LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH
Bồ-tát Vô Trước tạo luận
Đường, Thiên Trúc tam tạng Ba-la-phả-mật-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: DUYÊN KHỞI

Kệ nói:

Nghĩa trí tạo các nghĩa,

Ngôn cú đều vô cấu.

Cứu tế chúng sinh khổ,

Vì từ bi là tính,

Khéo nói pháp phương tiện,

Đó là tối thượng thừa.

Vì người phát Đại tâm,

Lược bày tỏ 5 nghĩa.

Giải thích: Nói Luận trang nghiêm kinh điển Đại Thừa thì ai có thể trang nghiêm? Đáp, nghĩa trí có thể trang nghiêm. Hỏi: Nghĩa trí làm sao trang nghiêm? Đáp: Khai mở các nghĩa. Hỏi: Lấy gì khai mở? Đáp: Dùng ngôn và cú, tức lời và câu. Hỏi: Dùng những lời như thế nào và những câu như thế nào? Đáp: Dùng những lời không cáu bẩn, câu không cáu bẩn. Lời không cáu bẩn, là lời nói có thể dẫn dắt đến thành Niết-bàn. Câu không cáu bẩn, là chữ và câu phù hợp. Nếu lìa bỏ lời nói câu văn không cáu bẩn thì không thể khai hiểu các nghĩa. Hỏi: Dùng nghĩa gì gọi là trang nghiêm? Đáp: Cứu tế chúng sinh. Hỏi: Chúng sinh tự khổ, nhân gì mà cứu tế? Đáp: Vì thể cùa Bồ-tát là đại bi phát sinh lòng yêu thương. Hỏi: Nếu cứu khổ chúng sinh thì trang nghiêm pháp gì? Đáp: Trang nghiêm pháp Như Lai khéo nói phương tiện. Hỏi: Những gì là pháp phương tiện? Đáp: Đó là tối thượng thừa. Hỏi: Vì ai mà trang nghiêm? Đáp: Vì người phát tâm Đại thừa. Hỏi: Dùng bao nhiêu nghĩa trang nghiêm? Đáp: Lược dùng 5 nghĩa trình bày. Hỏi: Năm nghĩa đó là gì?

Kệ nói:

Như vàng làm đồ dùng,

Như hoa nở đúng độ,

Như thức ăn mỹ vị,

Như hiểu rõ chữ nghĩa,

Như mở hộp châu báu,

Thì đều được hoan hỷ.

Pháp 5 nghĩa trang nghiêm,

Hoan hỷ cũng như vậy.

Giải thích: Năm thí dụ trong đây ví cho 5 nghĩa trang nghiêm. Theo tuần tự đó có thể khiến người phát tâm Đại thừa tin tưởng hướng về, dạy dỗ, tư duy, tu tập và chứng đắc. Hỏi: Nghĩa ấy như thế nào? Đáp: Thí dụ vàng làm thành đồ vật, là khiến tin tưởng mà chuyển hướng tâm kia. Thí dụ hoa nở, là khiến tiếp nhận sự dạy dỗ khai thị. Thí dụ thức an mỹ vị, là khiến tư duy được pháp vị. Thí dụ hiểu rõ văn tự, là khiến tu tập không suy nghĩ gì khác. Thí dụ mở nắp hộp châu báu, là khiến chứng đắc pháp bảo Bồ-đề phần, tự giác chứng đắc. Do 5 nghĩa này phân biệt Đại thừa, có thể khiến người ấy được sinh vui mừng yêu thích. Hỏi: Nếu tự tính pháp ấy đầy đủ công đức thì còn cần nghĩa gì trang nghiêm nữa?

Để đáp câu hỏi này, Kệ nói:

Như trang điểm sắc đẹp,

Soi gương sinh vui mừng.

Diệu pháp trang nghiêm mình,

Được vui mừng hơn hết.

Giải thích: Ví dụ như người gia công trang điểm trước gương sinh vui mừng. Bởi vì sao? Vì có sự sung sướng. Bồ-tát cũng vậy, nghĩa của trang nghiêm diệu pháp nhập vào tự tâm thì sinh vui mừng khôn xiết. Bởi vì sao? Vì có câu hỏi hỏi pháp ấy có công đức gì phải trang nghiêm bắt người ta cung kính tin thụ ư?

Kệ nói:

Ví như uống thuốc đắng,

Bệnh lành thì liền vui.

Ở nơi văn giải nghĩa,

Khổ vui cũng như vậy.

Ví như thờ vua khó,

Thờ vua được uy lực.

Cũng vậy nghĩa khó giải,

Nhờ giải, được pháp tài.

Ví như thấy vật báu,

Không biết thì không thích,

Nghe diệu pháp cũng vậy,

Không hiểu không vui mừng.

Giải thích: Ba kệ này tuần tự hiển thị 3 công đức của diệu pháp: 1. Hiển thị công đức đoạn chướng nhân. 2. Hiển thị công đức tự tại nhân. 3. Hiển thị công đức diệu hỷ nhân. Hỏi nghĩa này như thế nào? Đáp: Như uống thuốc đắng, lúc đầu đắng vì khó uống, sau vui vì bệnh lành. Pháp này cũng vậy. Trụ trước nơi văn thì khổ vì khó đạt được lý, khi rõ nghĩa thì vui vì phá được bệnh chướng. Như việc thờ vua, ban đầu khổ vì khó được ý vua, sau vui vì được cho quyền lực. Pháp này cũng vậy, khi tư duy thì khổ vì sâu xa khó hiểu, tư duy đạt được thì vui, vì được Thánh tài dài lâu. Như thấy vật báu chưa chế luyện, khi chưa biết thì không ưa thích cho là vô dụng, khi biết rồi thì rất quý trọng vì biết là hữu dụng. Pháp này cũng vậy, khi tu hành thì không vui, cho là trống trơn vô dụng, khi tu đạt được thì rất vui mừng vì biết có công dụng lớn.

