KINH TRỪ CÁI CHƯỚNG BỒ-TÁT SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN 3
Lại nữa, này thiện nam! Thế nào là hành giới xa lìa các phiền não thiêu đốt? Đó là Bồ-tát đối với lửa tham thiêu đốt, lửa sân thiêu đốt, lửa si mê thiêu đốt, hay lửa nơi các phiền não khác thiêu đốt, hoặc lửa của sự thọ dụng xâm hại khác thiêu đốt. Nếu muốn không bị thiêu đốt thì nên khởi tâm đối trị tham, nên xa lìa duyên của chỗ dấy khởi tham. Thế nào gọi là đối trị tham? Đó là dùng pháp quán bất tịnh là đối trị tham. Quán bất tịnh là quan sát trong thân ta có những vật bất tịnh như tóc, lông, móng, răng, nước miếng, nước mũi, nước mắt, đàm dãi, mồ hôi, đại tiện, da, máu, thịt, xương, tủy, não, mỡ, cách mô, gân mạch, tỳ, thận, tim, phổi, gan, mật, dạ dày, nhau thai, dạ con… Những vật bất tịnh ấy Bồ-tát nên quán tưởng, suy nghĩ như vầy: “Trong thế gian hiện có những kẻ ngu si, vì không hiểu thấu nên tạo nghiệp bất thiện, hãy còn có thể hiểu rõ được những vật bất tịnh mà không khởi tâm tham, huống chi là người trí? Đó là sự quan sát về những vật bất tịnh của Bồ-tát để đối trị tham. Điều gì gọi là duyên của chỗ dấy khởi tâm tham? Đó là tham đắm những dục nhiễm, hoặc thấy người nữ có nhan sắc, xinh đẹp, khởi tâm tham ái, rồi sinh ra ý muốn có được. Nếu như đã nhìn thấy thì nên quan sát thế này: Như lời Phật đã dạy, cảnh trong mộng là không thực, vậy thì cớ gì người trí ở trong cảnh giới như mộng ấy lại khởi tâm ham muốn? Đó gọi là Bồ-tát xa lìa duyên của chỗ dấy khởi tâm tham.”
Thế nào là Bồ-tát đối trị tâm sân? Cùng xa lìa duyên của chỗ dấy khởi tâm sân? Tức là Bồ-tát đối với các hữu tình nên khởi tâm Từ bi, do tâm Từ ấy và nhân duyên đó mà có thể thâu phục những hữu tình có tâm ý nóng nảy giận dữ kia và nhân duyên phát sinh giận dữ sẽ được xa lìa. Đó là Bồ-tát đối trị tâm giận dữ và lìa duyên làm phát sinh giận dữ. Khi thực hiện sự quan sát như vậy, tức là lìa các pháp si mê, lìa nguyên do của si nên những chỗ ham muốn, những thọ dụng
không bị lửa xâm hại thiêu đốt. Đó chính là Bồ-tát hành giới xa lìa các phiền não thiêu đốt.
Thế nào là hành giới xa lìa tác ý không sâu xa chắc chắn? Nghĩa là Bồ-tát ở một mình nơi vắng vẻ, yên tĩnh, không khởi tâm thế này: Ta không làm những điều tạp loạn, ta ở chỗ vắng lặng, ta lại có thể tu theo giới luật của Như Lai, còn các Sa-môn, các bậc phạm hạnh khác họ đều làm những điều tạp loạn, nhiều ồn ào, nên đều đánh mất pháp luật của Như Lai. Nếu có thể không dấy khởi tâm niệm như vậy là Bồ-tát đã hành giới xa lìa được tác ý không sâu xa, vững chắc.
Thế nào là Bồ-tát hành giới thu giữ pháp thiện? Đó là nếu Bồtát suy xét như vầy: Như Phật đã dạy các Bí-sô nên tôn kính bậc tu phước, tôn kính người giữ giới, tôn kính người tu tuệ. Vì sao? Tôn kính bậc tu phước vì phước là ánh sáng trong lành đáng yêu hiện thọ nhận, là quả báo làm vui thích trong lòng. Người có lòng tin như vậy thì có thể xa lìa những nghiệp bất thiện. Đó gọi là Bồ-tát hành giới thâu giữ pháp thiện.
