật, tuôn ra bổn thân Như Lai xoay vần nhập vào. Tất cả các thân đều hiện thần lực như trên, hóa rồi lại hóa không cùng tận. Các nghĩa này lại phải nói rõ, gia trì nghĩa là dùng thần lực tự tại của Phật mà gia trì, đây tức là như trên nói về sự gia trì của pháp giới tánh tự luân. Từ trong các lỗ chân lông của thân Phật mà phát ra các thứ mây, tùy thượng trung hạ phần, nghĩa là đầu là nội thai, từ tim trở lên là viện thứ nhất, từ rún trở lên là viện thứ hai, từ rún trở xuống là viện thứ ba, tức là phối với bốn vị của viên đàn ở trước, tùy theo trái phải, trước sau, thượng trung hạ phần mà hiển bày hiện thân Bổn Tôn, đều y theo bổn vị mà ra. Ở trong thế giới mà làm Phật sự. Từ mỗi thân xoay vần mà ra làm các Phật sự nên nói là xoay vần.

Lúc đó, Chấp Kim Cang cũng biết ý Phật, nay Phật Thế Tôn hiện các việc hy hữu, chưa từng có đều là nhân duyên, lại phải nói pháp sâu kín. Nghĩa là như chỗ nói trên có sự chưa hiểu sẽ nói. Thật tâm kính mong mà trụ. Cho nên Phật lại nói: Bí Mật Chủ có làm Mạn-đồ-la, tạo tôn vị phần, cùng hạt giống làm tiêu ký. Lắng nghe, lành thay! Hãy rất chú ý nghĩ nhớ, ta sẽ nói cho nghe. Lúc đó, Phật vì Chấp Kim Cang mà hiện các phần vị như trên. Lúc đó, các Tôn vị đã làm các thứ Phật sự. Lại từ bổn vị mà nhập vào thân Tỳ-lô-giá-na Như Lai. Cũng như khi ra vị thứ không khác.

Kinh ấy nói: Lại vào cung pháp giới. Tôn phần vị hạt giống, các tôn vị như trên đều là đức nội chứng của Như Lai, đều từ mỗi vị mà biểu thị chỗ Như Lai hiện bày cõi pháp giới sâu xa. Nay nếu có A-xà-lê muốn làm hoại, là trước trụ ở Du-già này như từ thân Phật kia mỗi vị thứ, như hình sắc ấy quán rồi. Ở trên tâm ấy làm vầng ánh sáng tròn, ở trong vầng tròn sáng mà quán hạt giống ấy. Như thế mỗi thứ an bày mới đúng pháp làm. Nếu không như thế thì chẳng thể nào gia trì kiến lập các đệ tử, cũng chẳng được gọi tên là A-xà-lê. Như trên đã nói hạt giống phiền não cắt đứt rồi. Kế sinh hạt giống pháp giới tánh, tức là tất cả hạt giống hữu tình bình đẳng. Tánh hạt giống của pháp giới bình đẳng này tức là chỗ sinh trưởng tất cả Trí Địa Như Lai. Như các thứ cây cỏ ở thế gian tùy tánh phần đều khác nhau, đều y vào đất đai mà được lớn lên, thân rễ nhánh lá đều khác nhau, thêm nhiều lớn nhỏ tánh đều khác, nhưng cũng đều là tánh đất đai và đất năng sinh tuy rốt ráo đều trở về đất, nhưng chỉ do nhân duyên hòa hợp mà có lớn lên, nhưng thật ra không có tự tánh không sinh không khởi. Nếu chúng sinh đã được an lập như hạt giống ấy tức là đồng vị với Như Lai. Do hạt giống này từ tánh pháp giới sinh ra mà năng sinh ra pháp giới nên gọi là pháp giới sinh hạt giống. Pháp giới sinh tức là tự tánh thân của Như Lai. Cờ nêu là như hạt giống ở thế gian đều khác nhau. Như cây cỏ non, người có trí nhìn thấy tuy chưa lớn nhưng đã biết tánh nó sẽ lớn hay nhỏ. Nếu thấy hạnh chúng sinh như thế thì nhân vị hạt giống cũng đều như thế. Nhưng nay hạt giống chính là hạt giống pháp giới tánh, phải biết tánh nó chắc chắn năng sinh ra thân Như Lai bình đẳng pháp trí, cho nên gọi là cờ nêu. Lại Mạn-đồ-la này mỗi phần vị đều có hạt giống, dùng cờ nêu muốn pháp giới khác nhau ấy phải biết mỗi thứ nhập vào chữ A mà thấy nêu nội chứng tức là biết đức nội chứng của Như Lai nên gọi là Tiêu Ký, tùy bốn lớp phân vị đó, từ vị mà ra, tức là cờ nêu của Phật, hoặc từ phần vị Bồ-tát mà ra, hoặc từ phần vị Nhị thừa mà ra, hoặc từ phần vị trời rồng tám bộ mà ra, phải biết thềm bậc, mỗi thềm bậc khác nhau đều biết rõ. Hạt giống của chữ chẳng giống như vậy.

Khi Phật bảo Bí Mật Chủ xong thì Kim Cang Thủ bạch Phật rằng:

con xin được nghe, muốn vì lợi ích khắp tất cả chúng sinh và truyền bá khắp nơi, khắp vì tất cả chúng sinh đời vị lai, cũng vì lợi ích cho chúng trong đại hội nên thỉnh Phật giảng nói. Từ trước tuy nói pháp Mạn-đồla, còn chưa nói Bí Yếu tạng của sắc và hạt giống, cho nên một lòng muốn nghe mong Phật giảng nói. Kế Phật bảo ý, hễ khi A-xà-lê muốn kiến lập Đai Bi Thai Tạng, kiến lập đệ tử thì trước phải trụ Du-già mà quán tự thân. Từ rún trở xuống phải thực hành Kim Cang luân, sắc vàng mà cứng chắc. Kế từ rún lên đến tim phải thực hành Thủy luân màu trắng. Kế từ tim đến cổ họng phải thực hành luân màu đỏ. Kế từ cổ họng đến đỉnh đầu phải thực hành gió luân màu đen.

Lại kế là Địa luân chánh hình vuông, thủy luân hình tròn, hỏa luân hình tam giác, gió luân hình bán nguyệt. Cao nhất trên hư không làm một chấm. Các thứ màu sắc, vẽ trên đầu một chữ Thập:

(VẼ HÌNH)

Chính là tương xứng với thân phần. Năm vị này tức là năm chữ nói ở trước. Trong hình vuông đặt chữ A, trong hình tròn để chữ Phược, trong hình Tam giác để chữ La, trong hình bán nguyệt để chữ Hồng (Hàm), trong chấm để chữ Khuyết, phải xem xét trước trong quyển. Thầy đã tự xem thân ấy thứ lớp như thế, phương sắc gia trì tự thân đều quán đặt hạt giống, hạt giống tự xong rồi kế quán Đàn địa, tức lật ngược lại. Ở trên thực hành Kim Cang luân. Dưới Kim Cang luân thực hành Thủy luân, dưới Thủy luân thực hành Hỏa luân, dưới Hỏa luân thực hành Gió luân, dưới Gió luân tức là Hư không luân. Vì sao? Vì tất cả thế giới đều nương vào năm luân. Khi thế giới thành thì trước từ hư không mà khởi gió, trên gió khởi lửa, trên lửa khởi nước, trên nước khởi đất tức là thứ lớp an vị Mạn-đồ-la. Khi hoại thì Địa luận hoại trước cho đến chỉ còn hư không. Tức là thầy tư gia trì thứ lớp. Nay người tu đạo cũng cùng loại tướng này. Đầu tiên phát tín tâm, kế là tâm Bồ-đề, kế nữa cho đến Đại không, A-xà-lê ấy đã gia trì như thế rồi phải an trí các tôn vị theo như thứ lớp. Mỗi vị dùng Du-già mà quán, đúng như phương sắc hình tướng, trên tâm thì đặt vầng ánh sáng tròn, trong vầng ánh sáng tròn có chữ hạt giống, mỗi chữ khiến cho sáng tỏ không chướng ngại.

Làm được như thế tức là pháp giới Thai Tạng Mạn-đồ-la phần vị, là khiến tất cả Như Lai cùng gia trì, tất cả Tôn vị đều nhóm họp, cùng gia trì người tu kiến lập đệ tử, rốt ráo không lui sụt Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không thế thì uổng phí công sức mà vô ích. Lại tòa Du-già này Huỳnh Kim Phương luân tức là tòa Kim Cang, vuông là dứt tai ương, tròn là tăng ích, Tam giác là hàng phục, bán nguyệt là nhiếp triệu, chấm là thành xong tất cả việc. Hư không luận này chỉ dùng tâm niệm mà làm, chẳng dùng hình tướng. Khi thế giới hoại thì trước cũng từ gió luân mà hoại, đất mà sinh lửa, lửa rốt kế gió. Lại hỏi: Như thế mà thực hành năm luân, phải biết trên dưới đều có hư không luân. Vì từ không luân mà sinh gió, lửa, đất, nước. Lại từ Địa luân dần lên cho đến hư không, cho nên trên dưới đều có hư không. Khi làm Mạn-đồ-la thì thầy phải tự quán thân và đất. Lại quán đệ tử đã độ, cũng phải như thế mà an lập y theo sư pháp. Nếu chẳng như thế thì chẳng gọi là đúng Như pháp.

Khi ấy, Kim Cang Thủ Tỳ-lô-giá-na Như Lai Thân Ngữ Ý Địa Thăng Pháp Giới Bình Đẳng quán giả cũng Bồ-tát này có thể biết. Thân, miệng, ý Như Lai bí mật nên gọi là Bí Mật Chủ. Pháp mật ý của Như Lai chỉ có Phật và Phật mới biết rõ. Như ý, là phải biết thân, miệng ấy cũng như thế. Nay Bồ-tát này cũng hay biết, phải biết là vị đồng Đại giác (Phật), vì muốn độ chúng sinh mà thị hiện làm Bồ-tát để khởi phát cho nhau. Thân mật trong đây tức là các ấn. Như bốn lớp Đại Mạn-đồ-la mỗi vị Bổn tôn đều có Mật ấn. Nếu quán ấn thân này tức là biết Tôn vị ấy chỗ biểu hiện đức bí mật, tùy loại thượng trung hạ khác nhau mà có vô lượng thứ. Ngữ mật tức là Chân ngôn của các tôn vị ấy. Ý mật tức là quán Du-già của Bổn Tôn. Cũng tùy bốn lớp phương vị đều khác nhau, tương ưng với đây liền vào Tạng Ý Bí Mật của Như Lai. Thân ngữ ý mật trong đây trên từ vị Phật, Bồ-tát và Nhị thừa các vị trời tám bộ vô lượng khác nhau, nói rộng ra, cho đến thế giới trần số đều khác nhau. Lược mà nói như trong kinh này biểu thị giai vị, nghĩa là đều nói lên đức thân, miệng, ý bí mật của Như Lai. Nếu biết rõ được như thật tức là đồng với Bí Mật Chủ. Nay Bồ-tát Bí Mật Chủ trụ trong pháp giới bình đẳng quán vì nghĩ nhớ chúng sinh vị lai nên khiến khắp tất cả xe rách lưới đại nghi, cho nên liền ở trước Phật mà nói Đại chân ngôn vương như văn rất dễ hiểu.

Chân ngôn là: Nam-mô Tam-mạn-đa Phật-đà nẫm (quy mạng khắp chư Phật) A-ta-ma-bổ-đa (vô tận) Đạt-ma-đà-đô (pháp giới) Yếtđế-yết-đa (vượt vô tận pháp giới). Tát-phược-tha (lợi ích tất cả).

Ám-khiếm-ám-ác: Bốn chữ này tức là bốn luân. Chữ thứ nhất là địa, thuộc Kim cang luân, chữ thứ hai là Thủy luân, chữ thứ ba là Hỏa luân, chữ thứ tư là Gió luân. Chữ Ám này bổn thể là Kim cang giới thể, gồm có thanh dài là hành, hành tức là Hỏa luân. Trên có dấu chấm tức là Không luân, vì là Trang nghiêm. Kế chữ Khiếm thủy luân, khư nghĩa là không cũng có thanh dài là hạnh, có dấu chấm là không tức là đại không. Kế chữ Ám là hỏa, tiếng Phạm là A-yết-nẩm, nghĩa là hỏa. Ác là tánh Niết-bàn, đen tức là gió. Lại kế là hư không vô sắc mà thâu nhận tất cả sắc tượng. Nay chữ Khư này có hạnh, có chấm tức là tất cả sắc tượng, đại không cũng như hư không có đủ tất cả sắc tượng. Không này thành xong tất cả việc. Cho nên chữ Khiêm được làm Thủy dụng. Tham sách (địa) Hàm (Hồng) Hạc (gió) Lam cách (hỏa) phược (thủy). Như trên chữ A có bốn chữ. Nghĩa là thanh dài trên có dấu chấm và hai dấu chấm ở bên (chấm ở hai bên). Thanh ngắn cũng có dấu chấm trên và hai dấu chấm ở bên. Hai chữ là bốn.

Nay chữ ta này phải biết cũng như thế, đều có bốn chữ, nay chỉ nêu thanh ngắn hợp thành thanh dài hai chữ, ở trước thanh ngắn y theo trên mà nói. Thảm Sách Hàm Hạc. Lại chung mà nói thì chữ A là Phật bộ, chữ A là Liên Hoa bộ, chữ Phược là Kim Cang bộ, gió hỏa trùm khắp dụng ba bộ. Như trong bộ Liên Hoa tự có địa, thủy, hỏa, gió. Nếu dứt tai ương tức cần Kim Cang Phương luân, nếu tăng ích thì cần Thủy luân, hàng phục thì cần Thủy (Gió) luân… Tùy loại mà dùng. Phải biết năm môn A, Ta, Ha, La, Phược thì đồng với năm Tự luân. Bất cứ trong một luân nào đều có bốn luân. Như Kim Cang bộ chữ Phược tự có bốn luân, hễ thực hành tức tai, tăng ích, hàng phục, đều tùy loại mà dùng. Nếu đọc các chân ngôn khác thì bộ loại ấy có các chữ này tức là biết chỗ ứng dụng của nó, đều có chỗ ứng cao nhất là tông hạt. Một đoạn này chưa rõ nên lại hỏi.

Lại có ba đạo Chân ngôn là thân chân ngôn, ngữ chân ngôn và ý chân ngôn, ba đạo chân ngôn này tức nhiếp thân, ngữ, ý bình đẳng pháp môn của Như Lai. Nhưng ba chân ngôn này nếu dính chữ Ta Ha cũng được, nếu chẳng dính cũng được. Người tu khi đắc ý tự xem phương tiện. Lại chân ngôn này do cao hơn hết nên gọi là Vương như ở trên nói. Tuy đều có bốn chữ, nhưng bao gồm trong đây chỉ gọi là Chân ngôn vương mười hai chữ, bốn thứ luân trong đây đều tùy theo Địa, Thủy, Hỏa, Gió luân ấy mà gia trì thân A-xà-thế, liền được dụng tự tại, thân, miệng, ý ấy chân ngôn cũng hợp, gia trì thân, miệng, ý nghiệp của mình, việc này chưa rõ ràng.

Khi Kim Cang Thủ nói Đại Chân Ngôn Vương ấy rồi, thì tất cả Như Lai trụ vào các thế giới ở mười phương, duỗi tay phải xoa đầu Chấp Kim Cang Bồ-tát mà khen rằng:

– Lành thay! Lành thay! Này này người Thiện nam! Phật tử các ông đã vượt qua Tỳ-lô-giá-na thân ngữ ý địa khắp trụ vào tất cả Chân ngôn đạo bình đẳng, vì muốn làm các Bồ-tát Minh nên nói Chân ngôn vương này. Nay trong đây xoa đầu chẳng phải là Phật mười phương đưa tay đến cõi này xoa đầu. Nhưng Bí Mật Chủ khi ở trước Phật mà nói Chân ngôn vương này. Tức dùng Chân ngôn vương này ở khắp mười phương tất cả thế giới mỗi mỗi đều ở trước Như Lai mà dùng tiếng bình đẳng cùng khắp một lúc nói ra. Cho nên tất cả Như Lai đều đưa tay xoa đầu. Vượt là nghĩa vượt lên nhập vào. Như Tỳ-lô-giá-na ở cõi trời A-canị-tra ngồi ở đạo tràng mà nói Chân ngôn vương này, được thân, miệng, ý rốt ráo dụng tự tại bình đẳng. Nay các ông cũng được siêu nhập vào địa thân, miệng, ý bình đẳng pháp như thế, bằng với Tỳ-lô-giá-na, tức là tất cả Như Lai khen đức chân thật: Nói các ông đã được Địa vị bình đẳng như thế, vì muốn phổ môn lợi ích tất cả chúng sinh, vì muốn chiếu minh tu chân ngôn hạnh Bồ-tát dứt trừ các tối tăm, cho nên nói Chân ngôn vương này. Chân ngôn vương này xé rách tất cả lưới nghi pháp giới. Nghi tức là tối, dứt trừ tất cả nghi ngờ tức là soi sáng. Vì sao? Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na này ứng hiện Chánh Đẳng Giác ngồi tòa Bồ-đề quán mười hai chữ Chân ngôn mà hàng phục bốn ma. Pháp giới này hiện sinh ba chỗ tuôn ra hàng phục ma. Tức Đại Nhật Như Lai khi ngồi đạo tràng, bình đẳng quán pháp giới mà nói mười hai câu chân ngôn này tức là năng lực này hàng phục được bốn ma, trừ các tội cấu. Nhưng trong bốn ma này thì ma cõi Vô sắc, là khi Phật ở trời A-ca-nị-tra đã hàng phục rồi. Chỉ có Thiên ma có tướng, vì muốn khiến trong thế giới biết được năng lực tự tại nên lại ở cõi này mà hiện các việc hàng phục Thiên ma. Ba chỗ, tức là như trên đã nói thượng phần thân Phật sinh ra tất cả Như Lai. Trung phần từ tim đến rún sinh tử tất cả Bồ-tát. Hạ phần từ rún đến chân sinh ra tất cả tám bộ thiên thần, đều từ ba nghiệp bình đẳng của Như Lai, rộng khắp thị hiện, bày vị Đại Mạn-đồ-la Thai Tạng trang nghiêm, tức Ấn là chân ngôn của Bổn Tôn. Phải biết Phật từ đức nội chứng khi hiện việc như thế tức là bấy giờ, hàng phục khắp bốn ma không sót.

