LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH
Bồ-tát Vô Trước tạo luận
Đường, Thiên Trúc tam tạng Ba-la-phả-mật-đa dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 7

Phẩm 15: GIÁO THỤ

Giải thích: Đã nói Bồ-tát tùy tu, tiếp nói Như Lai giáo thụ.

Kệ nói:

Tu hết một tăng-kì,

Tin dài lâu tăng thượng.

Các thiện theo tín nhóm,

Cũng đủ như biển đầy.

Giải thích: Tu hành hết một A-tăng-kì, dài lâu khiến tin tăng thượng, nghĩa là nếu các hạnh Bồ-tát tu hành hết một kiếp A-tăng-kì, bấy giờ trưởng dưỡng nơi tín mới đến thượng phẩm.

Hỏi: Chỉ riêng tín tăng ư?

Đáp: Các thiện theo tín nhóm cũng đủ như biển đầy, nghĩa là khi nơi tín tăng tất cả các thiện theo tín nhóm họp cũng được đầy đủ như nước biển lớn trong trẻo đầy đủ.

Kệ nói:

Tụ tập phúc đức rồi,

Phật tử tối sơ tịnh.

Cực trí và nhuyến tâm,

Siêng tu các chính hạnh.

Giải thích: Tu tập phúc đức rồi, nghĩa là như trước đã nói tụ tập. Phật tử tối sơ tịnh, nghĩa là khiến giữ gìn thanh tịnh và có tri kiến chính trực nơi Đại thừa, không lấy nghĩa điên đảo. Cực trí, là vì được đa văn. Nhuyến tâm, là vì lìa các chướng. Siêng tu các chính hạnh, là vì có khả năng kham nổi.

Kệ nói:

Từ sau nhờ chư Phật,

Pháp truyền mà dạy dỗ.

Tăng ích trí tịch tĩnh,

Tiến đến Đại thừa rộng.

Giải thích: Từ sau nhờ chư Phật, giáo pháp lưu truyền mà dạy dỗ, nghĩa là chư Bồ-tát từ đây về sau mong nhờ chư Phật Như Lai nói giáo pháp các Tu-đa-la, như nói Kinh Thập Địa. Tăng ích trí tịch tĩnh, tiến đến Đại thưa rộng, nghĩa là Bồ-tát này nếu được dạy dỗ thì tăng ích trí Xa-ma-tha, đối với Đại thừa rộng lớn có thể tiến tu. Như vậy được giáo thụ rồi, tiếp khởi 6 thứ tâm. Kệ nói:

Tưởng danh và liễu cú,

Tư nghĩa và nghĩa tri,

Pháp tổng và nghĩa cầu,

Sáu tâm tuần tự khởi.

Giải thích: Sáu tâm là: 1. Tâm căn bản. 2. Tâm tùy hành. 3. Tâm quán sát. 4. Tâm thật giải. 5. Tâm tổng tụ. 6. Tâm hy vọng.

Tưởng danh, là tâm căn bản. Ban đầu quán sát các pháp trong Tu-đa-la không thấy có 2 nghĩa, chỉ có nhóm các tưởng và tên gọi mà thôi. Liễu cú, là tâm tùy hành. Tiếp đến tùy theo các câu, quyết định rõ sự sai biệt và thư tự. Tư nghĩa, là tâm quán sát. Tiếp đến tư duy đúng đắn trong nghĩa của nó. Nghĩa tri, là tâm thật giải. Biết như thật nghĩa của tư duy ấy. Pháp tổng, là tâm tổng tụ. Tụ họp các pháp trước rồi quán sát chung. Nghĩa cầu, là tâm hy vọng. Cầu được nghĩa và ý thú. Như vậy khởi 6 tâm rồi, tiếp khởi 11 thứ tác ý.

Kệ nói:

Có cầu và có ý,

Một vị với chỉ đạo.

Quán đạo và 2 đủ,

Bạt trầm và ngăn trạo.

Chính trụ và vô gián,

Ở trong cũng tôn trọng.

Đặt tâm tất cả duyên, Tác ý có 11.

Giải thích: Mười một thứ tác ý là: 1. Tác ý có giác có quán. 2. Tác ý không giác có quán. 3. Tác ý không giác không quán. 4. Tác ý Xa-ma-tha. 5. Tác ý Tì-bát-xá-na. 6. Tác ý 2 tương ưng. 7. Tác ý khởi tướng. 8. Tác ý nhiếp tướng. 9. Tác ý xả tướng. 10. Tác ý hằng tư. 11. Tác ý cung kính.

Có cầu, là tác ý có giác có quán. Tác ý này dùng ý ngôn liên tục quán sát các pháp. Có quán, là tác ý không giác có quán. Tác ý này tuy lìa giác mà vẫn dùng ý ngôn liên tục quán sát các pháp. Một vị, là tác ý không giác không quán. Tác ý này lìa ý ngôn mà liên tục quán sát các pháp. Chỉ đạo, là tác ý Xa-ma-tha. Tác ý này chỉ duyên tên gọi các pháp. Quán đạo, là tác ý Tì-bát-xá-na. Tác ý này chỉ duyên nghĩa các pháp. Hai đủ, là tác ý 2 tương ưng. Tác ý này có thể một lúc duyên tên gọi và nghĩa. Bạt trầm, là tác ý khởi tướng. Tác ý này nếu khi duyên tên gọi mà tâm hôn trầm tức có thể giục dậy. Ức trạo, là tác ý nhiếp tướng. Tác ý này nếu khi duyên nghĩa mà tâm tán loạn tức có thể nhiếp giữ. Chính trụ, là tác ý xả tướng. Tác ý này nếu tâm bình đẳng có thể trụ nơi tâm xả. Vô gián, là tác ý hằng tu. Tác ý này có thể y vào chính trụ tu tập không bỏ. Tôn trọng, là tác ý cung kính, có thể khi luyện tập tôn trọng danh nghĩa. Như vậy khởi 11 thứ tác ý rồi, lại phải tu tập 9 thứ trụ tâm.