Thế nào là Bồ-tát hành giới lo sợ tội lỗi? Nghĩa là nếu Bồ-tát có mắc những tội nhỏ như hạt bụi thảy đều lo sợ, không làm theo tội ấy nữa, cho đến có ít tội cũng không sinh tâm xem thường mà nên nghĩ: Như Lai đã dạy: Này các Bí-sô! Ví như có người bị trúng ít độc đưa đến mạng chung và trúng nhiều độc cũng đưa đến mạng chung. Vậy các người có tội dù ít, dù nhiều đều sa vào đường dữ. Nếu lúc khởi tâm suy xét như vậy, Bồ-tát đối với tội lỗi liền sinh lo sợ, thì đó là Bồtát hành giới lo sợ tội lỗi.
Thế nào là Bồ-tát hành giới lo sợ chỗ nhận lấy của phi nghĩa? Tức là nếu Bồ-tát, hoặc có các Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ lòng tin cùng những người khác vì tin tưởng Bồ-tát nên đem vàng, bạc, ngọc ma-ni, trân châu, san hô, lưu ly, loa bối, của cải quý báu cùng những vật thọ dụng khác trao gởi nơi Bồ-tát, dù chỉ một mình, Bồ-tát cũng không dấy khởi tâm tham lam muốn chiếm lấy. Lại như những vật nơi chùa tháp, hay vật của chúng Tăng, giả như có người khuyên cầm giữ, Bồ-tát cũng không nhận lấy làm vật nuôi sống mình, mà nghĩ: Như lời Phật dạy, Bồ-tát thà cắt thịt nơi thân mình mà ăn, chứ quyết không nhận lấy những gì của kẻ khác không cho không hứa mà lấy để ăn, uống, hay những vật dụng khác mà sinh tâm muốn chiếm đoạt. Đó là Bồ-tát hành giới lo sợ về chỗ nhận của cải phi nghĩa.
Thế nào là Bồ-tát hành giới với ý chí vững chắc? Đó là nếu Bồtát hoặc bị ma vương, hoặc ma chúng, cùng các thiên ma khác, có lúc hiện ra hình người nữ, hay dùng những duyên cớ khác tạo nên ma sự nhằm nhiễu loạn, phá hoại, nhưng Bồ-tát vẫn không dao động, vẫn không giảm sút tâm đạo, đó là Bồ-tát hành giới với ý chí kiên cố.
Thế nào là Bồ-tát hành giới không dựa cậy, không tham đắm? Đó là nếu Bồ-tát khi hành trì giới luật không khởi ý niệm như vầy: Việc giữ hành giới của ta là để cầu phước báo ở cõi trời, hoặc các thứ khác nơi cõi trời, là để cầu phước báo nơi ngôi vua hoặc địa vị giống như vua. Đó gọi là Bồ-tát hành giới không dựa cậy, không tham đắm.
Thế nào là Bồ-tát hành giới ba luân đều thanh tịnh? Đó là nếu Bồ-tát có được thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh.
Thân nghiệp thanh tịnh là xa lìa ba nghiệp bất tịnh của thân:
- Sát sinh.
- Trộm cắp.
- Tà nhiễm.
Đó là những nghiệp bất thiện của thân.
Ngữ nghiệp thanh tịnh là xa lìa bốn nghiệp bất thiện trong lời nói:
- Nói dối.
- Nói những lời đối nghịch nhau làm đảo điên chân lý.
- Nói những lời độc dữ.
- Dùng những lời nói thêu dệt, thêm thắt. Đó gọi là bốn nghiệp bất tịnh nơi lời nói.
Ý nghiệp thanh tịnh là xa lìa ba nghiệp bất tịnh ở ý:
- Tham lam.
- Giận dữ.
- Tà kiến.
Ba cái đó gọi là ba nghiệp bất thiện của ý. Vì do xa lìa được các nghiệp bất thiện vừa nói nên gọi là đã đạt được ba luân thanh tịnh. Đó là Bồ-tát hành giới ba luân thanh tịnh.
Này thiện nam! Bồ-tát nếu hành trì được mười pháp đó tức là đạt được hành giới đầy đủ.
Này thiện nam! Bồ-tát nếu tu tập mười thứ pháp là đạt được pháp nhẫn nhục đầy đủ. Mười pháp ấy là gì?
- Nhẫn chịu nhận lấy những sự khổ.
- Nhẫn với những điều bên ngoài.