Nay, khi A-xà-lê muốn tạo Mạn-đồ-la cũng phải tưởng thân mình đồng nhất với Tỳ-lô-giá-na mới được năng lực tự tại, cũng đồng Phật ấy hàng phục được bốn ma. Kế là Đức Thế Tôn thân ngữ ý bình đẳng, được thân lượng đồng với hư không, được thân ngữ ý như thế, được trí như thế. Tất cả pháp được tự tại, nghĩa là Phật ngồi ở đạo tràng Kim cang, vừa niệm ba đạo chân ngôn này, nghĩa là như chỗ nói ba chân ngôn thân, miệng, ý ngay khi niệm như thế sẽ được địa thân, miệng, ý bình đẳng. Thân và ngữ ý đều là thể pháp giới không có bờ mé, cũng như hư không, dùng năng lực ấy mà hàng phục bốn ma. Trước nói ba đạo, thì có giải thích rằng ba đạo chân ngôn này là năng lực thân, miệng, ý tự tại bình đẳng tức là từ Phật mà ra, do ba đạo chân ngôn thân, miệng, ý này, Như Lai được siêu nhập vào ba địa bình đẳng, tùy loại thượng, trung, hạ, rộng khắp thị hiện các thứ thân Bổn Tôn, các thứ chân ngôn, các thứ ấn pháp đều đồng với hư không, chẳng có phần hạn, khắp cùng pháp giới mà độ chúng sinh. Rốt ráo đều khiến đồng được siêu nhập vào ba địa bình đẳng như thế. Thân có vô lượng công đức, cũng như không chẳng thể biết hạn lượng. Ngữ và ý cũng thế, do quán chân ngôn này mà được công đức như thế, đồng với Như Lai. Do ba nghiệp vô tận, nếu đáng dùng thân độ người liền hiện khắp các thứ sắc thân. Nếu đáng dùng ngữ độ người liền thị hiện cùng khắp các thứ nói năng, tùy nghi dẫn bày cho được vào tri kiến Phật. Nếu đáng dùng ý độ người thì cũng giống như thế, các thứ cảm thông chẳng thể cùng tận. Chẳng phải ngay thân, miệng, ý này không có hạn lượng, đầy đủ tất cả công đức cũng như hư không. Phải biết trí tuệ cũng không có hạn lượng như thế, giống như hư không. Nếu được diệu trí vô ngại như thế. Tức là đối với tất cả pháp mà được tự tại, đồng với Thế Tôn. Nói tự tại, nghĩa là đối với tất cả sự được tự tại. Tất cả loại chúng sinh do chưa rốt ráo thanh tịnh pháp giới, đều là nghiệp phiền não phần nhiều ràng buộc hệ thuộc sinh tử, chẳng thể được năng lực tự tại. Nay Như Lai ở trong biển lớn sinh tử kia dùng các pháp môn tuyên bày pháp yếu sâu kín của Như Lai, vì một việc nhân duyên lớn các thứ thanh tịnh mà thành tựu đều giúp cho đến Địa vị Nhất thiết trí, tức là đối với tất cả pháp được nghĩa tự tại. Vì chứng pháp như thế mà đối với pháp tự tại. Vì tự tại, nên có thể vô ngại giảng nói rõ ràng các căn cơ. Như Lai sở dĩ được công dụng tự tại như thế, là đều do quán pháp môn mười hai tự luân này. Phải biết pháp môn mười hai chữ này tức là thể tánh pháp giới.

Lúc đó, Phật mười phương thấy Kim Cang Thủ nói chân ngôn này đồng với đạo Phật xưa, ta đồng tất cả Như Lai cũng do quán mười hai tự môn này mà thành diệu thân, các Thế Tôn vị lai cũng giống như thế. Cho nên rất vui mừng, xoa đảnh Bồ-tát mà bảo rằng: Tất cả chư Phật vì pháp tự tại vì một việc nhân duyên lớn, dùng thân, miệng, ý bình đẳng mà nói pháp môn này. Nay các ông cũng có thể nói như thế, tức là cũng chứng pháp môn này đồng với Như Lai. Nhưng Kim Cang Tạng tuy chưa tức rốt ráo Nhất thiết chủng trí mà đồng với Diệu Giác Thế Tôn. Chỉ vì chư Phật mười phương dùng thần lực che chở, cũng ở trong đại hội, cùng đồng chỗ chứng của Như Lai. Nếu lìa thần lực che chở, thì cũng chưa được rốt ráo đồng với Như Lai. Cho nên này người Thiện nam! Tỳ-lô-giá-na chứng thân, ngữ, ý bình đẳng. Tất cả Phật đều biết như thế. Biết là tên khác của giác. Do biết hạnh Phổ môn vô tận của các Như Lai. Chứng ba thứ bình đẳng của Như Lai. Nghĩa là biết thân mật tạng của Như Lai, cũng biết được Ngữ ý vi mật tạng. Nếu chứng biết pháp này tức là đồng với Như Lai. Khen ấn như thế xong lại khiến thỉnh Như Lai. Vì sao? Thâm Mật Tạng như thế chỉ có Phật và Phật mới biết rõ. Cho nên tất cả Bồ-tát chớ nên hỏi. Nay Phật mười phương đều dùng thần lực gia trì Kim Cang Thủ. Vì lợi ích tất cả chúng sinh, nay nương thần lực của Phật mà hỏi Đại Nhật Như Lai. Trong đây hỏi việc gì, ý là việc nói trước, chỗ có nghĩa sâu kín vẫn chưa đầy đủ (nên lại hỏi chỗ quan trọng). Nhất thiết trí thành, tức lạ Đại Nhật Như Lai, nghĩa là Bạc-già-phạm, như nói trong sáu nghĩa, trước đã giải thích xong. Tỳ-lôgiá-na là như mặt trời mới mọc ở thế gian, có công năng diệt trừ các tối tăm, thành tựu tất cả sự nghiệp của chúng sinh. Các loại do đất sinh ra đều được lợi ích thật tướng này, là mặt trời Đại tuệ tự nhiên cũng giống như thế. Nếu có chúng sinh biết rõ tụ chứng, như gió mạnh thổi mây tan, mà mặt trời mặt trăng xuất hiện cũng có năng lực như thế. Cùng khắp pháp giới mà làm lợi ích lớn, như ánh sáng mặt trời chiếu soi thế gian. Chủ, là đối với các pháp đều được tự tại nên gọi là chủ. Nay chư Phật khiến Kim Cang Thủ hỏi Như Lai Đại Nhật này về Chân Ngôn Hạnh Cú Bí Mật Sự, thù thắng nói tự giáo rộng khắp. Do pháp môn một chữ mà thấu suốt tất cả pháp. Chứng được bình đẳng thân, miệng, ý chẳng thể cùng tận của Như Lai mười phương ba đời, nên gọi là Thắng. Giáo tức là tên khác của pháp tắc. Pháp là khuôn phép, tắc là nghĩa. Vì thuở xưa ta phát tâm Bồ-đề Vô thượng Bồ-đề, giảng nói ta đối với tất cả pháp được đến Niết-bàn, hiện thế giới chư Phật thành tựu chứng biết, là nói ta thuở xưa khi hành đạo Bồ-tát cũng do các chân ngôn môn như thế mà thành trí tự nhiên.

Lại vì tất cả chúng sinh như thế mà giảng nói, đều khến được đến Đại Niết-bàn. Nay ta nói lời này là duyên khởi thâm mật, tất cả những người có tâm còn chẳng thể hỏi, huống chi là có thể tin hiểu, chỉ có tất cả Như Lai mười phương đồng đến pháp này, có thể làm chứng, chẳng hề luống dối. Các ông nay đã được Hạnh tích mà ta đã chứng, nên lại hỏi Như Lai. Lúc đó, Chấp Kim Cang đủ đức, cũng như tay cầm giữ Trí Ấn Như Lai, tức là đầy đủ tất cả các thứ công đức của chư Phật đều đồng một vị. Chỗ nói vị giải thoát của Như Lai vì trí ấn ấy đồng với Như Lai nên nói đủ đức.

Lúc đó Bồ-tát ấy, do các Như Lai cùng gia trì nên rất vui mừng liền được biết rõ lời nói của Như Lai, cũng biết được tâm Như Lai. Trước chẳng bằng mà chưa thể hỏi, nay đều tự tại hỏi Như Lai không có nghi ngờ. Nay muốn hỏi Như Lai trước khen công đức pháp giới mà nói kệ rằng: Pháp ấy vô tận, cũng không có tự tánh. Tận nghĩa là có thỉ có chung, có sinh có diệt. Vì có sinh diệt, tức là có pháp khởi tận, mà nay tánh bình đẳng pháp giới lìa lỗi như thế, không có thỉ chung, không có sinh diệt tức là nghĩa chẳng thể cùng tận. Vô tận là tên khác của vô tướng. Do vô tận nên tất cả pháp đều không có tự tánh, không có lay động, không có thay đổi, cũng không có chỗ ở. A-lại-da là nghĩa phòng, là nghĩa thọ nhận đầy đủ. Nay trong pháp giới bình đẳng không có tướng thọ tạng như thế cho nên không có chỗ ở. Nếu tất cả pháp đều không tự tánh tức là vô tác. Vô tác cho nên không có quả báo sinh diệt, xưa nay là tướng vắng lặng thường vắng lặng, tức đồng giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận.

Các Phật đồng vị là như pháp sâu xa vắng lặng này thì tất cả danh ngôn không nói đến được. Lại không thể lấy gì làm dụ chỉ có Phật đồng chứng mới biết có thể lấy làm dụ cho nên nói đồng với Chánh giác.

Nhưng tất cả pháp nếu chỉ rốt ráo vô sinh vô tác. Nói rốt ráo, là không có các nghiệp phân biệt khác nhau về tất cả vị của bậc Thánh, liền rơi vào đoạn diệt mà chứng thật chứng, chẳng thể lợi ích tất cả. Kế lại nói phương tiện Phật… Bi nguyện chuyển vô tướng giáo khai phát giác ngộ tướng như thế. Do có phương tiện mà đầy đủ tất cả nguyện. Phương tiện này tức là nguyện Đại bi. Do nguyện Đại bi này nên chuyển đổi. Lại đối với pháp vô lậu không có người để nói, không thể biểu thị mà khiến cho được tất cả, cũng được tự chứng. Phải biết đó là năng lực phương tiện lớn, pháp này không người trao dạy, chẳng từ người khác ngộ mà được chứng, tức là trí tự giác vô sư tự nhiên thành Phật đạo. Ở đạo tràng vắng lặng, biết pháp thật tướng như thế. Đây đều là lời kệ sau để biểu thị.

Lại nữa, nếu nói pháp giới vô tận không đầu cuối, tức là đối với đoạn diệt chẳng thể vì các chúng sinh làm các lợi ích. Vì sao? Vì đã lấy sinh tử làm phần hạn, nhưng là nhóm trần lao, là hạt giống Như Lai, nếu tất cả vô sinh vô tánh cũng không có chỗ ở, làm sao có thể khắp ứng thế gian để làm các Phật sự? Nhưng các Bồ-tát có hai việc. Chẳng rơi vào đoạn diệt, đó là đại bi và phương tiện. Do có đây nên tự khai phát. Nói khai phát, nghĩa là tâm Bồ-đề tự nhiên khai phát. Nếu lời nói này biểu thị nhờ người khác dạy ngộ mà được tuệ tự nhiên vô sự như thế thì không có việc ấy. Vì sao? Chỉ do người tu như thật tự biết, là như thật tự quán vô tận pháp giới được tuệ thật tướng như thế, không phải do người khác mà ngộ. Ý kinh nói rằng: Pháp tướng như thế nên nói tướng như thế. Đã được pháp thật tướng như thế, tức là dùng pháp phương tiện đại bi này mà vì chúng sinh chỉ bày giảng nói. Nhưng thật không do người khác ngộ, chẳng từ người khác truyền mà được. Như người mù hỏi màu sữa giống màu gì, cho đến nghe màu sữa như tuyết mà sinh tướng lạnh, lại nghe hạc liền sinh tưởng động. Cho đến dùng các thí dụ phương tiện biểu thị, chẳng thể hiểu được, uổng phí thêm tâm vọng chấp mà thôi. Vì sao? Do nó từ mắt vô minh. Đệ nhất nghĩa cũng thế. Nếu chẳng như thật mà hiểu biết, là nếu các thứ khai đạo khác thì không hề được lý. Nếu người chẳng tự khai phát pháp nội chứng như thế mà vì người nói muốn cho họ ngộ thì cũng không có việc đó. Vì sao? Nếu có người không chân, gọi người khác bảo rằng: Ta sẽ vì các ông mà lên núi Diệu cao, phải biết người này sẽ bị người trí chê cười. Vì sao nếu tự không chân thì không thể lên một phần nhỏ nào của núi Diệu cao, huống chi là vì tất cả mà lên đảnh ấy? Lại như có người tự mình chưa thể qua sóng lớn biển khơi mà bảo người khác rằng: Ta sẽ giúp cho ông đến bờ kia. Phải biết người ấy cũng không được lý. Người tu cũng thế, nếu tự chưa có tuệ vô sư mà muốn người khác nghe pháp được ngộ thì sẽ không có việc đó. Lúc đó Kim Cang chủ dùng kệ này khen ngợi Như Lai. Kế là nói kệ Ưu-đà-na mà hỏi Phật, Ô-đà-na nghĩa là nhiếp chung, dùng nghĩa một kệ mà nhiếp vô tận pháp giới các pháp lìa tướng, vô lượng pháp nghĩa cho nên nói nhiếp. Nói kệ khen Phật rồi nghĩ đến chúng sinh đời vị lai tu hạnh chân ngôn, là đối với Đại bi tạng này mà sinh Mạn-đồ-la có sự thiếu sót, cho nên không mau thành Vô thượng Bồ-đề, thứ lớp hỏi Phật phương tiện bí yếu, mà dứt tất cả nghi ngờ. Nếu chẳng thể khắp dứt các thứ lưới nghi của chúng sinh thì chẳng gọi là bậc Nhất thiết trí. Vì đối tất cả pháp mà tự lìa lưới nghi, mới dứt được lưới nghi của người khác. Nay Phật đã dứt tất cả lưới nghi, cho nên nay con thưa hỏi, xin dứt nghi cho chúng con, lìa bỏ nóng bức, là nói lìa hẳn gốc ba độc, nay vì tất cả chúng sinh mà thưa hỏi Đạo sư vì đối với tất cả pháp mà dẫn dắt, giúp đến được Phật tuệ, gọi là đại Đạo sư.

 

Lại nữa, liền dùng kệ tụng thứ lớp hỏi Phật. Nay kế nêu ra, chưa kết kệ cú. Vì sao phải làm Mạn-đồ-la trước? A-xà-lê có mấy thứ, đệ tử có mấy thứ. Làm sao biết địa thế, hỏi địa tốt xấu. Làm sao chọn lựa? Đã chọn lựa rồi làm sao làm cho thanh tịnh? Làm thanh tịnh rồi làm sao an trụ? Chỉ có ba câu hỏi.

Lại hỏi làm sao (làm) đệ tử? Làm tịnh? Xin Phật dạy cho.

Tịnh rồi hỏi phải làm sao? Hỏi dùng cách Hộ trì nào? Địa làm hộ lại hỏi làm sao? Gia trì địa là gì? Kết hộ trì có nhiều nghĩa. Cũng hỏi ba việc tác dụng đầu là gì, và dùng pháp chân ngôn nào làm tác hộ trước và làm tịnh trừ trước, tức là hỏi việc trước trước sau. Hai việc này là tác dụng, tuyến có mấy thứ. Lượng Địa làm sao mà dùng tuyến làm giới phần? Có mấy thứ cúng dường, thế nào là hoa hương… Hỏi hiến dâng hương hoa có phương pháp nào, hoa hợp hiến dâng ai? Hương… cũng như thế, và hiến thức ăn… Hộ-ma là gì? Hỏi hiến Phật và Hộ-ma có thứ lớp gì, pháp tắc tức là thứ lớp, đây là tên chung? Thế nào là thờ các tôn vị. Pháp giáo phép tắc, phương pháp phép tắc đều được hiện bày hình sắc,… ba câu hỏi này xin nói thứ lớp. Chẳng cùng với phép tắc đồng các tôn ấn và tự tọa. Ấn từ chỗ nào sinh, lại có tác dụng gì? Tên hiệu ấn ấy là gì? Sao gọi là ấn? Quán đảnh có mấy thứ, Tam-muội-da có mấy thứ, trì tụng mấy thời. Người trì tụng siêng tu chân ngôn môn mấy ngày thì được thành đạo Bồ-tát và Nhất thiết trí? Xin nói bao lâu thì thấy đế.

Tất-địa có mấy thứ, khi nào thì Tất-địa sinh và khi nói Tất-địa làm sao bay lên hư không? Thế nào là thân bí mật? Làm sao chẳng bỏ thân này mà được thành thân Thiên tiên? Thành tựu rồi các thứ biến hóa làm sao sinh? Ai sinh các thứ biến hóa? Nó lại từ đâu được sinh. Khi nhật nguyệt hỏi phương chấp diệu, chia ra các điều bất tường, thì làm sao dứt trừ, khi sinh tử chịu khổ khởi lên thì làm sao trừ diệt? Chẳng có là nghĩa trừ. Làm sao người tu và chư Phật cùng ở một chỗ. Hộ-ma có mấy thứ. Trong đây hỏi Hộ-ma cần dùng mấy thứ lửa, muốn được biết. Lửa tăng oai là pháp tăng ích. Lại có mấy thứ tăng oai này, tất cả vật dùng như Hoa… Tôn khác loài với các tôn tánh, phải biết bản tánh của giận dữ, vắng lặng, vui mừng. Xin Đạo sư chỉ dạy không thiếu sót, các giới và quả xuất thế gian là có mấy số như thế nào. Lại hỏi thế gian, xuất thế gian Tam-muội là gì. Đều có định thù thắng, cùng với trước là tám nghiệp thành tựu ở chỗ nào, hỏi thành tựu chịu quả ở chỗ nào. Người chưa thành tựu cũng thế. Hỏi người chưa thành tựu khi nào lìa nghiệp sinh tử được giải thoát?

Bấy giờ, Kim Cang Tạng nương oai thần của các Phật mười phương nói kệ hỏi Phật. Bồ-tát tu hạnh Chân ngôn ấy có thiếu sót pháp yếu phương tiện nào chưa đầy đủ thì đáp. Bấy giờ, Nhất thiết trí Tỳ-lôgiá-na Thế Tôn lìa hết các não, nghe câu hỏi về việc bí yếu mà khen rằng: Lành thay! Lành thay! Đại tâm mạnh mẽ, lúc nào cũng là đại tâm, đại nguyện, đại hạnh v.v… Bí mật Mạn-đồ-la phối tôn vị quyết, nghĩa là quyết định an bày tọa vị các bậc Thánh.

Bí mật, tức là tạng sâu kín của Như Lai. Yếu nào vắng lặng từ lâu như hoa Ưu-đàm. Khi ấy bèn nói chẳng đúng người thì chẳng trao, bừa bãi, chẳng đồng hiển bày thường giáo Mạn-đồ-la là nghĩa đủ các đức, tức là Đức bí mật của Như Lai. Đức bí mật của Như Lai, đức bí mật như thế như hoa sen nở mà tự trang nghiêm. Phối tôn vị quyết là nghĩa chọn lựa. Tạng liên hoa bí mật như thế phân biệt các thứ phần vị, điều nên làm đều đã chọn lựa. Quyết nghĩa là nói nhất định. Cội nguồn đại Bi từ căn bản đại bi phát sinh. Đại thừa Vô thượng tối mật của chư Phật tức là Mạn-đồ-la này tức là cội nguồn của Đại thừa vô thượng, tức là tâm Bồ-đề này dùng đại bi là căn bản. Cũng như Thai tạng nên gọi là căn bản. Thừa nghĩa là chân ngôn thực hành việc Bồ-tát, do đầy đủ phương tiện nên đi trên đường thẳng lớn, hoàn toàn không trở ngại mà được đến chỗ chân thật. Cũng như ngồi xe dạo chơi thẳng đường mà đến thành lớn. Đây là pháp Bí yếu tối thượng của chư Phật. Nếu nói rộng thì hết kiếp vị lai cũng chẳng cùng tận. Nay dùng phương tiện mà nói lược, nay chỉ một lời mà đủ tất cả nghĩa vị nên gọi là nói lược, là việc bí mật của Phật. Các ông bày hỏi ta sẽ nói lược. Trước đã khen pháp lại hứa nói lược, kế là tùy câu hỏi mà đáp thứ lớp.