Kệ nói:

Phồn duyên rồi tốc nhiếp,

Nội lược và lạc trụ.

Điều yếm cùng dứt loạn,

Hoặc khởi diệt cũng vậy.

Sở tác tâm tự lưu,

Bấy giờ được vô tác.

Bồ-tát lại phải tập,

Chín trụ tâm như đây.

Giải thích: Chín trụ tâm, là 1. Tâm an trụ. 2. Tâm nhiếp trụ. 3. Tâm giải trụ. 4. Tâm chuyển trụ. 5. Tâm phục trụ. 6. Tâm tức trụ. 7. Tâm diệt trụ. 8. Tâm tính trụ. 9. Tâm trì trụ. Chín trụ tâm phương tiện giáo thụ này, phải biết phồn duyên, là tâm an trụ. An tâm không rời nơi sở duyên. Tốc nhiếp, là tâm nhiếp trụ. Nếu giác tâm loạn thì mau nhiếp giữ. Nội lược, là tâm giải trụ. Giác tâm ngoài thì rộng trong thì sơ lược. Lạc trụ, là tâm chuyển trụ. Công đức kiến định chuyển thành lạc trụ. Điều yếm, là tâm phục trụ. Tâm nếu không an lạc thì phải chiết phục. Dứt loạn, là tâm tức trụ. Khi kiến loạn lỗi lầm khiến chấm dứt. Hoặc khởi diệt cũng vậy, là tâm diệt trụ. Tham ái v.v… khởi liền khiến diệt. Sở tác tâm tự lưu, là tâm tính trụ. Những gì tạo tác ra tự nhiên thành tự tính. Bấy giờ được vô tác, là tâm trì trụ. Vì không do tác ý được tổng trì. Như vậy tu tập được trụ tâm rồi, tiếp khiến tâm này được tối thượng nhu nhuyến.

Kệ nói:

Dựa dưới tu, khiến tiến,

Để tiến tập bản định.

Tịnh thiền là thần thông,

Sẽ thành tâm thắng nhuyến.

Giải thích: Dựa dưới tu, khiến tiến, để tiến tập bản định, nghĩa là Bồ-tát khi được trụ tâm là đã được hạ phẩm thân ỷ tâm ỷ. Để tăng tiến sự nương tựa này phải tu căn bản thiền định.

Hỏi: Lại phải tu căn bản định đẻ được công đức gì?

Đáp: Tịnh thiền là thần thông, sẽ thành tâm thắng nhuyến. Chư Bồ-tát vì khởi các thần thông, vì muốn thành tựu tâm tối thắng nhu nhuyến nên tiến tu căn bản định.

Hỏi: Khởi các thần thông để làm gì, tâm thắng nhu nhuyến để thành gì?

Kệ nói:

Thần thông dạo các cõi,

Trải thờ các Thế Tôn,

 Được tâm nhuyến vô thượng,

 Để cúng dường chư Phật.

Giải thích: Thần thông dạo các cõi, trải thờ chư Thế Tôn, nghĩa là chư Bồ-tát muốn qua vô lượng thế giới, muốn trải qua vô lượng kiếp số, muốn khắp vô lượng chư Phật, muốn thừa sự cúng dường và nghe chính pháp, vì việc này nên khởi các thần thông.

Hỏi: Vì sao làm việc này?

Đáp: Vì tâm tối thượng nhuyến được cúng dường chư Phật. Do nhân cúng dường chư Phật nên được thành tựu tâm đệ nhất thắng nhu nhuyến. Như vậy được thắng tâm rồi, liền được chư Phật khen ngợi.

Kệ nói:

Trước chưa nhập tịnh tâm,

Được 5 thứ khen ngợi.

Vì khí thể thành tịnh,

Kham tiến vô thượng thừa.

Giải thích: Trước chưa nhập tịnh tâm, được 5 thứ khen ngợi, nghĩa là Bồ-tát này trước khi được địa tịnh tâm đã được Như Lai khen ngợi 5 thứ công đức kia.

Hỏi: Sự khen ngợi này đốu với Bồ-tát có lợi ích gì?

Đáp: Khí thể thành tịnh, nên kham tiến vô thượng thừa. Bồ-tát này được Như Lai khen ngợi rồi liền thành tựu khí thể thanh tịnh, có khả năng tiến vào vô thượng thừa.

Hỏi: Như Lai khen ngợi Bồ-tát kia 5 thứ công đức gì?

Kệ nói:

Niệm niệm dung các tập,

Thân ỷ và tâm ỷ,

Viên minh cùng kiến tướng,

Mãn tịnh các pháp thân.

Giải thích: Năm công đức là: 1. Dung tập. 2. Thân ỷ. 3. Tâm ỷ. 4. Viên minh. 5. Kiến tướng.

Dung tập, là mỗi mỗi sát-na tiêu tan tất cả các tập khí. Thân ỷ, là vì tu tập khinh an bién khắp thân. Tâm ỷ cũng vậy. Viên minh, là hiểu rõ trọn vẹn tất cả các thứ không, lìa phần số. Kiến tướng, là thấy tướng vô phân biệt làm nhân thanh tịnh sau này. Mãn tịnh các pháp thân, là để đầy đủ, để thanh tịnh tất cả thứ pháp thân, thường làm 5 nhân như vậy.

Hỏi: Khi nào mãn, khi nào tịnh?

Đáp: Khi được thập địa thì mãn, khi được Phật địa thì tịnh. Trong đây phải biết 5 thứ công đức, 3 ccông đức trước thuộc Xa-matha, 2 công đức sau thuộc Tì-bát-xá-na. Bồ-tát trong lúc này đối với các pháp thế gian đều được đầy đủ. Như vậy đã được khen ngợi rồi, tiếp khởi thông đạt phần thiện căn.

Kệ nói:

Bấy giờ Bồ-tát này,

Lần lượt được định tâm.

Vì chỉ thấy ý ngôn,

Không thấy tất cả nghĩa.