- Nhẫn chịu khi xét kỹ các pháp.
- Nhẫn chịu điều Phật đã chấp thuận.
- Nhẫn chịu không cố định một phương.
- Nhẫn chịu không sai biệt.
- Nhẫn chịu không do nguyên cớ của sự việc.
- Nhẫn chịu sự oan hận, hãm hại.
- Nhẫn chịu theo tâm Bi.
- Nhẫn chịu theo nguyện lực cứu độ.
Này thiện nam! Thế nào là nhẫn chịu nhận lấy những sự khổ? Đó là nếu Bồ-tát, hoặc nơi tự tâm có những lo buồn khổ não tùy theo lúc phát sinh, Bồ-tát đều an nhiên nhẫn chịu không khởi tâm giận dữ, thì đó là Bồ-tát nhẫn chịu nhận lấy các sự khổ.
Thế nào là pháp nhẫn nhục với các tâm bên ngoài? Đó là khi Bồ-tát đích thân nghe lời nói xấu ác của người khác, hoặc lần lượt nghe, nhân đấy mà hủy báng cha mẹ, thầy dạy, thân hữu, tri thức của Bồ-tát, hoặc những lời xấu ác hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Bồ-tát nghe mà không sinh giận dữ lại vẫn an nhiên nhẫn chịu. Đó là Bồ-tát nhẫn chịu các sự việc bên ngoài.
Thế nào là nhẫn chịu khi xem xét kỹ về các pháp? Đó là khi Bồtát nghe Như Lai giảng nói kinh điển với các pháp vô cùng sâu xa, như pháp có thể dứt trừ chủng tử luân hồi, thoát những trói buộc, hủy được dòng tương tục, đó là các pháp xưa nay vốn vắng lặng và tự tánh của các pháp là Niết-bàn. Bồ-tát nghe được các pháp như vậy rồi, không sinh sợ sệt lại suy nghĩ như vầy: Nếu ta không hiểu rõ những pháp ấy, không đạt được những pháp ấy, thì sao có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Do nhân duyên ấy nên ở nơi pháp sâu xa kia mà thọ trì, suy nghĩ, tu tập, xem xét, cho đến lãnh hội trọn vẹn thì đó là Bồ-tát hành nhẫn nhục khi suy xét kỹ về các pháp.
Thế nào là Bồ-tát nhẫn chịu về lời Phật đã chấp thuận? Đó là giả như Bồ-tát đã phát khởi tâm giận dữ, mưu hại thì liền quan sát kỹ xem tâm giận dữ mưu hại ấy phát khởi từ đâu và theo nơi nào mà diệt mất? Nguyên nhân nào phát sinh sinh rồi thì trụ ở đâu. Lúc quan xét kỹ như thế thì đều không thấy có pháp giận dữ, mưu hại. Hoặc sinh hoặc diệt, hai pháp đều không thể thủ đắc. Theo sinh liền diệt. Cả nhân lẫn duyên đều cũng không thể nắm bắt. Vì do duyên cớ như vậy mà Bồ-tát an nhiên nhẫn chịu, không sinh khởi lần nữa về chỗ chấp thuận của Phật. Đó là Bồ-tát hành pháp nhẫn theo lời chấp thuận của Phật.
Thế nào là pháp nhẫn chịu không cố định theo phương sở? Đó là nếu Bồ-tát hoặc ban ngày nhẫn chịu được, ban đêm không nhẫn chịu được. Hoặc ban đêm nhẫn chịu được, ban ngày không nhẫn chịu được. Ở nước mình nhẫn chịu được, ở nước khác thì không nhẫn chịu được. Hoặc ở nước khác nhẫn được, ở nước mình thì không nhẫn chịu được. Theo tập quán thì nhẫn chịu được, không theo tập quán thì không nhẫn chịu được. Bồ-tát ở đây thì không thế: ở mọi nơi, mọi xứ, mọi lúc, mọi loài, thảy đều có thể nhẫn chịu được. Đó là Bồ-tát đã hành pháp nhẫn nhục không có phương sở cố định.
Thế nào là Bồ-tát nhẫn nhục không sai biệt? Đó là Bồ-tát không nên ở nơi là cha mẹ, thầy dạy, quyến thuộc, bạn bè quen biết của mình thì có thể nhẫn chịu được, còn ở chỗ những người khác thì không thể nhẫn chịu được. Vì sao? Vì Bồ-tát thậm chí đối với nơi chốn quyến thuộc của hạng Chiên-đà-la có lúc bị họ xâm hại đều có thể nhẫn chịu được. Đấy là Bồ-tát hạnh pháp nhẫn nhục không sai biệt.