Phật bảo Kim Cang Thủ, hãy lắng nghe Đại lực, Mạn-đồ-la mười hai chi cú sinh ra Minh vương đại lực, nghiệp đầu của Mạn-đồ-la đáp trước, trước phải thực hành. Đây tức là như trên đã nói mười hai chi cú sinh mười hai chi cú pháp giới thể. Nó nên thực hành Minh Vương đầu tiên, do Minh Vương này đều nhiếp hết tất cả thế gian và xuất thế gian. Trước làm đàn, trước phải trụ vào Tam-muội Minh Vương ấy. Vương là chỉ cho Đại nhật. Đây nghĩa là trong tâm đặt chữ đầu tiên của mười hai chữ, dùng chữ đầu tiên để giữ thân. Chân ngôn đều ở trong đó mà nhiếp hết. Muốn thực hành Mạn-đồ-la thì trước phải tụng. Nghĩa là khi sắp tạo Mạn-đồ-la thì phải tụng trước, sau mới trụ vào Du-già. Du-già tức là hạnh Ứng lý của Minh Vương này. Đã trụ vào Du-già thì phải quán sát cho đúng . Nay chỗ làm này phải dùng việc gì. Nghĩa là tuy năm bộ. Như trên đã nói dụng khác nhau của năm chữ, hoặc vuông, tròn, tam giác, bán nguyệt… ở thượng trung hạ đàn có tác dụng gì căn tánh đệ tử thế nào, các việc như thế đều biết thì mới được làm. Nhưng trong đây ở chân ngôn vương mà phân biệt các việc khác nhau cũng chưa rõ ràng, bèn hỏi.

Lại nữa, trước biết có hai thứ, do đó là sư thấy đế hay đối với chân ngôn vương mà thấy tất cả cội nguồn, thông suốt không chướng ngại. Nếu sư chưa thấy đế thì cần phải y giáo và chỗ truyền dạy của thầy, tiếp đó ở chỗ chỉ thú truyền dạy mà quán sát. Đã quán sát biết rồi thì tùy việc phải làm mà làm, cho nên trước phải là chân ngôn vương này. Đem Bổn Tam-muội trì luân rồi thì trước phải biết rõ Đạo Du-già, sau mới tùy ý mà làm các sự nghiệp. Nhưng vì bí thích theo lối bí mật nên mười hai chân ngôn vương này tức là Kim Cang Tam-muội, ắt là Bồtát ngồi đạo tràng vào Kim Cang giới, thì được mười phương chư Phật đồng thời rưới đảnh mà cùng gia trì để được vào địa vị Phật. Vào địa vị Phật, tức là thành tựu Tạng đại bi sinh Mạn-đồ-la rốt ráo. Kim Cang Thủ cũng vào Chân ngôn vương này cũng ở trong kinh này mà được chư Phật mười phương đồng gia trì. Nay lại quyết trạch Tạng đại bi. Nếu chẳng như thế, thì sao có thể được quán đảnh đồng vị Pháp vương của Như Lai. Nhưng cách làm Mạn-đồ-la, trước phải là A-xà-lê cho nên kế đáp, phải biết thầy có hai thứ, vị thầy phải hiểu rõ chân ngôn và tướng ấn Bổn tôn. Ở trong đó đều thấu suốt rõ ràng vô ngại biết rõ tướng pháp thượng trung hạ khác nhau. Nhưng nó có hai thứ phân, phân là hai thứ: Một là giải thích sâu kín, hai là thông lược. Nói sâu là hiểu biết sâu rộng, nghĩa là được hạnh Tam-muội trong hạnh chân ngôn, khéo biết lý thú, rộng hiểu Đại thừa có khả năng phó chúc. Trong đây có khả năng phó chúc tức là khéo hiểu biết thời nghi, hiểu rõ căn tánh có khả năng nhận lãnh, tức là người bạn chẳng thỉnh, khiến chẳng mất việc lớn nhân duyên. Chưa có khả năng tức là được hộ ý lại ở trong pháp sâu mà bày giáo lợi hỷ. Do đây gọi là có khả năng được giao phó phải biết tức là trưởng tử của Phật. Do thấy đế nên thấy pháp, nghĩa là thấy quả báo hiện đời, nên không lấy tướng các pháp, lìa cảnh tâm lượng phân biệt, nên gọi là lìa, nghĩa là lìa danh lợi hiện đời mong cầu Phật đạo. Phải biết vị sư này tức là mong được Phật mười phương hiện ra đưa tay phải xoa đầu, dùng pháp quán đảnh mà giao phó tạng.

Sư thứ hai, là chỉ được lợi trong pháp hiện đời, thế gian thành tựu lợi ích, trong si cú có thêm duyên niệm, vì nó mà làm đàn. Nhưng cũng đủ hiểu làm Mạn-đồ-la các thứ phương tiện không nhầm lẫn. Mong thầy quán đảnh trở xuống là nói nhắc lại Sư Thâm Hạnh, quán đảnh được giai vị A-xà-lê, cũng gọi là Phật đã ấn khả. Do nó ở trong Mạn-đồ-la mà đích thân đối với các tôn, mà được quán đảnh Sư vị ấn khả. Phải biết trong đây mong được Phật quán đảnh, là thầy Thâm Mật, mong được người thầy thế gian trao cho là hiển bày sơ lược A-xà-lê. Lời hỏi của Kim Cang đều là duyên Mạn-đồ-la chỗ cần. Phật cũng thứ lớp dùng kệ đáp, kệ này nay chưa dứt câu, sau sẽ trau chuốt văn. Phật đáp thầy dùng thứ lớp đáp đệ tử. Sở dĩ như, là vì nếu chỉ có thầy mà không có đệ tử thì duyên truyền pháp ấy khiến hạt giống Phật chẳng được tiếp nối.

Kế là phân biệt tướng đệ tử có bốn thứ: Một là thời niệm tụng đệ tử, hai là phi thời, ba là thời, phi thời đều đủ, bốn là thời, phi thời đều là sai. Đây là bốn thứ. Nói thời là như đệ tử cầu A-xà-lê mà thỉnh hành pháp chân ngôn. Nếu thầy thấy đế thì phải tự chiếu duyên cảnh ấy, biết có khả năng nhận được việc thì mới trao cho hành pháp khiến thực hành niệm tụng kỳ hạn bao nhiêu lâu sẽ được thành tựu. Lại thực hành phương tiện thành tựu. Nếu thầy thế gian, tuy chẳng hiện soi cơ trước chỉ y giáo mà làm khiến đệ tử tụng niệm cầu tướng cảnh giới giao cảm. Thầy cũng tự niệm tụng. Nếu tương ưng thì đệ tử được cảnh giới hứa cho pháp. Lúc đó, thầy cũng phải tự biết, đã được tương ưng trao cho pháp hạnh thì cũng dạy niệm tụng như trên, đây cũng có có khuôn phép. Phi thời là cũng như pháp trước khiến tu hạnh chân ngôn, phải ở lúc nào mà được thành tựu. Như thời pháp nghiệm chẳng thành thì phải gia tác, gia hạnh, nên nói là phi thời. Thời và phi thời đều đủ, thì tuy như trên nhận lời thầy dạy, nhưng chưa được như pháp y hạnh, chưa đến lúc thọ thành tựu. Đây chẳng ở thời cũng chẳng ở phi thời, nếu ở học địa nên gọi là đủ câu. Đều sai là chỉ cho phát tâm quy y nhưng đều chưa có thứ lớp. Thầy tuy đã nhiếp lấy, nhưng đợi thời đợi duyên. Có chỗ chưa đủ thì chưa được trao cho pháp yếu chân ngôn ấy, nên gọi là đều sai.

Lại nữa, đầy đủ các tướng, thì tướng có hai thứ: Một là tướng bên ngoài, nghĩa là chi phần… không có thiếu sót. Như trước đã nói rộng; Hai là nội giáo mỗi thứ đúng pháp mà tu hành như lời Phật dạy răn, chẳng dám sai trái, như thế… là nội tướng, nhưng bốn người này đều ở địa vị tu học chưa đầy đủ. Đã có đệ tử đầu tiên biết tướng địa, địa giáo kế sẽ nói, gọi đó là Tâm địa.

Kế là Biết chọn đất, phải làm Mạn-đồ-la, tạo Mạn-đồ-la trước phải chọn đất. Cho nên kế nói chọn đất. Nói đất tức là tâm Bồ-đề. Trước thanh tịnh tâm này tức là trước làm thanh tịnh. Đã nói rồi, tức là tám lá tâm như trước đã làm. Trước thanh tịnh đất ấy, như trước đã nói tịnh tâm Bồ-đề phương tiện. Nghĩa là hoa sen tám cánh, ở trên đài hoa mà quán chữ A cho đến thường để trên đầu chữ Ám, mắt thì để chữ Lam, mà quán tâm ấy. Cổ họng chớ để quá thấp mà phải thẳng, đây đều là phương tiện tịnh tâm địa. Kế đặt chữ La ở trên hai mắt mà quán, tức là chọn được tâm địa, mà lại dứt trừ các uế. Phương tiện này trước đã nói đủ, phải như trước mà thực hành thôi. Nói nếu lìa lỗi tâm địa được vô úy, hay dùng tịnh tâm Bồ-đề mà lìa các tướng, tức là lìa được các lỗi, nghĩa là lìa phiền não, tùy phiền não… các kiến ái, hoặc nên gọi là lìa các lỗi. Vì lìa phiền não, sợ các thứ chẳng an ổn trong đường hiểm ác mà được tánh an vui, cho nên nói không sợ, sẽ được thanh tịnh mà lìa tất cả lỗi, sẽ được tất cả thanh tịnh, là do lìa các lỗi tâm không sợ sệt, rốt ráo tịnh tâm bình đẳng. Nếu đã đến như thế, bền chặt trụ vào tịnh địa liền được thấy Tam-bồ-đề. Biết tức là biết như thế, biết như thế tức là thấy chỗ Phật phải trụ chắc vào đó, nghĩa là đã lìa được tất cả lỗi, chẳng bị tạp nhiễm phân biệt làm ô uế, phải giữ bất động chớ để lui mất, chắc chắn đến được Vô thượng Bồ-đề. Chỉ thấy tâm Bồ-đề thanh tịnh như thế, rốt ráo không sót tức là thành trí Nhất thiết trí. Khác đây thì chẳng phải tịnh địa. Nếu phân biệt trụ chẳng phải tịnh địa. Nếu khác đây thì chẳng phải tịnh được đất ấy. Nói A-xà-lê nếu chẳng như thế mà tự thanh tịnh Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la Địa thì không gọi là chọn tịnh địa ấy, vì chẳng thể lìa vọng tưởng phân biệt mà chuyển, thường ở trong các lỗi, chẳng thể tránh khỏi các sợ hãi suy não thì làm sao được gọi là Thiện Tịnh Mạn-đồ-la Địa.

Cho nên kinh nói: Nếu người trì tụng trụ vào phân biệt, nếu thực hành tịnh địa thì sẽ không thanh tịnh. Vì Bí Mật Chủ lìa tâm Bồ-đề, hai loại sư này đều phải trụ vào tâm Bồ-đề. Trong phân biệt thì không có tịnh địa. Như trong tạo đàn ở trước nói: chừng một khuỷu tay trở xuống pháp trị tuy trị địa cũng chưa thành, vẫn phải trụ một chút vào tâm Bồđề, vì lìa đây thì không thành. Xuyên qua đất xấu, loại bỏ đất cát lông tóc ngói đá, nếu điều ác nhỏ nhiệm không do đâu mà phân biệt khắp.

Lại trong một khuỷu tay tuy tịnh, nhưng nếu quá một khuỷu tay có các vật dơ uế thì cũng chẳng thể chọn, làm sao khiến Mạn-đồ-la này được rốt ráo thanh tịnh. Cho nên phải biết, nếu thanh tịnh được tâm Bồđề này lìa bỏ tất cả nhơ uế phân biệt hý luận mà tịnh địa tự giác ấy thì phải biết đó gọi là khéo tu địa ấy. Nếu thầy người như văn mà hiểu, chỉ y vào lời nói trước thứ lớp pháp dụng tùy việc mà thực hành, phải biết người này là kẻ ngu, chẳng hiểu gì về dụng Bí mật. Phải biết hiểu như thế là chẳng phải người trí. Vì sao? Vì nếu chẳng tịnh được tâm địa này còn có phần vọng tưởng thì chưa thể lìa bỏ nhân khổ. Cho nên không phải lời nói của bậc Đẳng chánh giác. Trong ngoài đều do tâm, tâm tịnh thì địa tịnh. Cho nên phải lìa bỏ phân biệt, trừ sạch tất cả địa. Duyên về địa đáp chung đã xong.

Đã thanh tịnh tâm Bồ-đề xong rồi thì dùng Thai Tạng Đại Bi mà nuôi lớn. E lời đã nói các đàn thiếu pháp, ta thứ lớp nói rộng. Họ chẳng biết việc phải làm trước, ngu si nên không hiểu. Nếu chẳng trụ tâm mà cầu Phật Vô thượng thế gian thì không có việc ấy, cũng chẳng gọi là Nhất thiết trí. Cho đến chẳng thể bỏ khổ nhân của các phân biệt. Sợ sẽ lui mất nên phải kiết hộ. Cho nên kế là nói: Dùng Bất Động Tôn mà giữ gìn thì là Minh Vương Bất Động. Phải dùng tâm Bất động chân ngôn để tịnh tâm Bồ-đề, vì là việc phải làm. Khuyên đệ tử phát tâm như thế, tức là trụ ở tâm Bồ-đề. Phải hộ đệ tử, nói là bất động, tức là tự môn A. Hạ nghĩa là nhân, là nói tịnh tâm Bồ-đề này tức là tất cả. Trước trụ tâm Bồ-đề, thầy trò đều trụ, sau mới dùng hai tôn vị này mà hộ là nhân của trí trí. Có A dài là hạnh, trên có chấm tròn là chứng, là đại không, dùng diệu nhân này mà khởi chánh hạnh. Hạnh… đối với không, dùng ba pháp này mà hộ trì tâm ấy khiến rốt ráo chẳng thể dời đổi. Nếu chẳng dùng bất động mà hộ, thì dùng Minh Vương tam thế cũng được. Ba đời tức là ba độc, cũng hàng phục ba độc ấy mà ở thế gian được tự tại hoàn toàn. Cho nên gọi là ba đời hơn. Đây cũng có phương tiện lại hỏi. Nếu đệ tử thành được việc này thì chẳng phải thuộc si, si là chấp đắm. Có chấp đắm thì chẳng thể trụ lìa si, lìa si tức là bất động. Có quán có đắc đều là si. Nói không bị vọng chấp lay động thì chắc chắn sẽ thành Vô thượng Bồ-đề, thanh tịnh không nhơ đồng với hư không chẳng thể lay động, rộng lớn không bến bờ không thể gồm chứa tất cả sắc tượng. Phải biết tâm Nhất thiết trí cũng giống như thế.

Kế lại gia trì địa, tức là tự môn A. Phải dùng chữ A mà gia trì. Đây là giáo của chư Phật. Tất cả Như Lai xưa nhờ môn này mà thành Chánh giác. Vì hộ tâm này hoặc gia ám ở đầu và gia-la ở mắt, là tâm Bồ-đề bền chắc cho nên được thành nghiệp tự tại. Nên nói là phi dư. Phi dư là nói tất cả Như Lai thành Phật không có đường nào khác, chỉ là một môn này. Trước gia trì địa theo lời Phật dạy, Phật tức là chữ A, thứ hai là tâm tự tại, tức là đặt dấu chấm. Dấu chấm tức là Tam-muội định, tuệ… nên tất cả đều tự tại. Lại chẳng phải khác giáo này. Xưa y theo Phật dạy phát tâm tức chữ A, sau tức thành Phật… ở Phật, tức là chữ A này. Tâm Bồ-đề y Phật mà khởi. Cho nên tất cả phân biệt dứt hết, tuy chưa thành Phật tức là hạt giống vô duyên.

Trước đã hỏi đáp gia trì địa rồi. Đã gia trì địa, kế phải dùng diên mà định vị Mạn-đồ-la. Diên, tiếng Phạm là Tô-đát-lãm, tức là giữ gìn nối nhau các đức chẳng để tan biến, nên gọi là diên. Tuyến có bốn thứ, nghĩa là trắng, vàng, đỏ, đen. Niệm này, niệm nghĩa là phải niệm trì, lại thêm một thứ là sắc hư không. Hư không có công năng hợp tất cả sắc tượng, tức là có tất cả sắc. Nếu chỉ y theo sắc không tức là màu hơi xanh, như màu lá cỏ cây. Trắng nghĩa là tín, vàng là tinh tấn, đỏ là niệm, đen là chạy. Định sắc đồng với sắc Niết-bàn. Tuệ tức là Đại không, Đại không có tất cả tướng mà vô tướng. Cho nên là tất cả sắc. Hễ khi hợp tuyến, nếu đều y theo pháp, thì phải riêng tạo Mạn-đồ-la, đặt bình báu hương hoa, hương thoa, đèn nến… và các thức ăn uống, các thứ cúng dường. Sau mới khiến đồng nữ hợp. Trước phải thọ tám giới (bát quan trai) mặc y phục mới sạch, nước thơm tắm gội khiến trong ngoài thanh tịnh ngồi trong Đàn mà hợp. Về pháp hợp tuyến, trước phải làm sợi tơ nhỏ khiến cho thật đều, lớn nhỏ chậm gấp đều cho vừa chừng, chẳng được đứt quãng giữa chừng mà phải nối nhau. Lại khi hợp phải dùng lụa che miệng, mỗi sắc tơ tới lui se kỹ, khiến thành chín cọng, sau mới hợp thành một sợi, tơ ấy chỉ có một đầu. Ở giữa chẳng được nối, một sợi một sắc, năm sắc hợp thành một sợi. Nếu hợp sợi chậm gấp to nhỏ không đều, lại phải hết lòng mà làm. Minh sinh chướng pháp, vừa tổn hại thầy vừa tổn hại đệ tử, hoặc khiến phát sanh điên loạn, chẳng nên không thận trọng. Ở đây gọi đồng nữ là Tam-muội. Do Tam-muội mà điều đình rất đều thì được thành năm lực năm căn. Do căn lực này mà giữ mãi được các hạnh. Đẳng trì trong hư không, đây có hai thứ nếu là A-xà-lê thâm hạnh khi muốn làm đàn, đã định tâm địa Bồ-đề rồi thì ở trong Du-già mà độ đệ tử. Chánh quán Thai tạng Đại Mạn-đồ-la vị gia trì, tất cả phần vị sáng tỏ, rõ ràng như đẳng trì ở trong hư không. Đẳng là cùng khắp, trì là phải làm như thế. Làm nghĩa là biết thứ lớp, trước là định không. Tôn vị đồng đều. Thứ hai là dùng tuyến mà đặt địa Mạnđồ-la như đối trước mắt. Nhưng vì độ người thuận theo Thế đế, dùng phương vị mà gia trì đàn địa. Nhưng sau ở trên, dùng tuyến tượng năm màu mà định ra phương vị. Nếu là A-xà-lê thâm hạnh cũng phải trước dùng tuyến này mà định phương vị. Định phương vị xong phải từng thứ dụng tâm mà khắp đặt. Cũng khiến chỗ có phương vị như đối trước mắt. Hoặc dùng giấy bút mà sao chép, gặp lúc mà xét dùng, không để gặp việc sinh nghi lầm. Ở đây nói không trung đẳng tức là như trên đã nói. Trước với đối lập đệ tử, dẫn tuyến ấy mà định ra phương vị. Lại chớ để dính đất, trước ở hư không mà đối dẫn, đều khiến cho ngay tâm như thứ lớp mà được vây quanh. Nếu chưa có đủ pháp, đệ tử chưa có khả năng cùng làm đàn, cũng có thể đặt cọc ở chỗ đệ tử mà làm. Đã như thế định rồi, liền vận tâm bày ra vị thứ, rồi mới se từng sợi. Nếu là A-xà-lê Dugià thì cũng ở trong đó mà thực hành phương vị. Thấy chư Phật, Bồ-tát, Thiên thần… rõ ràng định vị, mới thuận theo pháp thế gian, cũng se chỉ đặt vị, xét về hình sắc mà biểu thị ra. Phải biết đây là vị cao nhất, chư Phật Nhất Thiết Trí, tức là các Phật tử khen Bồ-tát có đủ trí tuệ. Tất cả các Phật tử các người trí được thế gian khen là cát tường nghĩa là thế gian khen ngợi cho là tốt lành. Đây kế đáp tòa vị biểu tượng. Như người đời dùng hoa sen làm cát tường thanh tịnh, khiến vui lòng mọi người. Nay trong Bí tạng cũng dùng Đại Bi Thai Tạng Diệu Pháp Liên Hoa làm cát tường thần bí nhất, tất cả pháp môn gia trì thân ngồi trên đài hoa này. Nhưng hoa sen thế gian cũng có vô lượng khác nhau, đó là lớn nhỏ nở búp, sắc tướng cạn sâu, thảy đều chẳng giống nhau. Như thế, đài hoa Tâm địa cũng có quyền thật, nở khép khác nhau. Cho nên nói người trí phải biết. Nếu là Phật thì phải làm hoa Phân-đà-lợi tám cánh, là hoa sen trắng. Hoa ấy nở bày bốn bên. Nếu là Bồ-tát thì cũng làm theo cách ngồi hoa này mà nở bày phân nửa, chớ cho nở hết. Nếu Duyên giác, Thanh văn thì phải ngồi trên đài hoa hoặc ngồi trên hoa Câu-vật-đầu. Người hiểu cạn cho là trí một bên. Đây là hoa sen xanh. Ở đây chỉ cho sen màu xanh, nhưng lại khác với hoa sen xanh, ngồi trên cành sen xanh. Từ sen sinh cánh, chẳng giống với loại này. Như trời Tịnh cư cho đến Phạm thiên Sơ thiền, thế gian lập hiệu là Phạm đều ngồi trong hoa sen đỏ. Niệm nghĩa là nhớ nghĩ không quên. Sắc ấy thuần đỏ, thế gian gọi là ghế vua, như các trời cõi Dục và Địa cư… đều tùy vị mà dùng biểu thị. Như tượng Đế-thích thì vẽ núi chúa Tu-di, thần núi ngồi trên núi, Thủy thần ngồi trên nước, Thọ thần ngồi trên cây, Thành thần ngồi trên thành, như thế rất nhiều tùy ý mà được. Trở xuống là các trời chia đất làm chỗ ngồi. Nghĩa là trời cõi Dục… ngồi trên cỏ hoặc ngồi trên lá khô… Niệm tức là nghĩ nhớ. Lại, kế tam tạng nói hoa sen phương Tây có nhiều thứ. Một là Bát-đầu-ma (Hoa sen đỏ và trắng), hai là Ưu-bátla (cũng có hai màu đỏ và trắng lại có chẳng đỏ chẳng trắng, giống như hoa Ni-lô-bát-la), ba là Câu-vật-đầu (đỏ và xanh, sen xanh), bốn là Ni-lô-bát-la (mọc trên phân trâu rất thơm), năm là Phân-đà-lợi-ca (có trăm cánh).

