LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH
Bồ-tát Vô Trước tạo luận
Đường, Thiên Trúc tam tạng Ba-la-phả-mật-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

Phẩm 17 – 2: ĐỘ NHIẾP

Giải thích: Đã nói tu tập 6 Ba-la-mật, tiếp nói sai biệt của 6 Bala-mật. Sai biệt của 6 Ba-la-mật mỗi thứ đều có 6 nghĩa: 1. Tự tính. 2. Nhân. 3. Quả. 4. Nghiệp. 5. Tương ưng. 6. Phẩm loại.

Kệ nói:

Thí kia và cộng tư,

Hai thành và 2 nhiếp.

Vì cụ trụ không xan,

Pháp tài vô úy 3.

Giải thích: Kệ này nói 6 nghĩa của Đàn Ba-la-mật. Thí kia, là tự tính của thí vì dùng vật của mình thí cho người nhận. Cộng tư, là nhân của thí vì thiện căn không tham với tư duy cùng sinh. Hai thành, là quả của thí vì tài thành tựu và thân thành tựu. Nói thân thành tựu, là gồm cả mạng v.v… 5 việc, như trong kinh có nói thí thực được 5 việc: 1. Được mạng sống. 2. Được nhan sắc. 3. Được sức mạnh. 4. Được vui. 5. Hoàn tất. Hai nhiếp, là nghiệp của thí vì tự tha 2 gồm đủ và đầy đủ Đại Bồ-đề. Cụ trụ không keo kiệt, là tương ưng của thí vì đầy đủ trong tâm người không keo kiệt. Pháp tài vô úy 3, là phẩm loại của thí. Phẩm loại có 3: 1. Pháp thí. 2. Tài thí. 3. Vô úy thí. Đó là 6 nghĩa người trí phải biết và tu tập.

Kệ nói:

Sáu chi, diệt hữu biên,

Thiện đạo và trì đẳng.

Vì phúc tụ đầy đủ,

Hai được là 2 thứ.

Giải thích: Kệ này nói 6 nghĩa của Thi Ba-la-mật. Sáu chi, là tự tính của giới, vì trụ đầy đủ giới cho đến học đầy đủ các thụ học. Diệt hữu biên, là nhân của giới. Diệt, là Niết-bàn. Vì cầu Niết-bàn, vượt các hữu biên, thụ và thực hành giới. Thiện đạo, là quả của giới vì thiện đạo và không hối v.v…lần lượt 5 trụ tâm đều do giới mà được. Trì đẳng, là nghiệp của giới. Giới có 3 công năng: 1. Công năng duy trì, như đại địa có thể giữ gìn một cách tự nhiên tất cả công đức. 2. Công năng vắng lặng, do có thể chận dứt tất cả lửa phiền não. 3. Công năng không sợ hãi, do công năng không khởi tất cả sự sợ hãi, ganh ghét v.v…các tội duyên làm sinh khởi sự sợ sệt, sinh khởi các tội. Vì phúc tụ đầy đủ, là tương ưng của giới, do trong mọi lúc thân khẩu ý nghiệp đều hành thiện hạnh. Hai được là 2 thứ, là phẩm loại của giới. Hai được là được thụ nhận và được pháp. Được nhận, là gồm Ba-la-đề-mộc-xoa hộ. Được pháp, là gồm thiền hộ và vô lưu hộ.

Kệ nói:

Tính không báo, nại, trí,

Đại bi và pháp y

Năm đức và 2 lợi,

Cụ thắng kia 3 thứ.

Giải thích: Kệ này nói 6 nghĩa của Sằn-đề Ba-la-mật. Tính không báo, nại, trí, là tự tính của nhẫn. Một là không báo, hai là nại, ba là trí. Ba tính này lần lượt là 3 tự tính của nhẫn. Tự tính không báo, là người khác chê thì nhịn chịu không đáp trả. Tự tính nại, là yên tâm nhẫn nại cái khổ. Tự tính trí, là quán pháp nhẫn. Đại bi và pháp y, là nhân của nhẫn. Một, đại bi là nhân. Hai, pháp y là nhân. Pháp y, nghĩa là thụ giới và học hỏi nghe pháp nhiều. Năm đức, là quả của nhẫn. Như trong kinh nói, nhẫn đước 5 thứ quả: 1. Được ít tính ganh ghét. 2. Được tính không phá hoại ý người khác. 3. Được niềm vui. 4. Được trước khi chết không hối hận. 5. Được sau khi chết sinh cõi trời. Hai lợi, là nghiệp của nhẫn. Do 3 nhẫn nên có thể làm 2 nghiệp tự lợi và lợi tha. Như một bài kệ trong kinh nói: “Làm kia 2 nghĩa, tự lợi lợi tha. Nếu biết kia giận, nơi kia tự dứt.” Cụ thắng, là tương ưng của nhẫn. Nhẫn khó thực hành nên gọi nó là tối thắng. Đầy đủ tối thắng là tương ưng. Như trong kinh nói nhẫn là khó thực hành nhất. Kia 3 thứ, là phẩm loại của nhẫn. Người kia có 3 phẩm: 1. Người chê, nhẫn. 2. Yên chịu khổ, nhẫn. 3. Quán pháp nhẫn.

Kệ nói:

Dũng với thiện và chính,

Vì có tin có muốn.

Niệm tăng và đối trị,

Đủ đức kia 7 thứ.