Giải thích: Bồ-tát này mới được định tâm, lìa ý ngôn, không thấy tất cả các nghĩa của tự tướng tổng tướng. Chỉ thấy ý ngôn, cái thấy này tức Bồ-tát ở noãn vị. Địa vị này gọi là minh. Như trong Kinh Khôi Hà, Phật có nói rõ minh này gọi là kiến pháp nhẫn.

Kệ nói:

Để tăng trưởng pháp minh,

Kiên cố tinh tiến khởi.

Pháp minh tăng trưởng rồi,

 Thông đạt duy tâm trụ.

Giải thích: Trong đây Bồ-tát để tăng trưởng pháp minh nên khởi kiên cố tinh tiến, trụ pháp minh này thông đạt duy tâm. Thông đạt này tức là đỉnh vị của Bồ-tát.

Kệ nói:

Các nghĩa đều là sáng,

Vì do thấy duy tâm,

Đoạn được sở chấp loạn,

Tức là trụ nơi nhẫn.

Giải thích: Trong đây nếu Bồ-tát thấy các nghĩa đều là tâm quang, ngoài tâm quang không có cái thấy nào khác. Bấy giờ được diệt sở chấp loạn. Cái thấy này tức Bồ-tát ở nhẫn vị.

Kệ nói:

Chỗ chấp loạn tuy đoạn,

Nhưng hãy còn năng chấp.

Đoạn đây lại mau chứng,

Vô gián Tam-ma-đề.

Giải thích: Trong đây Bồ-tát vì đoạn năng chấp loạn nên lại mau chứng vô gián Tam-ma-đề.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi Tam-ma-đề này là vô gián?

Đáp: Do khi năng chấp loạn diệt, bấy giờ nhập vô gián nên có tên này. Nhập vô gián này tức địa vị thế gian đệ nhất pháp của Bồtát. Theo tuần tự nói noãn v.v… các vị xong, tiếp nói khởi kiến đạo.

Kệ nói:

Xa lìa 2 chấp kia,

Xuất thế gian vô thượng.

Vô phân biệt ly cấu,

Trí này lúc này được.

Giải thích: Xa lìa 2 chấp, vì sở chấp năng chấp không hòa hợp. Xuất thế gian vô thượng, vì được vô thượng thừa. Vô phân biệt, tức không có 2 chấp phân biệt kia. Ly cấu, vì kiến đạo đoạn, phiền não diệt. Bồ-tát bấy giờ gọi là viễn trần ly cấu được pháp nhãn tịnh.

Kệ nói:

Đây tức là chuyển y,

Bởi đã được sơ địa.

Sau trải vô lượng kiếp,

Y tịnh mới viên mãn.

Giải thích: Đây tức là chuyển y, bởi đã được sơ địa, nghĩa là ly cấu này tức là chuyển y vị của Bồ-tát. Bởi vì sao? Vì được sơ địa.

Hỏi: Y cực tịnh chăng?

Đáp: Sau trải vô lượng kiếp y tịnh mới viên mãn, không phải ở nơi sơ địa này được ngay cực thanh tịnh. Vì sau trải vô lượng kiếp Tăng-kì, cái y này mới được thanh tịnh viên mãn.

Kệ nói:

Bấy giờ thông pháp giới,

Tâm tự tha bình đẳng.

Bình đẳng có 5 thứ,

Vì 5 không sai biệt.

Giải thích: Bấy giờ thông pháp giới, tâm tự tha bình đẳng, nghĩa là Bồ-tát ở sơ địa liền được thông đạt pháp giới bình đẳng. Do thông đạt này nên có thể quán tha thân tức tự thân cũng được bình đẳng.

Hỏi: Bấy giờ được bao nhiêu tâm bình đẳng?

Đáp: Bình đẳng có 5 thứ, vì 5 không sai biệt.

Những gì là 5? 1. Bình đẳng vô ngã. Nghĩa là nơi tự tha liên tục không thấy có ngã, vì không sai biệt. 2. Bình đẳng có khổ. Nghĩa là nơi tự tha liên tục có các khổ, vì không sai biệt. 3. Bình đẳng sở tác. Nghĩa là nơi tự tha liên tục muốn làm việc đoạn khổ, vì không sai biệt. 4. Bình đẳng không cầu. Nghĩa là nơi tự tha làm điều gì không cầu báo đáp lại, vì không sai biệt. 5. Bình đẳng đều được. Nghĩa là ta cũng được như bao nhiêu Bồ-tát khác, vì không sai biệt.

Kệ nói:

Các hành hư phân biệt,

Tịnh trí rõ không 2.

Giải thoát kiến đạo diệt,

Như vậy nói kiến đạo.

Giải thích: Các hành hư phân biệt, tịnh trí rõ không 2, nghĩa là trong đây Bồ-tát đối với các hành trong 3 cõi chỉ thấy là không chân thật, là phân biệt. Bởi trí cực tịnh hoàn toàn không 2 thứ kia. Tịnh trí, là vì xuất thế gian. Không 2, vì không 2 chấp. Cái không 2 thể, tức pháp giới. Giải thoát kiến đạo diệt, như vậy nói kiến đạo, nghĩa là giải thoát kiến đạo diệt phiền não. Pháp giới tức là giải thoát. Nếu khi thấy giải thoát diệt phiền não thì gọi là Bồ-tát mới được kiến đạo.

Kệ nói:

Vô thể, thể tương tự,

Tự tính hợp 3 không.

Ở đây hiểu 3 không,

Thì gọi là hiểu không.

Giải thích: Ba không là: 1. Vô thể không, là tính phân biệt, tướng của nó là vô thể. 2. Tựa thể không, là tính y tha, tướng này vô thể như tính phân biệt. 3. Tự tính không, là tính chân thật, tự thể không tự thể. Kệ này hiển thị Bồ-tát được không giải thoát môn.

Kệ nói:

Phải biết duyên vô tướng,

Đều hết các phân biệt.

Trong đây duyên vô nguyện,

Không chân phân biệt hết.