Kế là đáp nghĩa cúng dường. Nhưng đáp trong đây hoặc chẳng y thứ lớp câu hỏi mà chỉ y theo nghĩa hỏi, đối với lý chẳng có lỗi nên biết. Cúng dường lược có bốn thứ: Một là cúng dường hương hoa, hai là chắp tay, ba là từ bi, bốn là vận tâm. Nghĩa là tưởng hương hoa bay khắp pháp giới, vận tâm rồi liền dùng ấn, chắp tay và từ bi, ba việc đều vận tâm. Nhưng trong kinh chẳng nói hương hoa, đối với nghĩa thì phải có. Hoa Thủ đây đều là ấn chắp tay. Hoa này từ tay sinh, phát sinh dâng tất cả chi phần sinh, Ấn quán tâm Bồ-đề. Tay hoa phát sinh, tức là làm ấn. Làm ấn (bắt ấn) rồi liền vận tâm cúng dường. Đây là ấn tất cả chi phần sinh. Trước đã có chân ngôn mà nói chưa có ấn. Ở đây xem lại. Như thế dùng ấn gia trì rồi phải niệm tâm Bồ-đề. Tưởng thấy hoa này đều từ tay mà ra, dùng dây mà cúng dường tất cả đều phải vận tâm. Chư Phật và đệ tử do kia sinh ra, ân cần dùng hoa không lỗi xinh đẹp thơm tho sáng rực rỡ pháp giới làm cây chúa. Tưởng cây đầy khắp pháp giới nở hoa mà cúng dường Phật. Cúng dường dùng chân ngôn gia trì thắng diệu. Lại có nhiều vầng mây lớn nổi lên trong pháp giới, từ đó mưa hoa trước chư Phật, nghĩa là từ chư Phật, Bồ-tát cho đến Nhị thừa tám bộ đều nương vào bản chân ngôn và ấn đó để gia trì vật cúng dường mà cúng dường. Khi người tu cúng dường hương hoa thì phải dùng chân ngôn. Nếu cúng dường hoa thì phải dùng chân ngôn hoa… nếu tâm chẳng trụ định thì cho đâu được. Cho nên nói Tam-muội tự tại chuyển và ấn gia trì, sau đó vận tâm. Hoa này thơm tho xinh đẹp không có các lỗi xấu. Nguyện sinh thắng diệu, lại cũng nhiều như mây lớn từ trong pháp giới sinh, từ đó mưa hoa, nghĩa là từ pháp giới sinh. Thường ở khắp trước chư Phật sinh ra các thứ ánh sáng. Lại đem các hoa này mà cùng khắp pháp giới làm một cây lớn, không khác cây thiên ý, rải các thứ hoa như mưa, mây hoa hương phướn lọng và các thức ăn uống vô lượng vô biên chẳng thể cùng tận, cùng khắp trước tất cả Như Lai, các thứ cúng dường khiến mỗi thứ đều cùng khắp. Vận tâm như thế, liền dùng chân ngôn gia trì. Nghĩa là mỗi thứ cúng dường tôn đều dùng bổn chân ngôn và ấn mà gia trì. Kế đây là tám bộ, cũng tùy loại mà mà dùng chân ngôn và ấn. Nhưng các tôn vị này kém hơn các thiên thần.

Ở đây, kế là nói các thiên thần như bổn Du-già nghĩa là đều tương ưng, tức tương ưng với Bổn tôn, như giận dữ thì dùng màu đỏ. Hoặc trong kinh có chân ngôn và ấn, hoặc có liên quan với không. Riêng có một khắp thông với ấn cát tường. Như hoa: là hương thoa… Như lý tương ưng nhau, nhớ nghĩ nhau. Phải dùng hai ngón cái và áp út giữ nhau, ba ngón kia đều rẽ thẳng ra. Dùng ấn này gia trì các vật, cho đến tất cả đồ cúng dường trong đàn được gia trì đều thành tựu. Nếu Bổn tôn tự có bổn ấn gặp lúc cần thì cũng dùng như ấn phổ thông mà gia trì, cũng được. Chân ngôn hương hoa… tức là trước đã nói về chân ngôn hương hoa, đèn nến… đều tùy loại, như kinh Bát-nhã nói: Nếu muốn dùng một hoa mà cúng dường khắp tất cả chư Phật thì phải tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trong đây chỉ vận tâm dùng một hoa hương, nhờ gia trì và Tam-muội mà cúng dường khắp tất cả Hiền Thánh trong pháp giới, khiến gốc lành này không thể cùng tận. Nếu chẳng bắt ấn Cát tường phổ thông. Lại có Kim Cang Phụng ấn, hoặc ấn Liên Hoa và ấn Quan Âm, chỉ làm ở tay phải, chỉ có trời Địa cư thì hợp tay trái mà làm. Nhưng sợ tay trái có làm việc cầm nắm, nên để tay phải làm ấn gia vật cũng được. Nhưng khi cúng dường, trước dùng ấn gia trì, rồi bưng lên mà nói lên tâm dâng hiến, mới đặt ở chỗ các tôn vị. Nếu là hương thoa thì hoặc dùng hương thoa vào thân Tôn vị ấy, cũng tùy chỗ trang nghiêm mà đặt, hoặc để ở trước. Khi gậy khều hoa thì cũng nói cao thấp khác nhau. Nếu là Phật thì phải nâng cao ngang đầu thân ấy, còn Bồ-tát thì từ tim trở lên. Nhị thừa thì ở trên rún, Phật, Bồ-tát thì giữ ở tim, Thế Thiên thì phải ở rún. Đây là nhất định. Địa cư thiên… thì phải từ rún trở xuống. Kế là kiết ấn, rồi dẫn lên hư không mà hiến Phật. Cho đến Địa cư… khiến chuyển xuống. Như trên có bốn bậc các tôn từ thân Phật mà ra. Nay hiến hoa cao thấp cũng y theo trước. Dưới rún là phối hợp với vị Mạn-đồ-la. Nhưng có hai loại sư: Một là nếu Du-già mà thành thì chỉ dùng Tam-muội tâm tự tại đã được thông suốt môn chân ngôn rồi, mới tùy tâm mà làm thành, chẳng đợi sự pháp thì cũng được thành; Hai là nếu sư thế gian thì phải y vào sự pháp, dùng chân ngôn và ấn mà gia, mới thành được.

Kế là đáp nghĩa Hộ-ma. Phải biết Hộ-ma có hai thứ: Một là nội, hai là ngoại. Nói trong ngoài là các phần đều khác. Hộ-ma là nghĩa thiêu, là do Hộ-ma có khả năng thiêu trừ các nghiệp. Vì tất cả chúng sinh đều từ nghiệp sinh, do sinh mà chuyển nghiệp, luân hồi không rời, do nghiệp dứt nên sinh được dứt, tức là được giải thoát. Nếu nghiệp năng thiêu thì gọi là Hộ-ma bên trong. Từ chỗ nào mà được giải thoát, tức là từ nghiệp khổ phiền não mà được giải thoát. Đã lìa thế gian tức là sinh hạt giống, đó gọi là thanh tịnh tâm Bồ-đề. Như lửa thế gian, nếu đốt vật rồi chỉ còn tro tàn. Nay thì chẳng phải thế. Nếu đã thiêu đốt tất cả phiền não, như kiếp thiêu lửa cháy không sót. Mà cũng từ đây được có mầm sinh, tức là mầm Bồ-đề năng thiêu ở đây tức là trí. Như trước nói quán chữ La tóc lửa vây quanh, khiến tưởng này cùng khắp thân. Thân ấy lại cầm dao và dây cột. Dùng chữ La này thì dứt được các nghiệp trừ sạch các chướng. Nghiệp chướng đã sạch thì được sinh tự tịnh hạt giống. Thế nên kế quan tâm Bồ-đề phải biết rằng tâm Bồ-đề sinh được hạt giống. Như thế khi quán phải tưởng chữ Phược khắp tất cả thân phần. Ở trong lỗ chân lông mà tuôn ra chất cam lộ màu trắng cùng khắp mười phương để tưới tất cả thân chúng sinh, vì nhân này khiến cho các hạt giống lần lượt lớn lên, nên gọi là Hộ-ma bên trong. Kế là giải thích Ngoại Hộ-ma. Có ba thứ: Một là Bổn tôn, hai là Chân ngôn, ba là Ấn. Một là Bổn tôn (vì cúng dường nên đặt, tùy môn Sở tông mà đặt, hoặc trong lửa có vị Mạn-đồ-la ấy); Hai là Chân ngôn (lò, nơi để lửa, đây tức là chân ngôn có trong lửa); Ba là Ấn (tức là chỗ ngồi của A-xà-lê, tự thân tức là ấn). Khi thực hành ngoại Hộ-ma khiến ba vị này đối nhau. Ba vị này cũng là nghĩa thanh tịnh ba nghiệp. Bổn ba vị, tức là thân, lò và Bổn tôn ba vị, đều có ba vị Bổn tôn, Chân ngôn và Ấn. Thanh tịnh ba nghiệp thành ba sự, Tôn là ý nghiệp, Chân ngôn là khẩu nghiệp, Ấn là thân sư, thuộc thân nghiệp. Do nhân duyên này mà thanh tịnh ba nghiệp, thành ba sự nghĩa là dứt tai, tăng ích và hàng phục. Ba nghiệp đạo, đạo nghĩa là hội, gặp. Nói cùng lý đồng, vì đồng cho nên hội. Các ông thực hành đạo Bồtát ấy tức là ba đạo đồng quy một chí. Lại ba việc quán chữ đều khác. Nếu thực hành tức tai thì quán chữ La. Phải trên thêm dấu chấm mà có màu trắng. Tăng ích thì tưởng chữ Lam màu vàng. Hàng phục thì tưởng chữ Ám hoặc đen hoặc đỏ. Như chữ Bổn tôn và sắc tự thân, cũng giống như thế ba việc tương ưng liền thành. Ở trong đó lại có thượng, trung, hạ khác nhau. Nghĩa là dứt tai là thượng, tăng ích là trung, hàng phục là hạ. Làm như thế gọi là ngoại Hộ-ma. Phải biết Hộ-ma trong ngoài đây đều gọi là thù thắng, nếu chẳng tương ưng với đây thì làm phí công vô ích. Vì cũng làm ngoại Hộ-ma nên khiến dẫn vào Hộ-ma bên trong. Nhưng lý của trong ngoài vốn chẳng khác nhau. Vì cầu thế gian thành tựu, vì làm phân biệt này khiến làm ngoại Hộ-ma. Nếu làm khác với đây, tức chẳng y theo khuôn phép đã nói. Phải biết người này chẳng biết gì, uổng phí công sức mà không có quả báo. Do chân ngôn lìa trí, tùy tâm vô minh của mình mà vọng làm, thì chẳng bao giờ được quả Tất-địa thế gian, xuất thế gian, nên nói là chẳng được kết quả.

Kế là đáp sắc và hình loại, cũng đại lược có ba bộ. Tỳ-lô-giá-na là Phật bộ, tức là thân pháp giới Như Lai màu trắng. Kế Quán Thế Âm là Phật A-di-đà thân màu vàng. Kế Kim Cang Tạng là Phật Thích-ca Mâu-ni thân màu đỏ vàng. Phật nói các chân ngôn và lời chư Phật nói. Ở trên nói Phật là nêu các chân ngôn trong Phật Như Lai bộ, Bộ nghĩa là từ đó Phật sinh. Cho đến các thần, chỗ Phật hứa khả đều là Phật bộ. Ở dưới nói chư Phật là lời do chư Phật nói, không thông với Bồ-tát trở xuống. Hai thứ này đều có hai thứ sắc, tức là trắng và vàng. Các bộ trở xuống là nói chư Phật nói chân ngôn, nghĩa là lời Tỳ-lô-giá-na nói, thứ lớp phải hiểu biết. Kim Cang Thủ tạp loại, Quán Tự Tại các chân ngôn màu trắng. Tùy việc mà phân, tức đây chỉ nói phải biết, vì trắng vàng hợp nhau, tức chẳng quá vàng quá trắng. Tạp sắc nghĩa là đủ năm màu, tức là tùy sự phân biệt mà dùng. Phật bộ một bề là dùng Tứt Tai, màu trắng tùy sự nghiệp mà phân. Quán Âm thì thuần trắng. Nhưng trong sự đó thì tùy sự nghiệp mà biến chuyển, màu phải là trắng. Bộ Liên Hoa thì một bề là dụng Tăng Ích, sắc màu vàng. Bộ Kim Cang thì hoàn toàn dùng Hàng phục, màu xen tạp (đủ năm màu). Cũng tùy một bộ trong đó mà có ba việc phân biệt. Như trong Phật bộ thì tự có Tứt tai, Tăng ích, Hàng phục. Nếu Tứt tai thì y bổn pháp mà làm màu trắng. Nếu trong Phật bộ khi thực hành Tăng ích thì y vào pháp này mà làm màu vàng. Nếu trong Phật bộ thực hành Hàng phục thì chỉ y pháp này mà chuyển thành tạp sắc. Cũng như Phật bộ, thì Liên Hoa, Kim Cang rất dễ hiểu. Sự trắng phân, nghĩa là tùy loại mà phân việc ấy. Chân ngôn Quán Tự Tại, các tiếng trong đây tức nêu bộ Liên Hoa, vì nêu Phật bộ và bộ Kim Cang.

Kế là nói hình Mạn-đồ-la. Đã hợp Tứt tai ở trước, nay tùy tiếng trước thì sự trước, như Tăng ích ở trước. Các Tăng ích sự Mạn-đồ-la. Vuông mà màu vàng, là đàn Tứt tai. Tròn mà trong màu trắng là đàn Hàng phục. Tam giác mà trong màu đen là đàn Nhiếp triệu. Bán nguyệt (vẽ hình) mà trong tạp sắc. Nhiếp triệu nghĩa là tạp lấy vật gọi triệu mời. Kinh nói khắp bốn phương, là nêu một mà kể hết. Như trong đàn vuông, tức vuông thì đều khắp vuông, tròn thì thứ lớp cũng như thế. Tam giác cũng, cho đến ngoại viện đều vuông. Nếu trong tròn cho đến ngoài thứ lớp đều tròn. Hộ-ma làm lò cũng như thế. Nếu đàn vuông thì lửa đàn cũng vuông. Các thứ khác đều lệ theo đây mà biết.

Kế nói các hình tượng, nên lấy nghĩa tướng mạo làm chánh, cũng có thể nói là sắc tượng. Kệ nói: Sắc tượng trước phải biết. Trước cho là nay ta nói. Sắc loại nhưng các tôn vị các thứ khác nhau, nói tóm tắt có hai thứ là nam và nữ. Nam là trí tuệ làm đầu, nữ là Tam-muội làm kế. Hoặc tất cả chỗ tùy hình sắc. Như tôn hình trong kinh này hoặc các kinh khác, hoặc tùy một chỗ hiển bày hình sắc nghĩa là ứng vật bày hình dáng bất định, nên gọi là không thể suy nghĩ bàn luận, đều chẳng đồng nhau. Song tùy theo loài mà chế. Nếu nói làm màu trắng tức là dùng Tức tai, sắc vàng là Tăng ích. Các thứ khác nên biết. Thấy nam nữ và sắc mạo khác nhau, liền biết chỗ dùng. Trí không thể suy nghĩ bàn luận sinh, như Bổn tôn hợp làm màu trắng nhưng phải làm sự Tăng ích, tùy tâm người tu quán làm sắc vàng thì có dụng Tăng ích, tùy tâm mà chuyển. Nhưng chỗ làm sự đều thật chẳng luống dối. Do trí không thể nghĩ bàn giới trí mà được như thế. Nay nói sắc pháp giới, tức ở trong một sắc liền là tất cả sắc. Trí năng quán cũng tương ưng với cảnh, cho nên được tự tại như thế mà dùng. Vì trừ vô trí nên có các thứ trí sinh. Tuy biết vô lượng nhưng thật ra chỉ là một trí. Trước nói trí là Nhất thiết trí là dùng một trí mà hiện tất cả trí. Trước hỏi Bổn tôn hình lượng lớn nhỏ, nay kế đáp. Nhưng Phật Phổ môn hiện bày đều là ứng phó các căn cơ. Cơ đã muôn thứ khác nhau thì phải biết thùy ứng cũng lớn nhỏ bất định. Còn nói mỗi mỗi hình Bổn tôn thì lượng đồng pháp giới, không có bờ mé, không có đầu cuối. Do trí có cạn sâu mà lượng có lớn nhỏ, nên thấy thân đều khác nhau. Cho nên phải biết chỗ quán Bổn tôn, tùy tâm người tu lớn nhỏ chứ không có lượng nhất định. Nói người chứng trí tức là Phật. Dùng trí vô tận mà chứng cảnh vô tận. Như rương lớn thì sức chứa cũng lớn.