Giải thích: Kệ này nói 6 nghĩa của Tì-lê-da Ba-la-mật. Dũng với thiện và chính, là tự tính của tinh tiến. Vì dũng mãnh trong việc ngăn các nghiệp nên nói là thiện, dũng mãnh trong việc trừ ngoại đạo, giải thoát nên nói là chính. Vì có tin có muốn, là nhân của tinh tiến, do tin và mong cầu nên được tinh tiến. Niệm tăng, là quả của tinh tiến, vì công đức của niệm định v.v… lại do tinh tiến khởi. Đối trị, là nghiệp của tinh tiến. Như kinh nói người khởi tinh tiến có thể được lạc trụ, vì không xen tạp các pháp ác bất thiện. Đủ đức, là tương ưng của tinh tiến vì đủ công đức của không tham v.v… Kia 7 thứ, là phẩm loại của tinh tiến. Người kia có 7 phẩm tinh tiến: 1. Học giới tinh tiến. 2. Học định tinh tiến. 3. Học tuệ tinh tiến. 4. Thân tinh tiến. 5. Tâm tinh tiến. 6. Vô gián tinh tiến. 7. Tôn trọng tinh tiến.

Kệ nói:

Tâm trụ và niệm tiến,

Lạc sinh và thông trụ.

Là đứng trên các pháp,

Chủng loại 3 rồi 3.

Giải thích: Kệ này nói 6 nghĩa của Thiền Ba-la-mật. Tâm trụ, là tự tính của định, do tâm trụ bên trong. Niệm tiến, là nhân của định. Có niệm nên không quên duyên. Dựa vào tiến nên thiền định khởi. Lạc sinh, là quả của định, vì lìa thoái phương tiện lìa quả không hư. Thông trụ, là nghiệp của định. Thông, là 5 thông. Trụ, là 3 trụ: Thánh trụ, Thiên trụ, Phạm trụ. Thiền định có thể khiến 5 thông và 3 trụ được trụ tự tại. Là đứng trên các pháp, là tương ưng của định. Như kinh nói: Tam-ma-đề là trên hết các pháp. Chủng loại kia 3 rồi 3, là phẩm loại của định. Người kia có 2 thứ 3 phẩm: Một là có giác có quán, không giác có quán và không giác không quán 3 phẩm. Hai là hỷ đủ, lạc đủ, xả đủ 3 phẩm.

Kệ nói:

Chọn đúng và giữ định,

Khéo thoát và mạng thuyết.

Là đứng trên các pháp,

Kia cũng có 3 loại.

Giải thích: Kệ này nói 6 nghĩa của Bát-nhã Ba-la-mật. Chọn đúng, là tự tính của tuệ do lìa tà nghiệp và nghiệp theo hiểu biết thế gian. Vì lựa chọn đúng pháp xuất thế gian. Giữ định, là nhân của tuệ, do giữ định mà tuệ hiểu pháp như thật. Khéo thoát, là quả của tuệ. Nghĩa là trong nhiễm ô được khéo giải thoát. Bởi vì sao? Bởi thế gian, xuất thế gian,đại xuất thế gian lựa chọn đúng. Mạng thuyết, là nghiệp của tuệ do tuệ mạng và thiện thuyết. Tuệ mạng là do lấy sự lựa chọn đúng đắn vô thượng kia làm mạng. Thiện thuyết là nói đúng chính pháp. Đứng trên các pháp, là tương ưng của tuệ. Như kinh nói Bát-nhã là trên hết trong các pháp. Kia cũng có 3 thứ, là phẩm loại của tuệ. Người kia có sự lựa chọn đúng đắn 3 phẩm: thế gian, xuất thế gian và đại xuất thế gian.

Đã nói xong sự sai biệt của 6 Ba-la-mật, tiếp nói nhiếp hạnh của 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Tất cả pháp bạch tịnh,

Loạn, định, và đủ hai.

Sáu độ chung 3 cặp,

Là loại đều gồm đủ.

Giải thích: Tất cả pháp bạch tịnh, là Đàn v.v… các hành pháp. Phải biết các hành pháp ấy gồm chung có 3 loại: một là loạn, hai là định và ba là đủ cả hai. Nói loạn kia, là 2 Ba-la-mật trước gồm thí và giới không nhất định. Nói định, là 2 Ba-la-mật sau gồm thiền và thật tuệ định. Nói đủ hai, là 2 Ba-la-mật giữa gồm nhẫn và tinh tiến gồm định và bất định.

Đã nói xong nhiếp hành của 6 Ba-la-mật, tiếp nói trị chướng của 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Đàn lìa 7 đắm trước,

Nên nói 7 không đắm.

Phải biết 5 độ kia,

Chướng trị đều có 7.

Giải thích: Đàn lìa 7 sự đắm trước, nên nói là 7 không đắm trước. Đối với Đàn có 7 thứ gọi là đắm trước: 1. Tham trước tiền của. 2. Tham trước sự lười biếng. 3. Đắm trước thiên chấp. 4. Chấp trước sự báo ân. 5. Chấp trước quả báo. 6. Chấp trước chướng ngại. 7. Chấp trước tán loạn. Trong đây chấp trước chướng ngại, là Đàn đối trị tham vì tùy miên không dứt. Về chấp trước tán loạn, có 2 thứ tán loạn: một là hạ ý tán loạn vì cầu Tiểu thừa, hai là phân biệt tán loạn vì phân biệt tam luân. Do Bồ-tát khi tu hành Đàn, xa lìa 7 thứ đắm trước này cho nên nói là 7 không đắm trước. Phải biết 5 độ kia trị chướng 7 thứ đều như vậy. Phải biết giới v.v… 5 Ba-la-mật, mỗi mỗi cũng đều có 7 thứ đắm trước. Lìa 7 đắm trước nên cũng nói là 7 không đắm trước. Trong đây chỗ khác nhau là chuyển đổi Đàn Bala-mật là lìa sự tham trước về tiền của. Tức là giới v.v… 5 Ba-la-mật lìa thứ nhất là như giới là lìa đắm trước phá giới, nhẫn lìa đắm trước giận dữ, tinh tiến lìa đắm trước lười biếng, thiền định lìa đắm trước tán loạn, trí tuệ lìa đắm trước ngu si. Giới v.v… lìa đắm trước chướng ngại, vì chướng tùy miên đều đoạn trừ. Giới v.v…lìa đắm trước phân biệt, vì không phân biệt tam luân.