Giải thích: Nửa trên kệ này nói được vô tướng giải thoát môn. Nửa dưới nói được vô nguyện giải thoát môn. Phải biét trong đây Bồ-tát vđược đủ 3 giải thoát môn.

Kệ nói:

Bấy giờ pháp đạt được,

Tất cả Bồ-đề phần.

Phải biết Bồ-tát kia,

Đều được như kiến đạo.

Giải thích: Tất cả Bồ-đề phần là 4 niệm xứ v.v… Bồ-tát kia khi được kiến đạo cũng được pháp này.

Kệ nói:

Giác thế chỉ các hành,

 Vô ngã chỉ khổ trước.

Vô nghĩa tự ngã diệt,

 Đại nghĩa y đại ngã.

Giải thích: Giác thế chỉ các hành, vô ngã chỉ khổ trước, nghĩa là Bồ-tát này giác ngộ các thế gian chỉ là các hành, thật sự không có ngã, chúng sinh chấp trước chỉ chấp trước khổ mà thôi. Vô nghĩa tự ngã diệt, nghĩa là thấy thân nhiễm ô diệt. Đại nghĩa, là lợi ích tất cả chúng sinh. Đại ngã, là lấy tất cả chúng sinh làm chính mình. Trong đây Bồ-tát diệt cái kiến chấp tự ngã, dựa vào kiến giải đại ngã làm lợi ích chúng sinh. Đó gọi là đại nghĩa y đại ngã.

Kệ nói:

Vô ngã, lại ngã kiến,

Không khổ cũng cực khổ,

Lợi người không cầu báo,

Vì chính lợi tự ngã.

Giải thích: Trong đây các Bồ-tát, nói vô ngã nghĩa là không tự thân, không có nghĩa là ngã kiến. Lại ngã kiến, nghĩa là có tha thân có kiến giải đại nghĩa ngã. Không khổ, là không có tự thân khởi các khổ. Cũng cực khổ, là có tha thân khởi các khổ. Lợi người không cầu báo, vì không trông mong. Bởi vì sao? Vì chính đó là lợi mình. Chư Bồ-tát khi làm lợi ích chúng sinh tức lợi ích chính mình, cho nên không trông mong từ bên ngoài.

Kệ nói:

Tâm tự thoát trên hết,

Tha phược thì kiên rộng.

Khổ biên không thể hết,

Như vậy nên siêng làm.

Giải thích: Tâm tự thoát, nghĩa là diệt tự kiến đạo đoạn phiền não. Trên hết, nghĩa là giải thoát này do vô thượng thừa. Tha phược thì kiên rộng, nghĩa là do tất cả chúng sinh liên tục khởi các phiền não. Khổ biên không thể hết, nghĩa là chúng sinh giới như hư không, không có biên giới. Như vậy nên siêng làm, nghĩa là chúng sinh khổ như vậy Bồ-tát phải vì chúng sinh đoạn khổ. Vì bên tạo tác, tạo tác rồi lại tạo tác, vì thế Bồ-tát không nên thôi nghỉ.

Kệ nói:

Khổ mình không tự chịu,

Lẽ nào chịu khổ khổ người.

Đời này đến cùng sinh,

Ngược chúng là Bồ-tát.

Giải thích: Chúng sinh trong một thời kỳ sống khổ và đến tận cùng sinh tử, khổ không thể nghĩ bàn và không thể nhịn chịu. Ngược lại với chúng, Bồ-tát có thể vì chúng nhịn chịu tất cả, cho nên nói ngược chúng là Bồ-tát.

Kệ nói:

Vởi tha hạnh thương yêu,

Lợi chúng không thoái chuyển.

Hy hữu, phi hy hữu,

Lợi tha là tự lợi.

Giải thích: Vởi tha hạnh thương yêu, lợi chúng không thoái chuyển, nghĩa là hạnh Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh là thương yêu bình đẳng tâm không phân biệt. Nếu cầu vui lợi ích, nếu làm vui lợi ích, khi cầu khi làm không thoái chuyển tâm lợi ích. Hy hữu, phi hy hữu, lợi tha là tự lợi, nghĩa là việc không thoái chuyển này là cao tột trong các điều hy hữu ở thế gian. Nhưng sự hynhữu này cũng chẳng phải hy hữu. Bởi vì sao? Vì khi người khác được lợi ích thì cũng là Bồ-tát tự được lợi ích.

Kệ nói:

Các địa nói các đạo,

Hai trí siêng tu tập.

Kiến lập không phân biệt,

Tịnh pháp và chúng sinh.

Giải thích : Các địa khác, là nói 9 địa sau.

Hỏi: Các địa khác tu những gì?

Đáp: Siêng tu tập 2 trí. Hai trí là: 1. Trí vô phân biệt. 2. Trí như chỗ kiến lập. Trí vô phân biệt là xuất thế trí. Trí như chỗ kiến lập là hậu đắc thế trí.

Hỏi: Hai trí này có công năng gì?

Đáp: Tịnh pháp và chúng sinh. Trong đây trí vô phân biệt thành thục Phật pháp là công năng của nó. Trí như chỗ kiến lập thành thục chúng sinh là công năng của nó.

Kệ nói:

Tu vị 2 Tăng-kì,

Sau cùng được thụ chức,

Nhập kim cương định kia,

Phá hết các phân biệt.

Giải thích: Tu vị 2 Tăng-kì, sau cùng được thụ chức, nghĩa là 2 Tăng-kì tức đại kiếp A-tăng-kì thứ hai và thứ ba. Sau cùng, tức là tu cứu cánh. Ở tu vị này mới thụ chức.

Hỏi: Thụ chức rồi còn phải làm gì?

Đáp: Nhập kim cương định kia, phá hết các phân biệt.

Hỏi: Vì nghĩa gì gọi là kim cương định?

Đáp: Vì có thể phá phân biệt tùy miên nên định này gọi là kim cương dụ.

Kệ nói:

Chuyển y cứu cảnh tịnh,

Thành tựu nhất thiết chủng.

 Trụ đây làm các việc,

Chỉ vì lợi quần sinh.