Trước hỏi hình lượng của tôn vị, là hỏi cả tòa và ấn, nay cũng đáp: Thân đã không có lượng nhất định, thì phải biết tòa và ấn cũng như thế. Cho đến tâm rộng thì tòa cũng đồng lượng đó. Ấn cũng như thế, như thứ lớp nói tùy lớn nhỏ. Lại thứ lớp từ Phật khiến Bổn tôn và tòa xứng nhau. Còn trời cũng thế. Kế đáp ấn ấy từ đâu sinh. Phật nói: Như chỗ Phật sinh, Ấn cũng như thế, từ chỗ ấy sinh. Vì sao? Vì tất cả Như Lai đều từ Phật tánh hạt giống tâm Bồ-đề sinh. Phải biết tất cả ấn cũng từ tâm Bồ-đề sinh. Ấn từ pháp giới sinh là ấn đệ tử. Như vua dùng ấn để ấn tất cả tin nhận. Nay dùng ấn tất cả pháp giới sinh mà ấn, tức là pháp ấn, tức là Đại nhân tướng ấn.

Kế là đáp ấn này có công dụng gì, tức là dùng ấn pháp giới này mà ấn đệ tử, tức là nghĩa chẳng dám trái vượt, do mình và người đều chẳng trái vượt. Nghĩa là từ lúc mới phát tâm Bồ-đề cho đến lúc cuối cùng được Phật tuệ, ở khoảng giữa đó chẳng hề lui sụt. Cho nên thế gian gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Do ấn này mà trụ tâm Bồ-đề chẳng lui sụt, nên gọi là chẳng trái vượt. Ấn này tức là ấn cửa sinh tử mở đường pháp giới, nói lược thì ấn này lượng đồng với pháp giới. Do dùng ấn pháp giới này mà ấn, tức khiến người ấy đã có cờ nêu pháp giới rồi có thân Phổ môn đồng pháp giới. Cho nên gọi là ấn cho đệ tử. Vì ấn pháp giới này là lược, nghĩa là dùng Nhất pháp mà ấn. Nêu rộng chẳng thể lường, đây là tướng cờ nêu của Đại nhân.

Trước hỏi Quán đảnh có mấy thứ, nay kế là đáp. Phật tử hãy khéo lắng nghe, là y theo bản tiếng Phạm chánh là nói ân cần đầy đủ lắng nghe. Vì sao từ trước đến nay các câu hỏi không nói lắng nghe mà đến đây mới nói. Nhưng các pháp nếu chẳng lắng nghe thì sẽ quên mất, lỗi ấy chẳng phải nhỏ. Nếu quán đảnh chẳng thành thì chẳng được nghe chân ngôn và ấn. Ngày nay chẳng nên gây ra lỗi lớn này. Cho nên hết lòng khuyên răn. Ví như dòng Sát-lợi ở thế gian, nghĩa là muốn nối dõi để dòng họ vua chẳng mất, nên vì đích tử mà thực hành quán đảnh. Bèn đựng nước bốn bể trong bình bốn báu, rồi trang sức đầy đủ các báu trên thân Thái tử ấy. Lại làm đẹp voi lớn, trên lưng voi lớn để bình báu, cho Thái tử ngồi trong đàn. Tất cả đều nhóm hợp chung quanh. Voi dâng bình nước lên mà chế trên đầu Thái tử. Chế xong thì ba lần hô lớn: Các vị nên biết Thái tử đã thọ nhận ngôi vua. Từ nay trở đi nếu vua có ra lịnh thì đều phải vâng hành. Nay Như Lai Pháp vương cũng giống như thế. Vì khiến cho hạt giống Phật không dứt mất, nên rưới nước pháp cam lộ mà trên đầu Phật tử để khiến hạt giống Phật chẳng dứt. Vì thuận theo pháp thế gian nên có pháp phương tiện ấn trì này. Từ đây trở đi tất cả Thánh chúng đều tôn kính cùng biết người ấy rốt ráo đối với Vô thượng Bồ-đề không hề lui sụt mà nhất định nối tiếp ngôi vị Pháp vương. Nếu có thực hành chân ngôn thân ấn Du-già các nghiệp thì đều chẳng dám trái vượt. Nhưng quán đảnh có ba thứ: Một là chỉ dùng ấn pháp làm lìa các tác nghiệp. Đây là vào Bí mật Mạn-đồ-la. Nghĩa là có đệ tử hết lòng chí thành rất ưa thích hạnh chân ngôn mà chí cầu Đại thừa, nhưng sức mình còn yếu kém. Nếu khiến mỗi câu đầy đủ các việc thì sợ đối với đạo có chướng ngại. Như thế, vị thầy phải có từ tâm thương xót quán rõ tâm hạnh người ấy mà dắt dẫn. Nhưng chỉ được làm cho người ấy, không được làm cho nhiều người. Vì sao? Vì sợ người có sức tự làm được sẽ sinh tâm biếng nhác nhờ cậy, mà chẳng hết lòng, sẽ tổn các cội đức. Khi làm thì tùy sức bày biện chút ít cúng dường Tam bảo. Đây là tối thắng bậc nhất, tức ba thứ thân, miệng, ý của Bổn tôn hợp thành một, ba thứ đều thanh tịnh nên dùng ấn này mà ấn, đây là hơn hết. Thầy đã ngầm trao loại Thủ ấn chân ngôn ấy; hai là dùng sự nghiệp mà quán đảnh, tức là thầy và đệ tử trước đều làm sự nghiệp. Nghĩa là trước bảo đệ tử trong bảy ngày phải thành tâm lễ bái sám hối. Vị thầy cũng trong bảy ngày ấy ngầm trì tụng cầu cảm ứng và bảo sắp bày các vật hương hoa cúng dường. Trong đàn, các việc bảo làm cho đầy đủ. Nhưng quán đảnh này chẳng khác với trước, chỉ vì có sức riêng mà khiến cố hết sức. Trong Hải Hội chư Phật thực hành vô tận cúng dường. Do nhân duyên này mà quả phước thí chẳng thể cùng tận. Cho nên khuyên bảo thực hành đầy đủ; ba là chỉ dùng tâm thực hành quán đảnh. Quán đảnh như thế chẳng chọn thời, chẳng chọn phương, nghĩa là ở hướng Đông mà bày vị, hoặc ở hướng Nam… đều được. Do đệ tử này đã tu hạnh chân ngôn trong Bí mật tạng mà có khả năng thọ nhận, khiến tâm vị thầy vui vẻ. Đây lại rất tối thắng. Thầy và đệ tử đều được Du-già dùng tâm quán đảnh, cũng như xoa đảnh thọ ký.

Lại hết lòng kính thờ thầy, đối với các việc lành đều không trái vượt. Do nhân duyên đó khiến cho Tôn vị vui mừng, cho nên thực hành tâm tưởng quán đảnh. Pháp quán đảnh ấy là A-xà-lê Du-già trước vào tịnh thất mà trụ Tam-muội. Như trước đã nói dùng thân thực hành bốn phần, lớp bốn, lớp vị Mạn-đồ-la, cũng như chỗ hiện phương vị Tỳ-lôgiá-na mỗi vị đều không khác. Làm như thế rồi dùng Bí mật mà gia trì, khiến đệ tử ấy đứng ở ngoài đợi lịnh. Tự nhiên được Kim Cang Thủ oai thần gia trì dẫn vào, cũng tự nhiên biết các cách bắt ấn đúng pháp. Đã vào thất rồi, vì được Kim Cang Thủ gia trì nên thấy được các tôn vị Mạn-đồ-la rõ ràng hiện ra mỗi vị và ấn chữ hình. Bổn tôn đều rất rõ ràng. Bấy giờ, người tu lại dùng năng lực gia trì. Trong tay tự nhiên được trao diệu hoa mà đem cúng dường đại chúng. Tùy Bổn tôn nào hoa rơi trúng, tôn ấy liền phát ra diệu âm thanh mà an ủi, nhiếp thọ.

Bấy giờ, Bổn tôn dùng nước cam lộ Tam-muội của mỗi tôn vị trong đại hội mà vì đệ tử ấy hiện tiền quán đảnh. Khi ấy A-xà-lê chỉ ngồi một chỗ mà vào Tam-muội vắng lặng bất động mà thành tựu được những việc hay ho như thế, khiến Tôn vị vui mừng tương ưng, nói là phụng thờ Bổn tôn, khiến tôn vị vui mừng. Vì người tu hiện tiền mà thực hành quán đảnh, vì biến số và đủ hạnh mà thực hành phụng thờ niệm tụng khiến Tôn vị vui mừng. Hiện tiền nói pháp như đã nói, lệ y theo trước. Như đệ tử giỏi thờ thầy khiến vui mừng thầy vì quán đảnh dạy trao cho.

Kế là đáp Tam-muội-da có mấy thứ. Nay Thế Tôn lược đáp có năm thứ. Tam-muội-da, là như có người ở chỗ tập hội tôn trọng của các vua chúa, quan lớn mà tự phát ra tiếng nói lời thề quan trọng: Nay tôi thề quyết không làm việc ấy, hoặc thề quyết làm việc kia. Để người tin nên phát lời thành thật, nếu trái thì sẽ bị tội nặng. Đó là Tam-muội-da, là nghĩa chẳng trái vượt. Nói tóm tắt là nghĩa giới cấm. Trong đây có năm thứ: Một là chỉ được ở xa nhìn thấy Mạn-đồ-la nghĩa là như khi làm Mạn-đồ-la nói là thấy đầy đủ Mạn-đồ-la. Bỗng có người có tâm tốt tùy hỷ muốn được lễ bái cúng dường.

Bấy giờ, A-xà-lê cho dẫn vào ở ngoài đàn khiến từ xa lễ bái, dùng hoa thơm ở xa tung rải vào đạo tràng mà cúng dường. Được thấy pháp hội như thế nên vô lượng tội nghiệp đều được dứt hết. Nhưng chưa hợp trao cho người ấy chân ngôn và ấn là Tam-muội-da thứ nhất.

Hai là thấy chỗ đặt Mạn-đồ-la nghĩa là dẫn người ấy vào trong đàn, khiến lễ bái cúng dường tung hoa trên Bổn vị. Thầy bảo hoa của ông đã rơi vào chỗ nào… trên tôn vị, rồi nói danh hiệu Bổn tôn ấy. Cùng được vào trong đàn, đều thấy đủ các tôn vị. Người này gọi là Tam-muộida thứ hai. Nếu thỉnh chân ngôn và ấn thì cũng được tùy chỗ mà trao.

Ba là thầy ấn vị Mạn-đồ-la và làm các việc. Nghĩa là A-xà-lê từ đầu đến cuối vì người này mà làm Mạn-đồ-la. Cho đến các tôn vị và ấn… đều chỉ bảo, lại trao cho chân ngôn thủ ấn, mỗi cách làm đều dạy trao, đó là thứ ba.

Bốn là đã tu hành môn chân ngôn đúng phép tắc, mỗi môn đều hiểu rõ, biết đủ các cách khéo léo phương tiện làm đàn, có khả năng ở địa vị của thầy làm vui ý thầy. Thầy vì truyền dạy cho Mạn-đồ-la, bảo rằng: Từ nay về sau ông cũng như ta không khác, tạo Mạn-đồ-la độ các đệ tử khiến cho pháp an trụ lâu dài, hạt giống Phật không dứt, đó là thứ tư.

Năm là tức Bí mật Tam-muội-da, như giáo đã nói ấn đàn phối vị đều thấy. Nếu chẳng trải vào đàn này thì Bí mật trí chẳng sinh. Cho nên phải ở trong đàn bí mật đúng pháp mà thực hành quán đảnh, đó là thứ năm.

Người trí phải biết. Nếu khác đây thì chẳng gọi là Tam-muội-da. Tức ở trước nói khi nhập vào quán đảnh thứ ba. Nếu khác năm việc này thì chẳng gọi là khéo thực hành Tam-muội-da. Nhưng Bí mật Mạn-đồla lại có năm thứ:

Một là ở chỗ thầy trao được chân ngôn ấn pháp, y giáo tu hành, tương ưng với Du-già, ở trong định được thấy các tôn vị đại hội, nhưng chưa được dẫn vào.

Hai là, người đã được dẫn vào trong đàn Bí mật được lễ bái cúng dường mà chưa được Thánh tôn hiện ra quán đảnh.

Ba là đã được dẫn vào trong chúng đại Thánh từ đầu đến cuối, mỗi hạnh bí mật đều được các Thánh phương tiện dạy bảo.

Bốn là khéo tu đạo Bí mật, hiện được các tôn vị thực hành Bí mật truyền dạy Tam-muội-da. Tức là Như Lai khiến thực hành hạnh Như Lai.

Năm là đã đủ các việc trước lại thấy thân mình ở trong đại hội tự làm bậc thầy A-xà-lê, tức là người Nhập địa. Người này mới nhập vào Tam-muội liền thấy tất cả Phật hội, cho đến mười thế giới vi trần đại hội đều nhóm hợp, mà ở trong đó đồng vị với các Tôn vị. Nếu quán sát ở ý khéo trụ là bảo Kim cang. Biết tâm ấy chẳng được ở ba chỗ. Chân ngôn là được tên Bồ-tát, tức là dùng nghĩa mà được tên. Do tự có giác mà chẳng chấp đắm ba chỗ, nghĩa là khi tự thân quán pháp và khi thành, nếu chấp đắm vào ba thứ này thì chẳng gọi là giác tâm. Vì ở ba thứ này không được gọi là Bồ-tát. Trước nói nghĩa Bồ-tát là nói theo pháp tướng, nay do nghĩa đó mà được tên. Kim Cang Thủ trước hỏi lúc nào thì được gọi Bồ-tát, nay kế là đáp, nếu quán ý tâm giác khéo trụ ba chỗ chẳng được trì tụng, thì nói là quán. Nghĩa là trước từ chỗ thấy nhận pháp Du-già. Lược có ba việc, nghĩa là tâm quán Bổn tôn, miệng có chân ngôn, thân có pháp ấn. Ông phải quán như thế. Đã thọ pháp rồi, như nghe mà tu hành, được thấu suốt sáng tỏ, cũng như trong gương mà thấy các hình ảnh, mặt mày, đó là quán. Giác là hiểu rõ cảnh giới chân thật của tâm mình. Khéo trụ tức là chỉ cho Kim Cang Thủ. Phật nói pháp, theo thứ lớp mà gọi tên, hoặc có thể đồng với người tu hành kia, giống như biết rõ tâm mình không có chỗ trụ mà trụ, nên gọi là khéo trụ. Đã được tương ưng với pháp như thế. Được thấy vô lượng cảnh giới của Bổn tôn rộng lớn nghiêm tịnh không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, người tu bèn dùng vô sở đắc làm phương tiện, dùng trí tuệ quan sát, pháp như thế từ trong sinh, từ ngoài sinh, hay từ trong ngoài hợp sinh, từ thân tâm người tu thì gọi là trong, từ cảnh giới Bổn tôn mà đối thì gọi là ngoài, nếu hai thứ hợp duyên thì gọi là khoảng giữa. Như thế mà quán sát biết rõ pháp cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận này chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài vào, chẳng từ trong ngoài hợp thành khoảng giữa mà có. Phải biết xưa nay vốn thanh tịnh, rốt ráo không thật có, không chỗ sinh, ba việc này đều trừ hết, tức là vốn thanh tịnh, một tướng bình đẳng. Vì sao? Vì người tu nội tâm, ngoại cảnh và tâm duyên hòa hợp, khi chánh quán thì ba việc này hòa hợp thì có quán cảnh không thể suy nghĩ bàn luận hiện tiền. Vì ba việc hòa hợp từ điều kiện, nên biết tức là vô sinh, vô tánh, không thật có.

Lại nữa, người tu thân có Bí ấn, miệng có chân ngôn, tâm có quán cảnh giới Bổn tôn, vì ba việc này rốt ráo Vô sinh nhẫn, tức là ba luân thanh tịnh, một tướng bình đẳng. Do người tu lìa ba chấp, tịnh ba luân lìa bốn tướng. Từ đây trở đi liền được gọi là Bồ-tát. Nhưng người tu làm vô sinh, vô tánh khi quán thì tâm không thật có, chẳng mê đắm tướng trong ngoài. Tức là các pháp rốt ráo đều không đều chẳng thật có. Nhưng từ khi phát tâm đến nay tu hành các thứ phước nghiệp và tu hành muôn hạnh lợi ích chúng sinh. Vì sao ở trong cảnh không rốt ráo này mà không bị rơi vào đoạn diệt? Vì người tu có năng lực phương tiện nên chẳng rơi vào lỗi như thế. Vì sao? Như người tu khi mới quán các cảnh có tướng tức là pháp từ duyên khởi, vì từ duyên khởi nên chẳng tự sinh, chẳng khác sinh, chẳng phải cùng, chẳng phải không nhân, cho nên thường vô sinh. Nếu vô sinh, thì pháp nhân duyên này tức là duyên đồng pháp tánh, rất thanh tịnh, đầy đủ tất cả tánh không thể suy nghĩ bàn luận sinh khởi công đức. Tùy cơ duyên mà khởi, cũng như bóng trong gương, trăng đáy nước, có mà chẳng có, chẳng có mà khởi. Tuy từ duyên sinh mà chẳng rời vào hai bên. Cho nên tuy rốt ráo không mà thành tựu các thứ công đức, lợi ích khắp tất cả chúng sinh. Đại bi hóa vật chẳng rơi vào thật tế. Cho nên kinh nói: Dùng phương tiện mà vì chúng sinh làm hạt giống Bồ-đề. Người trí tu quán hạnh vô duyên, phải biết nhân giả này tức là thành Bồ-đề. Quán Vô duyên tức là Trung đạo, hợp đồng nghĩa Phật, nghiệm ra là quán không thể suy nghĩ bàn luận. Phật đã lìa tất cả các chấp để độ người. Chủng là hạt giống. Đã thành Phật đồng với Vô duyên giác. Được pháp vốn vắng lặng mà khởi phương tiện lợi tha, dùng phương tiện để lợi ích chúng sinh thì dùng phương tiện nào. Nếu trụ vào vốn vắng lặng thì trái với bổn thệ. Dùng phương tiện vì chúng sinh mà trồng hạt giống Bồ-đề. Đây là tên khác của lợi ích là độ người, là nghĩa về vô duyên mà làm hữu duyên. Nhân giả là nói Phật vượt chúng sinh tức là hơn người. Nhân giả là tịch căn mà được hơn.

Trước hỏi làm sao thấy Đế, nay kế là đáp. Pháp vốn vắng lặng không có tự tánh, vì các an trụ ấy ở trong pháp vốn vắng lặng. Các tâm lo lắng là đạo của người tu hành. Biết pháp vắng lặng vô tánh bất động như núi Tu-di, đó gọi là thấy đế. Nói thấy đế như trên đã nói: Trước từ thầy trao cho mà được chân ngôn quán hạnh phương tiện, được tương ưng với Tam-muội, rõ ràng hiện tiền. Kế liền như thật chánh quán ba việc, đều không sinh không diệt, tánh chẳng thật có. Do nhân duyên ấy nên có thể hiện biết tất cả pháp từ xưa đến nay là tướng Thường vắng lặng. Trong đây nói các pháp ấy, tức là chỉ cho cảnh quán chiếu ở trước, tức ở trong đây màbiết rõ vốn vắng lặng, mà trụ vào Lý tụ chứng. Đã được an trụ pháp thể như thế, trong trí tuệ chân thật mà nghi hối dứt hết, cũng như núi chúa Tu-di chẳng lay động. Tu-di tức là nghĩa chẳng lay động, trụ vào đây cũng gọi là thấy Đế. Vì đây thật như không, thật như không cũng không. Không có tự tánh gọi là thật. Thật tức như không, thật là chẳng phải nói dối. Kế nói do đó sự thấy biết cũng như Phật (thấy Phật tức như Phật). Trước Phật cũng thấy như thế, mình cũng thấy như thế nên nói là bằng. Thật bằng không và chẳng phải nói dối. Chỗ thấy như Phật tức như thế. Phật trước là giải thích nghĩa thấy Đế. Hễ thấy trụ tức là an trụ vào trí tuệ chân thật nên gọi là Phật. Cũng như biết rõ vô tánh là không bổn tánh vốn tịnh, phải biết các pháp đều không, không nghĩa là lìa luống dối phân biệt mà trụ đế đều là thật. Thấy lý này tức là thấy đạo mà Phật xưa đã thấy, hiểu biết đồng với chư Phật. Xưa, Như Lai cũng từ đường này mà thành Chánh giác, đã được trí tự nhiên như thế. Lại phải truyền trao cho chúng sinh. Nay ta được không khác với đây, nên gọi là Thật, thật tức là không luống dối.