Đã nói xong trị chướng của 6 Ba-la-mật, tiếp nói công đức 6 Ba-la-mật. Trong đây, trước nói công đức lợi tha.

Kệ nói:

Hằng thời xả thân mạng,

Lìa cầu vì thương người.

Do thí tạo Bồ-đề,

Có trí thí vô tận.

Giải thích: Kệ này hiển thị công đức lợi tha của Đàn Ba-la-mật. hằng thời xả thân mạng, nghĩa là chư Bồ-tát bất cứ lúc nào cũng có thể thí thân mạng mình cho tất cả ai cần cầu đến. Lìa cầu vì thương người, nghĩa là không cầu trả ơn và nhắm đến quả, mà do đại bi làm nhân. Do thí tạo Bồ-đề, nghĩa là nhân thí này đã xây dựng tất cả chúng sinh trong 3 thừa Bồ-đề. Có trí thí vô tận, nghĩa là thí này do thuộc trí vô phân biệt, cho đến Niết-bàn vô dư, phúc ấy không hết, lợi ích vô cùng cho tất cả chúng sinh.

Kệ nói:

Thường giữ giới cấm cần,

Lìa giới và thiện thú.

Do giới tạo Bồ-đề,

Có trí giới vô tận.

Giải thích: Kệ này nói công đức lợi tha của Thi Ba-la-mật. Thường giữ giới cấm cần, là nói Bồ-tát có 3 nhóm giới: một là giới luật nghi, hai là giới nhiếp thiện pháp và ba là giới nhiếp chúng sinh. Nhóm giới đầu tiên lấy sự cấm ngăn làm thể. Hai nhóm giới sau lấy sự siêng năng và dũng mãnh làm thể. Và chư Bồ-tát trong tất cả mọi thời hằng giữ gìn. Lìa giới và thiện thú, có nghĩa là không chấp trước vào sự đắc giới và không cầu ái quả.

Kệ nói:

Thường nhịn người hủy báng,

Lìa cầu, sợ không thể,

Do nhẫn tạo Bồ-đề,

Có trí, nhẫn vô tận.

Giải thích: Kệ này nói công đức lợi tha của Sằn-đề Ba-la-mật. Thường nhịn người hủy báng, nghĩa là chư Bồ-tát trong mọi lúc nếu tất cả chúng sinh đem tất cả những tức giận đến hủy báng Bồ-tát, Bồtát đều có thể nhẫn nhịn. Lìa cầu sợ không thể, nghĩa là không cầu trả ơn, không cầu mình sinh về nẻo thiện, không vì sợ hãi, không vì không năng lực.

Kệ nói:

Thường thề siêng năng làm,

Giết giặc vì vô thượng.

Do tiến tạo Bồ-đề,

Có trí tiến vô tận.

Giải thích: Kệ này nói công đức lợi tha của Tì-lê-da Ba-la-mật. Thường thề siêng năng làm, nghĩa là chư Bồ-tát tu tinh tiến có 2 tự tính không thể so sánh: một là thệ nguyện rộng lớn làm tự tính, hai là phương tiện siêng năng làm tự tính. Giết giặc vì vô thượng, là Bồtát tu hành tinh tiến chỉ vì giết giặc phiền não của mình và người để được vô thượng Bồ-đề.

Kệ nói:

Thường thời tập các định,

Bỏ thiền, sinh hạ xứ.

Do định tạo Bồ-đề,

Có trí định vô tận.

Giải thích: Kệ này nói công đức lợi tha của Thiền Ba-la-mật. Thường thời tập các định, nghĩa là Bồ-tát có vô biên Tam-ma-đề để tu tập. Bỏ thiền, sinh hạ xứ, nghĩa là xả bỏ sự an lạc trụ ở vô thượng thiền mà đến thụ sinh những nơi thấp kém. Bởi vì sao? Là vì tâm đại bi.

Kệ nói:

Thường rõ chân các cảnh,

Phật đoạn còn không đắm.

Do trí tạo Bồ-đề,

Có bi trí vô tận.

Giải thích: Kệ này nói công đức lợi tha của Bát-nhã Ba-la-mật. Thường rõ chân các cảnh, nghĩa là rõ chân tức tướng đệ nhất nghĩa đế bình đẳng vì trí nhân pháp 2 vô ngã. Các cảnh, nghĩa là vô biên vì danh tướng sai biệt. Phật đoạn còn không đắm, nghĩa là Phật đoạn là chỉ Niết-bàn. Chư Bồ-tát tu Bát-nhã còn không đắm trước Niết-bàn của Phật huống chi là cầu sinh tử. Trong đây 5 Ba-la-mật bao gồm trí vô phân biệt nên công đức vô tận cho đến vô dư Niết bàn. Bát-nhã Bala-mật bao gồm đại bi nên công đức vô tận hằng không bỏ chúng sinh.

Sáu kệ nói riêng công đức lợi tha xong, tiếp một kệ nói chung các nghĩa trước.

Kệ nói:

Rộng lớn và không cầu,

Tối thắng và vô tận.