Giải thích: Chuyển y cứu cánh tịnh, là vì vĩnh viễn lìa tất cả phiền não chướng và tri chướng. Thành tựu nhất thiết chủng, là do vô thượng, được nhất thiết chủng trí. Trụ nơi đây làm việc, là trụ ở vị này cho đến tận cùng sinh tử của chúng sinh thị hiện thành đạo và hiện Niết-bàn.

Hỏi: Việc này để làm gì?

Đáp: Chỉ vì lợi quần sinh. Tất cả những việc như thế hoàn toàn chỉ vì lợi ích tất cả chúng sinh. Từ đây trở xuống nói nhân đại giáo thụ được đại nghĩa lợi.

Kệ nói:

Đức Mâu-ni khó gặp,

Thường gặp, được đại nghĩa.

Nhờ nghe pháp vô đẳng,

Tịnh tín nuôi dưỡng tâm.

Giải thích: Kệ này nói Bồ-tát nhân đại giáo thụ thường được hiện tiền thấy Phật, thường nghe chính pháp không gì sánh bằng, thường khởi lòng tin thanh tịnh rất sâu khắp trong tâm. Đây là nói lúc đầu được đại nghĩa lợi.

Kệ nói:

Nếu trong khi giáo thụ,

Như muốn trụ pháp môn,

Như người cứu hiểm nạn,

Phật khuyên cũng như vậy.

Giải thích: Nếu trong khi giáo thụ, như muốn trụ pháp môn, nghĩa là có các Bồ-tát trong lúc giáo thụ, hoặc tâm muốn an lạc trụ trong pháp môn của Như Lai. Như người cứu hiểm nạn, Phật khuyên cũng như vậy, nghĩa là ví như có người rơi xuống hầm sâu nếu có thể túm tóc kéo lên bờ cao, Phật cũng khuyên làm như vậy. Nếu các Bồ-tát kia muốn an lạc trụ nơi hầm sâu tịch diệt, chư Phật Như Lai cũng cưỡng ép mà đặt họ lên bờ cao cúa Phật quả. Đây là nói được đại nghĩa lợi thời kỳ tiếp theo.

Kệ nói:

Thế gian cực tịnh nhãn,

Thắng giác vô phân biệt.

Ví như mặt trời lên,

Trừ tối, sáng thế gian.

Giải thích: Nếu chư Bồ-tát khi thành Phật, vĩnh viễn thoái lui tất cả pháp thế gian nên mắt được vô cu gf thanh tịnh. Lúc bấy giờ gọi là được thắng giác vô phân biệt. Ví như vầng mặt trời to lớn xuất hiện có thể trừ tối tăm chiếu sáng thế gian. Đây là nói được đại nghĩa lợi khi cứu cánh.

Như vậy đã nói xong về nghĩa rộng, tiếp dùng một kệ tổng kết nghĩa trước.

Kệ nói:

Phật tử khéo gôm đủ,

Thành tựu định rất rộng.

Hằng thụ Thế Tôn dạy,

Tận cùng biển công đức.

Giải thích: Kệ này nghĩa đã rõ như văn.

Xong Phẩm giáo thụ.

Phẩm 16: NGHIỆP BẠN

Giải thích: Đã nói Như Lai đại giáo thụ. Bồ-tát khởi nghiệp lấy phương tiện làm bạn. Nay sẽ thuyết minh.

Kệ nói:

Ví như đại địa chủng,

Nhiệm trì 4 thứ vật.

Như vậy 3 thứ nghiệp,

Kiến lập tất cả thiện.

Giải thích: Kệ này hiển thị Bồ-tát gom khởi nghiệp phương tiện. Ví như đại địa chủng, nhiệm trì 4 thứ vật. Bốn vật là gì? 1. Biển lớn. 2. Các núi. 3. Cây cỏ. 4. Chúng sinh. Đó gọi là 4 vật. Như vậy 3 thứ nghiệp kiến lập tất cả thiện, nghĩa là biển v.v…4 vật ví như tất cả thiện pháp. Như vậy 3 nghiệp của Bồ-tát có thể gom góp tất cả các thiện, như bố thí v.v… các Ba-la-mật và tất cả pháp Bồđề phần.

Kệ nói:

Làm được nghiệp khó làm,

Ứng hình vô lượng kiếp.

Thân khẩu tâm tự tính,

Cứu kia không thoái chuyển.

Giải thích: Kệ này hiển thị phương tiện Bồ-tát cứu tha nghiệp. Làm được nghiệp khó làm, ứng hình vô lượng kiếp, nghĩa là thế nào là nghiệp khó làm? Nghĩa là chúng sinh muốn được Tiểu thừa xuất ly. Đối với điều đó Bồ-tát rất đại khổ, muốn khiến chúng chuyển đổi tâm dị thừa, nên ứng hiện các thứ thân hình trong vô lượng thế giới trải vô lượng kiếp số cần khổ làm các nghiệp khó làm. Thân khẩu tâm tự tính, cứu kia không thoái chuyển, nghĩa là Bồ-tát vì cứu giúp chúng nên tuy cần khổ ở nhiều nơi mà không thoái khuất tự tính 3 nghiệp.

Kệ nói:

Như người sợ 4 hại,

Đề phòng cho tự thân,

Bồ-tát sợ 2 thừa,

Giữ nghiệp cũng như vậy.

Giải thích: Kệ này hiển thị phương tiện Bồ-tát tự bảo hộ nghiệp. Như người sợ 4 hại đề phòng cho tự thân, nghĩa là, 4 hại là gì? 1. Chất độc. 2. Binh khí. 3. Thức ăn xấu. 4. Oán cừu. Đó là 4 hại. Đề phòng là vì lợi ích tự thân. Bồ-tát sợ 2 thừa, giữ nghiệp cũng như vậy, nghĩa là độc v.v… 4 cái hại ví như phương tiện các nghiệp của ngưới 2 thừa. Bồ-tát sợ đó nên rất tự phòng hộ sợ khởi tâm 2 thừa. Bởi vì sao? Vì đoạn dứt giống Đại thừa. Vì thiện căn Đại thừa chưa khởi khiến không khởi, đã khởi khiến diệt mất và làm chướng ngại Phật quả.