Trước hỏi các người được tâm Bồ-đề, Tất-địa ấy lại không gì hơn. Ngoài ra có năm thứ Tất-địa. Kế hỏi thế nào là Tất-địa, lại có mấy thứ. Nay trước đáp quả. Hễ nói thành tựu Tất-địa tức là trụ tâm Bồ-đề. Tâm

Bồ-đề này tức là Địa thứ mười một, thành tựu tối Chánh giác. Như thế Tất-địa trong các địa là cao hơn hết. Nên kinh nói Tất-địa không có gì hơn. Kế đáp vào tu hành là trụ địa tín hạnh, kế lên vị địa. Nghĩa là Phật Duyên giác hơn năm thần thông thế gian. Tất-địa có mấy thứ? Tất-địa Vô thượng này về trước lược có năm thứ:

  1. Tín.
  2. Nhập địa.
  3. Năm thông.
  4. Nhị thừa.
  5. Thành Phật.

Đây là năm thứ Tất-địa.

Một là Tín, nghĩa là tùy phần thanh tịnh các căn, tin sâu Bí tạng Như Lai quyết định chẳng nghi. Tin Phật có phương tiện như thế, như thế… Nếu y người tu sẽ thành bình đẳng. Đây là Tín hạnh địa tiền.

Hai là Nhập địa, nghĩa là vào địa Sơ hoan hỷ. Đây so với pháp Thanh văn thì cũng như người thấy Đế.

Ba là Năm thông, tức là hiểu rõ cảnh năm thông thế gian cũng như huyễn mộng, như trăng đáy nước, như ảnh trong gương, chẳng nên chấp trước. Bấy giờ, đều vượt tiên nhân năm thông, đó là thứ ba.

Bốn là Nhị thừa, nghĩa là quán sát cảnh giới Nhị thừa, tâm không mê đắm, tâm chẳng rơi vào thật tế. Bấy giờ, được qua cảnh giới Nhị thừa. Bấy giờ, đến Địa thứ tám.

Năm là từ Địa thứ chín tụ hạnh Bồ-đề, càng ngày tiến lên thành vị Như Lai. Nhưng thầy các kinh luận đại khái đều thực hành như lới nói này. Nếu nghĩa trong Bí tạng lại có khác, nghĩa là Sơ hoan hỷ địa có mười tâm. Từ tâm thứ nhất đến tâm thứ tư được độ cảnh giới Năm thông, từ tâm thứ năm đến thứ tám được vượt cảnh giới Thanh văn, Duyên giác. Từ tâm thứ chín, một mực tu đạo Bồ-tát, đến tâm thứ mười gọi là thành Phật. Phật là Giác, nghĩa là giác tự tâm tánh tịnh, xưa nay tướng thường vắng lặng. Nhưng trong mười tâm này từ thứ nhất đến thứ tám gọi là Kiến đạo, từ thứ chín đến thứ mười gọi là quán. Thấy quán nghĩa thấy đế lý. Đây tiến tu quán nghĩa là quán Bí mật công đức không thể suy nghĩ bàn luận của Như Lai. Cảnh bí mất như thế, chẳng phải là pháp thấy được vì ở ngoài tâm lượng. Cho nên riêng gọi là quán đạo. Giác nghĩa là hiểu biết, đã vượt cảnh giới Nhị thừa. Hiểu biết tâm Nhị thừa khác với Bồ-tát. Nếu khi vào Nhị địa cũng đến tâm thứ tư, vượt năm thông, tâm thứ tám vượt Nhị thừa, tâm thứ mười thành Phật. Y theo đây có tín lấy tên nhập vị, chẳng khác mười tâm Sơ địa, nhưng mười tâm này chuyển càng sáng suốt lìa cấu. Cho đến Địa thứ mười cũng có mười tâm. Tức là hễ có mười tâm, mỗi tâm chuyển thắng (càng hơn lên) nên y theo mà biết. Như dụ vàng ròng của kinh Hoa Nghiêm nên y theo mà biết. Mười tâm Sơ địa này xong rồi, liền có thể phân thân thành trăm cõi Phật… như thế có thể biết. Chỉ một trăm tâm thành Phật, kinh Bảo Cự Đà-la-ni có nói rất sâu sắc kín đáo. Kinh này chưa đến các nước phía Đông. Tu thật chẳng dứt khiến tâm tâm tịnh. Kế là đáp sự nghiệp tu hành chẳng dứt cho đến tâm nối nhau thanh tịnh. Tâm tục tịnh nghĩa là chẳng hết công dụng thành thục như thế, cũng có thể gọi là Tất-địa, Tất-địa khi nào sinh. Kinh nói đời đời kiếp kiếp cho đến nghiệp nghiệp chẳng trừ, khiến quả thành thục, lúc ấy Tất-địa thành. Cùng một lúc nghiệp sinh gởi nhờ ở thân. Được trì tụng thì Tất-địa từ ý sinh. Đời đời kiếp kiếp là nói nghĩa. Tiếng Phạm Tán-đa-na, là biết, tức là trong nội tâm. Cũng như chúng sinh thế gian gây ra các thứ nghiệp, nương nghiệp này mà chịu quả báo một đời, hoặc trăm ngàn muôn đời mà nghiệp này chẳng mất, thuần thục thì chịu báo. Nay đáp Tất-địa này sinh cũng như thế. Như người làm tùy thượng trung hạ mà nguyện hẹn, y chân ngôn pháp yếu mà tu được thành Tất-địa. Do Tất-địa này ở thân. Cho đến đời đời kiếp kiếp thường ở trong thân hành giả cũng như nghiệp quả. Tuy là từ các duyên sinh nhưng thường tự vắng lặng, chẳng phải có chẳng phải không mà cũng chẳng dám chẳng quên. Từ đây Tất-địa thành rồi, đời đời chịu quả không mất. Nương nghiệp Tất-địa mà chịu quả ấy, gọi là sinh nhà Tất-địa. Đã sinh nhà Tất-địa rồi, cho đến thành Phật về sau chẳng bao giờ tan mất, cho nên nói nghiệp chẳng thể dứt trừ. Kinh nói Thục, Thục tức là quả, khiến thành thục là nghĩa quả thọ dụng. Một thời nghĩa là một chốc lát, tức là người tu mới y pháp trì tụng. Đã được cảnh giới cho phép thực hành pháp thành tựu, liền ở trong một đêm mà được Tất-địa, do một lúc làm mà được mãi mãi, thường gởi ở thân không bao giờ tan mất. Cũng như bỏ độc trong sữa, cho đến trong đề hồ đều có thể giết người. Như người tại nghiệp trời mà chịu quả, đã được quả báo trời thì tùy niệm liền được, chẳng thêm công sức tùy niệm mà thành, Tất-địa này cũng như thế. Ở mọi đời mọi lúc, người ấy tu điều lành sinh thời làm tịnh nghiệp. Kế là trì tụng được Tất-địa từ ý sinh, tịnh nghiệp cùng chỗ sinh tâm đều bình đẳng không phân biệt. Nghiệp sinh tâm ở đó một thời gian thì Tất-địa thành, thường được tùy ý mà sinh, cho nên nói tùy ý sinh.

Kế đáp làm sao bay lên hư không. Nói người tu nương năng lực Tất-địa bước đi trên hư không, tự tại vô ngại, cũng như đối với huyễn pháp mà không hề sợ. Không sợ nghĩa là đối với khuôn mẫu, phép tắc của pháp huyễn đều hiểu biết không nghi ngờ, là muốn thành. Như nhà ảo thuật hóa các cảnh giới, tùy theo người ưa thích mà bày ra. Nhưng thật ra nhà ảo thuật kia không xao động, cũng chẳng đổi khác nhau. Chỉ dùng nhân duyên chân ngôn, thuốc mê mà mê hoặc lòng người thôi. Nay Tất-địa cũng như thế, chẳng bỏ thân này mà đều thành Tất-địa. Chân ngôn huyễn cũng như lưới trời Đế-thích, mà bước đi trên hư không dạo đi các cõi đều tự tại. Nhưng cũng không hề xao động. Chỉ do chân ngôn huyễn làm ra mà được như thế. Chân ngôn của nhà ảo thuật gọi là lưới trời Đế-thích. Cũng như lưới ấy bao gồm tất cả sự rồi hiện bày các tướng mà chẳng có sự thật, nên gọi là lưới Đế-thích. Đó tức là chân ngôn người ảo ở thế gian (đọc chú mà hóa ra người ảo) mượn đó làm dụ, dụ ra thân người, vật ảo ở đời.

Kế là đáp như thân bí mật ở thành Càn-thát-bà. Ở đó có người ở, chẳng phải thân, cũng chẳng phải thức. Thế nào là thân bí mật? Tức nói đây là người Tất-địa, chẳng bỏ thân này, chẳng bỏ thức này mà hay bí mật thân ấy cũng như thành Càn-thát-bà. Ở trong đó thấy đủ các cung điện người và vật, tuy dường như có mà thật không có, cũng không có mà có, lúc thấy có lúc thấy không. Thân bí mật người này cũng như thành Càn-thát-bà, chỉ từ các duyên sinh, thật ra chẳng có thật, hoặc ẩn hoặc hiện. Do các nhân duyên chân ngôn quán hạnh mà khiến thân này tùy duyên sinh diệt cũng giống như thế. Lại như trong mộng thấy cõi trời Tam thập tam được các thứ vui sướng. Như người ở trong mộng mà thấy đi dạo ở cõi trời, chẳng bỏ thân này, cũng chẳng đến đó. Như thế Du-già thùy chân ngôn, trụ hạnh chân ngôn, thân này như cầu vồng, quá một kiếp từ mộng tỉnh dậy chỉ trong chốc lát người ấy chẳng bỏ thân này, cũng chẳng ở cõi trời ấy, chỉ ngủ mà có việc không thể suy nghĩ bàn luận ấy, chẳng thể dùng tâm thức mà biết được nguyên do. Nay người thành tựu Tất-địa dạo chơi các thế giới cũng như thế. Chỉ dùng Du-già mộng nhân duyên mà có được việc ấy, thành các việc đều rõ ràng. Nhưng biết đó đều như mười dụ, chẳng sinh mê đắm. Thân tịnh nên có Tất-địa cũng như cầu vồng. Chân ngôn đồng Như Ý Châu, do gia trì công đức nghiệp mà có Tất-địa ấy, cầu vòng ở trên trời chẳng biết từ đâu mà có, hay thấy nhiều màu sắc. Chân ngôn như châu Như ý tùy thân ngữ ý mà sinh, tùy niệm mà sinh ra các vật cần dùng. Tuy sinh mà không phân biệt, không phân biệt mà sinh, được Tất-địa cũng giống như thế. Lại như sắc cầu vòng ở trên trời năm sắc sáng rỡ thấy rõ. Nay quán việc ấy là từ không mà có hay từ khí đất sinh ra. Nếu từ hư không sinh ra thì không vốn không pháp, làm sao có được sắc ấy. Nếu từ đất sinh cũng chẳng thể được, mà có việc này rất vui lòng người. Quán biết pháp ấy chẳng tự sinh cũng chẳng do thứ khác sinh, chẳng cùng tận, chẳng phải không có nhân, chỉ là các duyên hòa hợp. Nay thân Tất-địa cũng như thế. Dùng năng lực chân ngôn trì tụng công đức mà có các dụng thần biến không thể suy nghĩ bàn luận như thế cũng như cầu vòng kia. Lại giải thích nghi ngờ, như có người nói pháp sự tướng chân ngôn làm sao có thể thành pháp vô tướng thấy đế chân thật. Nhưng pháp chân thật này thật ra chẳng lìa nhân duyên, tức quán duyên sinh thật tướng này là cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận, như châu như ý ở trên đầu cột cờ, làm mãn nguyện tất cả mọi người, tùy tâm muốn liền được, nay xem nó từ châu mà sinh hay từ tâm người mà sinh. Nếu từ châu sinh vì sao không có trong mọi lúc mà phải đợi tâm người mong ước mới có. Nếu từ tâm người sinh ra, thì tâm người liền được sao phải đợi châu? Phải biết chẳng từ châu sinh, cũng chẳng từ tâm người sinh, chẳng phải cộng, chẳng phải vô nhân duyên, chỉ hòa hợp mà có. Nay Tất-địa không thể suy nghĩ bàn luận thần biến cũng như thế. Chỉ do chân ngôn quán tôn và thân ấn các duyên mà thành Tất-địa. Do chân ngôn nên khẩu nghiệp thanh tịnh, quán Bổn tôn nên ý nghiệp thanh tịnh, bắt ấn nên thân nghiệp thanh tịnh. Ba việc bình đẳng nên tự nhiên mà có nghiệp không thể suy nghĩ bàn luận. Nhưng cũng chẳng thể phân biệt vì vô tư vô vi. Nếu thế đã đồng như ý thì phải biết là có tướng pháp chăng, hay trừ chỗ thấy ấy mà nói dụ thái hư không. Cũng như hư không vô tướng vô phân biệt nhưng tất cả hữu tình tới lui làm nghiệp thì đều là nhân không mà được thành tựu, tất cả sắc tướng muôn vật cũng nhân không mà được hiển bày, tánh hư không thường vô phân biệt, không có tướng sinh khởi. Chân ngôn cũng như thế, bản tánh thường thanh tịnh đồng với hư không, tất cả hữu vi đều chẳng thể nhiễm, mà cũng làm cho thành tựu các thứ tác nghiệp, phổ môn biến hóa không thể nghĩ bàn, vì sao lại có tướng. Phải biết các pháp thế gian có tướng, lấy hình tướng ấy gọi là tướng nhân, do phân biệt này mà đặt tên, danh là tên, như thế pháp danh tướng đều đồng mười dụ, chỉ từ nhân duyên mà có, do điên đảo mà sinh nên nói thật ra vô sinh vô tánh. Tức đồng pháp giới tánh như như. Nếu quán như thế, tức là cùng tất cả Như Lai đồng ở một chỗ. Người ấy tuy chưa thể rốt ráo Phật tuệ, nhưng sự hiểu biết thì đồng với chư Phật, cũng tương ưng với pháp. Đồng với chư Phật, tức là ở chung một chỗ với chư Phật. Nói mười phương hư không, thí như hư không mới nói mười phương không, lìa tất cả hạnh hữu vi chẳng nhiễm. Chân ngôn là chẳng nhiễm ô tất cả hạnh phân biệt. Như thế mà quán sát hiểu rõ chỉ là tưởng, chân ngôn là khi quán sát, chư Phật đồng tùy hỷ.

Hộ-ma có hai thứ, trước tuy nói lược tướng Hộ-ma, nay lại phân biệt trong ngoài Hộ-ma. Như Lưỡng Túc Tôn đã nói. Hộ-ma có hai thứ: Một là Ngoại Hộ-ma, tức là tác pháp trừ các chướng phiền não, tùy phiền não; Hai là Hộ-ma bên trong, nghĩa là chư Phật Lưỡng Túc Tôn nói hai thứ Hộ-ma, đó là nội và ngoại, là dứt các cảnh giới mười hai duyên sinh… Nhưng Ngoại Hộ-ma cùng Hộ-ma bên trong mà làm phương tiện tức là nhân ấy.

Có người hỏi: Nay thực hành Thí Hộ-ma này mà cầu quả ấy, tức là có chỗ mong cầu, há được thành chân lý?

Đáp: Nay ta không có mong cầu.

Hỏi: Nếu thế sao chẳng theo thường pháp của Đàn-na mà thí khắp cho tất cả người nghèo khổ, mà lại luống đem đốt hết thì có nghĩa gì?

Đáp: Người phàm phu có thí mà có nhận, tức là có tâm mong cầu, hoặc cầu phản báo hoặc mong thí quả. Vì nhân duyên này nên chẳng thể đối trị tâm mong cầu, tức chẳng dứt hết nguồn tham ái. Vì nhân duyên đó nên chẳng thể cùng Hộ-ma bên trong làm nhân duyên. Nay thiêu thí này tức là dứt hết lỗi lầm ấy mà thực hành quán đối trị. Làm nhân tuệ không mê mà làm Hộ-ma bên trong phương tiện. Cho nên thực hành như thế. Cũng dâng vật cúng này lên Bổn tôn, tức biết tâm mong cầu cũng như vật này không khác. Tất cả như củi hết thì lửa tắt, không thể nắm lấy, cũng không nơi chốn cho nên làm duyên với Hộ-ma bên trong là hạnh sâu xa. Trong phần làm tăng ích có tăng oai. Như khi dâng hoa trước phải trừ dơ bẩn, xong rồi liền tăng ích oai quang, sau mới cúng dường. Như Hoa đã thế thì Hộ-ma cũng thế, A-xà-lê liền thực hành Hộma bên trong. Nếu người hạnh cạn mà thực hành pháp ngoài thì rốt ráo là nhân nội pháp.

Lại nữa, Biệt tướng Bổn tôn bản tánh cần chứng biết. Nghĩa là Phật, Bồ-tát, Nhị thừa, Thiên thần thượng trung hạ, quán sát hình sắc ấy liền sẽ biết. Tu hành chân ngôn lại có các thứ khác nhau. Nay khoa giản lược, nếu người thế gian y theo tôn vị của tự bộ đó mà tu hạnh chân ngôn. Nghĩa là như trời Đại tự tại… có vô lượng các thứ khác nhau chẳng thể nói hết. Kinh chỉ nêu một góc, dùng Đại Tự Tại làm đầu mối. Nhưng thực hành làm pháp cúng dường thì họ đều mong thành tựu quả Tự bộ Bổn tôn, tùy tánh vị khác nhau chẳng đồng đều mà trông mong nguyện cầu thành quả ấy. Tâm có hạn lượng thì quả cũng như thế. Chân ngôn thế gian… nói có hạn lượng. Thế gian biết rõ phước đức các trời Tự Tại, họ nói chân ngôn và cho ấn Đại lực đều là quả ở hiện đời. Cho nên nói lượng có khác chút ít. Nghĩa là pháp sinh diệt không bền chắc, tức không có ở đời sau. Nói lượng là Phật nói pháp có hạn lượng. Nói thế, tuy nhiên không đồng với Như Lai nói pháp tu hành Hộ-ma. Vì người đời chỉ cầu quả báo của bổn Thiên thần ấy mà muốn chứng. Phật cũng thực hành pháp xuất thế Hộ-ma mà đối trị. Cho nên có pháp chân ngôn hạnh Hộ-ma. Nhưng Tôn vị của người đời kia nếu ở trong pháp ấy là rất rốt ráo, được cùng loại với Bổn tôn ấy, chẳng được cao hơn. Chân ngôn và ấn ấy cũng như thế. Chỉ tùy tôn vị ấy gieo trồng phước cạn sâu, thế lực kham nhận được mà nói Chân ngôn Thủ ấn Bổn tôn… Tùy theo sức lực mà chỉ được thành quả Bổn tôn ấy. Lại chỉ có thể thành quả hiện đời được thế gian thành tựu, chẳng thể nào thành quả xuất thế gian. Khéo tu Như Lai Chân Ngôn Ấn… thì chẳng như thế, mãi mãi mất mát tan hoại vô cùng tận, đó là chỗ khác nhau. Như nước lỗ chân trâu, nếu khiến dừng nước, tùy hết thế lực cũ mà tự khô cạn. Nếu người dùng nước này mà đổ vào biển lớn, thì không có việc cạn hết. Vì sao? Vì cùng tất cả tánh nước hòa hợp một vị chẳng thể cùng tận. Tu chân ngôn hạnh Như Lai cũng giống như thế, cho đến thành Phật đến nay đời đời chịu quả Tất-địa này chẳng bao giờ hết, trọn nương sức này mà được Bồ-đề. Vì sao? Vì mình cùng tất cả biển lớn Như Lai đồng một vị. Các chân ngôn xuất thế, vốn xưa là bất sinh vô tác (chẳng sinh chẳng làm). Các nghiệp sinh đều hết, lìa ba lỗi thân, miệng, ý mà thành Phật. Chân ngôn xuất thế gian từ đầu bất tác bất sinh. Nhưng Tôn vị thế gian ấy là tự tại Độc giác và các chân ngôn của Phật, Thanh văn, chúng Bồ-tát… nay ta nói lượng của nó. Chân ngôn của trời nói đều là pháp có làm, từ Tôn sinh kia xuất ra chân ngôn vượt qua ba thời, từ duyên mà sinh khởi cũng có thể đều dùng chữ, quả có thể thấy chẳng thấy, từ thân ngữ ý sinh ra thì chẳng như thế. Chẳng phải Như Lai tự làm, cũng chẳng phải các Phật xưa đã làm. Thế gian đều nói là quả trải qua tất cả, chân ngôn mà Đẳng Chánh Giác nói quả vượt hơn số kiếp. Cho nên phải biết ấn Chân ngôn này từ bổn tế Như Lai pháp tánh tự như thế, không phải do sinh làm ra.