 Phải biết mỗi một độ,

Đủ 4 đức như nhau.

Giải thích: Bốn công đức là: 1. Công đức rộng lớn. 2. Công đức không cầu. 3. Công đức tối thắng. 4. Công đức vô tận. Sáu kệ trước câu thứ nhất nói công đức rộng lớn vì lợi nhiều chúng sinh. Câu thứ hai nói công đức không cầu. Câu thứ ba nói công đức tối thắng. Câu thứ tư nói công đức vô tận. Lại nữa 6 Ba-la-mật lại có công đức thanh tịnh.

Kệ nói:

Được thấy và toại nguyện,

Cầu hợp 3 vui mừng.

Bồ-tát đổi tướng vui,

Kia thoái bi rất mực.

Giải thích: Kệ này nói công đức thanh tịnh của Đàn Ba-lamật. Kia cầu xin thì đối với Bồ-tát sinh 3 vui mừng: 1. Vui mừng khi được thấy. 2. Vui mừng khi toại nguyện. 3. Vui mừng khi thấy cầu và cầu toại nguyện. Bởi khi không thấy, khi không toại nguyện thì không sinh vui mừng. Bồ-tát trong mọi lúc đối với người cầu xin thì đổi lấy 3 cái vui mừng của người kia sinh vui mừng của mình: 1. Vui mừng được thấy người kia. 2. Vui mừng khi làm người kia toại nguyện. 3. Vui mừng khi cầu thấy cầu toại nguyện. Trong đây phải biết 3 cái vui mừng của người cầu xin kia không bằng 3 cái vui mừng của Bồ-tát. Bởi vì sao? Vì Bồ-tát đầy đủ đại bi.

Kệ nói:

Tự thân, của, quyến thuộc,

Do bi hằng vui thí.

Kia 3 hạnh xa lìa,

Do gì không giữ cấm?

Giải thích: Dưới đây nói công đức thanh tịnh của Thi Ba-lamật. Kệ này nói xa lìa 3 ác hạnh của thân. Bồ-tát đối với thân mạng mình, của cải của mình, quyến thuộc của mình, vì lòng đại bi còn vui vẻ muốn thí cho người, huống chi là thân mạng người, của cải của người, quyến thuộc của người mà không giữ cấm xa lìa 3 thứ ấy ư?

Kệ nói:

Bất cố và bình đẳng,

Không sợ và khắp cho.

Tâm bi lớn thì lý gì

Hại người mà vọng ngữ?

Giải thích: Kệ này nói xa lìa ác hạnh vọng ngữ. Phàm khởi vọng ngữ có 4 nhân duyên: 1. Vì tự lợi do luyến ái thân mạng. 2. Vì lợi tha do lợi sinh ái. 3. Vì sợ hãi do sợ pháp vua. 4.Vì cầu của cải do cần thiết. Bồ-tát thì không như vậy: 1. Không quan tâm không luyến tiếc thân mạng. 2. Bình đẳng coi thân người như thân mình. 3. Không sợ hãi vì lìa 5 thứ sợ hãi. 4. Cho khắp vì đem tất cả vật sở hữu cho tất cả. Tâm bi của Bồ-tát hằng sâu thì có lý do gì khởi vọng ngữ?

Kệ nói:

Bình đẳng làm lợi ích,

Đại bi sợ người khổ.

Siêng thành thục chúng sinh,

Sợ 3 lỗi ngữ nghiệp.

Giải thích: Kệ này nói xa lìa 3 ác hạnh khác của ngữ nghiệp. Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh hằng làm lợi ích bình đẳng, lẽ nào muốn phá hoại quyến thuộc của người mà nói lời đâm thọc? Đại bi của Bồ-tát hằng muốn cứu vớt khổ cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát rất sợ người khổ, lẽ nào muốn làm khổ người khác mà nói lời thô ác. Bồ-tát hằng tu hành siêng năng chân chính, hằng muốn thành thục tất cả chúng sinh, lẽ nào muốn không thành thục người mà nói lời xảo quyệt? Cho nên Bồ-tát có thể lìa rất xa 3 lỗi ngữ nghiệp này.

Kệ nói:

Khắp cho và tâm bi,

Rất giỏi pháp duyên khởi,

Vì sao không thể nhẫn,

Ba phiền não của ý?

Giải thích: Kệ này nói xa lìa 3 ác hạnh của ý nghiệp. Bồ-tát do khắp cho tất cả vật sở hữu của mình nên lìa tham phiền não, do đại bi nen lìa sân phiền não, do rất giỏi pháp duyên khởi nên lìa tà kiến phiền não. Như vậy đối trị tất cả phá giới sai biệt là công đức thanh tịnh giới của Bồ-tát.

Kệ nói:

Người tổn được tưởng ích,

 Việc khổ sinh tưởng vui.

Bồ-tát đã như vậy,

Nhẫn ai nhẫn việc gì?

Giải thích: Kệ này nói công đức thanh tịnh của Sằn-đề Ba-lamật. Người tổn được tưởng ích, nghĩa là Bồ-tát đối với người không làm ích lợi cho mình thì nghĩ mình được ích lợi nên cần phải nhẫn nhục. Bởi vì sao? Vì thành cái nhân nhẫn nhục. Việc khổ sinh tưởng vui, nghĩa là Bồ-tát trong khi chịu khổ lại sinh ý tưởng vui mừng.

Bởi vì sao? Vì thành tựu cái nhân lợi tha. Bồ-tát đã không đâu khởi tưởng không lợi ích, không đâu khởi tưởng khổ thì khởi nhẫn với ai khởi nhẫn việc gì?