Kệ nói:

Tác giả nghiệp sở tác,

Tam luân không phân biệt,

 Được độ biển tịnh nghiệp,

 Công đức là vô biên.

Giải thích: Kệ này hiển thị phương tiện thanh tịnh nghiệp của Bồ-tát. Tác giả nghiệp sở tác, tam luân không phân biệt, nghĩa là thế nào là tam luân? 1. Tác giả. 2. Nghiệp. 3. Sở tác. Đó gọi là tam luân. Không phân biệt, là vì 3 cái này là bất khả đắc, cho nên do đó tam luan được thanh tịnh. Tam luân thanh tịnh nên nghiệp thanh tịnh. Được độ biển tịnh nghiệp, công đức không bờ bến, nghĩa là đến được bờ kia của nghiệp. Công đức vô biên là công đức không hết.

Xong Phẩm Nghiệp bạn.

Phẩm 17: ĐỘ NHIẾP

Giải thích: Đã nói phương tiện khởi nghiệp, nay sẽ nói nghiệp tụ tập các Ba-la-mật. Trong đây trước nói kệ Ưu-đà-na.

Kệ nói:

Số, tướng, thứ đệ, danh,

Tu tập, sai biệt, nhiếp,

Trị chướng, đức, hỗ hiển,

Độ 10 nghĩa phải biết.

Giải thích: Trong đây 6 Ba-la-mật có 10 nghĩa: 1. Chế số. 2. Hiển tướng. 3. Thứ tự. 4. Giải thích tên. 5. Tu tập. 6. Sai biệt. 7. Nhiếp hành. 8. Trị chướng. 9. Công đức. 10. Hỗ hiển. Trong đây có 6 kệ chế lập số của 6 Ba-la-mật chỉ có 6.

Kệ nói:

Tư sinh thân quyến thuộc,

 Phát khởi trước 4 thành.

Thứ 5 hoặc không nhiễm,

Thứ 6 nghiệp không đảo.

Giải thích: Kệ này hiển thị vì nhiếp tự lợi 3 việc, cho nên lập số Ba-la-mật chỉ có 6: 1. Tăng tiến. 2. Không nhiễm. 3. Không đảo.

Bốn Ba-la-mật đầu theo thứ tự có thể khiến 4 việc tăng tiến: 1. Tư sinh thành tựu, do bố thí. 2. Tự thân thành tựu, do trì giới. 3. Quyến thuộc thành tựu, do nhẫn nhục, vì người thực hành nhẫn nhục được nhiều người yêu. 4. Phát khởi thành tựu, do tinh tiến, tất cả sự nghiệp do đây thành.

Thứ năm Thiền Ba-la-mật có thể khiến phiền não không nhiễm, chiết phục phiền não là do sức này.

Thứ sáu Bát-nhã Ba-la-mật khiến nghiệp không điên đảo, vì biết như thật tất cả việc làm.

Kệ nói:

Thí kia và không não,

Nhẫn não là lợi tha.

Có nhân và tâm trụ,

Giải thoát là tự lợi.

Giải thích: Kệ này hiển thị vì nhiếp 2 lợi 6 việc nên lập số Bala-mật chỉ có 6. Ban đầu là nhiếp lợi tha 3 việc cho nên lập 3 Ba-lamật trước khiến khởi chính cần, như theo thứ tự: 1. Thí kia. 2. Không não. 3. Nhẫn não kia, sau là nhiếp tự lợi. Ba việc nên phải lập. Ba Ba-la-mật sau khiến khởi chính cần, như theo thứ tự: 1. Có nhân, do dựa vào tinh tiến, 2. Tâm trụ, do tâm bất định khiến định. 3. Giải thoát, do tâm đã định khiến giải thoát.

Kệ nói:

Không thiếu cũng không não,

Nhẫn não và không thoái,

Quy hướng với khéo nói,

 Lợi tha tức tự thành.

Giải thích: Kệ này hiển thị vì nhiếp lợi tha 6 việc nên lập số Bala-mật chỉ có 6. Bồ-tát khi tu hành 6 Ba-la-mật, theo thứ tự đối với kia khiến thụ dụng không thiếu thốn, không não hại kia, nhẫn chịu kia não hại, giúp kia việc làm không thoái lui, dùng thần lực khiến quy hướng, dùng khéo nói pháp đoạn kia nghi ngờ, Bồ-tát lợi tha như vậy tức tự lợi, vì làm cho người tức làm cho mình, do nhân duyên này được Đại Bồ-đề.

Kệ nói:

Không nhiễm và rất kính,

Không thoái có 2 thứ,

Và 2 không phân biệt,

Gồm đủ nhân Đại thừa.

Giải thích: Kệ này hiển thị vì gồm 4 nhân Đại thừa nên lập số Ba-la-mật chỉ có 6: 1. Không nhiễm. 2. Rất kính. 3. Không thoái. 4. Không phân biệt.

Bồ-tát khi tu hành thí, đối với của cải không nhiễm, không luyến tiếc. Khi thụ trì giới, đối với các học xứ khởi tâm rất kính. Khi hành nhẫn nhục tinh tiến không thoái 2 thứ này: Nhẫn đối với chúng sinh, chẳng phải chúng sinh gây khổ nên được không thoái lui. Tinh tiến đối với khi tu hành thiện được không thoái lui. Khi hành thiền, Bát-nhã không phân biệt 2 pháp này: Xa-ma-tha và Tì-bát-xá-na bình đẳng nhiếp giữ. Như vậy 4 nhân này gồm hết tất cả nhân Đại thừa.

Kệ nói:

Không trước và không loạn,

Không bỏ và tăng tiến.

Tịnh hoặc và trí chướng,

Là đạo đều thâu nhiếp.