Hỏi: Nếu nói không làm không có sinh, nay hiện thấy những người vì cầu quả Tất-địa mà tha thiết dùng phương tiện được thành quả ấy, đã có sinh có quả, thì có chỗ làm, sao nói chẳng sinh?

Đáp: Nghĩa ấy chẳng như thế, phàm là tánh chân ngôn cho đến thủ ấn trì tụng, thì thể đồng hư không, quả sinh ra cũng giống như thế. Do từ ba việc Chân ngôn, Thủ ấn, Bổn tôn là nhân duyên bình đẳng, làm thanh tịnh ba chướng, từ đây mà sinh ra quả không thể suy nghĩ bàn luận. Cho nên quả không thể suy nghĩ bàn luận này lượng nó chẳng thể được. Như chân ngôn và ấn ấy đồng với hư không. Phải biết quả này cũng đồng với hư không. Cho đến Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát… có chân ngôn, cũng đồng với lượng ấy đều vượt ba thời. Ba thời là quá khứ, hiện tại, vị lai vì lìa ba thời nên nương quả Tất-địa này không bao giờ hư mất, rốt ráo thành Vô thượng Bồ-đề, quả duyên sinh mà khởi, nghĩa duyên chân ngôn, thủ ấn, Bổn tôn các duyên đầy đủ, mà được thành tựu. Cho nên lượng này tức là thật tướng Trung đạo bình đẳng, quả có hai thứ: Một là pháp thấy được, nghĩa là hiện đời được thành tựu; Hai là pháp chẳng thể thấy là quả báo ở vị lai mãi mãi vô tận đời đời chịu quả, xoay vần tiến lên cho đến thành Phật. Nhưng chẳng phải biểu nghiệp, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm pháp, chẳng có chẳng mất, mà chẳng dám quên. Nhưng thân nghiệp, ngữ nghiệp, và ý nghiệp thanh tịnh nhân duyên mà sinh ra pháp vô sinh vô tánh này.

 

Kế là đáp quả số thọ lượng (tuổi thọ) bao lâu. Nhưng Tôn vị thế gian có thế lực chân ngôn cao nhất không quá một kiếp. Lời Phật nói thì vượt hơn một kiếp, nghĩa là hơn một kiếp lại vượt một kiếp như thế vô lượng cho đến thành Phật. Cho nên người đời có được Tất-địa thọ lượng và quả thì có số hạn chẳng hơn một kiếp. Nay thì chẳng mất, thọ lượng vô tận quá hơn lượng một kiếp số. Nếu giải thích theo sự, thì chỉ tùy sức có thể hơn bao nhiêu kiếp, hoặc thọ lượng bất tận quá vô lượng kiếp, cũng là hơn cả các trời thế gian, cho nên nói vượt hơn kiếp, gồm chung lời bất định. Đúng thật mà nói thì tuổi thọ vượt hơn kiếp số, chịu báo cũng không hạn lượng.

Kế là đáp Tam-muội, lược có nhiều thứ. Nếu chư Phật và Phật tử, Tam-muội của chư Phật đại tiên và các Phật tử, thanh tịnh lìa các tưởng có tưởng là thế gian, Nhị thừa gọi là Tam-muội ly tưởng. Nếu là thế gian Du-già thì gọi là Tam-muội hữu tướng. Tam-ma nghĩa là đẳng, địa là tuệ dùng tuệ quán chiếu ba việc như trước đều không. Vì ba việc thể không bình đẳng mà hợp thành một, đó gọi là Tam-muội địa. Nhưng Tam-muội của Phật và Bồ-tát đều lìa tưởng, thanh tịnh, dùng Tam-muội này chánh quán ba việc đều bình đẳng, lại không phân biệt và lìa các tưởng, cho nên bản tánh trong trắng, lìa các nhiễm ô, nên gọi là thanh tịnh. Nếu có tưởng tức là tất cả Tam-muội thế gian. Nghĩa là tùy quả tu hành, nhìn quả tu nhân có sự trông mong, rốt đến bốn thiền tám định cũng chẳng hơn, nên không phải thanh tịnh, Thanh văn, Duyên giác chỉ được thanh tịnh, nhưng chưa thanh tịnh tất cả vì đối với phiền não chỉ biết hai chướng, chưa được biết khắp nên chưa thuần tịnh. Tam-muội thế gian lại có hai thứ:

  1. Đoạn kiến.
  2. Thường kiến.

Nếu Đoạn kiến mà không phân biệt, Thường là có chút ít phân biệt. Từ nghiệp được quả, là có thời thành thục. Nếu được Tất-địa thì đối với nghiệp tự tại được hồi chuyển, phải nhận cũng được, chẳng nhận cũng được, vì tâm vô tự tánh nên tâm tánh lìa nhân quả. Đối với tướng giải thoát thì các hư không như nghiệp sinh sinh… thành tựu và khi chín thì nghiệp được quả. Nếu được Tất-địa thì đương nghiệp hồi tâm vô tánh, nhân quả cũng lìa, nghiệp sinh giải thoát. Sinh như hư không nghĩa là Tam-muội hữu tướng thế gian, cũng có nghiệp tùy theo quả báo mà tu nên gọi là thành tựu, được thành thục ấy gọi là Tất-địa. Nếu dùng không thế gian này mà hồi hướng tâm không tự tánh này, thể đã vô tướng bằng với hư không chẳng bờ bến, cho nên được công đức cũng rộng. Hồi tâm không tự tánh này gọi là chất-đa. Chất-đa cũng như các tơ lụa màu trang nghiêm chứa nhóm lại thì gọi là chất-đa (lụa màu do các sợi tơ màu hợp lại thì gọi là chất-đa).

Cũng do các tơ màu mà thành, tức là không có tự tánh, đây tức là nhân. Bổn nhân đã không có tự tánh, thì phải biết quả sinh ra cũng không có tự tánh. Vì sao? Vì nếu nhân có sinh thì quả cũng có sinh. Nay nhân còn đợi các duyên mà thành vô sinh vô tánh thì phải biết sinh chẳng thật có. Vì nhân quả đều như thế nên được giải thoát các nghiệp. Có người nói nếu như thế thì không nhân không quả, rơi vào kiến chấp đoạn diệt. Đây không phải thế, chỉ lìa tánh nghiệp sinh. Đã lìa nghiệp sinh thì có sinh pháp tánh bằng với hư không. Vì hư không vô biên, nên biết việc thành công đức lợi ích chúng sinh cũng là vô biên vô tận, nên chẳng phải đoạn diệt.

Trên đã nói lược kệ đáp Kim Cang Thủ hỏi xong. Lại dùng văn xuôi mà nói. Kế lại nói là do trước nói việc có chỗ chưa hết nên nay lại nói tiếp, nên nói là lại nói. Lắng nghe là đem pháp này chuyển ý chỉ sâu xa quan trọng nên lại khuyên lắng nghe. Trong đây lược năm việc là Ấn, Sắc, Tôn Vị, Trụ và Tam-muội. Ấn là thủ ấn, khế ấn đổi làm hình tướng. Sắc tức là hình tướng Bổn tôn, phần đoạn sai khác. Trí (trí = đặt) tức là vuông, tròn, bán nguyệt, tam giác… tôn vị là trong Mạn-đồla chỗ trụ phương vị đều đúng chỗ. Trụ nghĩa là tượng Bổn tôn không phải thêu họa mà do chân ngôn và ấn dẫn đến Bổn tòa thêm uy mà trụ, mà hiện oai nghiệm. Tam-muội nghĩa là tùy chia ra thượng, trung, hạ, yên lặng, giận, vui… các tướng thỉnh Bổn tôn đúng pháp làm ấn và hình tướng, phân phối đặt tôn vị, oai nghiên hiện tiền, trụ chỗ Tam-muội. Chỗ ở gọi là thú, tức là chỗ Tam-muội cần phải nói đủ năm duyên phương, đó gọi là năm thú. Thú là nghĩa riêng khác. Do năm duyên khác nhau nên gọi là năm. Do dủ năm thứ này nên thế gian và xuất thế gian có Mạn-đồ-la thì đều sẽ hiểu rõ.

Nhưng năm việc này là các Phật xưa thành Tối Chánh giác, Phật trước thành Tam-bồ-đề. Hạnh Pháp giới hư không. Hạnh Pháp giới hư không là do thể đồng pháp giới thành hạnh Như Lai. Như thế chư Phật bổn nguyện độ không sót thế giới hữu tình, làm lợi ích an vui các Bồtát tu môn chân ngôn, mà vì giảng nói, khiến tha thiết nghe nhận. Kim Cang Thủ nói: Đúng thế! Thế Tôn! Con mong được nghe, là Kim Cang Thủ có mười thế giới và Phổ Hiền… có mười thế giới đại chúng, mong Phật dạy, đồng lên tiếng bạch rằng: Đúng thế! Thế Tôn! Con xin được nghe.

Cho nên, Phật lại nói pháp Bí mật Mạn-đồ-la. Phật nói có Chánh Đẳng Giác Mạn-đồ-la, đặt kín trong các tên Bí mật Vô thượng Đại Bi Tạng… vô lượng thế gian, xuất thế gian Mạn-đồ-la đồng nhau, tức là nói Bồ-tát tối Chánh giác rốt ráo. Song Đại bi tạng này sinh, trước đã nói xong, nay sao lại nói, vậy có gì khác? Song trước tuy nói ấy là càng bí mật, có bí trong bí. Nếu chẳng nói pháp này, tức là thông suốt pháp trước cũng chẳng được thành. Cho nên rất bí yếu. Nếu hiểu việc này thì tất cả các Mạn-đồ-la thế gian đều đồng dụng, không đâu chẳng vào. Phép làm là trước làm bốn phương Mạn-đồ-la. Giới chỉ dùng Yết-ma Kim Cang Trí Ấn, xoay quanh liền nhau làm đạo, chỉ đặt mười chữ trong đó. Lại làm ấn mười chữ Kim cang. Ấn làm như trước đã làm, chỉ dùng mười chữ là khác. Ấn mười chữ Kim cang ấy trên làm hoa sen, nở phân nửa ngửa ta. Khiến mười chữ như hình đá hoa. Trên hoa ấy lại để hoa tám cánh. Tức phương vị như năm vị Phật, bốn vị Bồ-tát trước. Phải dùng tâm tưởng mà đặt chín dấu chấm, tức là trong đài và tám cánh đều tưởng một dấu chấm. Dấu chấm này tức là chứng đại không, đây là nghĩa thành Chánh giác. Ở trong tám nghiệp này thường làm vuông tròn Mạn-đồ-la mà vẽ tượng Bổn tôn. Phật thì đàn vuông, Bồ-tát đàn tròn. Đây chỉ là người tu trị làm thôi chẳng khiến bày người khác. Nếu khi làm pháp thì tự tại ngồi trong đàn, tự làm pháp quán đảnh, sau đó mới làm tất cả pháp sự. Đây rất bí mật, chỉ tâm giữ làm, không thể ghi chép bằng bút mực. Lại trên đài phải tưởng mười hai chữ Chân ngôn vương như trên, khiến chữ ấy đều phân biệt để trên đàn. Lại hỏi: Đặt Liên hoàn hay đặt thứ lớp. Lại nói trong hoa để con, nghĩa là vẽ hoa sen, hoặc mười, hoặc dưới, hoặc hơn không nhất định. Kinh nói lưu xuất, nghĩa là người hiểu rõ pháp Bí mật này. Tất cả đàn thế gian xuất thế gian đều ở đó mà lưu xuất. Tùy nghĩa tương ưng mà hiểu. Lược có bốn thứ tạo pháp Bí mật, tức là sự nghiệp, Hình, Tất-địa, vị an trí (đặt để vị). Hiểu rõ bốn pháp này liền thông tất cả pháp lưu xuất. Từ đây lưu xuất ra các đàn, đều y theo Bổn giáo đã nói. Phật tử là bảo ông ấy, tức Kim cang. Lại bốn Bồ-tát, là Phổ Hiền Tốn, Văn-thù Khôn, Từ Thị Càn, Quan Âm cấn, là vị ấy. Trước duyên khởi lệ với trong chúng, hoặc để trừ che chướng mà giúp Quán Âm, hoặc để trừ tất cả đường ác mà giúp Văn-thù, nghĩa nó đều khác. Khóa lễ dùng một việc cũng được. Trong đây dùng Quán Âm làm chánh. Như trên Tỳ-lô-giá-na Mạn-đồla đã xong.

Kế Sơ Chánh Giác, là nói đầu tiên, nói chư Phật Mạn-đồ-la, tức là Phật bộ.

(Hai hình vẽ)

Thực hành Mạn-đồ-la thuộc Phật Bộ này, làm hình tròn Mạn-đồla, tròn như mặt trăng, trong trắng như sắc vỏ sò. Trong hình tròn này trước để hoa sen trắng, trên hoa có hình tam giác, trong tam giác để màu đỏ và vẽ hình Phật trong đó. Quanh tam giác là vòng Kim Cang (như hình vẽ) quanh tam giác có các dấu chấm, chấm là nêu, ngoài có vòng lửa sáng như hình khước địch. Ngoài vòng tròn có dấu chấm. Quang phổ đều lưu xuất, nghĩa là tưởng ánh sáng từ thân Phật tuôn ra, dần dần bao khắp ngoài tam giác. Chân ngôn chủ tức là Bổn tôn. Khắp thân có ánh sáng phát ra. Trước và trong Đại đàn cũng có ấn tam giác khác với chỗ dùng này. Trước là chỉ có ấn. Trong đây đặt Phật hoặc ấn, thực hành pháp đầy đủ trong đó.

Kế là bộ Liên Hoa. Ở đây nói thuộc việc trên thế gian xuất thế gian đồng vẽ. Ở đây đồng cũng có thể gọi là có. Nói thế gian xuất thế gian có vô lượng Mạn-đồ-la khiến khéo nghe dời hình vuông lên trên.

Phải biết đây là đàn Bi Sinh đầu tiên.

(Hình vẽ Phật ngồi trên vỏ ốc).

Làm Mạn-đồ-la vuông, trong vẽ Thương-khư. Trên Thương-khư có hoa sen. Trên hoa sen có Kim cang, trên Kim cang lại có hoa sen, trên hoa sen lại đặt Bồ-tát Quán Âm hoặc có thể để ấn hay để chữ, trên các ấn đều để chữ hạt giống, tức là Thương-khư Kim Cang và trên hoa. Ở viện kế thì đặt Đại Thế Chí, cho ánh sáng chiếu khắp chớ sinh nghi lo. Vì hạt giống gốc khéo đặt mà làm hạt giống. Đẳng xứ thì đặt bảy Bạch cát tường, mỗi vị đều có hai người sứ. Kinh này chỉ nói lược tự riêng có Quán Âm trong bộ pháp có chép đủ, phải xem xét biết rõ.

Minh Phi Tư tài chủ là hay tự tại thí cho người cầu và Đại Thế Chí… đúng như pháp mà thực hành. Thực hành được Tôn tự tại, giữ nêu tướng ấn phải khéo léo mà làm, tức nói đúng như pháp mà làm. Trụ đầu ngựa trong hình tam giác, hợp ở chỗ nào thì vẽ ở trong đàn. Ngoài ra các tôn vị cũng đều có hình sắc khác nhau và vuông, tròn, bán nguyệt, tam giác… hợp có thể dùng đều như quảng bản. Trước nói phải thông năm việc, tức là Hình, Sắc, Khế ấn, Bổn tôn, và Vị như họa hình Bổn tôn phải làm sắc nào và hình tượng gì đều có ấn. Trước là Đại bi tạng sinh là đàn Gia hội. Nay trong đây tùy ba bộ đều có riêng. Như trong đây đàn Liên hoa bộ, trong thai là đàn Cát tường. Dùng Quán Âm làm chủ, ngoài thai thì lưu không địa, ngoài Không địa tức là chỗ ngồi thứ hai, đều đặt các tôn vị thuộc bộ Quán Âm. Các thứ khác đều làm như trong đại đàn. Chỗ không ấy cũng để các Phật mười phương. Ở chỗ ngồi thứ ba cũng để ba bộ chúng, y cứ theo trước có thể hiểu.

Trong tam giác cũng như mặt trời sáng rực. Nghĩa là mặt trời mới mọc màu đỏ vàng ở bên Minh vương, ở bên Đại Thế Chí. Kế lại nếu làm đầu ngựa Mạn-đồ-la, thì phải đặt trong tam giác ở ngoài ba lớp, Mạn-đồ-la ấy cũng tùy làm tam giác, khi làm thì Ha-da ở trong, tức dời Quan Âm đến chỗ Thế Chí, các quyến thuộc khác đều vây quanh. Các vị khác thì có thể dùng ý để hiểu lẫn nhau. Kế làm Mạn-đồ-la thứ hai, nghĩa là từ bộ Liên Hoa mà đếm số, tức bộ Liên Hoa là một, Kim Cang là bộ thứ hai. Ta chánh nói tức là khéo nói, không trước không sau theo thứ lớp mà nói là bộ thứ hai. Mạn-đồ-la ấy bốn phương làm khắp lấy Kim Cang. Dùng ba nhánh, là làm giới duyên giáp với vòng tròn, trong vòng tròn thì màu vàng để hoa sen. Trên hoa có bình, bình trắng như trăng, hoặc dùng Kim cang, hoặc dùng vật khác mà vây quanh. Trên bình ấy có đại gió, tức hình bán nguyệt, trong đó như mây đen, dưới đó có hình cây phướn. Như Đại gió thổi thì hình thế xao động. Trong bán nguyệt ấy như có lửa dữ làm hình tam giác.

Tam giác ấy cũng có Kim cang vây quanh. Trong tam giác màu đỏ như mặt trời mới mọc, trong đó đặt hoa sen. Hoa sen đỏ như màu lửa dữ kiếp tai. Trên hoa sen vẽ Kim cang. Kim cang ấy phát ra các luồng sáng rực. Nếu vẽ hình thì trên để chữ hạt giống, tức là chữ Hồng. Nếu vẽ ấn thì tưởng chữ Hồng tụng mà gia trì. Trên ấn để chữ, đây là Mạnđồ-la của ông: Phật nói với Kim Cang Thủ, nên bảo là Mạn-đồ-la của ông. Xưa chư Phật đều nói, ta cũng nói như thế. Các Minh vương đều y theo bổn, tọa loại hình sắc, nghĩa là Kim Cang Mẫu và Kim Cang Châm Tỏa, có nhiều Kim cang quyến thuộc, đều y hình sắc khác nhau của Bổn tôn, hoặc vẽ hình, hoặc bắt ấn, hoặc để chữ hạt giống, đều y pháp thứ lớp tương ưng. Nghĩa là thành tựu Diệu Tất-địa nên để ở đây.