Kệ nói:

Bồ-tát đoạn tha tưởng,

Yêu người hơn yêu mình.

Với người, việc khó làm,

Tinh tiến tức không khó.

Giải thích: Kệ này nói công đức thanh tịnh của Tì-lê-da Ba-lamật. Bồ-tát vì người làm việc khó làm thì tinh tiến nên thành không khó. Bởi vì sao? Vì đoạn tha tưởng, và trong mọi lúc yêu người hơn yêu mình. Bồ-tát vì người tinh tiến như vậy, lẽ nào lại có chuyện khó làm? Cho nên thanh tịnh tinh tiến.

Kệ nói:

Thiểu lạc, 2 tự lạc,

Vì trước, thoái, tận, si.

Là thiền 3 hạng người,

Thiền Bồ-tát khác chúng.

Giải thích: Kệ này nói công đức thanh tịnh của Thiền Ba-lamật. Thiểu lạc, là thiền thế gian. Hai tự lạc, là thiền Thanh Văn và thiền Duyên Giác. Thiền thế gian thì chấp trước kiến giải của mình. Thiền nhị thừa thì chấp trước Niết-bàn. Thoái, là nói thiền thế gian. Tận, là nói thiền nhị thừa, vì khi đến vô dư Niết-bàn là hết. Si, là thiền của 3 hạng người theo chỗ thích ứng có nhiễm si và không nhiễm si. Thiền Bồ-tát khác chúng, nghĩa là ngược lại với thiền của 3 hạng người kia. Bởi vì sao? Vì nhiều vui, vì mình vui người vui, vì không chấp trước, vì không thoái lui, vì không hết, vì không si. Đó gọi là công đức thanh tịnh của thiền định.

Kệ nói:

Tối đụng và 2 đèn,

Trí 3 người như vậy.

Như mặt trời chiếu sáng,

Trí Bồ-tát khôn sánh.

Giải thích: Kệ này nói công đức thanh tịnh của Bát-nhã Ba-lamật. Ví như trong tối dùng tay đụng chạm đồ vật, trí phàm phu cũng như vậy. Bởi vì sao? Vì chỉ được một ít cảnh, không rõ ràng, không hằng định. Ví như 2 ngọn đèn chiếu đồ vật trong nhà, trí người Thanh Văn và trí Duyên Giác cũng như vậy. Bởi vì sao? Vì chỉ được một ít cảnh, sáng tỏ dần dần, chưa triệt để thanh tịnh. Ví như ánh sáng mặt trời chiếu vạn vật, trí Bồ-tát cũng vậy. Bởi vì sao? Vì được mãn khắp tất cả, vì sáng rõ, vì cực kỳ thanh tịnh. Không gì có thể so sánh như vậy, đó là công đức thanh tịnh Bát-nhã của Bồ-tát.

Lại có 8 thứ công đức vô thượng hậu hữu của 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Y, loại, duyên, hồi hướng,

Nhân, trí, điền, y chỉ.

Tám tối thắng như vậy,

Đó là nghĩa vô thượng.

Giải thích: Tám vô thượng là: 1. Y. 2. Loại. 3. Duyên. 4. Hồi hướng. 5. Nhân. 6. Trí. 7. Điền. 8. Y chỉ.

Hỏi: Tám cái này đối với 6 độ vì sao được vô thượng?

Đáp: Đàn y, là dựa vào Bồ-tát. Đàn loại, là có 3 thứ: 1. Vật thí, bởi xả thân mạng mình. 2. Vô úy thí, bởi cứu tế sự sợ hãi sinh tử trong ác đạo. 3. Pháp thí, bởi nói pháp Đại thừa. Đàn duyên, là lấy đại bi làm duyên khởi. Đàn hồi hướng, là để cầu Đại Bồ-đề. Đàn nhân, là bởi nghiệp thí đời trước huân tập chủng tử làm nhân. Đàn trí, là dùng trí vô phân biệt quán sát tam luân, không phân biệt người thí, người nhận và tài vật. Đàn điền, là ruộng có 5 người: 1. Người cầu. 2. Người khổ. 3. Người không nương tựa. 4. Người làm ác. 5. Người đủ đức. Phải biết trong đây lấy người đủ đức thắng làm tối thượng. Đàn y chỉ, là do 3 thứ y chỉ: 1. Y chỉ tín hướng. 2. Y chỉ tư duy. 3. Y chỉ Tam-muội. Y chỉ tín hướng, nghĩa là như trong phân biệt tu có nói tín tư duy. Y chỉ tư duy, nghĩa là như trong phân biệt tu có nói vị tư duy, tùy hỷ tư duy, hy vọng tư duy. Y chỉ Tam-muội, nghĩa là y vào Kim cương tạng các định v.v… như trong thế lực y chỉ tu có nói. Như vậy y v.v… là vô thượng nên Đàn được vô thượng. Như Đàn 8 vô thượng, giới v.v… 5 Ba-la-mật 8 vô thượng cũng vậy. Trong đây phẩm loại vô thượng của giới là giới Bồ-tát. Phẩm loại vô thượng của nhẫn, là đến giết Bồ-tát là thấp hèn liệt nhược. Phẩm loại vô thượng của tinh tiến, là tu các Ba-la-mật, đoạn dứt đối trị. Phẩm loại vô thượng của thiền, là Tam-ma-đề của Bồ-tát. Phẩm loại vô thượng của trí, là duyên cảnh như như. Giới v.v… do thắng điền vô thượng, là pháp Đại thừa. Ngoài ra 6 vô thượng khác như nói trong đàn.

Lại nữa, đàn và tinh tiến lại có các công đức sai biệt không chung.