Xong Phẩm duyên khởi.

Phẩm 2: THÀNH TÔNG

Giải thích: Có người nghi Đại thừa không phải Phật nói, làm sao có được công đức này? Nay tôi quyết phá lưới nghi kia, thành lập Đại thừa chính là Phật nói.

Kệ nói:

Không ký cũng đồng hành,

Không hành cũng thành tựu.

Thể, phi thể, năng trị,

Văn khác, 8 nhân thành.

Giải thích: Thành lập Đại thừa, sơ lược có 8 nhân: 1. Không ký. 2. Đồng hành. 3. Không hành. 4. Thành tựu. 5. Thể. 6. Chẳng phải thể. 7. Năng trị. 8. Văn khác.

1. Không ký, nghĩa là giáo pháp đã diệt tận chính là lúc Phật sau ra đời. Nếu Đại thừa không phải chính pháp, thì vì sao ban đầu Thế Tôn không ký? Ví như vị lai có Thế Tôn khác sẽ được ký liền. Đây không ký cho nên biết là Phật nói.

2. Đồng hành, nghĩa là Thanh Văn thừa với Đại thừa chẳng phải trước chẳng phải sau mà đồng hành cùng lúc. Ông làm sao biết được riêng Đại thừa này chẳng phải Phật nói?

3. Không hành, nghĩa là Đại thừa sâu rộng, chẳng phải suy nghĩ ước đạc con người có thể tin được, huống chi là có thể làm ra các luận ngoại đạo. Thứ đó là không thể có được, nên nói là không làm. Do chúng không làm, nên là Phật nói.

4. Thành tựu, nghĩa là nếu ông nói những người khác chứng đắc Bồ-đề nói có Đại thừa chứ không phải đức Phật hiện nay nói Đại thừa. Nếu chấp như vậy tức trở lại thành nghĩa của tôi. Những người kia chứng Bồ-đề nói, tức như vậy là Phật nói.

5. Thể, nghĩa là nếu ông nói các đức Phật khác có cái thể của Đại thừa, Phật này không có thể của Đại thừa. Nếu chấp như vậy thì cũng trở lại thành nghĩa của tôi, vì Đại thừa không có cái thể nào khác mà chỉ có một.

6. Chẳng phải thể, nghĩa là nếu ông nói Phật này không có thể của Đại thừa, thì Thanh Văn thừa cũng không có thể. Nếu ông nói Thanh Văn thừa là Phật nói nên có thể, Đại thừa không phải Phật nói nên không có thể. Nếu chấp như thế là có lỗi lớn. Nếu không Phật thừa mà có Phật xuất thế nói Thanh Văn thừa, thế là không đúng lý.

7. Năng trị, nghĩa là do y vào pháp này tu hành được trí vô phân biệt, do trí vô phân biệt có thể phá các phiền não, do nhân này nên không được nói là không Đại thừa.

8. Văn khác, nghĩa là Đại thừa rất sâu không như văn nghĩa bình thường, không nên một mực hoàn toàn theo văn lấy nghĩa mà nói là không phải lời Phật nói. Lại nữa, nếu ông nói ban đầu không ký, là do tâm vô công dụng Phật xả bỏ. Chấp như thế là không đúng nghĩa.

Kệ nói:

Chư Phật 3 nhân duyên,

Hiện thấy, cũng hộ pháp.

Trí Như Lai vô ngại,

Xả bỏ là không đúng.

Giải thích: Nếu nói Đại thừa chẳng phải Phật nói, đó là chướng lớn. Chư Phật có 3 nhân duyên vì sao không ký? 1. Trí vô công dụng hằng khởi là mắt hằng thấy. 2. Hằng tác chính cần thủ hộ chính pháp. 3. Trí lực Như Lai không chướng ngại. Do 3 nhân này mà ông nói xả bỏ không ký, là không đúng đạo lý. Lại nữa, nếu ông nói Thanh Văn thừa là có thể, tức Thanh Văn thừa là thể của Đại thừa. Bởi vì sao? Tức vì dùng thừa này được Đại Bồ-đề. Nếu chấp như vậy là không đúng nghĩa.

Kệ nói:

Chẳng toàn, chẳng không trái,

Chẳng hành, chẳng dạy dỗ.

Cho nên Thanh Văn thừa,

Tức chẳng phải Đại thừa.

Giải thích: Có 4 nhân duyên không lấy Thanh Văn thừa làm thể của Đại thừa vì chẳng toàn, chẳng không trái, chẳng hành, chẳng giáo thụ. Chẳng toàn, là Thanh Văn thừa không có dạy dỗ lợi tha. Chỉ vì tự chán lìa dục giải thoát mà dạy dỗ. Chẳng không trái, nghĩa là nói Thanh Văn thừa dùng phương tiện chính mình mà dạy dỗ người khác, tức là dạy dỗ lợi tha là không đúng nghĩa. Bởi vì sao? Tuy dùng tự lợi làm an ổn người khác, nhưng kia cũng tự cầu Niết-bàn mà cần hành phương tiện, nên không thể lấy đó đắc Đại Bồ-đề. Chẳng hành, nghĩa là nếu ông nói nếu thực hành lâu hạnh Thanh Văn thừa sẽ được quả Đại Bồ-đề thì không phải nghĩa như vậy. Vì chẳng phải phương tiện. Thanh Văn thừa chẳng phải Đại Bồ-đề. Phương tiện không thể thực hành lâu, chẳng phải phương tiện mới có thể được quả Đại thừa. Ví như vắt sừng lấy sữa là không thể có được. Chẳng dạy dỗ, nghĩa là như Đại thừa thì dạy dỗ, Thanh Văn thừa thì không. Cho nên Thanh Văn thừa không được tức là Đại thừa. Lại nữa, làm rõ thêm nghĩa mâu thuẫn cho ông thấy.