Kim Cang Thủ là Trung Thai, các bộ loại là viện thứ hai. Ở đây đều nói Trung Thai, chuyển thành vô lượng đàn. Tiên đạo thì để bên phải, hậu đạo thì để bên trái. Tùy chỗ mở cửa mà biện trái phải.

Lại nữa, ta trước nói Kim Cang có nhiều tên khác. Tự tại nghĩa là ở Kim Cang được tự tại. Lại nữa, ở đây nói Kim Cang Chấp Tự Tại. Như Đại Bi Tạng trong đại hội ở trước, dưới Tỳ-lô là bất động giáng ba đời trung gian. Vẽ các Kim cang, đều chưa nêu tên, nay mới nêu. Nên nói lại nữa, tức là hư không Vô Cấu Kim Cang, Kim Cang Luân, Kim Cang Nha, Tô-lật-đa Kim Cang, Danh Xưng Kim Cang Đại Phần, Kim Cang Lợi. Đàn này chung dùng ấn mà làm Vắng lặng Kim Cang, Đại Kim Cang, Thành Kim Cang, Liên Hoa Kim Cang, Quảng Nhãn Kim Cang, Chấp Diệu Kim Cang, Kim Cang Kim Cang, Vô Trụ Hý Luận Kim Cang, Hư Không Vô Biên Du Bộ Kim Cang… Như thế các đàn vuông tròn… y trước thuận sắc hình cũng như đây. Y theo tên mà làm thứ lớp. Đến cuối thì trở lại đầu. Trắng vàng đỏ đen… tùy thứ lớp văn. Trước là trắng, kế là vàng, rồi đỏ và đen. Rồi lại trắng, thứ lớp như thế và những chỗ chẳng nói. Y cứ theo đây mà hiểu, tùy bổn loại hình sắc mà làm. Kim Cang này có mười số bụi cõi Phật. Trước nêu chúng, trong đây có hiện ra và mất đi, hoặc đây có trong kia không thể biết. Lại đây từ ấn Kim cang hoặc ba nhánh, hoặc một cổ. Đây là y theo thứ lớp như trước.

Trước làm ba nhánh, đến cuối thì trở lại đầu, hoặc hai đầu, hai đầu này là năm nhánh. Ấn này giáp vòng làm bốn liêm, như bốn Kim cang, trong đó có một, hình như năm nhánh mà chẳng mở. Hoặc man, hoặc trì Kim Cang Man. Các Kim Cang này đều dùng Bổn danh làm chân ngôn. Tức đây gọi chữ cao nhất là hạt giống, kế tùy chữ khác và thông dụng, đều ở trên tim mà đặt chữ Hồng. Thủ ấn ấy thông dụng ấn năm nhánh Kim cang ở trên. Bất động tôn Mạn-đồ-la gió hỏa đều đủ. Gió hình bán nguyệt, hỏa hình tam giác. Nghĩa là ở trong đàn bán nguyệt mà vẽ hình tam giác, trong tam giác vẽ hình bất động tôn, ở phương Nê-lý-để, cho nên Tỳ-lô-giá-na ở phương Tây Nam mà làm, hoặc ba đời khác lạ, tức là ở gió phương cho đây là khác, các thứ khác động, bất động, ba chỗ lấy Kim cang vây quanh. Ba chỗ là hoặc hình, hoặc ấn, hoặc chữ. Nhưng bất động tôn Mạn-đồ-la nếu làm khác, Bất động ở giữa, Tỳ-lô ở giữa trong viện Đông phương. Các quyến thuộc Kim cang khác đều vây quanh. Kế nói Phật Mẫu Mạn-đồ-la, trước đặt khắp hình Mạn-đồ-la. Trước phải biết ở đây nói màu vàng là chỉ nêu tên chứ chưa nói tôn hình và ấn, nay sẽ nêu ra. Trước nói làm Mạn-đồ-la, màu vàng bốn phương, dùng Kim cang làm ranh giới vây quanh. Cao nhất là Tôn hình. Từ trên là ở đây đang nói. Nghĩa là Phật Mẫu Mạn-đồ-la này ở các đàn là cao quý nhất. Kế trong Mạn-đồ-la làm hoa sen, màu vàng có lửa nóng, trên hoa có ấn Phật Đảnh.

(vẽ hình)

Ấn ấy như hình búi tóc trên đầu Phật, khiến đầu cao lên, kế vẽ hình hai mắt. Nếu làm hình Phật mẫu phải biết là tượng Thiên nữ, ở tim đặt chữ hạt giống hoặc chỉ vẽ ấn, hoặc chỉ vẽ chữ. Nếu thai trong Phật Đảnh thì mắt chư Phật là quyến thuộc vây quanh, Phật thường có thân trụ trong lửa nóng, hạt giống bày ra, nghĩa là ấn này ở trong lửa, trong đặt chữ hạt giống. Bỏ ba phần vị, nghĩa là bỏ ba tòa vị mà mà đặt mắt Phật. Trước nói trong bộ Bồ-tát khắp bày hạt giống, nghĩa là ở khắp bày trong đàn. Chưa nói là nay lại nói. Các Bồ-tát ấy đều phải làm Mạnđồ-la. Phải làm tượng tròn sáng cho thật trắng sạch. Trong đó làm đài mười chữ, trên đài là đại chân Đà-mạt-ni, đều có đặt nêu như nêu thừa châu, trên đầu đều để châu như ý, có lửa rất nóng. Bổn tôn Bồ-tát ấy đặt ở trung tâm mười chữ, các Bồ-tát khác thì thứ lớp bày trong viện kế, ở ngoài lại để tám bộ. Cực trắng là sắc vắng lặng, phải khiến rất trong sáng vắng lặng mà trụ. Các Bồ-tát này đều có khả năng thí cho tất cả nguyện.

Kế làm Thích Sư Tử Mạn-đồ-la, phải làm Kim Cang bốn phương trùm khắp. Đàn ấy màu vàng khiến rất tươi tốt, trong đó hoa Kim Cang Xử (chày Kim Cang) trên sử để hoa sen, hoa sen màu vàng, trên hoa để bát, bốn bên bát đều có lửa sáng. Nếu làm hình Phật thì vẽ Phật Thíchca cầm bát, lại dùng Kim cang vây quanh, bên phải để ca-sa, bên trái để tích trượng. Kế là năm Phật Đảnh, dù trắng che trên Phật đảnh, đặt tòa, trên tòa đặt ấn. Lại y theo Bổn Bộ Như Phật Bộ, tất cả đều hình vuông, hoặc y sự Tức tai thì tròn. Dùng dù làm ấn, trên thắng Phật đảnh có dao vây quanh. Nếu có nói chỗ tức y căn. Ánh sáng phun ra như lửa đốt sắt. Tối thắng Phật đảnh dùng luân làm ấn, Trừ Chướng Phật Đảnh dùng câu móc làm ấn, Hỏa Tụ Phật Đảnh vẽ hình đảnh kế Phật (đầu Phật có búi tóc) Hội Thông Đại Phật Đảnh dùng Kim cang làm ấn. A-tỳ phát sinh Phật Đảnh, Yết-đa Phật Đảnh, Vô Lượng Âm Phật Đảnh dùng màu kha bối mà quán biết. Phật Hào tướng dùng châu như ý làm ấn. Đây gọi là ấn Mạn-đồ-la. Ấn này là vật dụng quán đảnh thành tựu. Nếu Tứt tai thì tùy hình sắc chuyển biến, không phải dụng này. Thành tựu đều dùng Bổn tôn ở trong đó mà quán sắc loại, tức là trắng, vàng, đỏ… Mắt Phật phải làm Phật Đảnh hình búi tóc (hình Phật Đảnh kế), hai bên để mắt, Phật Đảnh màu vàng, có Kim cang vây quanh.

Minh Phi Vô Năng Thắng thì trì Liên ấn. Nếu các tôn vị có ấn thì y văn mà đặt. Nếu không có văn thì đặt Bổn bộ chủ ấn, chỉ có trong chữ hạt giống. Vô Năng Thắng Vương làm khẩu ấn ở trên hoa sen màu đen, nghĩa là vẽ miệng giận dữ, trong miệng có hai nanh ló ra. Các vị này nếu lấy Thích-ca làm giữa thì Phật Đảnh… bày ở vị kế. Nếu tùy mỗi Bổn tôn thì lấy một làm chủ Mạn-đồ-la, dời Đức Thích-ca ra ngoài. Các vị khác có thể lệ theo đây mà hiểu.

Lại, kế là nói ấn Tịnh cư thiên. Kinh nói: Tịnh cảnh hạnh, nghĩa là lấy Thiền định làm vị, lấy tịnh làm hạnh, nay nêu ấn ấy; Tư duy thủ, Thiện thủ, Thí vô úy đều dùng tay trái, hay phải cũng được. Diệu là nghĩa tốt. Tiếu thủ, Hoa thủ, Hư không chưởng vẽ phép tắc, nghĩa là y theo pháp này mà vẽ. Các trời này, hoặc vẽ cười, hoặc vẽ suy tư hoặc, làm cho nguyện… đều được. Kế là ấn Địa thần, làm bình báu tròn trắng ở trong, bình ấy có cắm hoa hoa báu để trang nghiêm, có Kim cang vây quanh. Thỉnh Triệu Hỏa Thiên Ấn, một bên duỗi tay phải ra, ngón trỏ mắt thứ ba co lại, co ngón cái vào lòng bàn tay, nếu trước thẳng mà co là thỉnh triệu (mời gọi), nếu trước co mà lại mở là phát khiển. Phải có các Đại tiên vây quanh, nghĩa là Ca-diếp Cù-đàm tiên… đều vẽ kế, đều ở trong viện lửa. Viện lửa tức là đàn tam giác. Trong đó màu đỏ gọi là viện đỏ. Ấn ấy như tiên nhân năm thông trước nói ấn bốn Vi-đà. Đây là Phạm Hạnh Bí ký. Nếu người tụng Vi-đà thì thấy thủ ấn này biết là luận nào, bộ nào… Cù-đàm Tiên Mạt-kiến-noa, Kiệt-già Tiên, Phượctư Tiên, Ương-kiệt-la-tư. Vua Diêm-ma ở Nam phương phải làm gió đàn, trong đàn vẽ ấn Đát-trà. Bên phải vua vẽ Tử Hậu, dùng chuông làm ấn. Nếu vẽ hình thì trì ấn, bên trái vẽ Hắc Ám Hậu, dùng cờ làm ấn, chính là cờ này. Đại Tự Tại giận dữ làm ấn Thâu-la, là Thâu-la này. Hậu của Đại Tự Tại Tử làm ấn Thước-để, là Thước-để này.

Minh Phi Đại Phạm bắt ấn Liên Hoa, tức sen chưa nở. Na-la-diên làm Luân ấn. Bảy mẫu đồng dùng ấn Một-nghiệt-la. Câu-phệ-ly-da làm Tỳ-sa-môn Phương Đảnh Cốt ấn, xương đầu lâu này dùng Tiếu thủ trạng mà trì. Các quyến thuộc như Bảy mẫu… tức là chim thú, chồn và chim Bà-thê. Đây đều ở trong gió luân vây quanh bảy mẫu… Nếu cầm hoa được chim này thì cũng là chân ngôn bảy mẫu. Ở đây đều khác, tự có pháp trì trụng. Nay vào hội Mạn-đồ-la này, thảy đều dùng để trang nghiêm. Phương Nê-lý-để phải bắt Đại Đạo ấn. Trời Na-la-diên bắt Thâu ấn. Câu-ma-la bắt Thước-để ấn. Nan-đà Long Huynh Đệ bắt Vân ấn, Thương-yết-la bắt Tam Kích ấn, Thương-yết-la bắt Bát Chí ấn.

Nguyệt Thiên bắt Bạch bình và Hữu liên ấn. Nhật thiên bắt ấn Xa-lạc ở trong Kim Luân. Xã-da Tỳ-xã-da làm Cung ấn. Gió Thiên làm Gió Tràng ấn. Trời Diệu âm bắt ấn Tỳ-bà.

Phược Lỗ Long bất ấn Quyên sách. Như trước làm Viên (tròn) Mạn-đồ-la, dùng hạt giống chữ Bổn vây quanh. Đại ngã là bảo Chấp Kim Cang. Từ trên là lược nêu ấn ký. Nếu làm rộng thì đủ như trong pháp. Nghĩa là loại ấy đều là pháp Tự Tại Chân Ngôn Biệt Hạnh. Từ trên là Thích-ca Bộ Loại Hành Pháp.

Trở đi là nói Bồ-tát Mạn-đồ-la, Văn-thù Mạn-đồ-la, chánh phương dùng Kim cang vây quanh như trước. Trong đây là tam giác, trong tam giác bắt ấn hoa sen xanh, là chữ hạt giống, tụng mà tưởng khắp trong đó, để chữ chân ngôn ở giữa.

Lìa ranh giới bên trong tam giác vây quanh làm hoa sen xanh nhỏ vây quanh ấn sen xanh lớn. Sở dĩ bắt ấn vì biết nghĩa thú pháp môn tôn này, đều tùy hình sắc các quán mà biết bí ý, đúng pháp lấy chữ hạt giống làm hạt giống, tức là đó. Trong đó bắt ấn ấy như kế làm theo đây. Siêng năng mạnh mẽ tức là Văn-thù. Nghĩa là hạt giống sen xanh, đúng pháp thứ lớp mà làm, tùy hình sắc mà quán biết bí ý. Đồng tử Quang Võng bắt Câu ấn, Đồng tử Bảo Quán, Đồng tử Vô Cấu Quang. Nói về Sứ giả, đây là bộ Văn-thù nói về Sứ giả. Trì tụng là như được tương ưng mà biết ấn ấy dùng pháp tương ưng mà làm, nghĩa là trở xuống là đồng nữa. Trí giả tức từ Văn-thù, cũng có thể gọi là cụ Đức.

Kế là Thiết Ni, Tiểu Hứa Thiết Ni, Tạp Sắc Sứ giả, Địa Tuệ, Chiêu Triệu Sứ giả, các Phụng giáo Sứ giả, đều bắt khắp ấn Tiểu Đao. Dao này làm cưa hình răng. Tiểu đao không phải dịch đúng. Từ trên đã làm đều ở trong đàn vuông làm ấn, dùng sen xanh vây quanh. Trở lên là Phương Đông Văn-thù bộ loại quyến thuộc. Nếu Văn-thù là Trung thai, các Bồ-tát khác là lớp thứ hai, tám bộ là lớp thứ ba thì bắt chước theo đây. Phương Nam Bồ-tát Trừ Cái Chướng dùng châu Như ý làm ấn, cũng làm Kim Cang Luân ở bốn phương. Trong lại làm đàn tam giác. Chỗ nói tương đương dùng báu như ý. Đều đại tinh tấn là hạt giống. Cái gọi là báu như ý, phải ở trong tam giác mà vẽ châu như ý, quyến thuộc vây quanh. Trở xuống là Bồ-tát đều phải dùng quyến thuộc vây quanh. Phải biết tướng ấn ấy nay nói rộng quyến thuộc.

Về quyến thuộc, trong đây phải vẽ ấn như thứ lớp, tức là đúng pháp. Văn ấy có chữ này, chỉ về phía trái. Bồ-tát Trừ Nghi Quái, ấn ấy là ấn Kim cang. Nói Bình là trong đó làm bình, trên bình cắm Kim cang một cổ, phân nửa ở trong bình. Bồ-tát Vô Úy Thí tay bắt ấn Thí vô úy.

Bồ-tát Trừ Ác Thú vẽ tay bắt (ấn) phát khởi. Bồ-tát Cứu Ý Tuệ làm bi thủ để trên tim. Bồ-tát Đại Từ Bi Khởi làm ấn Cầm hoa. Bồ-tát Bi Niệm. Tri giả là tên của Bồ-tát này. Bồ-tát Trừ Nhiệt Não bắt ấn cho nguyện. Bồ-tát Bất Tư Nghị Cụ Tuệ Giả bắt ấn Tư duy. Có tuệ bất tư nghì, phía trái đều là đàn vuông, để hoa sen lên trên. Đây đều là quyến thuộc của Trừ Cái Chướng. Các nghĩa khác như trong Văn-thù đã nói. Địa Tạng Bồ-tát Bắc Phương Ấn là ở Đại Nhân Đà-la-luân. Trong Kim Cang Luân làm báu. Nói ở trong đó trước đặt tòa, trang nghiêm đất, trên đất vẽ hoa sen, đủ các sắc. Trên hoa làm cờ, ở đầu cờ để báu, chẳng vẽ hình chỉ vẽ cờ. Nếu bắt ấn này là cực thượng sắc, đây là hình tướng đây nói là hình cao quý nhất là khen, trong các ấn là mầu nhiệm nhất. Bồ-tát này có vô lượng quyến thuộc. Nay nói lược Thượng thủ. Như báu bên trái bắt ấn Bồ-tát. Trong đó vẽ ấn ân cần mà bắt. Kim cang Ba nhánh ở trên Bảo châu. Chỉ ở trên đất báu làm ấn. Nếu vẽ hình thì cũng ngồi trên hoa sen như Pháp Địa Tạng. Bồ-tát Bảo Chưởng bắt Nhất cổ Kim cang, để Kim cang này trên báu.

Bồ-tát Trì Địa làm hai đầu Kim cang để báu trên đó. Ấn Bảo Ấn Thủ Bồ-tát là năm nhánh Kim cang để trên báu. Bồ-tát Kiên Ý làm mười chữ Kim cang. Bên phải (ở trên) tất cả đều ở trong Mạn-đồ-la ấy, đều ở trong phương luân mà làm đất báu, trên đất để báu, trên báu có ấn.

Kế là Bồ-tát Hư Không Tạng ở phương Tây, tức là Văn-thù trong hội Tây phương bộ chủ, làm đàn tròn khiến sáng sạch trắng tốt, ngồi trên hoa sen tay cầm dao. Nếu chẳng vẽ hình Bồ-tát mà chỉ để dao, thì dao ấy cực bén như sương. Lại như thế, tức là bén chắc như thế lại bền chắc là dùng chữ hạt giống mà vây quanh. Người trí dùng hạt giống của mình mà làm hạt giống tức là đặt hạt giống gốc. Kế nêu quyến thuộc Bồ-tát Thượng Thủ, tức vẽ hình ấn ấy như giáo, tức là đều y theo giáo đúng pháp mà làm. Bồ-tát Hư Không Vô Cấu, cũng dùng luân mà vây quanh. Bổn này tức là tự, Ấn làm luân để đặt luân cũng tự vây quanh. Ở trong gió đàn là ấn Hư Không Tuệ Bồ-tát. Ở trong gió đàn thì đặt Thương-khư. Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ vẽ hoa sen trắng để trong gió đàn. Kế là Ấn Hạnh Tuệ Bồ-tát ở trong Gió luân để Thương-khư. Trong Thương-khư thì cắm hoa sen xanh. Ấn An Tuệ Bồ-tát, thì trong gió luân vẽ hoa, trên hoa để Kim cang. Đây đều là một hội Văn-thù ở trong Đại bi tạng đại đàn. Bốn Bồ-tát tùy bất cứ một Bồ-tát nào làm chủ để ở trong đàn, còn các Bồ-tát khác đều ở viện thứ hai, xét phương mà bày. Viện thứ ba thì để tám bộ. Lại nữa, nếu trong Đại bi ở viện thứ hai, thì giả khiến dùng Quán Âm làm Bộ chủ, bộ Kim cang và Phật Đảnh… đều y phương vị mà bày làm viện thứ hai. Kế phải biết viện thứ ba mà bày tám bộ, tức chẳng cần để Văn-thù hội Bồ-tát. Nếu hội Thích-ca là như trên nói. Ở đây nói nghĩa định ấy, việc này lại phải hỏi xét hay chăng? Phẩm Bí Mật Mạn-đồ-la đã xong.