Hỏi: Sai biệt của đàn như thế nào?

Kệ nói:

Thí một khiến được vui,

Nhiều kiếp tự chịu khổ.

Còn thí vì yêu sâu,

Huống chi lại được lợi.

Giải thích: Nếu các Bồ-tát thí cho một chúng sinh khiến kia được vui mà tự thân phải chịu nhiều kiếp bần cùng cũng vẫn thí không keo kiệt vì thương yêu sâu. Thương yêu sâu, là bi sai biệt. Huống chi thí cho một chúng sinh khiến kia được vui, tự thân nhiều kiếp được phúc lợi lớn.

Kệ nói:

Người xin tùy ý muốn,

Bồ-tát xả tất cả.

Kia cầu vì bản thân,

Lợi kia trăm thứ thí.

Giải thích: Nửa kệ trên nói tổng quát, nghĩa là tùy người kia cần gì Bồ-tát đều xả tất cả. Nửa kệ dưới giải thích, nghĩa là người xin vì lợi cho mình nên muốn được tất cả. Bồ-tát vì lợi tha nên trăm thứ đều xả hết.

Kệ nói:

Xả thân còn không khổ,

Huống chi là của cải.

Vì được vui xuất thế,

Khởi khổ là vô thượng.

Giải thích: Khi Bồ-tát xả thân, do tâm nên không sinh khổ. Tâm này hiển thị tâm xuất thế gian của Bồ-tát. Bởi vì sao? Vì được hoan hỷ.

Hỏi: Niềm vui này được từ đâu?

Đáp: Được từ khởi khổ. Cho nên khởi khổ là vô thượng của Bồ-tát. Cho nên Bồ-tát là ở trên xuất thế gian.

Kệ nói:

Người xin được tất cả,

Được vui chẳng vui lớn.

Bồ-tát xả tất cả,

Vui kia là vui lớn.

Giải thích: Những gì người xin cần, Bồ-tát đều thí. Người xin được vui. Cái vui này chẳng phải vui lớn. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì Bồ-tát đều xả, vui vì người kia được của cải. Cái vui này lớn hơn cái vui kia.

Kệ nói:

Người xin được tất cả,

Có của chẳng thấy giàu,

Bồ-tát xả tất cả,

Không của mà đại phú.

Giải thích: Kệ này hiển thị sai biệt của cải vô tận của Bồ-tát.

Kệ nói:

Người xin được tất cả,

Chẳng tưởng được lợi lớn.

Bồ-tát xả tất cả,

Là được ích lợi lớn.

Giải thích: Đây hiển thị sai biệt đại bi của Bồ-tát.

Kệ nói:

Người xin lấy tự nhiên,

Như hái trái bên đường.

Bồ-tát hành đại xả,

Người khác không làm được.

Giải thích: Đây hiển thị sai biệt về sự không tham trước của Bồ-tát.

Hỏi: Đã nói sai biệt về công đức không chung của Đàn, vậy sai biệt về công đức không chung của tinh tiến thế nào?

Kệ nói:

Thắng, nhân, y, nghiệp, chủng,

Đối trị, có khác nhau.

Như vậy có 6 nghĩa,

Của sai biệt tinh tiến.

Giải thích: Tinh tiến có 6 thứ sai biệt: 1. Thắng sai biệt. 2. Nhân sai biệt. 3.Y chỉ sai biệt. 4. Nghiệp sai biệt. 5. Chủng sai biệt. 6. Đối trị sai biệt. Kệ này nêu tổng quát. Các kệ khác giải thích riêng.

Kệ nói:

Bạch pháp tiến trên hết,

Tiến cũng là thắng nhân.

Và được các thiện pháp,

Thì tiến là y chỉ.

Giải thích: Kệ này nói thắng sai biệt, nhân sai biệt vì y chỉ sai biệt của tinh tiến. Bạch pháp tiến trên hết, là nói tối thắng sai biệt, vì trong tất cả thiện pháp tinh tiến được nói là tối thắng. Tiến cũng là thắng nhân, là nói nhân sai biệt, vì tinh tiến được nói là nhân vô thượng. Và được các thiện pháp, thì tiến là y chỉ. Đây là nói y chỉ sai biệt, vì do y chỉ tinh tiến mà được tất cả thiện pháp.

Kệ nói:

Hiện lạc cùng thế pháp,

Xuất thế và của cải.

Động tĩnh và giải thoát,

Bồ-đề 7 là nghiệp.

Giải thích: Kệ này nói nghiệp sai biệt của tinh tiến. Nghiệp sai biệt này có 7 thứ: 1. Được trụ trong niềm vui hiện pháp. 2. Được pháp thế gian. 3. Được pháp xuất thế gian. 4. Được của cải. 5. Được động tĩnh. Động tính là do thế gian không cứu cánh. 6. Được giải thoát, do đoạn thân kiến. 7. Được Bồ-đề. Bồ-đề là do Đại Bồ-đề.

Kệ nói:

Tăng giảm và tăng thượng,

Xả chướng và nhập chân,

Chuyển y và đại lợi,

Là 6 thứ tinh tiến.

Giải thích: Kệ này nói các thứ sai biệt của tinh tiến. Chủng sai biệt có 6 thứ: 1. Tăng giảm tinh tiến, lả 4 chính cần, vì giảm 2 ác pháp, tăng 2 thiện pháp. 2. Tăng thượng tinh tiến, là 5 căn, vì có nghĩa tăng thượng đối với pháp giải thoát. 3. Xả chướng tinh tiến, là 5 lực, vì chướng ngại kia không thể chướng ngại. 4. Nhập chân tinh tiến, là 7 giác phần, vì do kiến đạo thiết lập. 5. Chuyển y tinh tiến, là 8 thánh đạo phần, vì do tu đạo là nhân chuyển y cứu cánh. 6. Đại lợi tinh tiến, là 6 Ba-la-mật, vì tự lợi lợi tha.