Giải thích: Kệ này hiển thị vì nhiếp Đại thừa 6 đạo nên lập số Ba-la-mật chỉ có 6.

Hỏi: Đạo là nghĩa gì?

Đáp: Có phương tiện là đạo. Trong đây Đàn Ba-la-mật đối với của cải không đắm trước là đạo, bởi khi thí đối cảnh lìa nhiễm trước. Thi Ba-la-mật, trong các cảnh giới không loạn là đạo, bởi khi cầu thụ giới nhiếp giữ khiến trụ tất cả tâm loạn, và Tì-khưu trụ hộ khi cầu cảnh giới tất cả nghiệp loạn không thể chuyển. Sằn-đề Ba-la-mật đối với chúng sinh không bỏ là đạo, do tất cả việc không nhiêu ích không sinh chán. Tì-lê-da Ba-la-mật đối với tu các thiện căn tăng trưởng là đạo, do tinh tiến phát khởi khiến tăng trưởng. Thiền Ba-la-mật đối với phiền não chướng khiến thanh tịnh là đạo. Bát-nhã Ba-la-mật đối với trí tuệ chướng khiến thanh tịnh là đạo. Như vậy 6 thứ đạo gồm hết tất cả Đại thừa đạo.

Kệ nói:

Vì gồm thâu 3 học,

Nói độ có 6 thứ.

Đầu 3, 2,rồi 1, Sau 2,2,1, 3.

Giải thích: Kệ này hiển thị vì gồm thâu 3 thứ tăng thượng học, nên lập số Ba-la-mật chỉ có 6. Trong đây lập 3 Ba-la-mật đầu là thuộc 1 đầu tiên giới tăng thượng. Giới có 2 thứ gọi là tụ và quyến thuộc. Thi-la là tụ, đàn và Sằn-đề là quyến thuộc. Bởi vì sao? Vì khi thí đối với cầu xin không tiếc tiền của, khi nhẫn đối với hộ trì thì đánh mắng cũng không đáp trả. Trong đây 2 Ba-la-mật sau, theo thứ tự để nhiếp tâm và tuệ 2 tăng thượng học. Trong đây lập 1 Ba-la-mật thứ tư là gồm đủ 2 tăng thượng học, bởi tất cả 3 học đều lấy tinh tiến làm bạn. Đã chế lập xong 6 số Ba-la-mật, tiếp đến hiển thị tướng của 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Phân biệt thể 6 độ,

Mỗi mỗi có 4 tướng.

Trị chướng và hợp trí,

Mãn nguyện và thành sinh.

Giải thích: Chư Bồ-tát tu các Ba-la-mật, mỗi mỗi đều có 4 tướng: 1. Trị chướng. 2. Hợp trí. 3. Mãn nguyện. 4. Thành sinh.

Trị chướng, là đàn v.v… 6 hạnh theo thứ tự để đối trị xan tham, sân giận, biếng nhác, loạn tâm, ngu si.

Hợp trí, là tất cả đồng hành với trí vô phân biệt do thông đạt pháp vô ngã.

Mãn nguyện, là thí cho người cầu tiền của tùy theo ý muốn mà cung cấp cho. Giới đối với người cầu giới thì tùy theo ý muốn mà dùng thân khẩu ý hộ trì dạy dỗ cho. Nhẫn đối với kẻ hối lỗi thì cho sự hoan hỷ. Tinh tiến đối với người tác nghiệp thì tùy ý muốn mà giúp đỡ. Định đối với người học định thì tùy ý muốn mà dạy cho thiền pháp. Trí đối với người có nghi ngờ thì tùy ý muốn mà quyết đoán.

Thành sinh, là trước dùng thí mà thâu nhiếp, sau dúng pháp 3 thừa tùy theo thích ứng mà thành thục họ. Trước an lập trong giới v.v…, sau dùng 3 thừa thành thục cũng vậy. Đã nói rõ tướng 6 Ba-lamật, tiếp nói thứ tự 6 ba-la-mật.

Kệ nói:

Trước sau và trên dưới,

Thô tế lần lượt khởi,

Như vậy nói 6 độ,

Không loạn có 3 nhân.

Giải thích: Sáu Ba-la-mật tuần tự có 3 nhân: 1. Trước sau. 2. Dưới trên. 3. Thô tế.

Trước sau, nghĩa là dựa vào cái trước mà khởi được cái sau. Bởi vì sao? Vì do không để ý tiền của nên thụ trì giới, thực hành trì giới có thể khởi nhẫn nhục, nhẫn nhục có thể khởi tinh tiến, tinh tiến có thể khởi thiền định, thiền định có thể hiểu pháp chân thật.

Dưới trên, nghĩa là cái trước là dưới cái sau là trên. Dưới là thí trên là giới, cho đến dưới là định trên là trí.

Thô tế, nghĩa là cái trước là thô cái sau là tế. Thô là thí tế là giới, cho đến thô là định tế là trí. Vì sao thô dễ vào? Vì dễ làm. Vì sao tế khó vào? Vì khó làm.

Đã nói tuần tự 6 Ba-la-mật, tiếp giải thích tên 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Trừ nghèo và trong sạch,

Bỏ giận, làm điều thiện,

Giữ tâm và hiểu đúng,

 Là nói nghĩa 6 hạnh.

Giải thích: Có thể trừ được nghèo cùng nên gọi thí. Có thể khiến trong sạch nên gọi giới. Do đủ giới nên trong tướng cảnh giới dứt được phiền não nung đốt. Có thể phá bỏ sự giận dữ nên gọi nhẫn, vì nhẫn có khả năng phá hết các giận dữ. Có thể làm điều thiện nên gọi là tiến. Vì xây dựng thiện pháp là do sức này. Có thể giữ được cái tâm nên gọi là định. Vì nhiếp giữ ý bên trong. Có thể hiểu pháp chân thật nên gọi là tuệ. Vì hiểu rõ chân lý đệ nhất nghĩa. Đã giải thích xong tên 6 Ba-la-mật, tiếp nói về tu tập 6 Ba-la-mật.