Kệ nói:

Phát tâm và dạy dỗ,

Phương tiện và trụ giữ .

Thời tiết hạ thượng thừa,

Năm việc khác tất cả.

Giải thích: Thanh Văn thừa và Đại thừa có 5 thứ khác nhau: 1. Phát tâm khác. 2. Dạy dỗ khác. 3. Phương tiện khác. 4. Trụ trì khác. 5. Thời tiết khác.

Thanh Văn thừa phát tâm, dạy dỗ, hoặc siêng năng làm phương tiện đều vì tự mình được Niết-bàn nên trụ trì cũng ít, tích tụ phúc đức cũng nhỏ, thời tiết cũng ít, cho đến 3 đời được giải thoát.

Đại thừa không như vậy, phát tâm, dạy dỗ, cần hành phương tiện đều vì lợi tha nên trụ trì cũng nhiều, tích tụ phúc đức cũng lớn, thời tiết cũng nhiều, vì trải qua 3 Đại kiếp A-tăng-kì.

Đó là tất cả chỗ khác nhau. Cho nên không nên lấy việc thực hành Tiểu thừa mà được quả Đại thừa.

Lại nữa, nếu ông nói lời Phật nói có 3 tướng: 1. Nhập Tu-đala. 2. Hiển thị Tì-ni. 3. Không trái pháp không. Ông lấy tất cả pháp là không tự tính mà dạy dỗ, như vậy trái với 3 tướng này nên không phải Phật nói. Nếu chấp như vậy là không đúng nghĩa.

Kệ nói:

Nhập tự Đại thừa kinh,

Hiện tự phiền não diệt.

Nghĩa rộng lớn rất sâu,

Không trái tự pháp không.

Giải thích: Nay Đại thừa này cũng không trái 3 tướng vì nhập tự Đại thừa, hiện tự phiền não Tì-ni do Bồ-tát lấy phân biệt làm phiền não, nên rộng lớn rất sâu, tức là pháp không của Bồ-tát không trái với không này nên được Đại Bồ-đề. Cho nên thừa này không trái với 3 tướng. Lại nữa trước nói không hành, nay tôi lại hiển thị nghĩa này cho ông tin nhận.

Kệ nói:

Có y và bất định,

Duyên tục cũng không khắp.

Người thoái khuất suy xét,

Đâu hiểu nghĩa Đại thừa.

Giải thích: Do có 5 nhân người suy xét kia không thể nhập cảnh giới Đại thừa vì trí của họ có chỗ dựa, vì bất định, vì duyên tục, vì không phổ biến, vì thoái khuất.

Nói kia có chỗ dựa, là trí dựa vào giáo sinh, không phải là trí chứng. Nói bất định, là có lúc có trí khác sinh. Nói duyên tục, là suy xét thế đế không tới được đệ nhất nghĩa đế. Nói không phổ biến, là tuy duyên thế đế chỉ hiểu được ít, không hiểu tất cả. Nói thoái khuất, là tranh luận biện luận cùng đường thì lặng thinh. Người Đại thừa thì không chỗ dựa cho đến cuối cùng không thoái khuất. Không thoái khuất, là trong vô lượng kinh có trăm ngàn kệ nói pháp Đại thừa, do được pháp này mà tài biện luận vô tận, cho nên Đại thừa không phải là cảnh giới suy tư lượng đạc của người bình thường.

Hỏi: Ông nói Thanh Văn thừa không phải phương tiện Bồ-đề của Phật, nếu vậy là ai?

Kệ nói:

Rộng lớn và rất sâu,

Thành thục không phân biệt.

Nói 2 phương tiện này,

Tức là vô thượng thừa.

Giải thích: Rộng lớn, nghĩa là các thần thông do hết sức cần hành phương tiện khiến người khác tin hiểu. Rất sâu, nghĩa là trí vô phân biệt do khó thực hành nên theo tuần tự: 1. Vì thành thục chúng sinh. 2. Vì thành thục Phật pháp. Tức nói 2 pháp này là phương tiện vô thượng Bồ-đề. Hai phương tiện này tức là thể của vô thượng thừa.

Hỏi: Nếu vậy có người trong đó sợ hãi thì tội lỗi như thế nào?

Kệ nói:

Không đáng sợ mà sợ,

Do sợ bị thiêu đốt.

Sợ đưa đến không phúc,

Tội lỗi khởi dài lâu.

Giải thích: Nếu người ở chỗ không phải sợ hãi vọng sinh sợ hãi, người này liền đọa vào ác đạo cực nóng bị thiêu đốt. Bởi vì sao? Do sự sợ hãi này dẫn đến sinh nhiều điều không phúc to lớn. Do tội này có thể khiến người trải vô lượng kiếp chịu đại nhiệt não.

Hỏi: Người kia do nhân gì sinh sợ hãi?

Kệ nói:

Phi tính, phi pháp bạn,

Ít tuệ, ít sức nhân,

Sợ pháp thâm diệu này,

Thoái mất Đại Bồ-đề.

Giải thích: Nếu người sinh sợ hãi là do 4 nhân duyên: 1. Phi chủng tính, vì lìa Bồ-tát tính. 2. Phi pháp bạn, vì lìa thiện tri thức. 3. Ít tuệ lực, vì chưa hiểu Đại thừa pháp không. 4. Ít sức nhân, vì đời trước không trồng các tự tính thiện căn Ba-la-mật. Do nhân duyên này đối với pháp thậm thâm vi diệu sinh tưởng sợ hãi. Do tưởng sợ hãi này nên đối với 2 nhóm phúc trí Đại Bồ-đề phải được thì không được. Đó gọi là thoái. Nay ông nên biết, tội lỗi thoái mất này hết sức sâu nặng.