Kệ nói:

Chủng lại có 5 khác,

Hoằng thệ rồi phát hành,

Vô hạ và bất động,

Thứ 5 là vô yếm.

Giải thích: Năm khác là: 1. Hoằng thệ tinh tiến, là muốn phát khởi hạnh. 2. Phát tinh tiến, là các thiện hiện hành. 3. Vô hạ tinh tiến, là được qủa lớn vì không có hạ thể. 4. Bất động tinh tiến, là các khổ lạnh nóng v.v…không làm lay động. 5. Vô yếm tinh tiến, là không vì được chút ít cho là đủ. Năm thứ này như trong kinh nói có hoằng thệ tinh tiến, có hiện khởi tinh tiến, có dũng mãnh tinh tiến, có kiên cố tinh tiến và có tinh tiến không bỏ Phật đạo. Trong các thiện pháp, nên biết theo thứ tự ấy.

Kệ nói:

Ba thứ hạ trung thượng,

Là do y 3 thừa.

Và 2 hạ thượng giác,

Vì lợi có tiểu đại.

Giải thích: Tinh tiến y nhân sai biệt kia lại có 3 thứ và 2 thứ. Ba thứ là y sai biệt của hành nhân 3 thừa theo thứ tự tinh tiến hạ trung thượng.

Hỏi: Vì nguyên nhân gì lại có 2 thứ?

Đáp: Vì hạ thượng giác. Hạ giác, là y hành nhân nhị thừa, thượng giác, là y hành nhân Đại thừa, theo thứ tự nói tiểu lợi và đại lợi. Bởi vì sao? Vì tự lợi và vì tha lợi.

Kệ nói:

Tài trước, phiền não trước,

Yếm trước, tri túc trước.

Bốn trước không thể lui,

Đối trị chia 4 thứ.

Giải thích: Kệ này nói đối trị sai biệt của tinh tiến do đối trị 4 thứ nhiễm trước. Có 4 thứ không thoái lui nên nói 4 thứ đối trị sai biệt.

Hói: Đây là thế nào?

Đáp: Đàn v.v… các hạnh do 4 thứ nhiễm trước làm chướng ngại mà không tiến hành được: 1. Tài trước, là rất đắm trước bỏn sẻn tiền của. 2. Phiền não trước, là khởi nhiễm trước với tiền của. 3. Yếm trước, là đối với hạnh bố thí v.v..sinh chán nản. 4. Tri túc trước, là bố thí v.v… được chút ít thì vui mừng cho là đủ. Người tu hạnh tinh tiến đối trị 4 thứ đắm trước này có thể không thoái lui, nên nói là 4 thứ đối trị sai biệt.

Đã nói xong công đức của 6 Ba-la-mật, tiếp nói sự hiển thị lẫn nhau của 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Tương nhiếp và sai biệt,

Y pháp và làm nhân,

Sáu độ tác thành nhau,

Phân biệt nhất thiết chủng.

Giải thích: Sáu Ba-la-mật tác thành cho nhau, tự có 4 nghĩa: 1. Tương nhiếp. 2. Sai biệt. 3.Y pháp. 4. Làm nhân.

Tương nhiếp, nghĩa là như vô úy thí bao gồm giới và nhẫn 2 độ, do 2 độ này có thể cho sự không sợ hãi. Pháp thí bao gồm định và trí 2 độ, do 2 độ này có thể cho pháp. Cả 2 thí ở trong tinh tiến 1 độ, do một độ này có thể thực hành 2 thí.

Hỏi: Giới gồm bao nhiêu thứ?

Đáp: Gồm giới thiện pháp, tất cả thí v.v… đều gồm. Cũng như vậy nhẫn v.v…bao gồm lẫn nhau theo chỗ nên làm.

Sai biệt, nghĩa là đàn v.v… 6 thứ tức là 6 thí, như thí thí, giới thí … cho đến Bát-nhã thí vì đối với cái khác liên tục thiết lập đàn v.v…

Y pháp, nghĩa là có các kinh là có hiển thị các nghĩa của đàn v.v…, có các nghĩa của đàn là có các kinh hiển thị. Mọi nơi đều thâu nhiếp lẫn nhau.

Làm nhân, nghĩa là đàn là nhân của giới v.v… Bởi vì sao? Vì không nặng tiền của mới có thể tu hành giới v.v… Giới cũng là nhân của thí v.v… Bởi vì sao? Vì Tì-khưu thụ hộ có thể xả tất cả những gì đã thụ. Trụ giới, là có thể đầy đủ nhẫn v.v… Lại nữa thụ giới nhiếp thiện pháp là đàn v.v.. nên như vậy nhẫn v.v… làm nhân cho nhau theo chỗ nên làm.

Như vậy đã nói xong nghĩa của 6 Ba-la-mật, tiếp nói hạnh tứ nhiếp.

Kệ nói:

Bố thí và ái ngữ,

Lợi hành và đồng lợi.

Thí bình và kia nói,

Kiến lập và tự hành.

Giải thích: Tứ nhiếp là: 1. Bố thí nhiếp. 2. Ái ngữ nhiếp. 3. Lợi hành nhiếp. 4. Đồng lợi nhiếp. Thí bình, tức bố thí nhiếp. Kia nói, là ái ngữ nhiếp, vì nói nghĩa của Ba-la-mật. Kiến lập, là lợ hành nhiếp, vì kiến lập chúng sinh trong Ba-la-mật. Tự hành, là đồng lợi nhiếp, vì kiến lập cho người rồi tự mình cũng tu hành như vậy.