Sao gọi là Bồ-tát hành nhẫn nhục không vì nguyên cớ? Đó là khi Bồ-tát hành hạnh nhẫn nhục không vì lý do tài lợi, không vì lý do sợ hãi, không vì lý do đời sống của bản thân, không vì sự gần gũi ở thế gian, không vì nhằm che giấu sự hổ thẹn mà nhẫn nhục. Vì sao? Vì Bồ-tát luôn có tâm hành nhẫn nhục. Đấy là Bồ-tát hành nhẫn nhục không vì duyên cớ.
Sao gọi là Bồ-tát nhẫn chịu những sự oán hại? Đó là nếu Bồ-tát hoặc có kẻ không duyên cớ gì mà lại đến gây điều ác, Bồ-tát lúc này không có điều gì là không nhẫn chịu. Hoặc có kẻ oán hận dùng dao gậy hay bằng tay, nổi giận đến đánh đập, hoặc dùng lời hung dữ mắng chưi, khi ấy, Bồ-tát thấy những kẻ kia hành hung như thế nhưng vẫn bền lòng nhẫn nhịn và suy nghĩ: Những oán đối này đều do nghiệp của ta chiêu cảm, khi nghiệp đã chín muồi, nên ta phải thọ khổ, thực chất không phải do cha me, hoặc quyến thuộc, bạn bè tạo ra, mà đều là nghiệp do chính mình tạo tác đã tới lúc chín muồi. Nó cũng không phải bốn đại Từ bên ngoài như đất, nước, lửa, gió tạo thành sự chín muồi kia. Lại cũng không phải do bốn đại bên trong làm nên chỗ chín muồi ấy. Bồ-tát suy nghĩ: Do nhân duyên mà có oán hại hay không có oán hại. Ta với tâm bình đẳng thì hết thảy đều có thể nhẫn chịu được. Đó là Bồ-tát hành nhẫn chịu đối với những oán hại.
Thế nào là Bồ-tát nhẫn nhịn với tâm Bi? Đó là nếu Bồ-tát giả như được làm vua hoặc làm quan lớn, giàu có tự tại, oai đức cao quý, thấy những hữu tình có nhiều khổ não, nhưng hữu tình ấy đối với ngôi vua sinh tâm oán giận, tìm đến mắng chửi, phá rối, khi ấy vua không sinh giận dữ, không ỷ thế mạnh quyền cao mà bức hại các chúng sinh kia, lại khởi tâm suy nghĩ thế này: “Ta phải có bổn phận giáo hóa, hướng dẫn các hữu tình này, phải vì họ mà cứu giúp, không nên cậy vào uy quyền, ngôi vua, chỉ nên vì họ mà bảo vệ che chở, khiến họ không phá hoại.” Vì nghĩ như thế nên tâm Bi khởi lên, bình thản nhẫn chịu. Đó là Bồ-tát hành nhẫn chịu do tâm bi.
Thế nào là Bồ-tát hành nhẫn chịu với nguyện lực cứu độ? Đó là nếu Bồ-tát suy nghĩ thế này: Ta ở chỗ Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, phát ra lời nguyện như tiếng sư tử gầm: Nguyện khi ta đạt quả vị Vô thượng Chanh đẳng Chánh giác rồi, sẽ cứu độ rộng khắp hết thảy hữu tình ra khỏi biển sinh tử. Việc ta siêng năng cứu độ hết thảy hữu tình là không chấp giữ lấy tướng mà chỉ nhằm khiến cho các hữu tình thảy đều được giải thoát, khiến các hữu tình điều phục được tâm và an trụ vào thiền định. Còn nếu Bồ-tát lúc ấy sinh tâm giận dữ, không thể nhẫn chịu, thì như lời Phật đã dạy: Này thiện nam! Giả như có người giỏi chữa bệnh mắt, có thể làm dứt hết mối lo bị tối tăm ngăn che. Bấy giờ, vị thầy chữa mắt ấy suy nghĩ như vầy: “Ta muốn dứt trừ khắp hết mối lo bị tối tăm ngăn che.” Bỗng nhiên, vị thầy thuốc ấy bị mất cả mắt.