Kệ nói:

Vật với tư và tâm,

Phương tiện cùng thế lực,

Phải biết tu 6 hạnh,

Nói có 5 y chỉ.

Giải thích: Chư Bồ-tát tu tập các Ba-la-mật có 5 chỗ y chỉ: 1. Y chỉ vật. 2. Y chỉ tư duy. 3. Y chỉ tâm. 4. Y chỉ phương tiện. 5. Y chỉ thế lực.

Y chỉ vật tu các Ba-la-mật có 4 thứ: 1. Y chỉ nhân, vì dựa vào sức chủng tính mà tu tập. 2. Y chỉ báo, là dựa vào sức thành thục của tự thân mà tu tập. 3. Y chỉ nguyện, tức dựa vào nguyện lực xưa kia mà tu tập. 4. Y chỉ số, là dựa vào sức trí tuệ mà tu tập.

Y chỉ tư duy tu các Ba-la-mật cũng có 4 thứ: 1. Tín tư duy, là đối với các giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật sinh tín tâm. 2. Vị tư duy, là thấy mùi vị công đức trong các Ba-la-mật. 3. Tùy hỷ tư duy, là đối với tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới có các Ba-la-mật đều sinh tâm tùy hỷ. 4. Hy vọng tư duy, là đối với tự thân và người khởi hy vọng tương lai sẽ được Ba-la-mật thù thắng.

Y chỉ tâm tu các Ba-la-mật có 6 thứ: 1. Tâm không nhàm chán. 2. Tâm rộng lớn. 3. Tâm thắng hỷ. 4. Tâm thắng lợi. 5. Tâm không nhiễm. 6. Tâm thiện tịnh.

Sao gọi là 6 thứ tâm tu thí? Là nếu Bồ-tát đem thân mạng và 7 báu trong thế giới nhiều như số cát sông Hằng, trong một sát-na thí cho một chúng sinh, cũng như vậy cho đến hết cõi chúng sinh để nguyện thành thục vô thượng Bồ-đề dùng pháp môn thí này tâm không chán đủ. Tướng tâm này gọi là tâm tu thí không chán. Nếu tướng thí của Bồ-tát như vậy, từ lúc mới bắt đầu liên tục cho đến khi thành Phật không một sát-na nào ngớt hay giảm. Tướng tâm này gọi là tâm tu thí rộng lớn. Nếu Bồ-tát khi dùng thí nhiếp hóa người khác tâm sinh cực hoan hỷ còn hơn cả sự vui mừng của người nhận. Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu thí thắng hỷ. Nếu khi Bồ-tát dùng thí nhiếp hóa người thấy người nhận vật rất nhiêu ích ta, chẳng phải ta tự thụ dụng là nhiêu ích. Bởi vì sao? Do thí nhiếp hóa người khiến ta thành tựu nhân vô thượng Bồ-đề. Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu thí thắng lợi. Nếu Bồ-tát bố thí rộng rãi như vậy mà không cầu báo ân và báo quả, tướng tâm như vậy gọi là tâm tu thí không nhiễm. Nếu Bồ-tát bố thí rộng rãi như vậy mà sinh phúc đức được quả báo thì nguyện thí tất cả chúng sinh, khôngvì tự mình nhận, và cùng tất cả chúng sinh hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu thí thiện tịnh.

Thế nào là 6 thứ tâm tu giới v.v…?

Nếu Bồ-tát có hằng hà sa số tự thân, mỗi một thân lại có hằng hà sa số kiếp sống, trong mỗi kiếp sống lại thiếu thốn tất cả những gì cần thiết cho sự sống. Trong sự nghèo thiếu đó lại có lửa đống đầy khắp 3 ngàn đại thiên thế giới, Bồ-tát dùng nhiều thân mạng này btrải nhiều số kiếp ở nơi lửa đống này khởi 4 oai nghi, trong một sát-na chỉ tu một giới. Như vậy cho đến hết các giới tụ, cho đến hếtbcác trí tụ có thể được vô thượng Bồ-đề, tâm Bồ-tát tu không bao giờ chán đủ.

Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… không chán. Nếu Bồ-tát từ lúc mới tu giới cho đến tu trí, an tọa đạo tràng không gian đoạn, tướng tâm như vậy gọi là tâm tu giới rộng lớn. Nếu Bồ-tát tu giới v.v… nhiếp hóa người khác tâm sinh cực hoan hỷ còn hơn cả sự vui mừng của người thụ sự nhiếp hóa được lợi ích sinh vui mừng. Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu giới thắng hỷ. Nếu khi Bồ-tát tu giới v.v… nhiếp hóa người thấy người được lợi rất nhiêu ích ta, chẳng phải ta tự lợi là nhiêu ích. Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu giới thắng lợi. Nếu Bồ-tát khi tu giới v.v…như vậy mà không cầu báo ân và báo quả, tướng tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v… không nhiễm. Nếu Bồ-tát tu giới v.v… rộng rãi, sinh phúc đức được quả báo thì nguyện thí tất cả chúng sinh, không vì tự mình nhận, lại cùng tất cả chúng sinh hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Tướng tâm như vậy gọi là tâm tu giới v.v.. thiện tịnh.

Y chỉ phương tiện tu các Ba-la-mật có 3 thứ. Ba thứ đó là tam luân thanh tịnh. Vì thanh tịnh này là do trí vô phân biệt làm phương tiện. Dùng phương tiện này tất cả tác ý đều được thành tựu.

Y chỉ thế lực tu các Ba-la-mật cũng có 3 thứ: 1. Thế lực của thân. 2. Thế lực của hành động. 3. Thế ực của lời nói. Thế lực của thân, là tự tính thân và thụ dụng thân của Phật. Thế lực của hành động, là hóa thân của Phật. Dùng hóa thân này trong tất cả hình tướng vì tất cả chúng sinh thị hiện tất cả thiện hạnh. Thế lực của lời nói, là diễn nói 6 Ba-la-mật tất cả mọi thứ không trở ngại.

HẾT QUYỂN 7

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13