Đã nói xong tội lỗi của sợ và nhân của sợ. Tiếp đến nói về không nên nhân sợ hãi.

Kệ nói:

Không khác, tức đều không,

Có khác, tức nơi hiểm.

Không ví, nói nhiều thứ,

Liên tục nói nhiều môn.

Không phải như văn nghĩa,

Thể chư Phật rất sâu.

Người thông tuệ, chính quán,

Phải biết không nên sợ.

Giải thích: Không khác, tức đều không, nghĩa là nếu ông nói Thanh Văn thừa tức Đại thừa, không khác thể Đại thừa, nếu như vậy thì Thanh Văn, Bích-chi-phật thừa là không có thể. Bởi vì sao? Do đắc Phật, nên như vậy tất cả đều là Phật thừa, thì vì cớ gì sợ hãi? Có khác, tức nơi hiểm, nghĩa là nếu ông chấp nhận có khác với thể của Đại thừa, thể này tức đạo nhất thiết trí, là nơi hiểm bậc nhất. Do khó vượt qua nên phải tin, thì vì cớ gì sợ hãi? Không ví, nghĩa là trong một lúc không có 2 Đại thừa cùng xuất hiện có thể đem sánh ví, vậy cớ gì sợ một không sợ hai? Nói nhiều thứ, nghĩa là nay Đại thừa này không phải chỉ nói không, cũng nói đại phúc tụ, nên phải hiểu ý này, vậy cớ gì chỉ sợ không? Liên tục nói, nghĩa là trong tất cả mọi lúc quyết định liên tục nói không, không phải ông mới nghe, vậy cớ gì sợ? Nói nhiều môn, nghĩa là trong các kinh có nhiều môn nhiều thuyết khác nhau đại khái làm rõ cái dụng. Phá các phân biệt được trí vô phân biệt. Nếu nói khác đây không có đại dụng, nghĩa là Như Lai chỉ nên nói không, không nói như pháp tính, thật tế v.v… Đã nói có nhiều môn, vậy cớ gì chỉ sợ không? Chẳng phải như văn nghĩa, nghĩa là Đại thừa rất sâu, không phải như văn nghĩa, vậy cớ gì theo văn lấy nghĩa mà sợ không? Thể chư Phật rất sâu, nghĩa là Phật tính rất sâu, cuối cùng khó biết nên cầu hiểu rõ, vậy cớ gì sợ? Do các nhân duyên như vậy, người thông tuệ chính quán không nên sợ hãi đối với Đại thừa.

Đã nói xong lý do không nên sợ hãi. Tiếp đến nói khả năng thực hành pháp trí này.

Kệ nói:

Tuần tự văn tư tu,

Đắc pháp và đắc tuệ.

Trí này hành pháp này,

Chưa đắc chớ hủy bỏ.

Giải thích: Nếu người ban đầu dựa vào thiện tri thức có thể khởi chính văn. Tiếp đến đối với nghĩa đúng có thể khởi nghĩ nhớ đúng. Tiếp đến được sinh chính trí nơi cảnh giới chân thật. Tiếp đến từ đó được chứng quả pháp. Tiếp đến từ đó sau khởi trí giải thoát. Trí này người này tùy sự thâm nhập sâu xa có thể thực hành pháp này. Nếu ông không có trí này, không nên nói một cách quả quyết rằng không phải lời Phật nói.

Đã nói xong về trí có thể thực hành pháp này. Tiếp đến pháp cú này ngăn chận sự sợ hãi.

Kệ nói:

Không hiểu, hiểu không sâu,

Sâu chẳng do suy lường.

Hiểu sâu được giải thoát,

Các sợ hãi không nên.

Giải thích: Không hiểu, nghĩa là nếu ông nói pháp sâu như vậy chẳng phải pháp ta có thể hiểu, do đó sinh sợ hãi, thế là không đúng.

Hiểu không sâu, nghĩa là nếu ông nói Phật hiểu cũng không sâu, nếu hiểu sâu vì sao nói sâu, do đó sinh sợ hãi , thế là không đúng. Sâu chẳng phải do suy lường hiểu, nghĩa là nếu ông nói vì sao đây là sâu, chẳng phải cảnh giới của suy lường, do đó sinh sợ hãi, thế là không đúng. Hiểu sâu được giải thoát, nghĩa là nếu ông nói vì sao chỉ riêng hiểu nghĩa sâu có thể được giải thoát, do đó sinh sợ hãi là không đúng lý. Như vậy là đã ngăn chận pháp cú sợ hãi này. Tiếp đến lấy sự không tin thành lập Đại thừa.

Kệ nói:

Do tiểu tín, giới, bạn,

Không hiểu sâu Đại pháp.

Vì do ông không hiểu,

Thành ngã vô thượng thừa.

Giải thích: Tiểu tín, nghĩa là sự tin hiểu hẹp hòi yếu kém. Tiểu giới, nghĩa là các tiểu chủng tử huân tập trong thức A-lê-da. Tiểu bạn, nghĩa là tương tự tín, giới làm quyến thuộc. Ba cái này nếu nhỏ thì không tin có Đại thừa. Do không tin này mà thành pháp vô thượng ta lập.

Đã nói xong sự thành lập Đại thừa, tiếp đến ngăn chận sự hủy báng Đại thừa.

Kệ nói:

Tùy theo nghe được giác,

Chưa nghe chớ nên chê.

Vô lượng điều chưa nghe,

Chê bai thành si nghiệp.

Giải thích: Ông theo ít nghe được giác ngộ, không nên theo nghe lại sinh hủy báng. Ông chưa nghe không tin còn được. Bởi vì sao? Không tích thiện nên chưa nghe thì nhiều, cẩn thận chớ nên hủy báng. Ông không phân biệt mà sinh hủy báng lại tăng thêm nghiệp si làm hư hoại những gì đã được nghe trước.