Này thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Vị thầy thuốc kia có thể chữa bệnh mắt được chăng?
Đáp:
–Không thể được.
Phật nói:
–Này thiện nam! Bồ-tát cũng lại như vậy: Muốn dùng Tuệ nhãn mở đường dẫn dắt cho thế gian khiến hết thảy hữu tình khỏi bị ngu si mê mờ, nhưng chính Bồ-tát thì tự mình bị những si mê kia che phủ, thì không thể trừ bỏ si mê mờ ám cho hết thảy hữu tình được. Do vậy, Bồ-tát đối với các việc làm não loạn, tổn hại, không hề sinh tâm giận dữ mà an nhiên nhẫn chịu. Đấy gọi là Bồ-tát hành nhẫn chịu vì nguyện lực cứu độ.
Này thiện nam! Bồ-tát nếu tu tập đủ mười pháp ấy tức là đạt được đầy đủ hạnh nhẫn nhục.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát nếu tu tập mười thứ pháp tức đạt hành tinh tấn đầy đủ. Mười pháp ấy là gì?
- Tinh tấn mặc đủ áo giáp.
- Hành tinh tấn không gì có thể hơn được.
- Hành tinh tấn xa lìa sự chấp trước hai bên.
- Hành tinh tấn làm điều lợi lạc.
- Tinh tấn gia hạnh.
- Tinh tấn tương tục.
- Tinh tấn thanh tịnh.
- Tinh tấn bất cộng.
- Tinh tấn không theo giáo pháp khác.
- Tinh tấn không có tâm cao ngạo.
Này thiện nam! Sao gọi là tinh tấn mặc đủ áo giáp? Đó là như Bồ-tát phát tâm đại tinh tấn, khắp vì hết thảy hữu tình, nếu người nào chưa đạt quả Niết-bàn thì làm cho họ đạt Niết-bàn, người chưa được cứu độ thì cứu độ cho họ, người chưa được giải thoát thì làm cho họ giải thoát, người chưa được yên ổn thì làm cho họ được yên on, người chưa thành Chánh giác thì giúp họ đạt được Chánh giác. Bồ-tát lúc phát khởi hành tinh tấn như thế mà có quân ma đến muốn làm mất hạnh nguyện thù thắng ấy, khiến sinh ra rối loạn, buồn bực. Quân ma nói thế này: Thiện nam! Nay ông nên dừng bỏ sự tinh tấn ấy. Vì sao? Vì ta cũng từng phát khởi hành tinh tấn ấy, khắp vì hết thảy hữu tình: Kẻ nào chưa đạt Niết-bàn thì khiến đạt Niết-bàn, chưa được cứu độ thì thảy được cứu độ, chưa được giải thoát thì khiến được giải thoát, chưa an ổn thì làm cho an ổn, chưa đạt chánh giác thì khiến đạt chánh giác, nhưng tất cả những pháp ấy đều là không thực, là pháp hư vọng, sai trái, chỉ là những lời tranh cãi, luận bàn của những kẻ ngu muội. Thiện nam! Ta chưa từng thấy có người phát tâm tinh tấn như vậy mà có thể khiến cho một hữu tình đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta chỉ biết có vô số câu-chi hữu tình hướng tới việc chứng quả Niết-bàn của Thanh văn hoặc Duyên giác. Vì lý do ấy, cần phải thoái chuyển tâm đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Nếu không thế mà cứ phát tâm tinh tấn thì chỉ thêm phiền não, mất hết bao nhiêu công sức đã có.
Ma vương nói xong những lời ấy, Bồ-tát tự nghĩ: Đây là những ma ác muốn tìm cầu nên đến quấy rối ta. Do biết vậy nên Bồ-tát nói với ma vương: Ngươi nay chớ nên bức bách ta, ngươi ở trong đời chớ có lo nghĩ như thế. Đức Như Lai đã nói: Trong cõi đời, tất cả đều từ chủng tử nơi nghiệp của mình, chính mình tạo tác những nghiệp ấy. Đó là chỗ quy hướng. Nay ngươi cũng vậy, từ chủng tử nơi nghiệp của mình sinh ra, do chỗ tạo nghiệp của mình là nơi quy hướng. Nay ngươi từ nơi nào đến thì hãy trở về nơi đó, chớ nên quấy rối ta, nhiễu loạn ta, sẽ khiến cho ngươi trong đêm dài sinh tử, đối với các chúng sinh bị khổ não bức bách, chỉ tạo nên những điều không lợi ích. Khi ấy, ma ác liền âm thầm rút lui, không còn hiện ra ở nơi ấy nữa.