Hỏi: Vì sao nói thể của tứ nhiếp này?

Đáp: Đây là nói các phương tiện nhiếp hóa người.

Kệ nói:

Nhiếp hóa 4 phương tiện,

Tức là tính 4 nhiếp.

Tùy nhiếp và nhiếp thủ,

Chính chuyển và tùy chuyển.

Giải thích: Bố thí là phương tiện tùy nhiếp, vì do tài thí tùy theo người khởi nhiếp. Ái ngữ, là phương tiện nhiếp thủ, vì do vô tri, nghi ngờ nên khiến tiếp nhận nghĩa. Lợi hành, là phương tiện chính chuyển, vì do tu hạnh này các thiện chuyển. Đồng lợi, là phương tiện tùy chuyển, vì Bồ-tát tự làm như đã nói, chúng sinh biết rồi nhưng trước chưa làm thiện Bồ-tát cũng theo chúng mà làm.

Hỏi: Nghiệp của tứ nhiếp như thế nào?

Kệ nói:

Thành khí và khiến tin,

Khiến làm, khiến giải thoát.

Như vậy làm 4 việc,

Là nghiệp của tứ nhiếp.

Giải thích: Bố thí, là có thể khiến pháp thành khí, do tùy thuận tài mà có thể kham thụ pháp. Ái ngữ, là có thể khiến từ pháp khởi lòng tin, do nghĩa của giáo pháp mà nghi kia đoạn dứt. Lợi hành, là có thể khiến từ pháp khởi tu hành, do dựa theo pháp mà thực hành. Đồng lợi, là có thể khiến kia được giải thoát, do tu hành thanh tịnh thời gian lâu được lợi ích. Đó là nghiệp của tứ nhiếp.

Hỏi: Thế Tôn cũng nói nhị nhiếp. Đó là nghĩa thế nào?

Kệ nói:

Bốn thể nói 2 nhiếp,

Tà nhiếp và pháp nhiếp.

Tài 1 pháp có 3,

Tuần tự gồm 4 nhiếp.

Giải thích: Thể của 4 nhiếp này Thế Tôn các nơi khác có nói là 2 nhiếp. Đó là tài nhiếp và pháp nhiếp. Tức lấy 2 nhiếp này bao gồm 4 nhiếp. Tài nhiếp là 1 nhiếp đầu. Pháp nhiếp gồm 3 nhiếp sau.

Hỏi: Thế nào là gồm 3 sau?

Đáp: Pháp có 3 thứ: 1. Pháp sở duyên. 2. Pháp sở hành. 3. Pháp sở tịnh, theo tuần tự đó gồm 3 nhiếp sau.

Kệ nói:

Hạ trung thượng sai biệt,

Như vậy tứ nhiếp chủng,

Bội vô và bội hữu,

Thuần hợp có 3 ích.

Giải thích: Tứ nhiếp chủng có 3 sai biệt là hạ trung và thượng, do các Bồ-tát gồm người 3 thừa sai biệt. Do 3 thứ sai biệt này tuần tự có 3 ích: 1. Bội vô ích. 2. Bội hữu ích. 3. Thuần hữu ích. Bội vô ích, là gồm Bồ-tát trong giải hành địa. Bội hữu ích, là gồm Bồ-tát nhập đại địa. Thuần hữu ích, là gồm Bồ-tát từ bát địa trở lên. Do quyết định đó có thể khiến chúng sinh thành tựu.

Kệ nói:

Bồ-tát nhiếp chúng sinh,

Y 4 phương tiện đây,

Lợi lớn và dễ thành,

Nên được khen 3 ích.

Giải thích: Nếu các Bồ-tát muốn nhiếp hóa đồ chúng, tất cả đều phải dựa vào tứ nhiếp này làm phương tiện. Bởi vì sao? Bởi tất cả lợi ích lớn được thành tựu. Bởi đó là phương tiện dễ dàng. Bởi được chư Phật khen ngợi.

Kệ nói:

Tứ nhiếp trong 3 đời,

Luôn nhiếp hóa chúng sinh,

Thành tựu chúng sinh đạo,

Không gì ngoài tứ nhiếp.

Giải thích: Tứ nhiếp pháp này trong 3 đời đã nhiếp hóa, sẽ nhiếp hóa, đang nhiếp hóa tất cả chúng sinh. Cho nên pháp tứ nhiếp này là con đường thành thục chúng sinh, không con đường nào khác, vì các con đường khác là vô thể.

Đã nói riêng 4 nhiếp trong 6 độ xong, tiếp dùng một kệ tổng kết các nghĩa trước.

Kệ nói:

Không đắm và vắng lặng,

Nhẫn nại, ý chí mạnh,

Bất động và lìa tướng,

Gồm nhiếp hóa chúng sinh.

Giải thích: Kệ trên 3 câu đầu tổng kết nghĩa của 6 độ. Một câu dưới kết nghĩa của 4 nhiếp. Hiểu nghĩa kệ như đã giải thích ở trước, Bồ-tát dùng 6 hạnh này thực hành 4 pháp nhiếp hóa này. Hiển thị 6 Ba-la-mật, thành tựu tự lợi lợi tha, thành tựu tứ nhiếp cũng như vậy. Cho nên theo thứ tự đó trước nói 6 độ, sau nói 4 nhiếp.

Xong Phẩm độ nhiếp.

HẾT QUYỂN 8

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13