Đã ngăn chận sự hủy báng, tiếp đến ngăn chận sự suy nghĩ tà vạy.

Kệ nói:

Khi theo văn lấy nghĩa,

Sư tâm thoái chân tuệ.

Báng thuyết và khinh pháp,

Duyên đây tội lớn sinh.

Giải thích: Sư tâm, nghĩa là kiến thủ của mình, chẳng phải trí, vì tìm kiếm nghĩa một bên. Thoái chân tuệ, nghĩa là hiểu đúng như thật chưa được thì thoái mất. Báng thuyết, nghĩa là hủy báng thiện thuyết. Khinh pháp, nghĩa là ghét những gì mình nghe, do đây chẳng có phúc báo, thân sau thụ đại khổ báo. Đó gọi là sinh khởi tội lớn. Đã ngăn chận tà tư duy, tiếp đến ngăn chận ác ý.

Kệ nói:

Ác ý tự tính ác,

Bất thiện không nên khởi,

Huống dời nơi thiện xứ,

Vì nên bỏ tội lớn.

Giải thích: Ác ý, nghĩa là tâm ghen ghét. Tự tính ác, nghĩa là tâm này là tội tự tính còn không thể khởi trong pháp tội lỗi huống chi là khởi trong pháp chẳng phải tội lỗi. Cho nên phải gấp rút xả bỏ tội lỗi lớn.

Xong phẩm Thành tông.

Phẩm 3: QUY Y

Giải thích: Như thế đã thành lập Đại thừa, tiếp đến dựa vào Đại thừa giữ lấy thắng quy y.

Kệ nói:

Nếu người quy Tam Bảo,

Đại thừa quy đệ nhất.

Tất cả khắp dũng mãnh,

Vì đắc quả bất cập.

Giải thích: Tất cả trong quy y Tam Bảo, nên biết rằng quy y Đại thừa là nhất tất cả. Bởi vì sao? Vì do 4 thứ nghĩa lớn tự tính thắng. Những gì là 4 nghĩa? 1. Nghĩa biến khắp tất cả. 2. Nghĩa dũng mãnh. 3. Nghĩa đắc quả. 4. Nghĩa bất cập. Những nghĩa này sẽ nói sau. Do 4 nghĩa này có nhiều lưu nan. Những người quy y có người có khả năng có người không khả năng. Người có khả năng là thắng. Đã nói quy y thắng, tiếp đến khuyên thắng quy y.

Kệ nói:

Khó khởi cũng khó thành,

Phải có ý chí lớn.

Vì thành tự tha lợi,

Thì phải thắng quy y.

Giải thích: Khó khởi, là thắng nguyện do thệ nguyện rộng lớn. Khó thành, là thắng hạnh do trải qua vô lượng kiếp. Do khó như vậy nên phải phát ý chí lớn. Bởi vì sao? Vì muốn thành tựu lợi tha và tự lợi. Lợi tha, là nguyện hạnh, vì nguyện hạnh là nhân của danh văn. Tự lợi, là nghĩa lớn, vì nghĩa lớn là quả của tự thể.

Trước đã nói 4 nghĩa, nay sẽ nói nghĩa khắp tất cả.

Kệ nói:

Chúng sinh khắp, thừa khắp,

Trí khắp, tịch diệt khắp.

Gọi là người trí tuệ,

Bốn thứ khắp tất cả.

Giải thích: Quy y Đại thừa có 4 thứ thứ phổ biến tất cả: 1. Chúng sịnh phổ biến tất cả, vì muốn độ tất cả chúng sinh. 2. Thừa phổ biến tất cả, vì hiểu rõ 3 thừa. 3. Trí phổ biến tất cả, vì thông đạt 2 vô ngã. 4. Tịch diệt phổ biến tất cả, vì thể của sinh tử Niết-bàn là một vị, tội ác công đức là vô phân biệt.

Đã nói nghĩa phổ biến tất cả, tiếp đến nói nghĩa dũng mãnh.

Kệ nói:

Hy vọng Phật Bồ-đề,

Làm khó làm không thoái.

Chư Phật bình đẳng giác,

Dũng mãnh thắng có 3.

Giải thích: Quy y Đại thừa có 3 thứ thắng dũng mãnh: 1. Nguyện thắng dũng mãnh, vì khi quy Phật cấu Đại Bồ-đề sinh nhiều hoan hỷ biết thắng công đức. 2. Hành thắng dũng mãnh, vì khi khởi tu hành làm những việc khó làm không thoái lui không khuất phục. 3. Quả thắng dũng mãnh, vì khi đến thành Phật giác ngộ bình đẳng với tất cả chư Phật. Lại nữa do dũng mãnh này, các Phật tử ấy hằng được sinh trưởng tốt.

Kệ nói:

Phát tâm và trí độ,

Gồm đủ cùng đại từ.

Hạt giống và mẹ sinh,

Bào thai, sữa mẹ tốt.

Giải thích: Bồ-tát sinh trưởng tốt có 4 nghĩa: 1. Hạt giống tốt, vì lấy tâm Bồ-đề làm hạt giống. 2. Mẹ sinh tốt, vì lấy Bát-nhã Ba-lamật làm mẹ sinh. 3. Bào thai tốt, vì lấy 2 phúc trí họp lại duy trì làm bào thai. 4. Sữa mẹ tốt, vì lấy đại bi làm sữa mẹ nuôi lớn. Lại nữa sinh ra và lớn lên tốt là do dũng mãnh nên hằng được thân tốt đẹp.

Kệ nói:

Tướng tốt, sức sinh thành,

Vui lớn, phương tiện lớn.