Bồ-tát không bị ma vương làm nhiễu loạn nữa, tâm Bồ-tát không lo sợ, cũng không khiếp nhược. Ấy là Bồ-tát hành tinh tấn mặc đủ áo giáp.
Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn không gì có thể hơn được? Tức là nếu Bồ-tát tùy theo các tướng, phát khởi hành tinh tấn, như lúc phát khởi hành tinh tấn được xem là tối thắng đối với các Bồ-tát khác đã tu tập hành hóa từ lâu, đem so sánh với hạnh tin tấn thù thắng của Bồ-tát này thì không bằng một phần nhỏ nhất của cái cực nhỏ, huống chi là so sánh với hàng Thanh văn, Duyên giác. Vì sao? Vì khi Bồ-tát phát khởi tâm tinh tấn dù chỉ một niệm cũng có đầy đủ tất cả những sức mạnh hơn hẳn nên có thể thâu giữ tất cả pháp Phật, dứt trừ được các pháp ác. Đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không gì có thể hơn được.
Thế nào là hành tinh tấn lìa chấp nơi hai bên? Đó là nếu Bồ-tát khi phát khởi tâm tinh tấn, không nên mãnh liệt quá cũng không nên yếu kém quá. Vì sao? Vì nếu mãnh liệt quá thì tâm sẽ trở thành thái quá, còn yếu kém quá thì tâm trở thành bất cap mà dao động. Lìa hai thái cực ấy mới đúng là hành tinh tấn thù thắng của Bồ-tát. Ấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn lìa chấp nơi hai bên.
Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn tạo lợi lạc? Đó là nếu Bồ-tát phát khởi hành tinh tấn như vầy: Nguyện thân này của ta được sánh bằng thân Phật, có được tướng Vô kiến đảnh và ánh sáng tròn đầy, cùng đủ tướng tốt như Phật, lại có trí tuệ thù thắng vô biên, không gì có thể hơn, uy đức lớn như Phật, tự tại không ai bằng như Phật. Bồ-tát vì thế mà phát khởi hành tinh tấn. Ấy là Bồ-tát hành tinh tấn tạo mọi lợi lạc.
Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn gia hạnh? Gia hạnh là ví như có người lấy ngọc báu ma-ni, hay vàng rồi mài giũa, tôi luyện để loại trừ hết những tạp chất khiến cho các ngọc quý, vàng báu ấy trở nên sáng trong, tinh thuần, màu sắc đẹp đẽ, khi ấy sẽ thấy ngọc ma-ni và vàng ròng kia rực rỡ khác thường. Bồ-tát cũng lại như vậy, do hành các pháp tinh tấn, tăng thêm sự sửa trị rèn luyện khiến trừ bỏ hết các phiền não ô nhiễm, xa lìa mọi lỗi lầm, cấu nhiễm của tinh tấn, tức là những sự biếng lười, thụ động. Việc ăn uống không điều độ là cấu nhiễm của tinh tấn. Vọng chấp về bản ngã là cấu nhiễm của tinh tấn. Không nương vào chánh pháp là cấu nhiễm của tinh tấn. Không tác ý sâu xa vững chắc là cấu nhiễm của tinh tấn. Trong các pháp tinh tan có những cấu nhiễm như thế gọi là lỗi lầm. Cho nên Bồ-tát xa lìa được sự cấu nhiễm ấy thì tự tánh liền sáng rõ, trở nên trong sạch thuần khiết. Đó là Bồ-tát hành tinh tấn gia hạnh.
Thế nào là Bồ-tát tinh tấn tương tục? Đó là nếu Bồ-tát từ trong các oai nghi, phát khởi hành tinh tấn, tùy theo chỗ phát khởi ấy hoặc thân hoặc tâm không hề biếng lười, mỏi mệt, liên tục không gián đoạn trong đạo hạnh. Đó là Bồ-tát hành tinh tấn tương tục.