Bốn thành tựu như trên,

Đó gọi là thân tốt.

Giải thích: Bồ-tát có 4 thứ thân tốt: 1. Sắc thân tốt, được diệu tướng nghiêm thân, hơn cả tướng của Chuyển luân vương. 2. Sức lực tốt, vì được sức tự tại thành thục chúng sinh. 3. Niềm vui tốt, vì được niềm vui vô biên của thượng phẩm Phật địa tịch diệt. 4. Trí tuệ tốt, vì được phương tiện khéo léo cứu tất cả chúng sinh. Bốn thứ này thành tựu gọi là Phật tử sinh trưởng tốt. Đó là sắc thành tựu, lực thành tựu, lạc thành tựu, trí thành tựu. Lại nữa, do dũng mãnh này được tương tự như vương tử.

Kệ nói:

Quang thụ, pháp tự tại,

Khéo nói khéo nhiếp trị.

Vì do 4 nhân đây,

Giống Phật không đoạn dứt.

Giải thích: Có 4 nhân duyên dòng vua không đoạn dứt: 1. Lên ngôi thụ chức. 2. Tăng thượng không mâu thuẫn. 3. Khéo phán quyết . 4. Thưởng phạt phân minh. Phật tử sinh trưởng tốt cũng vậy: 1. Được quang thụ, nghĩa là được nhận đại quang minh của tất cả chư Phật. 2. Pháp tự tại, nghĩa là trí tuệ tự tại trong tất cả các pháp, không có gì mâu thuẫn. 3. Khéo nói, nghĩa là khéo nói pháp trong chúng Phật tử. 4. Khéo trị phạt, nghĩa là đối với người học giới có khả năng trị tội lỗi, có khả năng giữ gìn công đức. Lại nữa do dũng mãnh này được tương tự như đại thần.

Kệ nói:

Nhập độ thấy giác phần,

Trì mật lợi chúng sinh.

Vì do 4 nhân đây,

Được tương tự đại thần.

Giải thích: Có 4 thứ nhân là công đức của một đại thần: 1. Vào cấm cung của vua. 2. Xem báu vật của vua. 3. Dùng bí mật ngữ của vua. 4. Ban thưởng tự tại. Bồ-tát dũng mãnh cũng vậy: 1. Thường được khéo nhập các Ba-la-mật. 2. Thường thấy pháp bảo Đại Bồ-đề phần trong các kinh, do không quên pháp. 3. Thường hành trì Như Lai thân mật khẩu mật ý mật. 4. Thường có thể lợi ích vô biên chúng sinh.

Đã nói xong dũng mãnh nghĩa, tiếp nói về đắc quả nghĩa.

Kệ nói:

Phúc đức và tôn trọng,

Có lạc, cũng khổ diệt.

Chứng lạc chứng pháp ấm,

Tập hết có diệt xả.

Giải thích: Quy y Đại thừa được 8 quả này: 1. Khi tin hiểu được đại phúc đức tụ. 2. Khi phát tâm được 3 cõi tôn trọng. 3. Khi cố ý thụ sinh được an lạc trong 3 cõi. 4. Khi hiểu tự tha bình đẳng, diệt được đại khổ tụ, cũng có sức diệt được khổ tất cả chúng sinh. 5. Khi nhập vô sinh nhẫn, giác chứng niềm vui tối thượng. 6. Khi đắc Bồ-đề chứng đại pháp ấm. Pháp ấm tức pháp thân. Như vậy pháp thân gọi là đại, gọi là thắng, gọi là thường, gọi là thiện tụ. Vì là pháp tạng của vô biên Tu-đa-la nên gọi là đại, là cao tột trong tất cả pháp nên gọi là thắng, vĩnh viễn không bao giờ hết nên gọi là thường, là sức không sợ hãi tích tụ thiện pháp nên gọi là thiện tụ. 7. Được vĩnh viễn diệt hết các huân tập không sót. 8. Được hữu diệt xả. Hữu xả là không trụ sinh tử. Diệt xả là không trụ Niết-bàn.

Đã nói nghĩa của đắc quả, tiếp nói nghĩa của bất cập.

Kệ nói:

Đại thể và đại nghĩa,

Vô biên và vô tận.

Do thiện thế xuất thế,

Vì thành thục thần thông.

Giải thích: Quy y Đại thừa có các thiện căn là do 4 nhân mà tất cả Thanh Văn Bích-chi-phật không bì kịp: 1. Đại thể. 2. Đại nghĩa. 3. Vô biên. 4. Vô tận.

Hỏi: Thế là thế nào?

Đáp: Đại thể, nghĩa là thiện căn thế gian đã được vượt quá 2 thừa. Đại nghĩa, nghĩa là thiện căn xuất thế, xuất thế của 2 thừa chỉ tự lợi. Vô biên, nghĩa là thành thục thiện căn, vì có thể thành thục vô biên chúng sinh. Vô tận, nghĩa là thiện căn thần thông cho đến Niếtbàn vô dư cũng không hết.

Đã nói thắng nghĩa của quy y, tiếp đến nói sai biệt của quy y.

Kệ nói:

Hy vọng và đại bi,

Chủng trí cũng bất thoái.

Ba xuất và 2 đắc,

Sai biệt có 6 thứ.

Giải thích: Sai biệt của quy y có 6 thứ: 1. Tự tính. 2. Nhân. 3. Quả. 4. Nghiệp. 5. Tương ưng. 6. Phẩm loại. Hy vọng là tự tính, vì chí tâm cầu Phật thể. Đại bi là nhân, vì tất cả chúng sinh. Chủng trí là quả, vì được vô thượng Bồ-đề. Bất thoái là nghiệp, vì làm việc lợi tha, làm việc khó làm không thoái lui không khuất phục. Ba xuất làm tương ưng, vì đầy đủ hạnh 3 thừa xuất ly. Hai đắc làm phẩm loại, vì thế tục đắc và pháp tính đắc thô tế khác nhau.

Đã nói về công đức sai biệt, tiếp nói về hạnh sai biệt.

Kệ nói:

Quy y có nghĩa lớn,

Công đức tụ tăng trưởng.

Tâm bi khắp thế gian,

Rộng truyền Đại thánh pháp.

Giải thích: Nghĩa lớn là hành tự tha lợi. Hành tự lợi nghĩa là công đức tăng trưởng lại có nhiều thứ, như tư duy lượng đạc, như thường thường, như thời tiết, đều không có lượng vì không thể tư duy lượng đạc, vì không thể đếm biết, rốt ráo hằng hành vì không phân chia thời tiết. Hành lợi tha nghĩa là tác ý và tâm bi biến khắp tất cả chúng sinh, rộng rãi siêng năng dùng phương tiện lưu bố pháp của Đại thánh. Pháp của Đại thánh là nói pháp Đại thừa.

Xong Phẩm quy y.

Phẩm 4: CHỦNG TÍNH

Giải thích: Đã nói nghĩa quy y, tiếp đến nói sai biệt của chủng tính.

Kệ nói:

Hữu, thắng, tính, tướng, loại,

Tội ác và công đức,

Ví vàng cùng ví báu,

Chín thứ đều 4 thứ.

Giải thích: Chủng tính có 9 thứ sai biệt: 1. Hữu thể. 2. Tối thắng. 3.Tự tính. 4. Tướng mạo. 5. Phẩm loại. 6. Tội ác. 7. Công đức. 8. Ví dụ vàng. 9. Ví dụ báu vật. Như vậy 9 nghĩa, mỗi mỗi đều có 4 thứ sai biệt. Kệ này nêu chung, các kệ khác giải thích riêng. Trong đây trước tiên phân biệt hữu thể.

Kệ nói:

Do giới và do tín,

Do hành và do quả.

Do 4 sai biệt này,

Nên biết có thể tính.

Giải thích: Chủng tính có thể tính là do 4 thứ sai biệt: 1. Do giới sai biệt. 2. Do tín sai biệt. 3. Do hành sai biệt. 4. Do quả sai biệt. Do giới sai biệt, nghĩa là chúng sinh có vô lượng thế giới khác nhau. Như nhiều kinh nói, do thế giới khác nhau nên biết chủng tính 3 thừa có khác nhau. Do tín sai biệt, nghĩa là chúng sinh có nhiều thứ tin khác nhau, hoặc do sức nhân khởi, hoặc do sức duyên khởi, nên có thể trong 3 thừa tùy tin một thừa không phải tin tất cả. Nếu không có tính sai biệt thì cũng không có tín sai biệt. Do hành sai biệt, nghĩa là các hành của chúng sinh hoặc có khả năng tiến, hoặc không có khả năng tiến. Nếu không có tính sai biệt thì cũng không có hành sai biệt. Do quả sai biệt, nghĩa là chúng sinh Bồ-đề có bậc hạ trung thượng, quả cũng tương tự như vậy. Nếu không có tính sai biệt thì cũng không có quả sai biệt. Do 4 sai biệt này cho nên phải biết chủng tính là hữu thể.

Đã nói hữu thể của chủng tính, tiếp đến nói về tối thắng của chủng tính.

Kệ nói:

Minh tịnh và bao gồm,

Đại nghĩa cũng vô tận.

Do thiện có 4 thắng,

Chủng tính được đệ nhất.

Giải thích: Chủng tính Bồ-tát do 4 thứ nhân duyên được tối thắng: 1. Do thiện căn sáng suốt thanh tịnh. 2. Do thiện căn bao gồm tất cả. 3. Do thiện căn nghĩa lớn. 4. Do thiện căn vô tận. Bởi vì sao? Vì không phải thiện căn các Thanh Văn v.v… sáng suốt thanh tịnh như vậy, không phải thiện căn tất cả mọi người bao gồm sức vô úy v.v…, vì thiện căn những người khác không lợi tha, vì thiện căn những người khác khi Niết-bàn là hết, còn thiện căn của Bồ-tát không như vậy. Do đó làm nhân mà chủng tính Bồ-tát vượt trội hơn cả.

Đã nói về chủng tính tối thắng, tiếp đến nói về tự tính của chủng tính.

Kệ nói:

Tính chủng và tập chủng,

Sở y và năng y.

Phải biết hữu phi hữu,

Vì công đức độ nghĩa.

Giải thích: Chủng tính Bồ-tát có 4 thứ tự tính: 1. Tính chủng tự tính. 2. Tập chủng tự tính. 3. Sở y tự tính. 4. Năng y tự tính. Tự tính ấy theo thứ tự như vậy. Lại nữa kia nói hữu là vì nhân thể hữu, nói phi hữu vì quả thể phi hữu.

Hỏi: Nếu vậy sao gọi là tính?

Đáp: Vì công đức độ nghĩa. Nói độ, là nghĩa xuất sinh công đức. Do đạo lý này nên gọi là tính.

Đã nói tự tính của chủng tính, tiếp nói tướng mạo của chủng tính.

Kệ nói:

Đại bi và đại tín,

Đại nhẫn và đại hạnh.

Nếu có tướng như thế,

Gọi là tính Bồ-tát.

Giải thích: Chủng tính Bồ-tát có 4 thứ tướng mạo: 1. Đại bi là tướng, vì thương xót tất cả chúng sinh khổ. 2. Đại tín là tướng, vì yêu thích tất cả pháp Đại thừa. 3. Đại nhẫn là tướng, vì chịu đựng làm tất cả hạnh khó làm. 4. Đại hành là tướng, vì thực hành khắp cả các tự tính thiện căn Ba-la-mật.