Thế nào là Bồ-tát tinh tấn thanh tịnh? Đó là nếu Bồ-tát từ chỗ phát khởi hành tinh tấn tương tục kia, nếu có những nghiệp bất thiện hoặc những chướng ngại đối với đạo pháp Bồ-đề, hay việc không hợp với nghĩa lợi thì thường nên dứt trừ. Nếu là những pháp thiện tức là thuận theo hạnh quả Niết-bàn, đúng theo chánh đạo, hướng đến pháp Bồ-đề phần để đạt quả vị Bồ-đề, khiến cho các pháp thiện thảy đều tăng trưởng rộng lớn, cho đến trong một niệm cũng không khởi pháp bất thiện cho dù là rất nhỏ, huống chi là những lỗi lầm thô, nặng. Ấy là Bồ-tát hành tinh tấn thanh tịnh.
Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn bất cộng? Đó là như Bồ-tát suy nghĩ: Giả sử số lượng thế giới nhiều bằng cát sông Hằng khắp trong mười phương, từ nơi địa ngục A-tỳ phát sinh khối lửa lớn, đầy khắp trong số lượng thế giới ấy đều là đống lửa lớn, vượt ra ngoài thế giới ấy. Nếu có một hữu tình nào còn chịu những khổ não cùng tột, không người dìu dắt, không kẻ cứu giúp, không nơi nương tựa, không chỗ trở về, thì ta thà nhẫn chịu những nỗi khổ phải giẫm đạp, vượt qua những đống lửa lớn đến chỗ các chung sinh kia để cứu độ họ, huống chi chỉ là những nỗi khổ nhỏ nhoi mà ta không nhẫn chịu được sao? Bồ-tát phát tâm tinh tấn như thế thì không cùng chung với hết thảy hàng Thanh văn, Duyên giác, các thứ tà ma ngoại đạo. Ấy là Bồ-tát hành tinh tấn bất cộng.
Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn không theo lời dạy của người khác? Đó là Bồ-tát không giống với hàng Thanh văn, phát khởi tâm như vầy: Trong hàng phàm phu mà cầu quả vị Bồ-đề của Phật thì thật là khó đạt. Hành tinh tấn mà ta phát tâm là rất nhỏ, rất ít, biếng lười, yếu đuối. Ta nếu vì cầu quả vị Bồ-đề, giả như trên đầu đốt lửa, trải qua trăm ngàn câu-chi số kiếp như thế luôn siêng năng hành trì cũng không thể thành đạt được, nên ta không thể nhẫn chịu những nỗi khổ ấy, cũng lại không thể gánh vác được sự việc nặng nề đó. Nhưng Bồtát thì nên phát khởi tâm thế này: Chư Phật thời quá khứ đã thành tựu Chánh giác, chư Phật hiện tại hiện đạt quả vị Chánh giác, chư Phật trong vị lai sẽ thành tựu Chánh giác, chư Phật, Thế Tôn vì cầu đạo quả Bồ-đề mà đã siêng năng hành tinh tấn, các vị ấy đã tu tập hành trì hạnh thù thắng, như chư Phật, Như Lai cũng không chỉ vì mình mà cầu thành Chánh giác. Nay ta cũng như thế, nên siêng năng hành tinh tấn, thành tựu các hạnh thù thắng cũng không chỉ vì mình, các căn lành hiện có cũng muốn cho hết thảy hữu tình cùng có được như vậy. Ta vì hữu tình mà phát khởi hành tinh tấn, quả mà ta cầu đạt tới là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì lợi lạc cho hết thảy chúng sinh, cũng không vì tự lợi để chứng quả Niết-bàn. Vì hữu tình nên ta thà ở luôn nơi đại địa ngục. Đây mới là pháp tối thắng. Ấy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không vì lời dạy của kẻ khác.
Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn tâm không cao ngạo? Đó là khi Bồ-tát phát khởi hành tinh tấn, không ở trong ấy sinh hứng thú, tham đắm, không chê bai người khác, không tự khen mình. Bồ-tát suy nghĩ: Nếu không siêng năng tu tập và khuyến khích người khác tu tập, thì sao được gọi là người trí? Do đó Bồ-tát phát khởi hạnh thù thắng mà tâm không cao ngạo. Ấy là Bồ-tát hành tinh tấn tâm không cao ngạo.
Này thiện nam! Bồ-tát nếu tu hành mười pháp này thì đạt được hành tinh tấn đầy đủ.