Đã nói tướng mạo của chủng tính, tiếp nói phẩm loại của chủng tính.

Kệ nói:

Quyết định và bất định,

Không thoái và thoái đọa.

Gặp duyên như thứ lớp,

Có 4 thứ phẩm loại.

Giải thích: Phẩm loại chủng tính của Bồ-tát lược nói có 4 thứ: 1. Quyết định. 2. Bất định. 3. Không thoái. 4. Thoái đọa. Như thứ tự thì quyết định là gặp duyên không thoái, bất định thì gặp duyên sẽ thoái đọa.

Đã nói xong phẩm loại của chủng tính, tiếp nói tội lỗi của chủng tính.

Kệ nói:

Nên biết tính Bồ-tát,

Lược nói có 4 lỗi.

Tập hoặc cùng bạn xấu,

Vì bần cùng, thuộc người.

Giải thích: Tội lỗi chủng tính của Bồ-tát lược nói có 4 thứ: 1. Tập hoặc, vì không hành công đức hành nhiều phiền não. 2. Bạn xấu, vì gần gũi người xấu, xa lìa thiện tri thức. 3. Bần cùng, vì mọi thứ cần thiết đều thiếu thốn. 4. Thuộc người khác, vì lệ thuộc người khác không tự tại.

Đã nói tội lỗi của chủng tính, tiếp nói công đức của chủng tính.

Kệ nói:

Công đức cũng 4 thứ,

Tuy đọa nơi ác đạo,

Vào chậm lại ra mau,

Khổ mỏng và bi sâu.

Giải thích: Chủng tính Bồ-tát tuy có tội lỗi như trước, nếu đọa ác đạo nên biết trong đó lại có 4 thứ công đức: 1. Vào chậm, vì không thường xuyên đọa. 2. Ra mau, vì không ở lâu. 3. Khổ mỏng, vì sự bức não nhẹ. 4. Bi sâu, vì cũng thành tựu tâm thương xót chúng sinh.

Đã nói công đức của chủng tính, tiếp nói chủng tính ví dụ vàng.

Kệ nói:

Ví như tính vàng tốt,

Xuất sinh có 4 thứ.

Các thiện và các trí,

Các tịnh và các thông.

Giải thích: Tính vàng tốt có 4 nghĩa: 1. Cực đa. 2. Quang minh. 3. Vô cấu. 4. Điều nhu. Chủng tính Bồ-tát cũng vậy: 1. Là y chỉ của vô lượng thiện căn. 2. Là y chỉ của vô lượng trí tuệ. 3. Là y chỉ cho tất cả phiền não chướng trí chướng được thanh tịnh. 4. Là y chỉ cho tất cả thần thông biến hóa.

Đã nói về chủng tính ví như tính vàng, tiếp nói chủng tính ví như các báu.

Kệ nói:

Ví như tính các báu,

Bốn thứ thành tựu nhân.

Đại quả và đại trí,

Đại định và đại nghĩa.

Giải thích: Tính các báu là thành tựu 4 thứ y chỉ: 1. Chân thật thành tựu y chỉ. 2. Sắc thành tựu y chỉ. 3. Hình thành tựu y chỉ. 4. Lượng thành tựu y chỉ. Chủng tính Bồ-tát cũng vậy: 1. Là nhân Đại Bồ-đề. 2. Là nhân đại trí. 3. Là nhân đại định, vì định do tâm trụ. 4. Là nhân đại nghĩa, vì thành tựu vô biên chúng sinh.

Đã rộng phân biệt tính vị, tiếp phân biệt vô tính vị.

Kệ nói:

Một bề hành ác hạnh,

Dứt hết các bạch pháp.

Không có phần giải thoát,

Thiện ít, nhân cũng không.

Giải thích: Vô Bát-niết-bàn pháp là vô tính vị. Đây lược có 2 thứ: 1. Thời biên Bát-niết-bàn pháp. 2. Tất cánh vô Niết-bàn pháp. Thời biên Bát-niết-bàn pháp có 4 loại người: 1. Cứ một bề làm ác. 2. Dứt hết các thiện pháp. 3. Không có thiện căn giải thoát phần. 4. Thiện căn không đầy đủ. Người hoàn toàn không có pháp Niết-bàn là vì không có nhân, người ấy không có tính Bát-niết-bàn. Đây gọi là người chỉ cầu sinh tử không ưa thích Niết-bàn.

Đã nói về vô tính, tiếp nói khiến nhập vào.

Kệ nói:

Giảng sâu rộng đại pháp,

Khiến tin khiến cực nhẫn.

Cứu cánh Đại Bồ-đề,

Hai biết, 2 thắng tính.

Giải thích: Giảng diễn sâu rộng pháp Đại thừa là vì lợi tha. Nghĩa là người vô trí khiến được tin Đại thừa, đã tin Đại thừa khiến thành tưu cực nhẫn có thể tu hành không thoái lui. Người đã cực nhẫn khiến cứu cánh thành tựu vô thượng Bồ-đề. Hai hạng người biết là phàm phu và Thanh Văn. Nếu được như vậy thì 2 hạng người kia biết tự tính, tính của tính đức viên mãn rất là thù thắng.

Hỏi: Thù thắng thế nào?

Kệ nói:

Cây Bồ-đề tăng trưởng,

Sinh lạc và diệt khổ.

Tự tha lợi là quả,

Thù thắng là gốc tốt.

Giải thích: Chủng tính như vậy có thể tăng trưởng công đức cực rộng cây Đại Bồ-đề, có thể được vui lớn, có thể diệt khổ lớn, có thể được tự tha lợi lạc, lấy làm đại quả. Cho nên tính này là trên hết. Ví như gốc cây cát tường, tính Bồ-tát cũng vậy.

Xong Phẩm chủng tính.

HẾT QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13